Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Tài liệu ôn thi học sinh giỏi ngữ văn thpt chuyên đề CHI TIẾT NGHỆ THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN tự sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.01 KB, 16 trang )

CHI TIẾT NGHỆ THUẬT
TRONG TRUYỆN NGẮN TỰ SỰ
I. ĐẶT VẤN ĐỀ:
1. Lý do chọn vấn đề
Đọc hiểu và cảm thụ được vẻ đẹp của tác phẩm văn học vốn không phải là
một công việc mang tính khuôn mẫu, bởi mỗi văn bản có một chìa khóa riêng để
giải mã chiều sâu cảm xúc và nội hàm giá trị nhân văn, nhân sinh của nó. Để làm
được công việc mang tính thẩm mĩ này, cần căn cứ vào đặc trưng thể loại,
khuynh hướng nghệ thuật của tác giả, giai đoạn văn học… và quan trọng hơn hết
là bản thân ngôn từ của tác phẩm văn chương. Với tác phẩm tự sự, ngôn từ tạo
nên chi tiết, từ chi tiết mà cấu thành sự kiện, cảnh huống; kết nối sự kiện, cảnh
huống thì tạo nên cốt truyện; từ chi tiết mà xây dựng chân dung nhân vật; từ chi
tiết mà sắc thái thẩm mỹ độc đáo của mỗi thiên truyện được bộc lộ. Mỗi chi tiết
như một tế bào cấu thành sự sống của tác phẩm văn chương. Theo các tác giả
cuốn Lí luận văn học (NXB Giáo dục - 1997): yếu tố có ý nghĩa quan trọng bậc
nhất của truyện ngắn là chi tiết có dung lượng lớn và hành văn mang ẩn ý.
Nhiều khi, truyện ngắn sống được là nhờ vào những chi tiết hay, chi tiết phát
sáng, chi tiết đắt giá. “Ở truyện ngắn, mỗi chi tiết đều có vị trí quan trọng như
mỗi chữ trong bài thơ tứ tuyệt. Trong đó những chi tiết đóng vai trò đặc biệt như
những nhãn tự trong thơ vậy”. (Nguyễn Đăng Mạnh – Trong cuộc tọa đàm về
cuốn sách Chân dung và đối thoại của Trần Đăng Khoa báo Văn nghệ số 14,
4/1999)
Một thói quen của nhiều người viết khi tiếp cận văn bản tự sự là chỉ quan tâm
đến cốt truyện, nhân vật, tình huống và những đề kiểm tra của học sinh cũng
thường xoay quanh các vấn đề trên, đó đã là nguyên nhân làm cho bài viết của
học sinh trở nên ít mới mẻ và sâu sắc. Trong khi đó các chi tiết trong mỗi tác
phẩm mới thực sự là tế bào, là mạch máu tạo nên sức sống và vẻ đẹp của từng
thiên truyện. Những bài viết biết khai thác chi tiết thường tạo nên những nét
riêng, nét mới mẻ và cá tính vì trong mỗi chi tiết luôn chứa đựng những lớp trầm
tích càng khai thác càng thấy giá trị.
2. Thực trạng vấn đề


Có nhiều công trình nghiên cứu đã đưa ra phương pháp tiếp cận tác phẩm
đúng hướng, chú trọng chi tiết nghệ thuật như: Vấn đề giảng dạy tác phẩm văn
học theo loại thể (Nhiều tác giả - NXB Giáo dục 1978), Những bài giảng văn ở
Đại học (Lê Tri Viễn - NXB Giáo dục 1982), Giảng văn I. II (Nhiều tác giả NXB ĐH & THCN 1982) v.v...Từ sau cải cách giáo dục, ngoài sách giáo khoa
và sách tham khảo chính thức của Bộ Giáo dục (sách giáo viên) nhiều nhà
nghiên cứu, phê bình văn học, nhiều nhà giáo đã tham gia viết các công trình
nghiên cứu và phân tích về các tác phẩm văn học được giảng dạy trong Nhà
trường. Các công trình này cũng đã giúp rất nhiều cho cả giáo viên và học sinh
1


trong việc tìm hiểu, nhận thức và cảm thụ tác phẩm văn học. Nhưng cũng có nhiều
bài viết khi nghị luận về một tác phẩm tự sự cụ thể chỉ giúp học sinh tiếp thu một cách
thụ động theo lối học vẹt, học theo, chưa nói có không ít bài viết chất lượng chưa cao
còn nặng về diễn nôm hoặc tóm lược tác phẩm văn chương là chính.
3. Phạm vi vấn đề
Chuyên đề không đi sâu vào từng tác phẩm cụ thể mà chỉ đưa ra một số cách
thức khai thác chi tiết của một số tác phẩm tự sự trong chương trình Ngữ văn,
giúp cho đối tượng học sinh trong quá trình tiếp cận tác phẩm.
4. Cấu trúc bài viết
Chuyên đề gồm 4 phần chính: Đặt vấn đề, Giải quyết vấn đề, Kết luận, Tài
liệu tham khảo, phần Giải quyết vấn đề có cấu trúc 2 phần cụ thể như sau:
1. Chi tiết và việc khai thác chi tiết trong truyện ngắn tự sự
2. Hướng dẫn học sinh khai thác chi tiết qua một số truyện ngắn tự sự trong
chương trình và một số đề luyện tập.
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Chi tiết nghệ thuật và việc khai thác chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm
văn chương tự sự
1.1. Chi tiết trong tác phẩm văn học
Chi tiết là một từ ngữ quen thuộc trong giao tiếp hàng ngày. Theo Từ điển

Tiếng Việt (NXB Khoa học xã hội Hà Nội 1988) thì Chi tiết là: Phần rất nhỏ,
điểm nhỏ trong nội dung sự việc hoặc hiện tượng (Ví dụ: Kể rành rọt từng chi
tiết). Là thành phần riêng rẻ hoặc tổ hợp đơn giản nhất của chúng có thể tháo
lắp được (Ví dụ: Chi tiết máy).
Như vậy trong đời sống hàng ngày từ “Chi tiết” được hiểu và dùng như là
một thành tố, một bộ phận nhỏ của một sự việc, tổng thể. Chi tiết được hiểu như
là một thành phần thuộc về cấu tạo.
Trong văn học, chi tiết theo định nghĩa của nhóm tác giả Lê Bá Hán, Trần
Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Đại học quốc gia
Hà Nội, 1997) là: Các tiểu tiết của tác phẩm mang sức chứa lớn về cảm xúc và
tư tưởng và họ gọi chung là chi tiết nghệ thuật. Cũng theo nhóm tác giả này thì:
Tuỳ theo sự thể hiện cụ thể, chi tiết nghệ thuật có khả năng thể hiện, giải thích,
làm minh xác cấu tứ nghệ thuật của nhà văn, trở thành tiêu điểm, điểm hội tụ
của tư tưởng tác giả trong tác phẩm. Chi tiết nghệ thuật gắn với “quan niệm
nghệ thuật” về thế giới con người, với truyền thống văn hoá nghệ thuật nhất
định. Chi tiết nghệ thuật là những yếu tố nhỏ lẻ của tác phẩm nhưng mang sức
chứa lớn về cảm xúc và tư tưởng. Sức chinh phục của hình tượng nghệ thuật là ở
sự truyền cảm thì góp phần quyết định tạo ra sức truyền cảm hấp dẫn, lôi cuốn
người đọc là nhờ chi tiết. Tất nhiên không phải mọi chi tiết trong tác phẩm đều
có vai trò, vị trí và giá trị như nhau. Có chi tiết chỉ đóng vai trò vật liệu xây
2


dựng, làm tiền đề cho cốt truyện phát triển thuận lợi và hợp lý, nhưng cũng có
không ít chi tiết thể hiện tập trung cho cấu tứ của tác giả
Chi tiết nghệ thuật trước hết mang bản chất sáng tạo của người nghệ sĩ, bản
chất văn hóa của một cộng đồng. Chúng ta đều thấy chỉ qua một vài con chữ
trong Truyện Kiều, như chữ “tót” (Ghế trên ngồi tót sỗ sàng), chữ “cò kè” (Cò
kè bớt một thêm hai) mà thi hào Nguyễn Du đã lật tẩy cả một chân dung kẻ con
buôn, vô học, thô lỗ của nhân vật Mã Giám Sinh, hay một chữ “lẻn” làm lộ ra

một tính cách mờ ám, lén lút, tráo trở… của Sở Khanh, hay hai chữ “mặt sắt” đã
gọi ra một chân dung tính cách lạnh lùng, hiểm độc, tàn nhẫn của Hồ Tôn
Hiến… Các chữ “tót”, “cò kè”, “mặt sắt” được gọi là những chi tiết đắt giá làm
nổi lên hồn cốt nhân vật.
Chi tiết hàm chứa nhiều nét nghĩa, nhiều giá trị được gọi là tín hiệu nghệ
thuật. Đã gọi là tín hiệu thì luôn mang một mã, để giải mã thì phải nhờ đến cả
một chiều sâu văn hóa. Ví dụ để hiểu bài thơ Mời trầu của Hồ Xuân Hương phải
có vốn văn học dân gian nhất định: Quả cau nho nhỏ, miếng trầu hôi/ Này của
Xuân Hương mới quệt rồi/ Có phải duyên nhau thì thắm lại/ Đừng xanh như lá,
bạc như vôi. Để cắt nghĩa được văn bản người đọc buộc phải liên tưởng về câu
chuyện cổ Trầu cau, lại phải đặt bài thơ vào quan niệm truyền thống phương
Đông trong tình yêu hôn nhân: Cái duyên và màu sắc đỏ… Như vậy nếu dịch bài
thơ này sang một ngôn ngữ khác là cực khó, không muốn nói là không thể.
Chi tiết gắn với quan niệm nghệ thuật về con người và cuộc sống của nhà
văn. Chỉ cần đọc một câu thơ Bố cu lổm ngổm bò trên bụng của “Bà Chúa thơ
Nôm” cũng cho thấy cả một cái nhìn coi thường, khinh miệt giới đàn ông trong
xã hội phong kiến hà khắc vốn luôn coi phụ nữ chỉ là đồ chơi. Động từ “lổm
ngổm” thường để chỉ những con vật loài cua cáy, đặt trong văn cảnh bài thơ nó
toát lên một tiếng cười mỉa: Tưởng cái anh đàn ông phải là “Làm trai cho đáng
lên trai/ Xuống đông đông tĩnh, lên đoài đoài yên”, nhưng thực ra cũng chỉ là
thứ cua cáy mà “bò” trên sự vĩ đại của người phụ nữ… Chi tiết này còn cho thấy
một sự nổi loạn, sự đối chọi với cả một ý thức hệ hẹp hòi, ích kỷ, phản nhân văn
lỗi thời.
Hãy nhìn vào những so sánh của bài ca dao sau ta thấy người Việt xưa yêu
quý cái đẹp lắm, nhất là cái đẹp thuộc về con người: Cổ tay em trắng như ngà/
Đôi mắt em sắc như là dao cau/ Miệng cười như thể hoa ngâu/ Cái khăn đội đầu
như thể hoa sen. Và cái đẹp của người con gái xứ Kinh Bắc trong Bên kia sông
Đuống của Hoàng Cầm không chỉ là cái đẹp trần thế mà còn là cái đẹp mang tầm
vĩnh cửu của tạo hóa tỏa ánh sáng và sự sống xuống cõi trần gian: Những cô
hàng xén răng đen/ Cười như mùa thu tỏa nắng.

Chi tiết đóng vai trò làm tiền đề cho sự phát triển của cốt truyện. Hẳn chúng
ta không ai quên cái hình dáng “ngật ngưỡng” của nhân vật Chí Phèo trong
3


truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nam Cao: “Hắn vừa đi vừa chửi, bao giờ
cũng vậy, cứ rượu xong là hắn chửi. Bắt đầu hắn chửi trời…”. Đây là chi tiết mở
đầu tác phẩm, ngoài sự khơi gợi hấp dẫn lôi kéo bạn đọc, nó vừa có tác dụng
gián tiếp giới thiệu thân thế, tiểu sử nhân vật vừa có chức năng mở ra một trường
không - thời gian trong quá khứ rồi tiếp đến thì tương lai trong cuộc đời ngắn
ngủi của Chí Phèo. Dưới góc độ xã hội học, cũng chi tiết này còn mở ra một ý
nghĩa về thân phận con người trong xã hội cũ. Bản chất của xã hội là giao tiếp.
Không có giao tiếp thì không có xã hội, mà xét đến cùng chửi nhau cũng là một
cách giao tiếp, có điều là giao tiếp trong thế đối lập. Kênh giao tiếp sẽ bị đóng
băng hoàn toàn khi cả hai bên không thèm để sức, có hơi và nhiệt tình để mà
chửi nhau nữa. Thế cho nên khi Chí chửi cả làng Vũ Đại tức là Chí khát khao
được giao tiếp với mọi người. Cả làng Vũ Đại không ai thèm “ra nhời” với Chí
vì Chí không còn xứng đáng là người để họ chửi. Tức là dân làng Vũ Đại đã coi
Chí ở một thế giới khác, thế giới của thân phận loài vật, có lẽ chính xác hơn là
thân phận loài chó, mà bằng chứng là có chi tiết: “Thành thử chỉ có ba con chó
dữ với một thằng say rượu…”. Giả sử Chí Phèo không có chi tiết “bát cháo
hành” thì truyện sẽ rất bình thường, nhưng nhờ có nó mà cốt truyện như đào sâu
thêm vào cái bi kịch không được làm người của một kẻ khát khao lương thiện,
nhờ đó ý nghĩa truyện nâng thêm một tầm cao.
Chi tiết thể hiện tập trung cho cấu tứ. Trường hợp này thường để nhà thơ cấu
trúc tác phẩm và người bình thơ nương theo đó mà tìm ra tứ thơ. Xin ví dụ bằng
bài thơ Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng (Tại lầu Hoàng
Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng) của đại thi sĩ Lý Bạch:
Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâu
Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu

Cô phàm viễn ảnh bích không tận
Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu
(Bạn từ lầu Hạc lên đường
Giữa mùa hoa khói, Châu Dương xuôi dòng.
Bóng buồm đã khuất bầu không
Trông theo chỉ thấy dòng sông bên trời
-Bản dịch của Ngô Tất Tố)
Hai câu đầu nói tới người đi (Mạnh Hạo Nhiên) với không gian chia ly: Tại
lầu Hoàng Hạc, thời gian chia ly: Giữa mùa hoa khói. Nơi đến: Dương Châu.
Như vậy Lý Bạch không tiễn bạn nơi quê nhà mà ở nơi đất khách: Lầu Hạc - một
địa danh gắn liền với truyền thuyết vị tiên cưỡi hạc vàng bay đi. Dương Châu
thời điểm bấy giờ là một thành phố nổi tiếng sầm uất nhất vùng Giang Nam mà
Lý Bạch đã từng đến. Thế cho nên đằng sau những chi tiết địa danh này còn ẩn
một lý do nào đó mà Lý Bạch không thể đi cùng bạn. Điều này cắt nghĩa hai câu
sau với những chi tiết đặc sắc càng làm cho tứ thơ tiễn bạn thật nặng tình, chất
4


chứa tâm trạng. Tình lồng trong cảnh: Chiếc buồm cô đơn cũng là người bạn cô
đơn đang xa dần rồi mất hút vào màu xanh vô tận của sông nước bao la. Thuyền
đi đã khuất bóng mà người đưa tiễn vẫn còn đứng trên lầu cao để trông theo. Chi
tiết cô phàm (cánh buồm cô đơn) cho thấy nhà thơ không chỉ nhìn theo bằng mắt
mà còn nhìn bằng cả tấm lòng.
Như vậy trong phép làm văn, sự dụng công hướng vào việc tìm ra chi tiết.
Chi tiết càng có sức biểu hiện càng góp phần nâng cao giá trị tác phẩm. Không
bao giờ có một tác phẩm hay mà chi tiết lại nhạt nhẽo, nông cạn, thiếu sức sống.
1.2. Khai thác chi tiết trong truyện ngắn tự sự
Chi tiết phong phú và đa dạng như thế khi phân tích tác phẩm văn học, tác
phẩm tự sự, đặc biệt là truyện ngắn chúng ta cần phải cân nhắc cẩn thận trong
việc lựa chọn chi tiết phù hợp. Trong bài viết này tôi quan tâm hơn về truyện

ngắn vì kì thực trong chương trình Ngữ văn 12, các tác phẩm tự sự chủ yếu thuộc
thể loại truyện ngắn. Và ở một phạm vi nhất định truyện ngắn có những điểm
khác với các thể loại tự sự khác, nhất là tiểu thuyết. Thế nhưng, trong quá trình
lựa chọn chi tiết để phân tích truyện ngắn nhiều người viết đã cho rằng các chi
tiết tự sự (các tình tiết) là những bộ phận thuộc về kết cấu cốt truyện, thể hiện
diễn biến của cốt truyện nên đã không chú ý.
Chúng ta đều biết truyện ngắn khác với tiểu thuyết không chỉ vì số lượng
trang, chữ, dài ngắn mà còn chính là khác về nội dung, kết cấu cốt truyện. Tiểu
thuyết (truyện dài) vừa dài và dày về số trang, số chữ mà còn miêu tả cuộc sống
đầy đủ về không gian và thời gian (dung lượng). Tiểu thuyết phản ánh hiện thực
cuộc sống theo một thời gian dài, xẩy ra ở nhiều nơi khác nhau với nhiều nhân
vật, thể hiện nhiều vấn đề. Vì vậy cốt truyện cũng phức tạp, đan chéo, quyện lẫn
vào nhau. Do đó, khi phân tích tiểu thuyết nhà nghiên cứu không thể nêu hết và
phân tích hết được các chi tiết biểu hiện của tác phẩm. Ngược lại truyện ngắn là
tác phẩm tự sự cỡ nhỏ, diễn tả một cái khoảnh khắc, chốc lát của cuộc sống vì
vậy chi tiết phải cô đúc, ngôn ngữ mang nhiều ẩn ý, tạo ra cho tác phẩm những
chiều sâu về nội dung và nghệ thuật cần phải tìm hiểu.
Nhiều nhà văn đã có những phát biểu cụ thể về truyện ngắn như nhà văn
Vũ Thị Thường: “Viết truyện dài như làm một căn nhà đồ sộ, còn bắt tay viết
truyện ngắn là nhận lấy việc chạm trổ một cái khay, một tấm tranh khắc gỗ. Ở
truyện dài có thể có những chương “độn” nhưng ở truyện ngắn chỉ cần viết một
nữa trang lỏng lẻo là truyện đổ liền. Những chi tiết hay đến mấy đi chăng nữa
mà không phục vụ chủ đề, thì cũng trở nên vô ích” (Kinh nghiệm viết truyện
ngắn - Vương Trí Nhàn - NXB Tác phẩm mới). Hoặc như ý kiến của cố nhà văn
Nguyễn Công Hoan: “Truyện ngắn và truyện dài phải khác nhau ở tính chất.
Truyện ngắn không phải là truyện mà là một vấn đề được xây dựng bằng chi tiết
với sự bố trí chặt chẽ và bằng thái độ với cách đặt câu dùng tiếng có cân nhắc.

5



Muốn truyện là truyện ngắn, chỉ nên lấy một ý chính làm chủ đề cho
truyện. Những chi tiết trong truyện chỉ nên xoay quanh chủ đề ấy. Không có chi
tiết thừa, rườm rà, miên man.
Mỗi truyện cần có một ý, một ý thôi. Ý ấy là ý chính của chuyện nhưng thật
ra đó là ý định của tác giả ... làm nổi được ý ấy cho độc giả hiểu thì truyện sẽ hay”
(Kinh nghiệm viết truyện ngắn - Vương Trí Nhàn - NXB Tác phẩm mới).
Một số nhà văn như Tô Hoài, Bùi Hiển, Nguyễn Thành Long, Nguyễn Kiên,
Nguyễn Quang Sáng, Đỗ Chu, Ma Văn Kháng v.v.. cũng đã có rất nhiều ý kiến
xoay quanh đặc điểm về chuyện “bếp núc” của truyện ngắn. Nói chung theo ý
họ có thể có nhiều tác phẩm viết chưa hay, nhưng truyện ngắn phải khác truyện
dài, khác tiểu thuyết. Có thể lấy thêm một ý kiến nữa của nhà văn Ma Văn
Kháng: “Theo tôi hiểu, một tác phẩm dưới mười ngàn chữ không nên ngổn
ngang quá. Tôi thích những truyện tình, trọn vẹn ... Như người ta vẫn nói:toàn
truyện phải là một cái vòng khép kín, không dài quá, không ngắn quá, không xô
đẩy xộc xệch, thậm chí không thừa một chi tiết nào. Khi đã vào truyện cái xà
tích của một cô gái hay một chút ánh trăng thượng tuần cũng phải có ý nghĩa,
cái nọ nương tựa cái kia, chi tiết này soi rọi cho chi tiết khác” (Kinh nghiệm viết
truyện ngắn - Vương Trí Nhàn - NXB Tác phẩm mới)
Nhiều nhà văn khác cũng đã có những nhận định tương tự như vậy. Nói
chung, tất cả mọi người đều cho rằng truyện ngắn là một khối thống nhất, hoàn
chỉnh, chặt chẽ từ nội dung, tư tưởng chủ đề đến hình thức diễn đạt, ở truyện
ngắn không có một cái gì là thừa. Vì vậy, viết truyện ngắn là một điều vô cùng
khó khăn. Nhà văn Nguyễn Ngọc đã từng so sánh việc viết truyện kí “Đất nước
đứng lên” và truyện ngắn “ Rừng xà nu” của ông, ông tâm sự “Trước hết tôi
nghĩ có lẽ ở thời “Đất nước đứng lên”, chắc tôi sẽ không thể viết được, viết nổi
“Rừng xà nu”. Riêng tôi cảm thấy điều đó rất rõ”. (Nguyên Ngọc - Về một
truyện ngắn - Rừng xà nu- Trích trong Để dạy tốt Văn học Việt Nam lớp 12 NXB Giáo dục 1996) và ông đã giải thích lý do vì sao: Truyện ngắn tuy ngắn
nhưng nhiều chi tiết, người viết phải biết rất nhiều, rất dài, phải có vốn sống, biết
cách chọn tình huống, cách xử lý bố cục, cách dựng truyện, dựng người, cách

nói, giọng nói, lời kể, lời văn v.v...Những khả năng đó thì thời viết “Đất nước
đứng lên” ông chưa đủ độ chín.
Như vậy, khác với truyện dài, truyện ngắn tuy nhỏ bé hơn nhiều về số lượng
trang, chữ, về đối tượng phản ánh (cái chốc lát, cái khoảnh khắc của cuộc sống,
một ý tưởng v.v...) nhưng lại đòi hỏi, yêu cầu rất cao về nghệ thuật diễn đạt. Ở
truyện ngắn dĩ nhiên là truyện ngắn hay - không có những yếu tố thừa. Cho nên
khi phân tích truyện ngắn, chúng ta cần phải lựa chọn các chi tiết biểu hiện, là
những chi tiết tiêu biểu quan trong để thể hiện đúng và đầy đủ giá trị nội dung và
nghệ thuật tác phẩm. Bỏ qua hoặc quên đi một số chi tiết dù chỉ nhỏ bé nhưng lại
có ý nghĩa quan trọng và sẽ làm hạn chế giá trị biểu hiện của tác phẩm.
6


II. HƯỚNG DẪN HỌC SINH KHAI THÁC CHI TIẾT QUA MỘT SỐ
TRUYỆN NGẮN TỰ SỰ TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 12
Truyện ngắn nói riêng cũng như Văn học Việt Nam nói chung từ sau cách
mạng tháng Tám - 1945 đến nay đã có sự thay đổi, phát triển hơn truyện ngắn
trước 1945 về cả hình thức lẫn nội dung. Những tác phẩm được tuyển chọn để
dạy ở chương trình Ngữ văn 12 có thể coi là tiêu biểu cho truyện ngắn, thể hiện
đầy đủ các đặc điểm của truyện ngắn đã nói ở trên. Đó là những truyện như: Vợ
nhặt (Kim Lân), Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài), Rừng xà nu (Nguyễn Trung Thành),
Những đứa con trong gia đình (Nguyễn Thi) và Chiếc thuyền ngoài xa (Nguyễn
Minh Châu). Mỗi tác phẩm đã phản ánh hiện thực cuộc sống, đặt ra những vấn
đề của từng giai đoạn một cách sâu sắc bằng những hình thức nghệ thuật đặc sắc.
Chính vì vậy, nên khi phân tích những truyện ngắn này để giảng dạy và phục vụ
cho việc dạy và học của thầy và trò, các giáo viên, cán bộ giảng dạy cũng như
các nhà nghiên cứu v.v... đã hết sức cố gắng để làm rõ được giá trị độc đáo, cái
hay cái đẹp của chúng, giúp cho học sinh nhất là các em học sinh khá giỏi, cảm
thụ hết vẻ đẹp của văn học.
1. Truyện “Vợ nhặt” (Kim Lân):

1.1. Hướng dẫn khai thác các chi tiết tình huống truyện
Bước một, cho học sinh xác định tình huống, gọi tên tình huống của truyện.
(Đó là tình huống nhặt được vợ, lại nhặt nơi đầu đường xó chợ. Đây là một tình
huống lạ, một tình huống có vấn đề).
Bước hai cho học sinh tìm hiểu các chi tiết quan trọng tạo nên tình huống
trên. Bước này học sinh chỉ cần căn cứ vào sách giáo khoa để tìm hiểu. Có thể
chỉ ra những cụm từ, những câu, những đoạn cụ thể, hoặc có thể trả lời một cách
khái quát nội dung chi tiết của vấn đề (Tên nhân vật chính (Tràng), bối cảnh
trước khi Tràng nhặt vợ, câu hò của Tràng, thái độ của người đàn bà nhặt thóc
rụng, bốn bát bánh đúc, cái nhíu mày của người vợ nhặt,…).
Bước ba học sinh căn cứ vào các chi tiết đã tìm để đi sâu vào phân ý nghĩa và
giá trị của các chi tiết ấy. Chẳng hạn như tên gọi của nhân vật (Tràng), đã gợi lên
một loại dụng cụ dùng trong nghề mộc, nó nói lên sự vất vả cơ cực của một kiếp
người (em gái của Tràng có tên là đục), như vậy tên gọi của nhân vật là theo ý đồ
nghệ thuật của nhà văn. Hoặc như bối cảnh của truyện: những dòng người “đội
chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma, và nằm
ngổn ngang khắp lều chợ. Người chết như ngả rạ. Không buổi sáng nào người
trong làng đi chợ, đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên
đường. Không khí vẩn mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người…”.
Đây quả là một khung cảnh thê lương, một không khí của đám ma, một không
gian đầy mùi tử khí… Truyện “Vợ nhặt” của Kim Lân đã xây dựng được một
tình huống vô cùng độc đáo để thể hiện ý tưởng: Một nông dân nghèo rớt mồng
tơi, tưởng chừng không bao giờ có vợ lại được có vợ bằng cách “nhặt”, mà chỉ
7


cần bốn bát bánh đúc. Tuy nhiên nhà văn không chỉ dừng ở đó. Thông qua tình
huống khác thường độc đáo này, Kim Lân “đã thể hiện một tình cảm nhân hậu
với những người cùng khổ”, ý nghĩa của truyện: trong sự túng đói quay quắt,
trong bất cứ hoàn cảnh khốn khó nào, người nông dân vẫn khát khao vươn lên

trên cái chết, cái thảm đạm, để mà vui, để mà hy vọng.
1.2. Hướng dẫn khai thác các chi tiết về nhân vật
Tương tự như trên, tôi cho học sinh tìm hiểu theo các bước: xác định và gọi
tên nhân vật, tìm các chi tiết quan trọng biểu hiện nổi bật nội dung tư tưởng cũng
như nghệ thuât của vấn đề rồi đi sâu vào phân tích các chi tiết đó. Chẳng hạn về
nhân vật Tràng, từ chi tiết ngoại hình (thô nháp, vập vạp), đến tính cách chậm
chạp (tư duy bằng miệng) rồi hoàn cảnh éo le: dân ngụ cư, cha chết sớm, nhà
nghèo (chỉ có một túp lều dúm dó mọc trên một mảnh đất lổn nhổn những cỏ),
mẹ già cả… đều tập trung nhấn mạnh đến khả năng rất khó lấy vợ của Tràng.
Việc anh có vợ nhà văn miêu tả bằng một loạt chi tiết hết sức tình tế. Hạnh phúc
đến thật bất ngờ tưởng không bao giờ có được ở một thân phận thấp hèn xấu xí,
cho nên Tràng từ ngỡ ngàng thành niềm vui cụ thể, Tràng cảm nhận và tận
hưởng “Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn ông nghèo khổ
ấy, nó ôm ấp, mơn mang khắp da thịt Tràng, tựa hồ như có bàn tay vuốt nhẹ trên
sống lưng”. Vì vậy đến khi đã về đến nhà, đã có thị ở nhà rồi, mà “Nhìn thị ngồi
ngay giữa nhà rồi, đến bây giờ hắn vẫn còn ngờ ngợ như không phải thế. Ra
hắn đã có vợ rồi đấy ư”. Chi tiết Tràng đi ra đi vào phấp phỏng, sốt ruột chờ mẹ
về và cái thở phào “ngực nhẹ hẳn đi” là chi tiết thể hiện sự quan sát và trải
nghiệm sâu sắc của nhà văn. Rồi chi tiêt sáng hôm sau (của đêm tân hôn) thức
dậy, Tràng vẫn còn cảm thấy: “Trong người êm ái lửng lờ như người vừa ở
trong giấc mơ đi ra. Việc hắn có vợ đến hôm nay vẫn còn ngỡ ngàng như không
phải” .Tiếp theo là những cảm nhận về cuộc sống đầu tiên khi đã có gia đình:
“Hắn chớp chớp liên hồi mấy cái và bổng vừa chợt nhận ra xung quanh mình có
cái gì vừa thay đổi mới mẻ”. Đọc đến đây, ta có liên hệ đến hình ảnh Chí Phèo
nhận ra sau những cơn say dài triền miên. Ở đây Kim Lân rất tài tình trong việc
miêu tả tâm lý, tả những tâm trạng phức tạp ở nhân vật của mình. Tràng đã có sự
thay đổi thật sự với những cảm nhận về trách nhiệm và tình cảm đối với gia
đình, với cái nhà của mình. Tuy nhiên để hiểu được sâu sắc vấn đề, nên hướng
dẫn học sinh đi sâu vào tìm hiểu thêm một số chi tiết khác trong tác phẩm. Như
chi tiết đã bị tóm lược trong chương trình Tràng mua hai hào bạc dầu để thắp

trong đêm tân hôn với một ý nghĩ rất hồn nhiên: Vợ mới, vợ miếc cũng phải sáng
sủa một tí chứ. Rõ ràng người đàn ông khốn khổ và cơ cực ấy đã rất chi chút đến
hạnh phúc của mình. Song có lẽ, chi tiết đắt nhất để tả sự thay đổi đó chính là
việc: “Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự
phần tu sửa lại căn nhà” Tác giả Nguyễn Quang Trung trong “Phân tích - Bình
giảng tác phẩm văn học 12” (NXB Giáo dục - 1999) đã chọn chi tiết này và
bình: “So với cái dáng” ngật ngưỡng” mở đầu tác phẩm, hành động “ xăm
8


xăm” này của Tràng là một đột biến quan trọng, một một bước ngoặt đổi thay
cả số phận lẫn tính cách của Tràng: Từ khổ đau sang hạnh phúc, từ chán đời
sang yêu đời, từ ngây dại sang ý thức. Chẳng thế mà Kim Lân đã thấy đủ điều
kiện đặt vào dòng suy nghĩ của một Tràng ý thức bổn phận sâu sắc: “Bây giờ
hắn mới thấy nên người, hắn thấy hắn có bổn phận lo lắng cho vợ con sau này”
Tràng đã thật sự “Phục sinh tâm hồn” đó là giá trị lớn lao của hạnh phúc. Cô
Kiều xưa: “ xăm xăm băng lối vườn khuya vường mình” thì táo bạo đấy mà vẫn
cú chênh vênh, đơn độc thế nào. Cái xăm xăm của Tràng mới thực khỏe, tự tin
như vậy”. Đúng là ở Tràng đã có sự chuyển biến, thay đổi lớn lao, là bước ngoặt
quan trọng trong đời anh.
Khác với sự đổi thay theo chiều hướng đi lên, thẳng đứng của Tràng, ở nhân
vật bà cụ Tứ, tâm lý được miêu tả diễn biến phức tạp, theo hai bước: lúc mới gặp
nàng dâu mới và sáng hôm tân hôn. Ở mỗi bước, nhà văn đã khéo léo lựa chọn
nhiều chi tiết có ý nghĩa để miêu tả nhân vật nhất là tâm lý nhân vật, rối rắm đó:
ngạc nhiên có, sững sờ có, vui mừng có, buồn tủi có, lo lắng có, tin tưởng có.
Diễn biến tâm trạng của nhân vật có vẻ như nếp gấp như thế, nhưng điểm
sáng ở bà cụ Tứ như có người đã nhận xét: Truyện gồm ba nhân vật, lại xuất
hiện muộn mằn nhất và là một bà lão “gần đất xa trời” nhưng thật kỳ lạ, chính
bà lão chứ không phải ai khác đã thắp sáng sự tin tưởng, niềm hy vọng cho
người khác. Có thể thấy rõ điều đó qua một số chi tiết như: Khi Tràng đánh diêm

đốt đèn, thắp sáng, bà cụ Tứ dã nói: “Có đèn ấy à ? Ừ thắp lên một tí cho sáng
sủa ...” Một chút sáng nhỏ bé lần đầu xuất hiện trên cái tối tăm của cuộc sống
nhưng nó là khát khao, ước mong cháy bỏng của bà.
Chính vì vậy, trong đêm tâm hôn và sáng hôm sau bà đã nói với con và dâu
bằng những lời lẽ tràn đầy niềm tin hy vọng: “Biết thế nào hả con, ai giàu ba
họ, ai khó ba đời ? Có ra thì con cái chúng mình về sau” hay bàn chuyện sửa
sang nhà cửa, chăn nuôi… Câu nói “Khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà” nghe có
vẻ phấn khởi mà sao vẫn thấy thật tội nghiệp, người đọc dễ liên tưởng đến bài ca
dao than thân “Mười quả trứng” của ông cha ta: “Tháng giêng, tháng hai/ Tháng
ba, tháng bốn/ Tháng khốn tháng nạn/ Đi vay đi dạm/ Được một quan tiền/ Ra
chợ Cửa Diên/ Mua một con gà mái về nuôi”. Rồi chi tiết nồi “chè khoán” (mà
thực chất là cháo cám) với nhận xét “Ngon đáo để” của bà chính là niềm tin về
hạnh phúc cuộc sống.
Cùng với những chi tiết miêu tả nhân vật, truyện ngắn “Vợ nhặt” còn có
nhièu chi tiết về kết cấu, cốt truyện rất đặc sắc. Nhờ đó mà ý nghĩa của chủ đề
của tác phẩm càng trở nên sâu sắc hơn. Đó là tiếng hờ khóc tỉ tê “của những nhà
có người chết đói, tiếng trống thu thuế đầu đình, và cảm giác đắng chát và
nghẹn bứ của Tràng khi ăn bát chè cám của mẹ vừa múc cho” . Ba chi tiết khác
nhau nhưng cùng chung một ý nghĩa: hạnh phúc đang bị đe dọa. Niềm vui của bà
cụ Tứ và hạnh phúc của Tràng đang phải đối mặt với một thực tế: nạn đói khủng
khiếp đang hoành hành khắp nơi, sinh mạng người lúc này có thể bị mất đi rất
9


dễ dàng. Trong ba chi tiết, có lẽ tiếng trống ngoài đình là đắt nhất. vì sao ?
Chúng ta hãy đọc lại chi tiết mà Kim Lân đã miêu tả : “Ngoài đình bỗng dội lên
một hồi trống dồn dập, vội vã. Đàn quạ trên những cây gạo cao chót vót ngoài
bãi chợ hốt hoảng bay vù lên, lượn thành từng đám vẩn trên nền trời như những
đám mây đen”. Cách giải thích như tác giả trong “Tuyển tập các bài giảng văn
học lớp 12” (NXB TP Hồ Chí Minh - 1992) ý là “Về phương diện biểu tượng,

đàn quạ ấy che đen cả bầu trời như những đám mây đen làm cho ta nhận thức
được cảnh sống bế tắc, tối tăm, chết chóc tưởng chừng như đang ụp xuống, đóng
lại kín mít, tối bưng” .
Về chi tiết cuối hình ảnh “đoàn người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới” có
người chú ý đến có người không, nhưng đây vẫn là một chi tiết rất đáng trân
trọng về chủ đề tác phẩm và quan điểm nghệ thuật của tác giả. Bởi cùng với chi
tiết mở đầu tác phẩm: một buổi chiều “chạng vạng mặt người” và kết thúc là
một buổi sáng “mặt trời lên bằng con sào” chi tiết này đã làm cho “Vợ nhặt”
không còn là tác phẩm của dòng Văn học Hiện thực phê phán trước 1945.
2. Truyện “Vợ chống A Phủ” (Tô Hoài):
Chủ đề của truyện có hai ý: phản ánh thân phận đau khổ của người nông dân
miền núi dưới ách thống trị áp bức của các thế lực phong kiến và thực dân, đồng
thời là một bài ca về sức sống và khát vọng tự do của con người miền núi, là
hình ảnh con đường giải phóng và cuộc đời cách mạng của họ. Khi đọc hiểu tác
phẩm này nên tập trung cho các em khai thác các chi tiết xoay quanh nhân vật
Mỵ. Có thể thấy ở nhân vật này đầy ắp những chi tiết hay, chi tiết độc đáo. Tuy nhiên,
chúng ta cũng không thể đi hết mọi chi tiết mà quan trọng nhất là biết lựa chọn những
chi tiết có giá trị lớn nhất trong việc thể hiện ý đồ tư tưởng của tác phẩm và biết khai thác
sâu ý nghĩa của mỗi chi tiết ấy.
Mở đầu truyện ngay từ những dòng đầu tác giả đã rất khéo léo giới thiệu
về Mỵ: “Ai ở xa về có việc vào nhà thống Lý Pá Tra thường trông thấy có một
cô con gái ngồi quay sợi bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng
vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vả, chẻ củi hai đi cõng nước dưới khe suối
lên, cô ấy cũng cuối mặt, mặt buồn rười rượi ... Cô ấy là vợ A Sử, con trai của
Thống Lý Pá Tra”. Cách miêu tả, dẫn dắt như thế có sức gây ấn tượng về nhân
vật mà nhà văn muốn giới thiệu. Tôi đã hướng dẫn học sinh, khi đọc hiểu đoạn
giới thiệu này tập trung vào chi tiết: Lúc nào ... cũng cúi mặt, mặt buồn rười
rượi, đặc biệt chi tiết Mỵ ngồi “bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa”. Tác giả
đã tỏ ra tất tinh tế và sâu sắc khi đặt nhân vật trong sự đối lập với khung cảnh
xung quanh: giữa cảnh giàu sang của nhà Thống Lý Pá Tra “nhiều nương, nhiều

bạc, nhiều thuốc phiện nhất làng” thì Mỵ đặt ngang với vật vô tri vô giác, vị trí
thấp kém: tảng đá, tàu ngựa. Ẩn dụ này chính là thân phận thấp hèn, với địa vị
nô lệ mặc dù, nghịch lý thay, tuy không phải là con gái nhưng lại là con dâu của
Thống Lý Pá Tra. Nói về thân phận Mỵ ở nhà Pá Tra là phải nói đến chi tiết đó.
10


Tìm hiểu nhân vật Mỵ, qua đoạn giới thiệu chúng ta thường đi sâu vào các
khía cạnh: nỗi đau thể xác, nỗi đau tinh thần và sức sống kỳ diệu của nhân vật. Ở
mỗi khía cạnh tôi hướng dẫn học sinh tập trung khai thác các chi tiết phục vụ cho
các nội dung trên. Chẳng hạn ở nỗi đau thể xác có chi tiết “Bao giờ cũng thế,
suốt năm suốt đời như thế. Con ngựa, con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn được
đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc làm cả
đêm cả ngày” đã nói lên sự hành hạ, bóc lột thậm tệ sức lao động của con người.
Nội dung này càng được khẳng định qua chi tiết người chị dâu tuổi chưa cao
nhưng lưng đã còng sát đất. Rồi chi tiết Mỵ bị trói đứng vào cột nhà trong suốt
đêm, chi tiết A Sử đạp chân vào mặt Mỵ khi cô đang bóp chân cho hắn, chi tiết
A Sử đi chơi đêm về thấy Mỵ ngồi sưởi đã đánh Mỵ ngã ngay xuống bếp… và
các chi tiết ấy đều có ý nghĩa hết sức sâu sắc. Chỉ đơn cử chi tiết hằng đêm Mỵ
thức dậy sưởi lửa, bị A Sử đánh gục xuống bếp nhưng đêm mai Mỵ vẫn thức dậy
như không có truyện gì xảy ra đã mang rất nhiều lớp nghĩa. Học sinh khai thác
để thấy được: đó là sự tố cáo tội ác của A Sử nói riêng, bọn quan lại nói chung;
là việc thể hiện Mỵ chỉ còn là cái xác không hồn, nói đúng ra Mỵ giống như một
chiếc máy đã được lập trình và mọi hành động đều xuất phát từ sự lập trình ấy;
Tuy nhiên nhìn sâu hơn chi tiết này lại mang ý nghĩa Mỵ đang vô cùng lạnh lẽo,
cô đơn và cái cô lạnh ấy bắt Mỵ phải tìm đến bếp lửa, sự thèm khát hơi ấm đã
giúp Mỵ chiến thắng mọi sợ hãi. Như vậy bên trong sự băng giá vẫn đang tồn tại
một cô Mỵ với một niềm khát sống mãnh liệt. Ngoài ra, chi tiết này còn là cơ sở
cho hành động cứu A Phủ sau này.
Ở khía cạnh nỗi đau tinh thần, cần hướng dẫn học sinh tìm để khai thác các

chi tiết có ý nghĩa quan trọng nhất như chi tiết con dâu gạt nợ (chi tiết này không
chỉ nói lên nỗi đau của Mỵ mà còn tố cáo sự độc ác thâm hiểm của chế độ lang
đạo miền núi trước Cách mạng tháng Tám.), chi tiết “Cô Mỵ về làm dâu nhà Pá
Tra đã mấy năm. Từ năm nào, cô không nhớ”, chi tiết “Bây giờ thì Mỵ tưởng
mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa, là con ngựa phải đổi ở cái tàu
ngựa nhà này đến ở cái tàu ngựa nhà khác, ngựa chỉ biết việc ăn cỏ, việc đi làm
mà thôi”. Đây là những chi tiết thể hiện rõ nhất nỗi đau tinh thần của Mị, người
con gái cực khổ ấy đã hoàn toàn đánh mất cảm giác về thời gian và không gian,
cô không nhớ ngày tháng, không nhớ nơi mình đang ở mà chỉ “nhớ đi nhớ lại
những việc giống nhau, tiếp nhau vẽ ra trước mặt, mỗi năm mỗi mùa, mỗi tháng
lại làm đi làm lại”.
Ngoài các chi tiết trên, còn có rất nhiều chi tiết khác nữa như chi tiết “Mỗi
ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”, chi tiết “Ở cái
buồng Mị nằm, kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào
trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng”. Chi tiết
này góp thêm ý nghĩa vào việc miêu tả thân phận của Mỵ ở Hồng Ngài. Mỵ
không chỉ là kẻ nô lệ thấp kém trong gia đình Pá Tra mà còn như là một người tù
đang ở chính ngay trong nhà người chồng. Đặc biệt qua chi tiết căn buồng, nhà văn đã tạo
11


dựng lên được một thứ ngục thất tinh thần, ở đó nó không chỉ giam hãm thân xác, mà còn
giam hãm cả tuổi xuân và tình yêu của Mị.
Khai thác khía cạnh sức sống kỳ diệu của nhân vật Mị, tôi cũng bắt đầu bằng việc cho
học sinh tìm các chi tiết. Có thể thấy ở nội dung chi tiết cũng rất nhiều và đặc sắc. Từ chi tiết
Mị vào rừng tìm lá ngón để tự tử nhưng không đành lòng chết vì thương bố, đến chi tiết Mị
nổi loạn trong đêm tình mùa xuân và sau nữa là chi tiết Mị cởi trói cho A Phủ. Có thể nói,
nhà văn đã rất thành công trong việc miêu tả tâm lý nhân vật Mỵ để nói lên sự
trỗi dậy mãnh liệt của lòng ham sống và khát khao hạnh phúc ở nhân vật này.
Chi tiết Mỵ cởi trói cho A Phủ đã được nhiều người phân tích rạch ròi, bởi vì nó

là đỉnh cao của sự trỗi dậy ở Mỵ, là hành động tất yếu không thể khác hơn. Có
điều nhà văn đã khéo léo trong việc dẫn dắt, miêu tả diễn biến phức tạp tâm
trạng của nhân vật và chi tiết “tiếng sáo gọi bạn tình” chính là bước dẫn dắt đó.
Đây là chi tiết được Tô Hoài miêu tả rất tinh tế để thể hiện sự trỗi dậy mãnh liệt
trong tâm hồn của Mỵ.
Thật vậy, đọc truyện chúng ta ai cũng biết, lúc đầu sống trong cảnh nô lệ ở
nhà Thống Lý Pá Tra, Mỵ đã định tự tử bằng lá ngón, nhưng vì thuơng cha nên
Mỵ đã không thực hiện. Dần dẫn Mỵ đã bị tê liệt sức phản kháng đó: “Ở lâu
trong cái khổ, Mỵ quen khổ rồi. Bây giờ thì Mỵ tưởng mình cũng là con trâu,
mình cũng là con ngựa... Mỗi ngày Mỵ càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi
trong xó cửa” . Tuy nhiên đó chỉ là cái bên ngoài, ngòi bút của nhà văn đã đi sâu
vào ngõ ngách tâm hồn của nhân vật để khám phá và khơi dậy cái sức sống
mãnh liệt ở Mỵ. Chi tiết “tiếng sáo gọi bạn mùa xuân” chính là sự biểu tượng
của sự trỗi dậy đó. Phần sáng của truyện cũng bắt đầu bằng chi tiết này. Trong
truyện tiếng sáo gọi bạn đã theo sát diễn biến tâm trạng của Mỵ. Lúc đầu, khi
mùa xuân đến có tiếng ai thổi sáo gọi bạn đi chơi, nghe tiếng sáo Mỵ đã thiết
tha, bồi hồi, nhẩm thầm lời bài hát, Mỵ uống rượu say và Mỵ quyết định đi chơi
Tết như mọi thanh niên khác. Tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lơ lửng ngoài đường.
Khi bị A Sử ngăn cản trói tàn bạo vào cột nhà thì Mỵ vẫn nghe tiếng sáo đưa Mỵ
đi theo những cuộc chơi, những đám cưới mà ngày nào Mỵ từng được diện kiến.
Quả thực, tiếng sáo đã làm Mị quên đi hiện tại mà nhớ về quá khứ, để thấy
“trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm tết ngày trước. Mị trẻ lắm. Mị
vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi”. Bốn lần tiếng sáo xuất hiện trong tâm hồn Mỵ dù
nghe hay không nghe, tiếng sáo đã làm thay đổi lớn, đã thức dậy ở Mỵ lòng ham
sống mãnh liệt, lòng khát khao hạnh phúc mà bấy lâu nay những tưởng Mỵ đã bị
tê liệt quên lãng.
3. Truyện “Rừng xà nu” (Nguyễn Trung Thành)
Nhà văn Nguyên Ngọc đã từng so sánh truyện “Rừng xà nu” với “Đất nước
đứng lên” và nhận xét rằng viết truyện ngắn “Rừng xà nu” khó hơn viết tiểu
thuyết “Đất nước đứng lên”. Bởi vì tuy cả hai truyện cùng viết về một đề tài,

thời gian, không gian câu chuyện cũng bằng nhau, nhưng viết “Rừng xà nu” khó
hơn viết “Đất nước đứng lên” vì “Rừng xà nu” là truyện ngắn, “Đất nước
12


đứng lên” là một truyện dài. Chuyện của một đời người chỉ kể trong một đêm vì
vậy làm sao không khó: cho nên từng chi tiết của truyện phải có tính hàm súc
cao độ.
.3.1. Đọc hiểu hình tượng cây xà nu:
Ở nội dung này, học sinh đi vào tìm và khai thác các chi tiết tạo dựng hình
tượng cây xà nu với sự gắn bó mật tiết với cuộc sống và con người Tây Nguyên.
Đó là hình ảnh những đồi xà nu xuất hiện từ đầu đến cuối tác phẩm, là chi tiết
“lửa xà nu cháy giần giật” trong mỗi bếp, trong đống lửa ở nhà ưng; khói xà nu
xông bảng nứa để Mai và Tnú học chữ… Để thấy được cây xà nu có mặt trong
đời sống hàng ngày của người dân làng Xô Man như tự ngàn đời qua. Đó là
những chi tiết thể hiện cây xà nu tham dự vào những sự kiện trọng đại của dân
làng Xô Man như ngọn đuốc xà nu dẫn đường cho cụ Mết và dân làng vào rừng
lấy vũ khí, soi cho Tnú đọc thư anh Quyết, soi rõ “xác mười tên giặc ngổn
ngang”… Là những chi tiết thể hiện hình tượng cây xà nu gắn bó với cuộc sống
người dân đến mức như thấm sâu vào nếp suy nghĩ và cảm xúc từng người: Tnú
thấy cụ Mết như một cây xà nu đại thụ và ngực cụ “căng như một cây xà nu
lớn”, còn cụ Mết cũng luôn tự hào “không có gì mạnh bằng cây xà nu đất ta”…
Để làm nổi bật hình tượng cây xà nu, còn có thể khai thác rất nhiều những chi
tiết khác. Đó là chi tiết “Cả rừng xà nu hàng vạn cây không cây nào là không bị
thương”, “Ở chỗ vết thương, nhựa ứa ra, tràn trề, thơm ngào ngạt, long lanh
nắng hè gay gắt, rồi dần dần bầm lại, đen và đặc quyện thành từng cục máu lớn”
đã thể hiện sự cùng chung gian khổ, cùng chung số phận của cây xà nu với con
người Tây Nguyên bất khuất. Những chi tiết “Trong rừng ít có loại cây sinh sôi
nảy nở khoẻ như vậy”, “Cũng có ít loài cây ham ánh sáng mặt trời đến thế” đã
tượng trưng cho niềm khát khao tự do, lòng tin vào lý tưởng cách mạng của

người dân Tây Nguyên, của đồng bào miền Nam trong cuộc kháng chống Đế
quốc Mỹ xâm lược. Chi tiết “có những cây vượt lên được cao hơn đầu người,
cành lá sum sê như những con chim đã đủ lông mao, lông vũ. Đạn đại bác
không giết nổi chúng, những vết thương của chúng chóng lành như trên một
thân thể cường tráng. Chúng vượt lên rất nhanh thay thế những cây đã ngã” đã
thể hiện sự tồn tại kì diệu của rừng xà nu qua những hành động huỷ diệt của kẻ
thù, cũng đồng thời là biểu trưng cho sức sống bất diệt, sự bất khuất, kiên cường
và sự vươn lên mạnh mẽ của con người Tây Nguyên trong cuộc chiến một mất
một còn với bè lũ cướp nước và bán nước.
3.2. Đọc hiểu hình tượng nhân vật Tnú
Tnú là nhân vật chính, nhân vật trung tâm của tác phẩm, đi sâu khai thác nhân
vật này cũng là nhiệm vụ trọng tâm trong quá trình đọc hiểu “Rừng xà nu”.
Thông qua hướng dẫn học sinh khai thác các chi tiết cụ thể trong tác phẩm các
em sẽ làm nổi bật hình tượng nhân vật cũng như chủ đề tư tưởng của tác phẩm.
Để giúp học sinh dễ tìm hiểu, có thể gọi ra những luận điểm chính làm cơ sở
khai thác chi tiết. Chẳng hạn luận điểm: Tnú là người có tính cách gan góc, dũng
13


cảm, mưu trí, học sinh sẽ đi vào khai thác các chi tiết Tnú cùng Mai xung phong
vào rừng nuôi dấu cán bộ sau khi đã chứng kiến cái chết của anh Xút, của bà
Nhan, chi tiết Tnú đập vỡ bảng, lấy đá đập vào đầu đến chảy máu vì học chữ
thua Mai, chi tiết “xé rừng mà đi” “lựa chỗ thác mạnh vượt băng băng như con
cá kình” mỗi khi đi liên lạc, chi tiết nuốt lá thư khi bị bắt và chỉ vào bụng dõng
dạc nói “cộng sản ở đây này”. Ở luận điểm: Tnú là người có tính kỷ luật cao,
tuyệt đối trung thành với cách mạng, học sinh khai thác các chi tiết Tnú về phép
một đêm sau ba năm đi lực lượng, chi tiết Tnú bị đốt mười đầu ngón tay mà
không kêu nửa lời. Ở luận điểm Tnú có một trái tim yêu thương và tấm lòng sục
sôi căm giận kẻ thù, học sinh khai thác chi tiết “Anh (Tnú) đã bứt đứt hàng chục
trái vả mà không hay” diễn tả chân thật tâm trạng của Tnú trước cảnh vợ con bị

giặc hành hạ dã man. Đây là sự giằng co giữa trách nhiệm của người chồng,
người cha với trách nhiệm của người cán bộ cách mạng, là sự giằng có giữa tình
riêng và nghĩa chung. Là người chồng, người cha Tnú phải xông vào tức khắc để
cứu vợ con, không thể chần chừ một phút, một giây. Là cán bộ của Đảng, Tnú
không thể xông vào cứu vợ không phải vì Tnú sợ chết mà trách nhiệm của Đảng,
xông vào là rơi vào âm mưu của kẻ thù: “Bắt được cọp cái và cọp con, tất sẽ
được cọp đực trở về” . Mà để chúng bắt được Tnú thì như lời cụ Mết đã nói:
“Cán bộ của Đảng, Đảng còn, núi nước này còn” .Tnú đang là cán bộ của Đảng
thay thế anh Quyết lãnh đạo dân làng Xô man chiến đấu kẻ thù. Trước đây, vì lý
tưởng của Đảng dân làng Xô man đã không ngại khó khăn, nguy hiểm đã lấy
tính mạng của mình như anh Xút, bà Nhan để bảo vệ người Đảng là anh Quyết,
cho nên Tnú không thể ra được. Lý trí thì bảo như vậy, nhưng còn tình cảm thì
sao? Vì vậy, chi tiết Tnú trong tay hàng chục trái vả lúc nào không hay là biểu
hiện chân thật của sự giằng co, đầu tranh giữa lý trí vì tình cảm, giữa trách nhiệm
của nguời cán bộ Đảng với trách nhiệm của người chồng, người cha. Chi tiết này
làm ta có thể liên tưởng đến chàng trai Trần Quốc Toản trên bến Bình Than bóp
nát trái cam vua ban cho lúc nào không hay. Cuối cùng, mặc dù cụ Mết hết sức
ngăn cản “Không được Tnú! để Tau!” Tnú vẫn nhảy ra xông vào quân giặc để
cứu vợ con. Tnú trước hết vẫn là một con người bình thường như mọi người.
Một chi tiết khác trong truyện là lời xưng hô của Dít đối với Tnú lúc anh về
thăm làng. Lúc đầu cô gọi anh là: “đồng chí” và giọng hơi lạnh lùng, đôi mắt
nghiêm khắc. Sau đó khi đọc xong giấy phép của Tnú, cô mới cười và gọi Tnú là
“anh” và xưng lại là “em”.Có người cho là Dít đã quá nguyên tắc khi xử sự
như thế đối với anh rể của mình. Có thể là Dít hơi nguyên tắc, nhưng nếu để ý
đến thái độ của mọi người “im lặng chờ đợi chung quanh” và khi Dít đã đọc
xong tờ giấy phép có chữ ký của người chỉ huy thì “tiếng cười nói im đi một lúc
bây giờ lại rộn lên, chật cả căn nhà nhỏ”, đồng thời có để ý đến cảnh làng Xô
Man đổi thay, quy cũ và đang trong tư thế sẵn sàng chống lại mọi âm mưu của
kẻ thù thì chúng ta mới thông cảm cho cách xử sự của cô đối với ông anh của
mình. Bởi vì, sau đó Dít đã trở lại với hình ảnh của cô em gái với nụ cười trên

14


môi và lời xưng hô “anh”, “em” ngọt ngào, đó chính là tình cảm thật của cô. Dít
đã hành động như mọi người Xô Man, Dít tiêu biểu cho người làng Xô Man
cảnh giác, đề phòng sẵn sàng chờ đón quân thù, nhưng sinh hoạt làng xóm thì
vẫn hồ hởi, tự tin, vui vẻ. Đó chính là sức mạnh để tồn tại của người Xô Man
truớc sự tàn bạo của quân thù…
Do khuôn khổ cũng như mục đích của bài viết không tập trung vào việc khai
thác các chi tiết cụ thể trong tất cả các tác phẩm truyện ngắn tự sự của chương
trình THPT, nên tôi chỉ đề cập vào ba tác phẩm và mỗi tác phẩm cũng chỉ đề cập
đến một số vấn đề có ý nghĩa như những minh chứng trong việc hướng dẫn học
sinh 12 khai thác các chi tiết trong quá trình đọc hiểu các truyện ngắn tự sự.
KẾT LUẬN
Cũng như Nguyên Ngọc, nhiều nhà văn chuyên viết truyện ngắn ở trong và
ngoài nước đều thừa nhận một điều viết truyện ngắn là khó, nhất là đối với
truyện ngắn hay. Làm sao để đạt được những ý nghĩa lớn trong một hình thức
nhỏ. Chính vì vậy không chỉ nhà văn mới coi “Truyện ngắn là một trong những
thể tài văn học khó nhất” (A Phađeep) mà những người nghiên cứu phê bình,
phân tích văn học cũng thấy như vậy. Nhiều sách tham khảo cho học sinh, các
giáo trình đại học, các công trình nghiên cứu v.v... có khi cùng viết về một tác
phẩm truyện ngắn văn học, nhưng không ai giống ai. Bởi vì mỗi người, mỗi sách
đã có cách nhìn và tiếp cận truyện ngắn khác nhau.
Đọc hiểu truyện ngắn tự sự, do đó cũng không hề đơn giản và muốn làm tốt
đều này chắc chắn phải biết cách lựa chọn các chi tiết. Thực ra, ở truyện ngắn
không có một chi tiết nào là thừa. Tất cả đều nương tựa vào nhau để diễn đạt ý
tưởng nội dung, chủ đề cho nên phân tích truyện ngắn thì không nên bỏ qua
những chi tiết đó.
Trong bối cảnh hiện nay, các môn khoa học xã hội, trong đó có môn ngữ văn
đang được ít quan tâm ở các đối tượng học sinh, việc tạo ra những hướng đi tích

cực, có hiệu quả là một điều cần thiết. Hướng dẫn đối tượng học sinh khai thác
các chi tiết cụ thể trong truyện ngắn tự sự, không chỉ giúp học sinh tăng thêm
khả năng ghi nhớ, có cách nhìn, cách đánh giá năng động, sáng tạo mà ở một
phương diện nào đó, đây cũng chính là cách tiếp cận tác phẩm theo đặc trưng thể
loại mà các nhà phương pháp giáo dục đang hết sức quan tâm.

15


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi, Từ điển thuật ngữ văn học,
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 1997
2. Phan Trọng Luận (Chủ biên), Làm văn lớp 12 (sách chỉnh lí năm 2000),
Nxb Giáo dục 2000
3. Phan Trọng Luận (Tổng chủ biên), Ngữ văn 12 tập hai, Nxb Giáo dục 2008
4. Phan Trọng Luận Trần Đình Sử, Hướng dẫn thực hiện chương trình sách
giáo khoa lớp 12 môn Ngữ văn, Nxb Giáo dục, 2008
5. Phan Trọng Luận (Chủ biên), Dạy học theo chuẩn kiến thức, kĩ năng môn
Ngữ văn 12, Nxb Đại học Sư phạm, 2010
6. Vương Trí Nhàn, Kinh nghiệm viết truyện ngắn, Nxb Tác phẩm mới
7. Nguyên Ngọc, Về một truyện ngắn – “Rừng xà nu”, Nxb Giáo dục 1996
8. Phan Ngọc Thu, Để hiểu thêm một số tác giả, tác phẩm Văn học hiện đại
Việt Nam, Nxb Giáo dục, 2001
9. Nguyễn Quang Thiều (chủ biên), Tác giả nói về tác phẩm, Nxb Trẻ, 2000
10. Nguyễn Quang Trung, Phân tích bình giảng tác phẩm văn học 12, Nxb
Giáo dục, 1999.

16




×