Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Những nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh?Nguồn gốc nào quyết định bản chất cách mạng và khoa học đối với tư tưởng Hồ Chí Minh?

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.81 KB, 17 trang )

MỤC LỤC

C.Kết luận

A.LỜI MỞ ĐẦU
Tư tưởng là sự phản ánh hiện thực trong ý thức, là biểu hiện quan hệ của con
người với thế giới chung quanh. Trong thuật ngữ “tư tưởng Hồ Chí Minh”, khái niệm
“tư tưởng” có ý nghĩa ở tầm khái quát triết học. “ tư tưởng” ở đây không phải dùng với
nghĩa tinh thần – tư tưởng, ý thức tư tưởng của một cá nhân, một cộng đồng, mà với
nghĩa là một hệ thống những quan điểm, quan niệm, luận điểm được xây dựng trên
một nền tảng triết học (thế giới quan và phương pháp luận) nhất quán, đại biểu cho ý
chí, nguyện vọng của một giai cấp, một dân tộc, được hình thành tên cơ sở thực tiễn
nhất định và trở lại chỉ đạo hoạt động thực tiễn, cải tạo hiện thực. Từ Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ II (tháng 2-1951) đến nay, Đảng ta luôn luôn khẳng định vai trò, ý
nghĩa, tác dụng của đường lối chính trị, tư tưởng, đạo đức, phương pháp, phong cách...
Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII
(tháng 6 - 1991), Đảng Cộng Sản Việt Nam đã trân trọng ghi vào Cương lĩnh và Điều
lệ của mình: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng
tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII (12016), Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng định: Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động. Tổng
kết 30 năm đổi mới, Đảng ta rút ra một số bài học mà bài học số một là: “Trong quá
trình đổi mới, phải chủ động, không ngừng sáng tạo trên cơ sở kiên định mục tiêu độc
lập dân tộc và CNXH, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn
hóa nhân loại, vận dụng kinh nghiệm quốc tế, phù hợp với Việt Nam”. Từ đó, Đảng
1


chủ trương: Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng
tạo và phát triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
Trong quá trình học tập, nghiên cứu bộ môn tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng em


được nhận đề tài thảo luận: “ trình bày nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh?
Trong những nguồn gốc đó nguồn gốc nào quyết định bản chất cách mạng và khoa học
đối với tư tưởng Hồ Chí Minh?” nhóm em nhận thấy đây là một cơ hội giúp nhóm em
củng cố lý thuyết trên giảng đường về tư tưởng Hồ Chí Minh. Đồng thời có cái nhìn
sâu hơn, rộng hơn về nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Qua đây, nhóm em
xin gửi lời cảm ơn chân thành đến TS. Bùi Hông Vạn đã cung cấp cho chúng em
những kiến thức trong bộ môn tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong quá trình làm bài thảo
luận nhóm em còn nhiều thiếu xót mong thầy bỏ qua.
B. NỘI DUNG
I.Lý luận về nguồn gốc tư tưởng Hồ Chí Minh
1. Khái niệm về tư tưởng Hồ Chí Minh
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa; là kết quả của sự vận dụng sáng tạo và phát triển
chủ nghĩa Mác – Lenin vào điều kiện cụ thể nước ta, đồng thời là sự kết tinh tinh hoa
dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng
con người.
2. Nguồn gốc hình thành tư thưởng Hồ Chí Minh
a. Điều kiện lịch sử xã hội, gia đình và thời đại
* Đất nước :
Giữa thế kỷ XIX (1858), Việt Nam từ một quốc gia phong kiến độc lập đã bị
chủ nghĩa tư bản Pháp xâm lược, trở thành một nước thuộc địa nửa phong kiến. Sự
xâm nhập của chủ nghĩa tư bản Pháp đã làm nảy sinh trong xã hội Việt Nam hai giai
cấp mới: giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Dưới ách thống trị của thực dân Pháp, bị
2


mất độc lập tự do, nhân dân ta không ngừng nổi lên chống lại chúng.chính quyền triều
Nguyễn đã từng bước khuất phục trước cuộc xâm lược của tư bản Pháp, lần lượt kí kết
các hiệp ước đầu hàng, thừa nhận sự bảo hộ của thực dân Pháp trên toàn cõi Việt Nam.

Đặc biệt là kể từ khi triều đình nhà Nguyễn ký Hiệp ước Patơnốt (6-6-1884) chịu sự
bảo hộ của đế quốc Pháp, Phát huy truyền thống yêu nước của dân tộc, 1 số sĩ phu Nho
học có tư tưởng tiến bộ, tức thời như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh đã cố gắng vận
động và đấu tranh yêu nước chống Pháp nhung đều không đi đến thắng lợi.. Những
kinh nghiệm lịch sử chống ngoại xâm không phát huy được tác dụng trước một kẻ thù
mới - chủ nghĩa đế quốc. Các phong trào kháng chiến đều bị dìm trong máu, lửa. Sau
thất bại của phong trào Cần Vương và các phong trào cứu nước theo hệ tư tưởng tư
sản, đất nước lâm vào tình trạng khủng hoảng đường lối. Cả dân tộc chìm đắm trong
đêm dài nô lệ, tưởng chừng như không có đường ra. Phong trào cứu nước của nhân
dân ta muốn giành thắng lợi phải đi theo một con đường mới
* Quê hương, Gia đình:
- Quê hương: Nghệ Tĩnh là vùng đất vừa giàu truyền thống văn hóa, vừa giàu
truyền thống lao động, đấu tranh chống ngoại xâm. Nơi đây đã sản sinh ra biết bao anh
hùng nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam như Mai Thúc Loan, Nguyễn Biểu, Đặng Dung,
các lãnh tụ yêu nước thời cận đại như Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu...,từ thuở
thiếu thời Nguyễn Tất Thành đã tận mắt chứng kiến cuộc sông nghèo khổ, bị áp bức
bóc lột đến cùng cực của đồng bào mình; sự tàn độc của thực dân Pháp và sự hèn nhát
của chính bọn phong kiến Nam triều. Chính những điều đó dã thôi thúc Nguyễn Tất
Thành ra đi tìm con đường để cứu nước, để giải phóng dân tộc khỏi bị áp bức bóc lột
của bè lũ cướp nước và bán nước.
- Gia đình: Hồ Chí Minh sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước, gần gũi
với nhân dân. Cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, thân phụ của Người là một nhà nho giàu
lòng yêu nước, thương dân sâu sắc, lao động cần cù, có ý chí kiên cường vượt qua gian
khổ, khó khăn để đạt được mục tiêu, chí hướng. Chủ trương lấy dân làm hậu thuẫn cho
mọi cải cách chính trị - xã hội của cụ Phó bảng Sắc đã có ảnh hưởng sâu sắc đối với sự
hình thành tư tưởng chính trị và nhân cách của Hồ Chí Minh. Mẹ là bà Hoàng Thị

3



Loan cũng là người ảnh hưởng đến tư tưởng, tình cảm của Hồ Chí Minh về đức tính
nhân hậu, đảm đang, sống chan hòa với mọi người.
* Thời đại: Trong khi con thuyền Việt Nam còn lênh đênh chưa rõ bờ bến phải
đi tới, việc cứu nước như trong đêm tối “ không có đường ra” thì lịch sử thế giới trong
giai đoạn này lịch sử thế giới có nhiều biến chuyển to lớn.
Vào nửa cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản đã phát triển từ giai
đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Chỉ chín nước đế quốc 1 đã chi
phối toàn bộ tình hình thế giới. Phần lớn các nước châu Á, châu Phi và châu Mỹ
Latinh đã trở thành thuộc địa hoặc phụ thuộc của chúng. Nhân dân các nước thuộc địa
bị chủ nghĩa thực dân tước hết những giá trị văn hoá, tinh thần, quyền lợi kinh tế và
địa vị xã hội… Mạng sống của người dân thuộc địa “không đáng một trinh” 2 . Cùng
với mâu thuẫn cơ bản trong xã hội tư bản - mâu thuẫn giữa vô sản và tư sản, chủ nghĩa
đế quốc làm phát sinh một mâu thuẫn mới - mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với
chủ nghĩa đế quốc thực dân. Mâu thuẫn này ngày càng gay gắt.
Từ cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỷ XX một cao trào mới của cách mạng thế giới
với đỉnh cao là cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 chính cuộc cách mạng này đã
“thức tỉnh các dân tộc Châu Á”. Tháng 3 – 1919, Lênin thành lập Quốc tế III - Quốc tế
cộng sản, đưa phong trào cộng sản thoát khỏi chủ nghĩa cải lương, theo đuôi các chính
quyền tư sản của các đảng xã hội. Tác phẩm Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương
về vấn đề dân tộc và thuộc địa của V.I.Lênin và các văn kiện Đại hội II Quốc tế Cộng
sản đánh dấu sự khẳng định về mặt lý luận việc thực hiện mối quan hệ hữu cơ giữa
cách mạng vô sản và cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa, có ảnh
hưởng sâu sắc đến phong trào giải phóng dân tộc trên tế giới..
b.Giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam

1 Chín nước đế quốc (Anh, Pháp, Mỹ, Tây Ban Nha, Ý, Nhật Bản, Bỉ, Bồ Đào Nha, Hà Lan) với số dân
320.657.000 người, với diện tích 11.407.606 cây số vuông thống trị và bóc lột các nước thuộc địa gồm hàng
chục dân tộc với số dân 560.193.000 người trên diện tích 55.637.000 cây số vuông (Xem, Hồ Chí Minh: Toàn
tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H. 2000, t.1, tr.227
2 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H. 2000, t.2, tr.59.


4


Lịch sử dựng nước và giữ nước lâu đời đã hình hành nên những giá trị truyền
thống hết sức đặc sắc và cao quý của dân tộc Việt Nam, trở thành tiền đề tư tưởng, ý
luận xuất phát hình thành tư tưởng Hồ Chi Minh.
Thứ nhất, truyền thống yêu nước là tư tưởng, tình cảm cao quý thiêng liêng
nhất, là cội nguồn của trí tuệ sáng tạo và lòng dũng cảm cảu người Việt Nam , cũng là
chuẩn mực đạo đức cơ bản của dân tộc. Chính sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước đã
thúc giục Nguyễn Tất Thành quyết chí ra đi tìm đường cứu nước, tìm kiếm những gì
hữu ích cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Chính từ thực tiễn đó, Hồ Chí Minh đã
đúc kết chân lý: “dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là truyền thống quý báu
của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết
thành làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó
nhấn chìm tất cả lũ bán nước và cướp nước”3
Thứ hai, là tinh thần tương thân tương ái, lòng nhân nghĩa, ý thức cố kết cộng
đồng
Thứ ba, là ý chí vươn lên vượt qua mọi khó khăn, thử thách
Thứ tư, là trí thông minh, tài sáng tạo, quý trọng hiền tài, khiêm tốn tiếp thu
tinh hoa văn hóa nhân loại để làm giàu cho văn hóa dân tộc,...
c, Tinh hoa văn hóa nhân loại:
Kết hợp các giá trị truyền thống của văn hóa phương Đông với những thành tựu
hiện đại của văn minh phương Tây đó chính là nét đặc sắc trong quá trình hình thành
tư tưởng, nhân cách và văn hóa Hồ Chí Minh.
* Đối với văn hóa phương Đông:
Trong văn hoá phương Đông, Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng việc kế thừa và
phát triển những nhân tố tích cực của Nho giáo. Nho giáo vào Việt Nam từ thời Bắc
thuộc, bắt đầu từ những năm đầu sau công nguyên theo con đường quan phương. Song


3 Hồ Chí Minh: toàn tập, t.6,tr.171, 46.

5


khi gặp dòng chủ lưu cơ bản của tư tưởng Việt Nam đã hình thành nên một trào lưu
Nho giáo Việt Nam- Nho giáo yêu nước.
+ Nho giáo là học thuyết về đạo đức và phép ứng xử, triết lý hành động, lý
tưởng về một xã hội đức trị. Đặc biệt Nho giáo đề cao văn hoá, lễ giáo và tạo ra truyền
thống hiếu học trong dân. Đây là tư tưởng tiến bộ hơn hẳn so với các học thuyết cổ
đại. Tuy nhiên, Hồ Chí Minh cũng phê phán Nho giáo có những tư tưởng tiêu cực như
bảo vệ chế độ phong kiến, phân chia đẳng cấp (quân tử và tiểu nhân), trọng nam khinh
nữ, coi khinh dân lao động chân tay. Người dẫn lời của V.I.Lenin: “Chỉ có những
người cách mạng chân chính mới thu hái được những hiểu biết quý báu của các đời
trước để lại”4
+ Phật giáo Hồ Chí Minh tiếp thu và chịu ảnh hưởng sâu sắc các tư tưởng vị
tha, từ bi bác ái, cứu khổ cứu nạn, thương người như thể thương thân; là nếp sống có
đạo đức, trong sạch, giản dị, chăm lo làm việc thiện; là tinh thần bình đẳng, dân chủ,
chống phân biệt đẳng cấp;.... Phật giáo vào Việt Nam kết hợp với chủ nghĩa yêu nước
sống gắn bó với dân, hoà vào cộng đồng chống kẻ thù chung của dân tộc là chủ nghĩa
thực dân.
Khi đã trở thành người mác xít, Hồ Chí Minh lại tiếp tục tìm hiểu chủ nghĩa
Tam dân của Tôn Trung Sơn. Người đã tìm thấy ở “chủ nghĩa tam dân” (Dân tộc độc
lập, Dân quyền tự do, Dân sinh hạnh phúc) những điều phù hợp với điều kiện của cách
mạng nước ta là Tư tưởng dân chủ tiến bộ. Nhưng Tôn Trung Sơn làm cách mạng đưa
Trung Quốc lên CNTB, còn Hồ Chí Minh làm cách mạng đưa Việt Nam lên CNXH.
* Văn hóa phương tây:
Cùng với những tư tưởng triết học phương Đông, Hồ Chí Minh còn tiếp thu nền
văn hóa dân chủ và cách mạng phương Tây.
Nguồn tư tưởng văn hóa đầu tiên ảnh hưởng đến Hồ Chí Minh là tư tưởng tự do

bình đẳng của đại cách mạng tư sản Pháp. Người sớm làm quen với văn hóa Pháp, tìm
hiểu các cuộc cách mạng ở Pháp và Mỹ. Người trực tiếp đọc và tiếp thu các tư tưởng
4 Hồ Chí Minh: toàn tập, t.6,tr.171,46.

6


tự do, bình đẳng, bác ái qua các tác phẩm của các nhà khai sáng như Voltairre,
Russo,... Người tiếp thu các giá trị của bản tuyên ngôn dân quyền và dân quyền của đại
cách mạng Pháp, các giá trị về quyền sống quyền tự do quyền mưu cầu hạnh phúc của
Tuyên ngôn đọc lập của Mỹ năm 1776. Những tư tưởng tiến bộ này đã được người kế
thừa và phát triển thành tư tưởng đấu tranh đòi quyền tự do, bình đẳng cho các dân tộc
thuộc địa.
Trong quá trình tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh còn tiếp thu các tư tưởng
tiến bộ khác cần thiết cho sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc như: tư tưởng dân
chủ, phong cách dân chủ, tinh thần dám nghĩ dám làm....
Tóm lại, trong hành trình cứu nước Hồ Chí Minh đã tự biết làm giàu chí tuệ của
mình bằng vốn trí tuệ của thời đại kết hợp cả Đông và Tây, vừa tiếp thu vừa chọn lọc
để từ tầm cao tri thức nhân loại mà suy nghĩ mà lựa chọn, kế thừa và đổi mới, vận
dụng và phát triển. Những tư tưởng và văn hóa đó đã góp phần quan trọng hình thành
nên tư tưởng Hồ Chí Minh.
d. Chủ nghĩa Mác – Lênin.
- Là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của tư tưởng Hồ Chí Minh.quá
trình tiếp nhận chủ nghĩa mác lênin ở Hồ Chí Minh thực chất “là chặng đường chiến
thắng biết bao khó khăn với sự lựa chọn vững chắc, tránh được những sai lầm dẫn tới
ngõ cụt”5
- Việc tiếp thu chủ nghĩa Chủ nghĩa Mác – Lênin ở Hồ Chí Minh diễn ra trên
nền tảng của tri thức văn hóa tinh túy được chắt lọc, hấp thụ và một vốn chính trị, vốn
hiểu biết phong phú, được tích lũy qua thực tiễn hoạt động đấu tranh vì mục tiêu cứu
nước là giải phóng dân tộc.

- Sở dĩ Hồ Chí Minh đã lựa chọn các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác –
Lênin, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin trên một loạt luận điểm
cơ bản hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh có nguyên nhân sâu xa là:

5 Hồ Chí Minh, Notre camarade. Introduction historique de Charles Fournioau Edition sociales, Paris, 1970,
tr28.

7


+ Khi đi tìm đường cứu nước, ở tuổi 20, Hồ Chí Minh đã có một vốn học vấn
chắc chắn, một năng lực trí tuệ sắc sảo. Nhờ vậy Người quan sát, phân tích, tổng kết
một cách độc lập tự chủ và sáng tạo; không rơi vào sao chép, giáo điều, rập khuôn;
tiếp thu và vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin một cách sáng tạo, phù hợp với hoàn cảnh
và điều kiện cụ thể của Việt Nam.
+ Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác – Lênin là để tìm đường cứu nước, giải
phóng dân tộc, tức là từ nhu cầu thực tiễn của cách mạng Việt Nam.Chính Người đã
viết:“Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã
đưa tôi tin theo Lênin ,tin theo Quốc tế III”6. Nhờ Lênin, người đã tìm thấy “Con
đường giải phóng chúng ta” và từ Lênin, Người đã trở lại nghiên cứu Mác sâu sắc hơn.
+ Hồ Chí Minh đã tiếp thu lý luận Mác – Lênin theo phương pháp nhận thức
mácxít, cốt nắm lấy cái tinh thần, cái bản chất chứ không tự trói buộc trong cái vỏ
ngôn từ. Người vận dụng lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác –
Lênin để tự tìm ra những chủ trương, giải pháp, đối sách phù hợp với từng hoàn cảnh
cụ thể, từng thời kỳ cụ thể của cách mạng Việt Nam chứ không đi tìm những kết luận
có sẵn trong sách vở kinh điển.
- Từ những nhận thức ban đầu về chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh đã tiến
dần tới những nhận thức “ lý tính”, trở lại nghiên cứu chủ nghĩa Mác sâu hơn, để rồi
tiếp thu học thuyết của các ông một cách có chọn lọc, không rập khuôn máy móc,
không sao chép giáo điều. Người tiếp thu lý luận Mác – Lênin theo phương pháp

macxit, nắm bắt lấy cái tinh thần, cái bản chất. Người vận dụng lập trường, quan điểm,
phương pháp biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lênin để giải quyết những vấn đề thực
tiễn của cách mạng Việt Nam, chứ không đi tìm những kết luận có sẵn trong sách vở.
- Thế giới quan và phương pháp luận Mác – Lênin đã giúp Hồ Chí Minh tổng
kết kiến thức kinh nghiệm thực tiển để tìm ra con đường cứu nước: “ trong cuộc đấu
tranh vừa nghiên cứu lý luận Mác – Lênin, vừa làm công tác thực tế, dần dần tôi hiểu
được rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân

6 Hồ Chí Minh: toàn tập, t.10, tr.128

8


tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới”7; “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ
nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin” 8; “chính là
do cố gắng vận dụng những lời dạy của Lê nin, nhưng vận dụng một cách sáng tạo,
phù hợp với thực tế Việt Nam ngày nay, mà chúng tôi đã chiến đấu và giành được
thắng lợi to lớn”9
e. Những nhân tố chủ quan thuộc về tư duy, đạo đức và năng lực hoạt động thực
tiễn của Hồ Chí Minh.
Trải qua những năm tháng hoạt động trong nước và bôn ba ở nước ngoài đề học
tập, nghiên cứu, Hồ Chí Minh đã không ngừng quan sát, học hỏi, nhận thức về thực
tiễn làm tăng sự hiểu biết của mình đồng thời hình thành những cơ sở quan trọng để
tạo dựng nên những thành công trong lĩnh vực hoạt động lý luận của Người về sau.
Trong quá trình tìm đường cứu nước Hồ Chí Minh khám phá các quy luật vận
động xã hội, đời sống văn hóa và cuộc đấu tranh của các dân tộc trong hoàn cảnh cụ
thể đề khái quát thành lý luận, đem lý luận chỉ đạo hoạt động thực tiễn và được kiểm
nghiệm trong thực tiễn.
Phẩm chất tài năng trí tuệ siêu việt của Hồ Chí Minh được biểu hiện trước hết ở
tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, cộng với đầu óc phê phán tinh tường, sáng suốt trong

nhận xét, đánh giá các sự vật, sự việc chung quanh. Ngoài ra nó còn được biểu hiện ở
bản lĩnh kiên định, luôn tin vào nhân dân; khiêm tốn, bình dị, ham học hỏi; nhạy bén
với cái mới, có phương pháp biện chứng có đầu óc thực tiễn. Chính vì thế Hồ Chí
Minh đã khám phá ra lý luận cách mạng thuộc địa trong thời đại mới, trên cơ sở đó
xây dựng một hệ thống quan điểm toàn diện, sâu sắc và sáng tạo về cách mạng Việt
Nam, kiên trì chân lý và định ra các quyết sách đúng đắn, sáng tạo để đưa cách mạng
đến thắng lợi
Phẩm chất cá nhân cá nhân của Hồ Chí Minh còn biểu hiện ở sự khổ công học
tập để chiếm lĩnh đỉnh cao tri thức nhân loại, là tâm hồn của một nhà yêu nước chân
7 Hồ Chí Minh: toàn tập, t.10, tr.128
8 Hồ Chí Minh: toàn tập, t.2, tr.268
9 Hồ Chí Minh: toàn tập, t.12, tr.476

9


chính, một chiến sĩ cộng sản nhiệt thành cách mạng, một trái tim yêu nước thương
dân, sẵn sàng chịu đựng hi sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, hạnh phúc cuả đông
bào.
Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm tổng hòa của những điều kiện
khách quan và chủ quan, của truyền thống văn hoá dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân
loại.
II. Nguồn gốc quyết định bản chất cách mạng và khoa học đối với tư tưởng Hồ
Chí Minh.
Chủ nghĩa mác lênin là nguồn gốc nguồn gốc quyết định bản chất cách mạng và
khoa học đối với tư tưởng Hồ Chí Minh
1. Bản chất cách mạng và khoa học trong chủ nghĩa Mác- Lênin
a. Sự ra đời của chủ nghĩa Mác – lênin
Chủ nghĩa mác - lênin ra đời năm 1848, với bản tuyên ngôn của Đảng cộng sản
phát hiện quy luật tất yếu diệt vong của chủ nghĩa Tư Bản và sự ra đời cuả chủ nghĩa

xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Từ chỗ là “bóng ma cộng sản”, sau gẫn nữa thế kỷ đấu
tranh chống hệ tư tưởng tư sản và các trào lưu cơ hội chủ nghĩa dưới mọi màu sắc, chủ
nghĩa Mác đã trở thành hệ tư tưởng chính thống của phong trào cộng sản và chủ nghĩa
quốc tế.
Chủ nghĩa Mác-Lênin “ là hệ thống quan điểm và học thuyết “ khoa học của
Mác, Ăng-ghen, Lênin được hình thành và phát triển trên cơ sở kế thừa những giá trị
tư tưởng nhân loại và tổng kết thực tiễn thời đại; là thế giới quan, phương pháp luận
phổ biến của nhận thức khoa học và thực tiễn cách mạng; là khoa học về sự nghiệp
giải phóng giai cấp vô sản, giải phóng nhân dân lao động khỏi chế độ áp bức, bóc lột
và tiễn tới giải phóng con người.
b.Bản chất cách mạng và khoa học trong chủ nghĩa mác- lênin

10


Mác-Ăngghen cũng như Lênin đã kế thừa có chọn lọc những thành tựu khoa
học, những giá trị tư tưởng và văn hoá, những tiền đề kinh tế, chính trị, xã hội mà nhân
loại đã đạt được; bằng thiên tài của trí tuệ cộng với sự lao động nghiêm túc, vượt lên
mọi trở ngại, khó khăn, những cám dỗ của vật chất và vòng cương toả hà khắc của chế
độ chính trị đương thời, các ông đã để lại cho nhân loại một di sản vô cùng quý báu,
một cơ sở lý luận khoa học để giải phóng con người, giải phóng xã hội, đem lại cuộc
sống ấm no, tự do và hạnh phúc cho con người.
+ Chủ nghĩa Mác-Lênin là học thuyết duy nhất từ trước tới nay đặt ra mục tiêu,
chỉ rõ con đường giải phóng triệt để giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các dân
tộc bị áp bức trên thế giới thoát khỏi tình trạng bị nô dịch và bóc lột, thoát khỏi đói
nghèo và tha hoá về nhiều mặt. Đồng thời, học thuyết đó chỉ ra lực lượng cách mạng
thực hiện sự nghiệp giải phóng và phát triển xã hội là giai cấp công nhân và nhân dân
lao động, đem lại cho họ niềm tin vào khả năng và sức mạnh của chính mình.
+ Học thuyết đó cũng đã chỉ ra quy luật của sự giải phóng và phát triển xã hội.
Đó là quy luật về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất; về sự

chuyển biến từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế - xã hội khác không
phải diễn ra một cách tự phát mà phải thông qua cuộc đấu tranh giai cấp gay go quyết
liệt. Từ đó, Mác-Ăngghen và Lênin đã trực tiếp nghiên cứu sự vận động của phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, tìm ra quy luật về sự diệt vong của chủ nghĩa tư bản
cũng như thắng lợi của chủ nghĩa xã hội như một tất yếu thông qua cuộc cách mạng xã
hội.
+ Bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin còn thể hiện ở
chỗ: Đó là học thuyết mở, không cứng nhắc, bất biến mà nó đòi hỏi luôn được bổ
sung, tự đổi mới, tự phát triển trong dòng phát triển trí tuệ của nhân loại.
Mác-Ăngghen cũng như Lênin đã nhiều lần khẳng định học thuyết của các ông
không phải là cái đã xong xuôi, bất biến, không phải là giáo điều mà chỉ là kim chỉ
nam cho hành động. Nó gắn liền với sự phát triển của phong trào cách mạng, với thực
tiễn vận động của lịch sử, hay nói cách khác, học thuyết đó chỉ đưa ra cơ sở và phương
pháp luận cho suy nghĩ và hành động. Điều đó hoàn toàn xa lạ với chủ nghĩa giáo điều
11


xơ cứng. Chủ nghĩa Mác-Lênin là học thuyết về sự phát triển, bao hàm cả sự phát triển
của chính học thuyết đó với tinh thần phê phán và tự phê phán. Bởi lẽ, có nhiều vấn đề
mà các ông chưa có điều kiện, thời gian nghiên cứu, làm sáng tỏ hoặc do hạn chế của
lịch sử nên những luận điểm của các ông cần phải điều chỉnh cho phù hợp với thực
tiễn. Các ông đòi hỏi những người cách mạng đời sau bổ sung và phát triển làm cho
học thuyết đó hoàn chỉnh.Toàn bộ học thuyết Mác-Lênin có giá trị bền vững xét trong
tinh thần biện chứng của nó, với bản chất cách mạng, khoa học và nhân đạo, chủ nghĩa
Mác-Lênin sống mãi trong sự nghiệp đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động trên thế giới và là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng và
cách mạng Việt Nam
2. Bản chất cách mạng và khoa học trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
a. Bản chất cách mạng trong tư tưởng Hồ Chí Minh
- Tư tưởng Hồ Chí Minh thuộc hệ tư tưởng của chủ nghĩa Mác – lênin là sự vận

dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – lênin vào điều kiện thực tế Việt Nam. Do vậy mà bản
chất cách mạng trong tư tưởng của Hồ Chí Minh là cách mạng xã hội. Hồ Chí Minh
khẳng định phương hướng phát triển của dân tộc trong bối cảnh thời đại mới là chủ
nghĩa xã hội. Trong cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng Sản Việt Nam, Hồ
Chí Minh viết: “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội
cộng sản”10. Con đường đó kết hợp cả nội dung dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội;
xét về thực chất chính là con đương độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hôi.
- Năm 1858 thực dân pháp tiến hành xâm lược nước ta, cùng với các chính sách
bóc lột, đàn áp nhân dân ta chúng còn vơ vét tài nguyên khoáng sản đem về nước
khiến đời sống nhân dân ta vô cùng khổ cực. Đã có rất nhiều cuộc khởi nghĩa nổ ra
giành chính quyền, giành độc lập nhưng chúng đều có chung kết quả là thất bại. Khi
nước ta đang bế tắc trong việc tìm ra con đường giải phóng dân tộc thì Hồ Chí Minh
người đã mang đến ánh sáng soi đường cho nhân dân ta đến với độc lập và tự do. Hồ
Chí Minh đã giải quyết đúng đắn vấn đề “ làm cách nào để giải phóng dân tộc thuộc
địa”; người đã xác định chủ nghĩa đế quốc là kẻ thù lớn nhất của các dân tộc bị áp bức
10 Hồ Chí Minh: toàn tập, t.3,tr.1

12


và để chiến thắng chủ nghĩa đế quốc cần phải thực hiện “đại đoàn kết”, “đại hòa hợp”.
Người vạch ra thực chất của vấn đề dân tộc ở thuộc địa là vấn đề đấu tranh chống chủ
nghĩa thực dân, xóa bỏ ách thống trị, áp bức; bóc lột của nước ngoài, giải phóng dân
tộc, giành độc lập dân tộc, thực hiện quyền dân tộc tự quyết thành lập Nhà nước dân
tộc độc lập.
- Lý luận cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh bao gồm một hệ
thống những quan điểm sáng tạo, độc đáo. Lý luận đó phải trải qua những thử thách
hết sức gay gắt. Song, thực tiễn đã chứng minh lý luận cách mạng giải phóng dân tộc
của Hồ Chí Minh là đúng đắn. Lý luận cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí
Minh là một đóng góp lớn vào kho tàng lý luận cách mạng của thời đại, làm phong

phú thêm chủ nghĩa Mác- lênin về cách mạng thuộc địa.
- Hồ Chí Minh đã tập hợp những thanh niên yêu nước Việt Nam, rồi truyền bá
chủ nghã Mác – lênin và lý luận cách mạng giải phóng dân tộc cho họ, dẫn dắt họ đi
theo con đường mà chính Người đã trải qua: từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa
Mác- lênin. Sự chuyển hóa tiêu biếu nhất mà Tân Việt cách mạng Đảng, từ lập trường
tư sản đã chuyển sang lập trường vô sản. Đó là sự chuyển hóa mang tính cách mạng,
đưa sự nghiệp giải phóng và phát triển dân tộc tiến lên theo định hướng xã hội chủ
nghĩa.
b, bản chất khoa học trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Bản chất khoa học tư tưởng Hồ Chí Minh được thể hiện qua
- Thứ nhất, đó là hệ thống quan điểm hoàn chỉnh được trình bày theo các luận
điểm, luận cứ rõ ràng, đó là tư tưởng về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân
tộc; tư tưởng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; tư
tưởng về Đảng Cộng Sản Việt Nam; tư tưởng về đại đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc
tế, tư tưởng về dân chủ và xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân; tư tưởng về đạo
đức và xây dựng con người mới.
- Thứ hai, tư tưởng của Hồ Chí Minh được hình thành trên cơ sở Người khám
phá ra các quy luật vận động xã hội, đời sống văn hóa, nghiên cứu các cuộc đấu tranh
13


của các dân tộc trong hoàn cảnh cụ thể để khái quát thành các lý luận. Hồ Chí Minh
không tự khuôn mình trong những nguyên lý có sẵn, không rập khuôn máy móc lý
luận đấu tranh giai cấp vào điều kiện lịch sử ở thuộc địa mà có sự kết hợp hài hòa vấn
đề dân tộc với vấn đề giai cấp, giải quyết vấn đề dân tộc theo quan điểm giai cấp và
giải quyết vấn đề giai cấp trong vấn đề dân tộc, gắn độc lập dân tộc với phương hướng
xã hội chủ nghĩa.
- Thứ ba, tư tưởng Hồ Chí Minh là sự sáng tạo và phát triển của chủ nghĩa Mác
– lênin trong hoàn cảnh lịch sử mới của thời đại và của dân tộc Việt Nam. Luận điểm
sáng tạo lớn đầu tiên của Hồ Chí Minh là luận điểm về chủ nghĩa thực dân và vấn đề

giải phóng dân tộc. Những tác phẩm của Hồ Chí Minh là “ bản án chế độ thực dân
Pháp” và “ đây công lý của thực dân Pháp ở Đông Dương” đã vạch trần tội ác, thủ
đoạn tàn tộc của chủ nghĩa thực dân.
Thứ tư, Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác – lênin vì đây là chủ nghĩa duy
nhất quan tâm đến vấn đề thuộc địa. Vượt lên trên cả sự hạn lúc bấy giờ trong nhận
thức và đánh giá về phong trào cách mạng thuộc địa: cách mạng thuộc địa phụ thuộc
vào cách mnag chính quốc, là “ hậu bị quân” của cách mạng vô sản chính quốc; cách
mạng chính quốc thắng lợi thì các thuộc địa mới được giải phóng. Hồ Chí Minh đã nêu
ra luận điểm: “cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa quan hệ chặt chẽ
với cách mạng chính quốc, nhưng không hoàn toàn phụ thuộc vào cách mạng chính
quốc. Nhân dân các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc có thể chủ động đứng lên, đem sức
ta mà giải phóng cho ta giành thắng lợi trước cách mạng chính quốc và qua đó, thúc
đẩy cách mạng chính quốc”. Đường lối cách mạng Việt Nam là đi từ giải phóng dân
tộc xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, từng bước tiến lên chủ nghiã xã hội, kết hợp
độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Động lực cơ bản cho cho toàn bộ sự nghiệp cách
mạng đó là đại đoàn kết dân tộc trên nền tảng liên minh công nhân, nông dân, trí thức
dưới sự lãnh đạo của Đảng Công Sản. Cũng từ luận điểm cơ bản đó, Hồ Chí Minh đã
có những phát hiện sáng tạo về Đảng Cộng Sản ở một nước thuộc địa nửa phong kiến,
nông dân chiếm đa số dân cư, xác định quy luật hình thành của Đảng là kết hợp chủ
nghĩa Mác – lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Đảng vừa đại
diện cho lợi ích của giai cấp, vừa đại diện cho lợi ích của dân tộc.
14


Trên cơ sở kế thừa truyền thống quân sự của dân tộc, học tập kinh nghiệm hoạt
động quân sự của thế giới và của các Đảng anh em, tổng kết thực tiễn đấu tranh vũ
trang, chiến tranh cách mạng của nhân dân, chiến tranh toàn dân, toàn diện, trường kỳ.
Về xây dựng lực lượng vũ trang toàn dân với ba thứ quân chủ lực, địa phương, dân
quân tự vệ; về nền quốc phòng toàn dân, toàn diện, hiện đại,...
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – lênin, sau khi cách mạng vô sản thắng

lợi, giai cấp vô sản sẽ thiết lập nên nền chuyên chính vô sản. Vận dụng sáng tạo quan
điểm đó vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, một cuộc cách mạng từ giải phóng dân
tộc mà phát triển lên, Hồ Chí Minh cho rằng, “ mục đích của Quốc Tế Cộng Sản là
làm thế giớii vô sản cách mạng, thiết lập vô sản chuyên chính”, nhưng chúng ta phải
căn cứ vào trình độ chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước mà đề ra đường lối, chiến
lược cách mạng phù hợp, “ chứ không phải nước nào cũng phải làm cách mạng vô sản,
lập chuyên chính như nhau”. Tại hội nghị trung ương 8 ( tháng 5-1941), Người đề ra
chủ trương thành lập” một nước Việt Nam dân chủ cộng mới theo tinh thần Tân dân
chủ. Chính quyền cách mạng của nước dân chủ mới ấy không phải thuộc quyền riêng
một giai cấp nào, mà của chung toàn thể dân tộc,..”
Về vấn đề chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam trước hết, Người khẳng định: sau khi cơ bản hoàn thành cách mạng dân tộc dân
chủ, chúng ta nhất định phải quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Chỉ có xây dựng chủ nghĩa
xã hội, chúng ta mới thực sự giải phóng được dân tộc, xã hội và con người. Vì vậy chủ
trường tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược ( miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa
xã hội, miền Nam tiếp tục hoàn thành cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng dân
tộc dân chủ) là một sáng tạo lớn, có tính cách mạng và phù hợp với thực tiễn đất nước
Người chỉ rõ bản chất của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là
“đánh thắng lạc hậu và bần cùng để xây dựng hạnh phúc muôn đời cho nhân dân ta,
cho con cháu ta”. Đặc biệt lớn nhất của thời kỳ quá độ lên chủ nghã xã hội ở Việt Nam
là “ từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là
“từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải thông
qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa,..vì vậy, nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng
ta là phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghiã xã hội, đưa miền Bắc
15


tiến lên chủ nghĩa xã hội có công nghiệp hiện đại, nông nghiệp hiện đại, văn hóa và
khoa học tiên tiến
C. KẾT LUẬN

Tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành dựa trên nền tảng thế giới quan và phương
pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin. Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa
Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, phù hợp với lịch sử và văn hóa Việt
Nam.; giải pháp những yêu cầu thực tiến, lý luận cách mạng Việt Nam. Cách mạng
nước ta có được thắng lợi to lớn như ngày nay trước hết là nhờ có chủ nghĩa Mác –
Lênin vận dụng trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Vì vậy, ta có thể nói rằng chủ nghĩa Mác
– Lênin là nguồn gốc quyết định bản chất cách mạng và khoa học của tư tưởng Hồ Chí
Minh

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh (dành cho sinh viên đại học, cao đẳng khối
không chuyên ngành Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh)
2. Văn kiện đại hội đảng toàn quốc lần thứ XII của Đảng.
3. />4. />ongTinTongHop/noidungvankiendaihoidang?
categoryId=10000716&articleId=10038382
5.

16



×