Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

thực trạng một số giải pháp góp phần đảm bảo và nâng cao chất lượng đào tạo nhóm ngành kỹ thuật – công nghệ với sự hiểu biết của giảng viên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (786.86 KB, 27 trang )

THỰC TRẠNG & MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN ĐẢM BẢO VÀ NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO NHÓM NGÀNH KỸ THUẬT – CÔNG NGHỆ
VỚI SỰ HIỂU BIẾT CỦA GIẢNG VIÊN

I. HIỂU BIẾT VỀ CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC
1. Khái niệm về chất lượng giáo dục đại học
Khó có thể đưa ra được một định nghĩa về chất lượng trong giáo dục đại học mà tất cả
mọi người đều thừa nhận. Các tổ chức, các nhà nghiên cứu cũng đã cố gắng tìm ra những
cách tiếp cận phổ biến nhất. Cơ sở của các cách tiếp cận này xem chất lượng là một khái
niệm mang tính tương đối, động, đa chiều và với những người ở các cương vị khác nhau.
Ví dụ, đối với cán bộ giảng dạy và sinh viên thì ưu tiên của khái niệm chất lượng phải là
ở quá trình đào tạo, là chương trình đào tạo, là cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho quá
trình giảng dạy và học tập. Còn đối với những người sử dụng lao động, quan niệm về
chất lượng của họ lại ở đầu ra, tức là ở trình độ, năng lực và kiến thức, kỹ năng, thái độ
của sinh viên khi ra trường v.v.
Do vậy không thể nói tới chất lượng như một khái niệm nhất thể, chất lượng cần được
xác định kèm theo với mục tiêu hay ý nghĩa của nó. Ở khía cạnh này, một trường đại học
có thể có chất lượng cao ở một lĩnh vực, một ngành nào đó nhưng ở một lĩnh vực khác,
ngành khác lại có thể có chất lượng thấp hơn. Ví dụ, một cơ sở giáo dục có cơ sở vật
chất, trang thiết bị được đầu tư mới, hiện đại, nhưng nếu đội ngũ không đạt chuẩn, hoặc
chương trình đào tạo nặng lý thuyết, thiếu thực tiễn; hoặc chất lượng đầu vào của sinh
viên thấp… thì sinh viên khi ra trường sẽ không đáp ứng được yêu cầu của Doanh
nghiệp. Ví dụ khác, trong cùng một cơ sở đào tạo, có thể chất lượng đào tạo ở nhóm
ngành kinh tế - xã hội là rất tốt, nhưng hoàn toàn có thể chưa tốt khi đào tạo sinh viên
nhóm ngành kỹ thuật – công nghệ. Bởi, không đủ trang thiết bị máy móc phục vụ thực
hành – thực tập, hoặc do đội ngũ thiếu năng lực và kiến thức thực tiễn…
Điều này đặt ra một yêu cầu phải xây dựng một hệ thống rõ ràng, mạch lạc các tiêu
chí với những chỉ số được lượng hoá, nêu rõ các phương thức đảm bảo chất lượng và
quản lý chất lượng sẽ được sử dụng trong và ngoài giáo dục đại học với xu hướng tiếp
cận dần với chuẩn của khu vực và thế giới nhằm đưa giáo dục đại học Việt Nam hoà
nhập với giáo dục đại học thế giới, đặc biệt là hội nhập khu vực ASEAN vào năm 2015.


Chất lượng có thể được xem như là sự vượt trội (exceptional), sự tuyệt hảo (perfectional),

Tr. 1/27


sự phù hợp với mục tiêu (fitness for purpose), có giá trị được thể hiện bằng tiền (value for
money) và có thể chuyển đổi (transformative).
“Chất lượng là sự phù hợp với mục tiêu” là một định nghĩa phù hợp nhất đối với giáo
dục đại học của chúng ta nói chung và đối với từng ngành đào tạo nói riêng. Mục tiêu
trong định nghĩa này được hiểu theo nghĩa rộng và do từng trường đại học xác định. Đảm
bảo chất lượng là mô hình quản lý chất lượng giáo dục đại học phù hợp với điều kiện của
nước ta hiện nay. Đảm bảo chất lượng là những quan điểm, chủ trương, chính sách, mục
tiêu, hành động, công cụ, quy trình và thủ tục, mà thông qua sự hiện diện và sử dụng
chúng có thể đảm bảo rằng các mục tiêu đã đề ra đang được thực hiện, các chuẩn mực
học thuật phù hợp đang được duy trì và không ngừng nâng cao ở cấp trường và ở chương
trình đào tạo của nhà trường.
2. Hệ thống đảm bảo và kiểm định chất lượng giáo dục đại học Việt Nam
Việt Nam không có cơ quan độc lập về đảm bảo và kiểm định chất lượng giáo dục. Ở
cấp quốc gia có Cục khảo thí kiểm định chất lượng giáo dục thuộc Bộ Giáo dục và Đào
tạo; ở cấp cơ sở đào tạo cũng có các trung tâm, phòng, ban chức năng phụ trách công tác
đảm bảo, quản lý và kiểm định chất lượng giáo dục.

Hình 1: Hệ thống đảm bảo và kiểm định chất lượng giáo dục đại học Việt Nam
2.1 Cục khảo thí kiểm định chất lượng giáo dục
- Chức năng (theo QĐ 2439/QĐ-BGDĐT 16/6/2010) gồm: Giúp Bộ trưởng thực
hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác khảo thí và KĐCLGD trong phạm vi
cả nước; thực hiện các dịch vụ công về khảo thí, KĐCLGD và công nhận văn
bằng.

Tr. 2/27



-

Có 9 nhiệm vụ. Trong đó, quan trọng và ảnh hưởng nhiều nhất đến các cơ sở giáo
dục (Trường ĐH – CĐ) là: Ban hành hệ thống văn bản và hướng dẫn thực hiện
công tác quản lý, kiểm định chất lượng; thực hiện thẩm định mở ngành đào tạo;
quản lý phôi văn bằng; thẩm định chương trình liên kết…
- Cục KTKĐCLGD có tư cách pháp nhân, có con dấu riêng, được mở tài khoản tại
Kho bạc Nhà nước và ngân hàng thương mại theo quy định của pháp luật.
- Là thành viên chính thức của Mạng lưới quốc tế các tổ chức đảm bảo chất lượng
giáo dục đại học (INQAAHE); Mạng lưới chất lượng Châu Á - Thái Bình
Dương (APQN); Mạng lưới đảm bảo chất lượng Đông Nam Á (AQAN).
- Các đơn vị trực thuộc: Văn phòng; Phòng Kế hoạch – Tài chính; Phòng Khảo thí;
Phòng Kiểm định chất lượng giáo dục mầm non, phổ thông và giáo dục thường
xuyên; Phòng Kiểm định chất lượng giáo dục đại học và trung cấp chuyên nghiệp;
Phòng Quản lý thi tuyển sinh và công nhận văn bằng; Trung tâm đánh giá chất
lượng giáo dục.
2.2 Đơn vị chức năng tại các trường ĐH - CĐ
2.2.1 Đại học Quốc gia TP.HCM:
Trung tâm khảo thí và đánh giá chất lượng đào tạo: Thành lập năm 1999; thực hiện
các nhiệm vụ đảm bảo, đánh giá chất lượng, khảo thí; đại diện Đại học Quốc gia
TP.HCM tham gia vào tổ chức AUN (ASEAN University Network) trong công tác đảm
bảo chất lượng giáo dục của các trường đại học trong mạng lưới các trường đại học Đông
Nam Á và các tổ chức khác.
Trung tâm Kiểm định Chất lượng Giáo dục:do Bộ trưởng Bộ Giáo và Đào tạo thành
lập theo Quyết định số 5570/QĐ-BGDĐT, ngày 22 tháng 11 năm 2013. Đây là 1 trong 10
sự kiện nổi bật của Đại học Quốc gia TP.HCM năm 2013 (Theo báo cáo thường niên
năm 2013). Trung tâm có chức năng: Tổ chức các hoạt động đánh giá và công nhận các
cơ sở giáo dục và chương trình giáo dục đạt tiêu chuẩn chất lượng giáo dục, ngoại trừ các

cơ sở giáo dục và các chương trình đào tạo thuộc quyền quản lý của ĐHQG-HCM; Tư
vấn cho các cơ sở giáo dục thực hiện cải tiến chất lượng sau khi được kiểm định chất
lượng giáo dục; Nghiên cứu, triển khai ứng dụng khoa học công nghệ trong lĩnh vực đảm
bảo và kiểm định chất lượng giáo dục.
2.2.2
-

Các trường thành viên Đại học Quốc gia TP.HCM:
Trường ĐH Bách Khoa: Ban Đảm bảo chất lượng
Trường ĐH Khoa học tự nhiên: Ban Đảm bảo chất lượng và hạ tầng thông tin
Trường Khoa học xã hội & Nhân văn: Phòng Khảo thí và đảm bảo chất lượng
Trường Đại học Quốc tế: Trung tâm Quản lý chất lượng
Trường ĐH Công nghệ thông tin: Phòng Thanh tra - Pháp chế - Đảm bảo chất
lượng
Tr. 3/27


-

Trường ĐH Kinh tế - Luật: Phòng Khảo thí và Đảm bảo chất lượng
Khoa Y: Là đơn vị mới thành lập, với quy mô gần 400 SV. Hiện chưa có đơn vị
chức năng độc lập thực hiện công tác đảm bảo chất lượng.
2.2.3 Các trường ĐH – CĐ:
Qua tham khảo thông tin từ một số trường ĐH – CĐ tại TP.HCM và các trường tại địa
phương, chưa bàn đến hiệu quả hoạt động nhưng hầu như tất cả các trường đều có bộ
phận chuyên trách mảng đảm bảo chất lượng
3. Mô hình đảm bảo chất lượng AUN-QA
3.1 Tìm hiểu về AUN-QA (Asean University Network – Quality Assurance)
3.1.1 AUN-QA là gì?
AUN - Asean University Network là mạng lưới các trường đại học Đông Nam Á,

và Việt Nam gia nhập mạng lưới này từ năm 1999. Ban đầu có 2 trường Đại học Quốc
gia, và gần đây là Đại học Cần Thơ. Hiện nay có 30 trường thuộc 10 quốc gia tham.
AUN-QA - Asean University Network – Quality Assurance là tiêu chuẩn đánh giá
cấp khu vực Đông Nam Á.
3.1.2 Lý do chọn AUN-QA?
Trong bối cảnh giáo dục Việt Nam còn nhiều yếu kém so với nhiều nước trong khu
vực và trên thế giới thì việc vận dụng mô hình QA của các nền giáo dục phát triển để cải
thiện chất lượng giáo dục đại học và hội nhập là yêu cầu tất yếu. Trong bối cảnh đó, mô
hình AUN-QA là sự lựa chọn phù hợp, bởi:
-

AUN-QA có liên kết với hệ thống đảm bảo chất lượng khu vực và thế giới, do đó
có thể áp dụng vào trường đại học Việt Nam và ASEAN.
- AUN-QA được thiết kế rõ ràng, cụ thể, gần gũi với cách thức quản lý giáo dục đại
học Việt Nam. Tuy nhiên, giáo dục Việt Nam cũng cần phải có một số cải cách để
nâng cao chất lượng giáo dục và khả năng hội nhập.
- AUN-QA được xây dựng bởi AUN, trong đó có những trường đại học lớn, uy tín
trong khu vực. Với thực trạng Việt Nam hiện nay, AUN-QA là vừa sức để giáo
dục đại học Việt Nam phấn đấu, từng bước khẳng định uy tín và hội nhập tầm khu
vực và quốc tế.
3.1.3 Mô hình AUN-QA

Tr. 4/27


Hình 2: Mô hình AUN-QA cho giáo dục đại học

Hình 3: Mô hình AUN-QA cấp trường

Hình 4: Mô hình AUN-QA cấp trường

Tr. 5/27


3.1.4 Các chương trình được đánh giá bởi AUN-QA:
- Tính đến ngày 15/11/2013 có 53 chương trình của các trường đại học trong ASEAN
được đánh giá bởi AUN. Trong đó, Việt Nam có 14 chương trình.
- Đại học Quốc gia TP.HCM chiếm 10/14 chương trình được AUN-QA đánh giá tại Việt
Nam. Trong đó có 08/10 chương trình thuộc các ngành kỹ thuật – công nghệ. Gồm:
(1) Ngành Công nghệ thông tin thuộc Trường ĐH Khoa học tự nhiên (năm 2009);
(2) Ngành Công nghệ thông tin thuộc Trường ĐH Quốc tế (năm 2009);
(3) Ngành Điện – Điện tử thuộc Trường ĐH Bách Khoa (năm 2009);
(4) Ngành Công nghệ sinh học thuộc Trường ĐH Quốc tế (năm 2011);
(5) Ngành Cơ khí chế tạo thuộc Trường ĐH Bách Khoa (năm 2011);
(6) Ngành Kỹ thuật xây dựng thuộc Trường ĐH Bách Khoa (năm 2013);
(7) Ngành Kỹ thuật Hóa học thuộc Trường ĐH Bách Khoa (năm 2013);
(8) Ngành Điện tử viễn thông thuộc Trường ĐH Quốc tế (năm 2013).
3.2 Kiểm định chất lượng ngành kỹ thuật – công nghệ theo tiêu chuẩn ABET
3.2.1 ABET là gì?
- ABET – Accreditation Board Engineering Technology là Hội đồng kiểm định Kỹ
thuật – Công nghệ (Mỹ), là một trong những tổ chức có chuẩn kiểm định chất
lượng khối ngành kỹ thuật – công nghệ có uy tín trên thế giới.
- Hiện nay ABET đã cấp chứng chỉ cho khoảng 3000 chương trình đào tạo của hơn
600 trường đại học ở Mỹ và các quốc gia
- Điểm nổi bật của ABET là xem người học là trung tâm với các yêu cầu thể hiện
kiến thức, kỹ năng, thái độ của người học sau tốt nghiệp
- Quan điểm của ABET là đánh giá sự thành công của một chương trình dựa trên
kết quả đạt được của người học chứ không tập trung vào nội dung của giảng viên
giảng dạy trên lớp.
3.2.2 Bộ tiêu chuẩn ABET: Bộ tiêu chuẩn ABET gồm có 8 tiêu chuẩn:
- Sinh viên (Student);

- Mục tiêu của chương trình đào tạo (Program education objectives);
- Chuẩn đầu ra (Student outcomes);
- Sự cải tiến liên tục (Continuous improvement);
- Chương trình đào tạo (Curriculum);
- Đội ngũ giảng viên (Faculty);
- Cơ sở vật chất (Facilities);
- Sự hỗ trợ của cơ sở đảo tạo (Institutional support)
3.2.3 Kiểm định chương trình đào tạo kỹ thuật – công nghệ theo ABET
Tr. 6/27


-

-

Tháng 11/2013, Đại học Quốc gia TP.HCM thực hiện kiểm định 02 chương trình
đào tạo thuộc Khoa Khoa học & Kỹ thuật Máy tính của Trường ĐH Bách Khoa
(ngành Kỹ thuật máy tính và ngành Khoa học máy tính).
Tháng 9/2014, 02 chương trình này đã chính thức được chứng nhận theo chuẩn
ABET – là chương trình đầu tiên và duy nhất tại Việt Nam hiện nay.

II. HIỂU BIẾT VỀ CƠ CẤU ĐÀO TẠO NHÓM NGÀNH KỸ THUẬT – CÔNG
NGHỆ TRONG HỆ THỐNG GIÁO DỤC
Trong thời đại của kinh tế tri thức, bất kỳ một quốc gia nào, để có thể đi tắt, đón
đầu nhằm thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thì nguồn nhân lực chất
lượng cao luôn giữ vai trò quyết định. Để thực hiện được mục tiêu đưa Việt Nam đến
năm 2020 về cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại thì cần huy động và
sử dụng một đội ngũ nhân lực đủ vê số lượng đảm bảo về chất lượng. Trong đó chất
lượng nguồn nhân lực được coi là nhân tố then chốt quyết định sự thành công.
1. Tình hình đầu tư, phát triển và nhu cầu tuyển dụng nhân sự của Doanh nghiệp

trong lĩnh vực kỹ thuật – công nghệ
Tháng 10.2013, Mercer và Talentnet, hai công ty hàng đầu thế giới về tư vấn nhân
sự đã công bố báo cáo khảo sát lương tại Việt Nam năm 2013. Bảng khảo sát từ 418
doanh nghiệp cho thấy việc đầu tư vào công nghệ bắt đầu quay trở lại mạnh mẽ. Năm
2013 là năm đầu tiên các công ty trong lĩnh vực công nghệ tham gia khảo sát đông đảo
nhất. Điều đó chứng tỏ các công ty có sự chuyển hướng đầu tư và tập trung về nhân sự
của lĩnh vực này bên cạnh việc mở rộng kinh doanh trong những năm gần đây.
Số liệu từ các khu chế xuất, khu công nghiệp cũng cho thấy nhu cầu nhân lực các
ngành khối kỹ thuật, công nghệ đang gia tăng nhanh chóng.
Từ nay đến năm 2020 các tỉnh phía nam sẽ cần hơn 1 triệu lao động nên việc làm
rất nhiều và trải đều cho tất cả các nhóm ngành. Trong đó, chiếm tỷ trọng cao nhất là kỹ
thuật, công nghệ 35% (mỗi năm cần khoảng 270.000 lao động).
1.1 Ví dụ về lĩnh vực công nghệ thông tin
Theo thống kê mới nhất của trung tâm qua hơn 1.200 doanh nghiệp, trong tháng
1.2014, ngành có nhu cầu nhân lực cao nhất là công nghệ thông tin (CNTT) với 13,28%.
So với năm 2013, nhu cầu tuyển dụng ngành này tăng đến 54,69%. Trang web tuyển
dụng trực tuyến Vietnamworks vừa công bố Báo cáo chỉ số nhân lực trực tuyến. Theo đó,
nguồn cung - cầu nhân lực trực tuyến của ngành CNTT vẫn giữ vị trí dẫn đầu so với các
ngành nghề khác trong Quý I/2013.
Tr. 7/27


Khảo sát về xu hướng nhu cầu nhân lực của Trung tâm Dự báo nhu cầu nhân lực
và thông tin thị trường lao động TPHCM (Falmi) tại 27.000 doanh nghiệp trên địa bàn
thành phố trong các năm 2010-2012, ngành CNTT có nhu cầu nhân lực lớn nhất, chiếm
khoảng 7,75% tổng nhu cầu nhân lực hàng năm của thành phố, trong đó nhu cầu ngành
lập trình di động chiếm một phần rất lớn nhưng rất khó tìm được lao động đáp ứng đủ
yêu cầu của nhà tuyển dụng. Dự báo của Falmi cũng cho thấy, ngành CNTT sẽ chiếm
khoảng 6% tổng nhu cầu nhân lực của thành phố trong giai đoạn 2012-2015 với khoảng
18.000-20.000 cơ hội việc làm mỗi năm, riêng nhân lực giỏi chuyên ngành lập trình di

động cần khoảng 1.000-1.500 người/năm.
Tại thành phố Hồ Chí Minh, doanh thu từ công nghiệp công nghệ thông tin
năm 2012 ước đạt 86.000 tỷ đồng, tăng 63% so với năm 2011 (52.670 tỷ đồng). Số
doanh nghiệp hoạt động chuyên ngành công nghệ thông tin đến hết năm 2012 ước
tính khoảng 1.930 doanh nghiệp. Số doanh nghiệp nước ngoài đăng ký mới trong năm
2012 là 42 doanh nghiệp với tổng vốn đăng ký khoảng 3,2 triệu USD, nâng tổng số
doanh nghiệp nước ngoài đang hoạt động là 166 doanh nghiệp với tổng vốn đăng ký
khoảng 1,13 tỷ USD.
Theo báo cáo nghiệm thu đề tài nghiên cứu “Dự báo nguồn nhân lực CNTT tại thành
phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2011-2020” của Tiến sĩ Cao Hào Thi thì với tốc độ tăng
trưởng 11%/năm thì đến năm 2015, nhu cầu nhân lực CNTT lên đến 56.518 người, đến
năm 2020 là 67.324 người.
1.2 Nhu cầu về nguồn nhân lực cho các ngành công nghệ cao:
Khi các khu công nghệ cao bắt đầu xuất hiện thì các vấn đề về nguồn nhân lực để
đáp ứng nhu cầu của các ngành công nghệ cao được nhiều người quan tâm hơn. Thực tế,
bất chấp việc có nhiều trung tâm đào tạo về công nghệ cao xuất hiện hay các trường cao
đẳng, đại học chú trọng đào tạo hơn thì nhân lực cho các ngành này vẫn còn rất thiếu, còn
xa mới đáp ứng được nhu cầu của thị trường.
Theo dự kiến đào tạo nhân lực cho các ngành công nghệ cao, đến năm 2020, các
trường đại học cần tuyển 30.000 sinh viên công nghệ thông tin, 25.000 sinh viên công
nghệ sinh học, 25.000 sinh viên công nghệ tự động hóa và 25.000 sinh viên công nghệ
vật liệu. Và đào tạo được 28.000 người trình độ sau đại học về các lĩnh vực này.
Các doanh nghiệp đầu tư vào các khu công nghệ cao cũng gặp nhiều khó khăn khi
tuyển dụng đội ngũ nhân sự tại địa phương, số lượng và chất lượng đều chưa thể đáp ứng
được các đòi hỏi cao của các ngành này, mặc dù hàng năm có khá nhiều kỹ sư ra trường
nhưng số sinh viên tốt nghiệp có thể đáp ứng yêu cầu công việc là chỉ khoảng 10%. Tình
Tr. 8/27


trạng chảy máu tài năng cũng khá phổ biến khi có khá nhiều sinh viên sau khi du học

hoặc tốt nghiệp cũng thường ở lại hay tìm tới môi trường nước ngoài để phát triển và
nâng cao khả năng hơn là trở về và ở lại nước.
2. Cơ cấu đào tạo nhóm ngành kỹ thuật – công nghệ trong hệ thống giáo dục Việt
Nam
2.1 Vài nét về hệ thống giáo dục Việt Nam:
- Hệ thống giáo dục đại học phát triển trên phạm vị cả nước. Có 02 Đại học Quốc
gia Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh, các Đại học vùng (Cần Thơ, Đà Nẵng, Huế, Thái
Nguyên), các trường ĐH – CĐ trên khắp các Tỉnh – Thành. Theo tài liệu “Những
điều cần biết về tuyển sinh 2014”, cả nước có 471 trường ĐH – CĐ. Trong đó có
346 trường đại học và 125 trường cao đẳng. Các trường ĐH – CĐ đa dạng hóa về
mô hình sở hữu.
- Quy mô đào tạo tăng lên hàng năm. Tuy nhiên một số trường đại học lớn, có uy tín
thì hầu như quy mô ổn định. Ví dụ tại Đại học Quốc gia TP.HCM: Năm học 2013
– 2014 có 57.232 sinh viên, tăng 7% so với năm học 2009 - 2010 (Nguồn:
www.vnuhcm.edu.vn). Một số trường đào tạo có uy tín về kỹ thuật – công nghệ
hầu như điều chỉnh tăng chỉ tiêu, ví dụ như Trường ĐH Bách Khoa: Chỉ tiêu tuyển
sinh là 3.950 trong 3 năm gần đây (Nguồn: www.hcmut.edu.vn).
- Năm 2013 trên địa bàn Thành phố có 54 trường Đại học, 25 trường Cao đẳng
chuyên nghiệp, 10 trường Cao đẳng nghề, 39 trường Trung cấp chuyên nghiệp
(ngoài ra các trường ĐH và CĐ cũng có đào tạo hệ Trung cấp ), 23 trường Trung
cấp nghề (bên cạnh đó các trường CĐ nghề cũng có đào tạo hệ Trung cấp). Tốc độ
tăng trưởng bình quân khoảng 3,5%/năm. Tổng chỉ tiêu tuyển sinh năm 2013 là
204.753 sinh viên – học sinh.
2.2 Về cơ cấu đào tạo nhóm ngành kỹ thuật – công nghệ:
Khi quy mô đào tạo tăng lên hàng năm thì hầu như quy mô đào tạo nhóm ngành
kỹ thuật – công nghệ gần như tăng không đáng kể. Trong thời gian vừa qua, có rất nhiều
trường được thành lập mới; nhiều ngành mới được cho phép đào tạo; chỉ tiêu tuyển sinh
của các trường được điều chỉnh tăng hằng năm… nhưng chủ yếu tăng ở nhóm ngành kinh
tế - tài chính, quản trị kinh doanh…
-


Cũng theo thống kê từ quyển “Những điều cần biết về tuyển sinh 2014” đối với
các trường ĐH – CĐ trên địa bàn TP.HCM:

+ Có 54 trường Đại học, 25 trường Cao đẳng chuyên nghiệp, 10 trường Cao đẳng
nghề, 39 trường Trung cấp chuyên nghiệp (ngoài ra các trường ĐH và CĐ cũng có đào
Tr. 9/27


tạo hệ Trung cấp ), 23 trường Trung cấp nghề (bên cạnh đó các trường CĐ nghề cũng có
đào tạo hệ Trung cấp). Tốc độ tăng trưởng bình quân khoảng 3,5%/năm.
+ Tổng chỉ tiêu tuyển sinh năm 2014 là khoảng 205.000. Trong đó tổng chỉ tiêu
cho nhóm ngành kỹ thuật, công nghệ ước tính khoảng 61.000, chiếm tỉ lệ khoảng 30%.
+ Đại học Quốc gia TP.HCM: Chỉ tiêu tuyển sinh nhóm ngành kỹ thuật – công
nghệ ước tính khoảng 6.900 trên tổng số 12.650 chỉ tiêu, chiếm tỉ lệ 54%.
+ Đại học Đà Nẵng: Chỉ tiêu tuyển sinh nhóm ngành kỹ thuật – công nghệ ước
tính khoảng 6.050 trên tổng số 12.050 chỉ tiêu, chiếm tỉ lệ 50%.
+ Đại học Cần Thơ: Chỉ tiêu tuyển sinh nhóm ngành kỹ thuật – công nghệ ước
tính khoảng 2.370 trên tổng số 8500 chỉ tiêu, chiếm tỉ lệ 28%.
+ Một số trường đại học địa phương, tỉ lệ chỉ tiêu tuyển sinh nhóm ngành kỹ thuật
– công nghệ là rất nhỏ. Ví dụ như ĐH Đồng Tháp, ĐH Phú Yên, ĐH Trà Vinh…

III. THỰC TRẠNG VỀ MỘT SỐ YẾU TỐ CÓ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CÔNG TÁC
ĐẢM BẢO, QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO NHÓM NGÀNH KỸ
THUẬT – CÔNG NGHỆ
Như đã trình bày ở phần I, vấn đề đảm bảo và quản lý chất lượng giáo dục gồm rất
nhiều yếu tố. Trong khuôn khổ bài tập này, ở góc độ là giảng viên, cùng với những hạn
chế về không gian và thời gian của các thành viên trong nhóm, nhóm thực hiện chỉ đề
cập đến vài yếu tố cơ bản, gần gũi mà giảng viên có thể hiểu biết được.
Với khái niệm “chất lượng là sự phù hợp với mục tiêu”, đối chiếu với quan điểm

đánh giá của một số tiêu chuẩn như AUN-QA, ABET thì mục tiêu trong đào tạo là nhằm
tạo ra sản phẩm có chất lượng, đáp ứng được các yêu cầu của đơn vị sử dụng lao động và
xã hội.
Đặc biệt, trong đào tạo nhân lực nhóm ngành kỹ thuật – công nghệ, vấn đề chất
lượng, vấn đề đáp ứng nhu cầu xã hội đơn giản có thể hiểu là khả năng tiếp cận, nghiên
cứu và vận dụng kiến thức – kỹ năng – kỹ xảo để giải quyết bài toán thực tiễn. Và như
vậy, ngoài kiến thức lý thuyết, sinh viên phải được tiếp cận nhiều và thường xuyên với
trang thiết bị, máy móc, công nghệ hiện đại thực tế; đội ngũ giảng viên cũng phải am hiểu
và có kiến thức thực tiễn; cơ sở vật chất phục vụ thực hành – thực tập cần phải đảm bảo;
chương trình đào tạo tiên tiến và thường xuyên được cập nhật…

Tr. 10/27


Nhóm xin trình bày một số hiểu biết thực trạng các vấn đề về đội ngũ, về chương
trình đào tạo, về cơ sở vật chất của các cơ sở giáo dục đào tạo nhân lực nhóm ngành kỹ
thuật – công nghệ. Trên cơ sở phân tích SWOT, nhóm xin đưa ra một số giải pháp.
1. Về đội ngũ giảng viên:
1.1 Vai trò của giảng viên trong đảm bảo chất lượng đào tạo
Trong môi trường sư phạm bậc ĐH – CĐ, vai trò của giảng viên vừa truyền đạt kiến
thức, vừa là người hướng dẫn, định hướng cho sinh viên học tập và nghiên cứu. Đối với
một giảng viên, việc đầu tiên và quan trọng phải làm là luôn nắm vững kiến thức nền
tảng cơ bản, cập nhật kiến thức thực tiễn, rèn luyện khả năng sư phạm… Có thể nói rằng,
để nâng cao chất lượng đào tạo đáp ứng được nhu cầu phát triển của xã hội, rõ ràng cần
phải có sự gắn kết cùng với trách nhiệm của đội ngũ giảng viên trong công tác giáo dục.
Do vậy, để thay đổi được chất lượng giáo dục đào tạo thì trước hết người giảng viên phải
thay đổi trước (thay đổi năng lực chuyên môn, phương pháp giảng dạy và tư duy đào
tạo).
Giảng viên là nhân tố quyết định chất lượng của giáo dục. Việc phát triển đội ngũ giảng
viên là một trong những nhân tố bức bách quyết định việc nâng cao chất lượng dạy và

học và phát triển hệ thống giáo dục đại học ở Việt nam hiện nay.
1.2 Thực trạng:
1.2.1 Mặt mạnh
- Đội ngũ GV trong trường đại học ngày một nâng cao cả về số lượng và năng lực
chuyên môn. Kiến thức, trình độ chuyên môn nghiệp vụ và năng lực hoạt động
thực tiễn từng bước được nâng cao về mọi mặt, góp phần tích cực vào thành công
của sự nghiệp đổi mới đất nước trong giai đoạn vừa qua. Đội ngũ giảng viên đại
học đã trưởng thành nhanh chóng, trong đó có một số cán bộ xuất sắc, đạt trình độ
quốc tế.
Tính đến năm học 2013 - 2014, số giảng viên trong các trường đại học, cao đẳng
là 91.633 người, tăng 3.951 người so với năm học 2012 - 2013. Trong đó, số giảng
viên có học hàm giáo sư là 517 người, phó giáo sư là 2.966 người, tiến sĩ là 9.562
người. Tính đến tháng 6/2014, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tuyển và cử đi học ở
nước ngoài được 1.013 giảng viên bằng nguồn ngân sách Nhà nước thông qua các
Đề án Đào tạo cán bộ khoa học, kỹ thuật tại các cơ sở nước ngoài bằng ngân sách
nhà nước, Đề án Đào tạo giảng viên có trình độ tiến sĩ cho các trường đại học, cao
đẳng giai đoạn 2010-2020...

Tr. 11/27


-

Bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức của người GV ngày càng vững vàng, trung
thành với sự nghiệp cách mạng, bên cạnh đó là lực lượng GV trẻ, là những người
có hoài bão, ước mơ, nhiệt huyết.
- Trình độ ngoại ngữ, tin học lý luận chính trị không ngừng được bồi dưỡng nâng
cao.
- Các quan điểm chính sách: công tác xây dựng đội ngũ GV trong 20 năm đổi mới
đã có những chuyển biến quan trọng về nhận thức, quan điểm tư tưởng, được thể

hiện trong cơ chế, chính sách, pháp luật từ khâu tuyển dụng, đào tạo và quản lý,
từng bước đã đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
- Chất lượng giáo dục đại học ở một số ngành, lĩnh vực, cơ sở giáo dục đại học có
những chuyển biến tích cực, từng bước đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
Đội ngũ giảng viên có trình độ đại học và trên đại học mà tuyệt đại đa số được đào
tạo tại các cơ sở giáo dục trong nước đã góp phần quan trọng vào công cuộc đổi
mới và xây dựng đất nước.
1.2.2 Hạn chế
Tuy nhiên, chất lượng giáo dục bậc đại học lại không tương xứng với sự phát
triển về quy mô đào tạo: sinh viên ra trường không có khả năng làm việc được ngay,
yếu về chuyên môn, thiếu kỹ năng sống và các trường đại học của Việt Nam cũng
chưa bao giờ được xếp hạng cao trong hệ thống giáo dục toàn cầu. Có nhiều nguyên
nhân dẫn đến chất lượng giáo dục Việt Nam còn yếu kém, và một trong những nguyên
nhân đó là do đội ngũ giảng viên còn thiếu về số lượng và yếu về chất lượng:
-

Về số lượng, đội ngũ giảng viên đại học đã tăng gấp 4,5 lần, từ 20.212 người vào
năm 1987 lên 91.633 người vào năm 2013. Mặc dù vậy, so với sự phát triển mạnh
mẽ của của các trường đại học, cao đẳng (gấp 4,1 lần) cũng như sự gia tăng nhanh
chóng quy mô đào tạo (gấp 13 lần) trong những năm qua thì số lượng đội ngũ
giảng viên đại học hiện chưa đáp ứng được yêu cầu. Tỉ lệ sinh viên/giảng viên
(SV/GV) của cả nước còn ở mức quá cao so với quy định: trung bình là 28 SV/GV
vào năm học 2008-2009; tỉ lệ này tại một số cơ sở giáo dục đại học (GDĐH) còn
lên tới trên 40 SV/GV, cao hơn nhiều so với quy định hiện hành.
Qua rà soát các trường đại học năm 2013 cho thấy, nhiều trường có tỷ lệ sinh
viên/giảng viên (SV/GV) vượt quá quy định (quy định là 25 SV/GV). Trong đó,
45 trường có từ 30 - 50 SV/GV, 9 trường có trên 50 SV/GV. Đặc biệt, tỷ lệ sinh
SV/GV tính theo ngành đào tạo còn có biến động rất lớn. Trong 3.575 ngành ĐHCĐ được khảo sát, trên 500 ngành có số sinh viên vượt quá 30 SV/GV quy đổi,

Tr. 12/27



trong đó gần 100 ngành có tỷ lệ SV/GV lên tới trên 100 (chủ yếu tập trung ở khối
ngành kinh tế - quản lý, luật và giáo dục)…
Theo Thứ trưởng Bộ GD-ĐT Bùi Văn Ga, thực tế hiện nay là hệ thống GDĐH đã
bị quá tải, trong khi hệ thống dạy nghề khó tuyển người học; phân luồng khó thực
hiện. Sinh viên có xu hướng chọn những ngành nghề nhẹ nhàng như kinh tế, quản
trị, tài chính, ngân hàng... Trong khi các ngành khoa học, công nghệ khó tuyển
được thí sinh có chất lượng. Điều này ảnh hưởng đến cơ cấu nguồn nhân lực cần
thiết cho sự nghiệp phát triển của đất nước. Đặc biệt, suất đầu tư trên đầu sinh viên
còn rất khiêm tốn so với một số nước trong khu vực.
-

Về chất lượng, tỉ lệ giảng viên có trình độ thạc sĩ trở lên chiếm chưa tới 50% tổng
số GVĐH, trong đó trình độ tiến sĩ chiếm 10,16% (giảm so với thời điểm năm
1997) và chỉ có 3,74% giảng viên có chức danh Phó Giáo sư, Giáo sư. Con số này
còn quá thấp so với mục tiêu của Bộ Giáo dục và Đào tạo đề ra là đến năm 2020
phải đạt ít nhất 35% giảng viên có trình độ tiến sĩ.
+ Tình trạng người chỉ có trình độ đại học dạy đại học đang còn phổ biến trong
các trường đại học của ta. Ở các nước tiên tiến trên thế giới và ở nhiều đại học
trong khu vực, phần lớn giảng viên đại học có trình độ trên đại học. Đội ngũ giảng
viên đại học của họ không những hơn ta về chất lượng mà còn nhiều gấp đôi, gấp
ba ta về số lượng, trên cùng số đầu sinh viên.
+ Ở ta còn một tình hình đã ở trên mức báo động là tuổi của giáo viên quá cao.
Hầu hết các giáo sư đã sắp đến tuổi nghỉ hưu. Số giảng viên đại học ở tuổi dưới 35
chỉ chiếm vài phần trăm. Với tình hình này chỉ trong vòng 10 năm nữa, các trường
đại học của ta sẽ thực sự bị khủng hoảng về đội ngũ giảng dạy. Đội ngũ giảng
viên có trình độ cao, đặc biệt là các Phó Giáo sư, Giáo sư có độ tuổi trung bình
khá cao, phân bố tập trung chủ yếu ở một số trường đại học lớn tại các Hà Nội
và thành phố Hồ Chí Minh.

+ Chất lượng đội ngũ giảng viên được thể hiện chủ yếu qua chất lượng hoạt
động giảng dạy và chất lượng nghiên cứu khoa học của giảng viên. Do việc
phát triển quá nhanh về quy mô đào tạo dẫn đến tình trạng quá tải giờ dạy diễn
ra liên tục trong thời gian dài khiến cho giảng viên không còn thời gian dành
cho học tập nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, không cập nhật được
một cách thường xuyên. Ngoài ra, phương pháp giảng dạy của một bộ phận
không nhỏ giảng viên chậm được đổi mới. Trong khi đó, công tác NCKH chưa
được chú trọng; nội dung NCKH không có chất lượng, hiệu quả, không có tính
Tr. 13/27


thực tiễn và khả năng ứng dụng mà chỉ nhằm đối phó hoặc để chấm điểm bình
xét thi đua, xét phong danh hiệu.
Đánh giá về chất lượng đội ngũ giảng viên đại học, tại hội nghị Hiệu trưởng các
trường đại học, cao đẳng năm 2014 do Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức mới đây,
Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Bùi Văn Ga thừa nhận, so với nhu cầu đổi
mới giáo dục đại học, chất lượng đội ngũ giảng viên vẫn còn thiếu về số lượng và
yếu về chất lượng. Chưa kể đến, nhiều trường ngoài công lập còn dựa vào đội ngũ
giảng viên thỉnh giảng là chính, nhất là các cơ sở mới được thành lập và cơ sở tư
thục có số lượng giảng viên thỉnh giảng cao hơn nhiều lần so với đội ngũ cán bộ
cơ hữu, điều này đã làm ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng đào tạo của nhà
trường. Một số trường có số lượng giảng viên thỉnh giảng gấp 2 lần số giảng viên
cơ hữu; cá biệt có trường chỉ có 53 giảng viên cơ hữu, trong khi số giảng viên
thỉnh giảng là 375. Việc sử dụng quá đông giảng viên thỉnh giảng không chỉ làm
cho cơ sở đào tạo khó chủ động thực hiện kế hoạch đề ra, mà chất lượng đào tạo
không cao do giảng viên thỉnh giảng ít có điều kiện tham gia sinh hoạt chuyên
môn tại cơ sở thỉnh giảng và không có thời gian tập trung nghiên cứu, nâng cao
chất lượng giảng dạy. Bên cạnh đó, việc tuyển dụng giáo viên ở các trường trực
thuộc địa phương có khó khăn, phần lớn dựa vào sinh viên tốt nghiệp tại trường
rồi bồi dưỡng, phát triển thành giảng viên, ảnh hưởng đến công tác đổi mới nội

dung và phương pháp giảng dạy.
- Cơ chế quản lý, sử dụng đội ngũ giảng viên hiện nay không phát huy hết tiềm
năng của cả đội ngũ và từng cá nhân, không kích thích được sự phấn đấu trong
chuyên môn; không sàng lọc được dễ dàng và thường xuyên những người yếu
kém. Cơ chế, chính sách đãi ngộ chưa tương xứng, vẫn dựa chủ yếu vào khối
lượng giảng dạy và thâm niên công tác mà không căn cứ vào thành tích và khả
năng nghiên cứu của cá nhân; chưa bảo đảm cho giảng viên có cuộc sống đủ để có
thể toàn tâm, toàn ý cho việc bảo đảm chất lượng hoạt động giảng dạy và NCKH.
1.2.3 Cơ hội
Giáo dục nói chung, đặc biệt giáo dục đại học trong điều kiện hiện nay là không
biên giới. Cơ hội cho người muốn học đại học quá nhiều. Người học có thể học trong
nước, đi du học nước ngoài, ngồi tại nhà có thể nhấp chuột là tiếp cận được với bất kỳ
một trường đại học nào trên thế giới; đội ngũ giảng viên dễ dàng tiếp cận cận và hội nhập
với chương trình quốc tế. Và đây cũng là một cơ hội để giảng viên liên tục cập nhật kiến
thức, kỹ năng chuyên môn và khả năng ngoại ngữ tốt để đáp ứng yêu cầu đào tạo.

Tr. 14/27


Ví dụ: Hiện nay Đại học Hà Nội đang có 18 chương trình đào tạo tiếp cận với các
chương trình quốc tế. Nhiều chương trình đã được các đối tác đã chấp nhận liên thông.
Để làm được điều đó, đội ngũ giảng viên của trường bắt buộc phải chuẩn và cập nhật về
kiến thức, kỹ năng chuyên môn, khả năng ngoại ngữ phải tốt. Đại học Hà Nội đã thực
hiện đào tạo các chuyên ngành: Quản trị kinh doanh, Du lich, Quốc tế học, Khoa học
máy tính, Tài chính-ngân hàng, Kế toán giảng dạy hoàn toàn bằng tiếng Anh.
1.2.4

Thách thức

Việc hội nhập quốc tế đòi hỏi đội ngũ phải không ngừng cập nhật kiến thức và

nâng cao trình độ chuyên môn nếu không họ sẽ bị lạc hậu và đào thải.
2. Về chương trình đào tạo:
2.1 Vai trò của chương trình đào tạo trong hoạt động đào tạo
Đổi mới và nâng cao chất lượng đào tạo là nhu cầu bức thiết của giáo dục đại học.
Quá trình này phải được tiến hành có hệ thống và đồng bộ, từ việc cải cách chương trình
đào tạo và phương pháp giảng dạy, nâng cao trình độ đội ngũ, đầu tư và nâng cấp cơ sở
vật chất, đến quá trình kiểm soát và đánh giá chất lượng đào tạo. Trong đó, việc xây dựng
và phát triển chương trình đào tạo giữ vị trí quan trọng và là nền tảng của mọi quá trình
tổ chức dạy và học. Đây là một quá trình mang tính quyết định về chuyên môn lẫn hành
chính, vừa có tính pháp lý trong quản lý, vừa mang tính đặc trưng của từng nhà trường.
Chương trình đào tạo là một văn bản quy định mục đích và các mục tiêu cụ thể đặt
ra đối với một ngành đào tạo, nội dung các khối kiến thức và các môn học, tổng thời
lượng cùng thời lượng dành cho mỗi môn, phương pháp dạy – học, đánh giá và tổ chức
giảng dạy để trang bị các kiến thức, kỹ năng, thái độ cần thiết cho sinh viên.
Chương trình đào tạo giúp các trường đại học thực hiện tốt sứ mạng và mục tiêu
của mình. Giúp các cá nhân/tổ chức liên quan có những thông tin chính xác cần thiết về
các chương trình đào tạo của trường đại học mà họ quan tâm để có những quyết định
đúng khi phải giải quyết những vấn đề liên quan đến những chương trình đào tạo ấy.
Chương trình đào tạo đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc đảm bảo chất lượng đào
tạo ở mọi cấp, ngành học.
2.2 Thực trạng:
2.2.1 Mặt mạnh:
- Từ năm 1993, Trường ĐH Bách Khoa – Đại học quốc gia TP.HCM đã bắt đầu áp
dụng học chế tín chỉ trong đào tạo. Đến hiện nay, cả nước có hơn 30% trường ĐH,
có khoảng 10% trường cao đẳng áp dụng học chế tín chỉ trong đào tạo. Đặc biệt,
trường cao đẳng công nghệ Thủ Đức (trực thuộc Ủy ban nhân dân TP.HCM) cũng
Tr. 15/27


-


-

-

đã được Bộ Giáo dục & Đào tạo cho phép thí điểm học chế tín chỉ trong đào tạo
bậc Trung cấp chuyên nghiệp từ đầu năm học 2014 – 2015.
Để phát huy được tính ưu việt của học chế tín chỉ, nhằm nâng cao năng lực cho
sinh viên, đòi hỏi các cơ sở đào tạo cũng phải có nhiều điều chỉnh và cải tiến trong
khi xây dựng chương trình đào tạo. Đối với nhóm ngành kỹ thuật công nghệ, các
trường cũng đã chú ý đến bố cục và nội dung chương trình, chuẩn hóa và thường
xuyên cập nhật chương trình chi tiết theo hướng tiếp cận thực tiễn và tiếp cận năng
lực; nội dung kiểm tra đánh giá cũng hướng tới việc đánh giá năng lực, tăng cường
làm việc nhóm…
Các nhà trường đã quan tâm tới việc lấy ý kiến doanh nghiệp khi xây dựng chương
trình đào tạo theo hướng tiệm cận thực tiễn.
Một số nhà trường đã phối hợp với Doanh nghiệp tạo điều kiện cho giảng viên
được làm việc và nghiên cứu tại doanh nghiệp để điều chỉnh chương trình chi tiết
các môn học, đa dạng hóa các môn tự chọn. Nội dung này đã được trường Cao
đẳng công nghệ Thủ Đức thực hiện từ năm học 2011 – 2012 và vẫn đang ngày
càng nhân rộng.
Chương trình đào tạo nhóm ngành kỹ thuật – công nghệ luôn được các nhà trường
quan tâm đến các thông số: tỉ lệ kiến thức (tín chỉ / số tiết) thực hành; tỉ lệ kiến
thức chuyên ngành… Thông thường, khối lượng thực hành phải tối thiểu 1/3 tổng
khối lượng kiến thức. Tăng cường khối kiến thức tự chọn.

Ví dụ về chương trình đào tạo bậc cao đẳng ngành “Công nghệ kỹ thuật Ôtô”
tại trường cao đẳng công nghệ Thủ Đức:
Tổng số tín chỉ: 117;
Tổng số tiết:

2925;
Có 12 tín chỉ tự chọn.

Trong đó, có 46 tín chỉ thực hành (Tỉ lệ: 39.3%)
Trong đó, có 1860 tiết thực hành (Tỉ lệ: 64%)

Ví dụ về chương trình đào tạo bậc cao đẳng ngành “Công nghệ kỹ thuật Cơ
khí” tại trường cao đẳng công nghệ Thủ Đức:
Tổng số tín chỉ: 116;
Tổng số tiết:
3090;
Có 12 tín chỉ tự chọn.

Trong đó, có 55 tín chỉ thực hành (Tỉ lệ: 47.4%)
Trong đó, có 1875 tiết thực hành (Tỉ lệ: 60.7%)

Ví dụ về chương trình đào tạo bậc cao đẳng ngành “Quản trị kinh doanh” tại
trường cao đẳng công nghệ Thủ Đức:
Tổng số tín chỉ: 110;
Tổng số tiết:
2505;
Có 12 tín chỉ tự chọn.

Trong đó, có 38 tín chỉ thực hành (Tỉ lệ: 35%)
Trong đó, có 1320 tiết thực hành (Tỉ lệ: 64%)

Tr. 16/27


Như vậy, cùng một bậc đào tạo nhưng chương trình đào tạo của nhóm ngành kỹ thuật

– công nghệ đòi hỏi phải có sự khác biệt với chương trình đào tạo các nhóm ngành
khác: khối lượng kiến thức thực hành nhiều hơn.
- Các nhà trường đã chú ý hơn đến việc hỗ trợ, tạo điều kiện cho sinh viên thực tập
tại doanh nghiệp. Điều này sẽ giúp cho sinh viên được tiếp cận và làm quen với
máy móc, trang thiết bị hiện đại; giúp sinh viên quen dần với môi trường làm việc.
Ví dụ, tại trường cao đẳng công nghệ Thủ Đức, trong chương trình đào tạo
có một môn học “Học kỳ doanh nghiệp” với 240 tiết. Trong môn học này, sinh
viên sẽ được gởi đến các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất để học tập và làm việc.
Qua đó, sinh viên sẽ nâng cao tay nghề, chấn chỉnh thái độ, tác phong làm việc…
Môn học này đã được đưa vào chương trình đào tạo của ngành Cơ khí cho Khóa
2009 – 2012. Đến nay đã nhân rộng cho tất cả các ngành đào tạo tại trường.
- Các nhà trường đã chú ý hơn đến việc xây dựng và cập nhật đề cương chi tiết học
phần. Trong đó, thể hiện rõ thông tin giảng viên, số lượng tín chỉ, điều kiện tiên
quyết (nếu có), mục tiêu, nội dung lý thuyết và thực hành, kế hoạch giảng dạy và
học tập hàng tuần, cách thức đánh giá học phần, chính sách đối với học phần, giáo
trình, tài liệu tham khảo và điều kiện thí nghiệm, thực hành, thực tập phục vụ học
phần. Trong đó nội dung chi tiết phải có: Nội dung cốt lõi (cần phải biết), nội dung
liên quan gần (nên biết) và nội dung liên quan xa (có thể biết). Đề cương chi tiết
học phần được giảng viên/nhóm giảng viên xây dựng theo qui định chung, bộ môn
thẩm định và trình trưởng khoa phê duyệt, được công bố cho sinh viên trước khi
giảng dạy 01 tháng và được lưu giữ tại khoa/bộ môn và phòng Đào tạo; giảng viên
phải có trách nhiệm cung cấp đề cương chi tiết học phần cho sinh viên trong buổi
học đầu tiên của học phần.
2.2.2 Mặt yếu
- Chương trình đào tạo ở một số trường chưa cập nhật kịp thời những nội dung, yêu
cầu của thực tế sản xuất cũng như ý kiến đóng góp của doanh nghiệp....
- Mặc dù chương trình chi tiết đã được xây dựng bày bản, cụ thể. Nhưng vấn đề tổ
chức triển khai đúng với đề cương còn gặp một số khó khăn như là đổi mới
phương pháp giảng dạy của giảng viên (hướng dẫn cho sinh viên phương pháp tìm
kiếm kiến thức, khai thác những nội dung khoa học); phương pháp học tập của

sinh viên (phát huy tinh thần chủ động, tự học), trang thiết bị hỗ trợ.
- Phương pháp đánh giá hiện nay không đào sâu mà chỉ đối phó, lấy điểm. Chưa
thực sự hướng tới việc tiếp cận năng lực mà một chương trình đào tạo tiên tiến
phải có.
- Quá trình chuyển đổi phương thức đào tạo theo học chế tín chỉ còn gặp nhiều khó
khăn, nhất là ở các nhà trường không đảm bảo về cơ sở vật chất, quy mô/số lượng
Tr. 17/27


sinh viên ít. Giảng viên chưa quen với cách đánh giá theo hệ thống tín chỉ; quy
định đánh giá học phần chưa thích hợp, trọng số điểm chuyên cần thấp không
ràng buộc sinh viên đến lớp.Đội ngũ cố vấn học tập chưa có kinh nghiệm trong
việc tư vấn cho sinh viên. Sinh viên lúng túng trong việc đăng ký học phần. Một
số sinh viên chưa xác định được năng lực, điều kiện của bản thân do đó đăng ký
toàn bộ các học phần kể cả những học phần tự chọn...
- Tính liên thông ngang / dọc trong chương trình đào tạo là chưa tốt. Có thể một số
nhà trường đã chú ý và thực hiện tốt việc này (ví dụ Trường ĐH Bách Khoa – đơn
vị đã áp dụng học chế tín chỉ từ năm 1993, đơn vị đầu tiên trong cả nước). Việc
liên thông chiều ngang (nôm na là việc ghi nhận kết quả học tập giữa các trường
cùng cấp) cũng thật sự chưa tốt, thậm chí ngay cả ở Đại học Quốc gia TP.HCM
cũng chưa thực hiện tốt chủ trương này.
2.2.3 Cơ hội
Trong bối cảnh và yêu cầu toàn hóa và hội nhập quốc tế về giáo dục, các nhà
trường của Việt Nam sẽ có điều kiện dễ dàng để tiếp cận và học tập kinh nghiệm của các
nước, chuyển giao / ủy quyền các chương trình đào tạo tiên tiến; tích hợp chương trình
đào tạo…
2.2.4 Thách thức
- Sinh viên nếu phụ thuộc hoàn toàn vào chương trình đào tạo cũng sẽ chưa đủ yêu
cầu để tham gia thị trường lao động, đặc biệt là từ năm 2015 sẽ hội nhập giáo dục
ASEAN. Những kỹ năng về ngoại ngữ, các phần mềm ứng dụng (là yêu cầu tất

yếu của nhân lực nhóm ngành kỹ thuật – công nghệ)...
- Các nhà trường nếu không nắm bắt tốt cơ hội sẽ có thể thu trên sân nhà, nếu không
kịp thời cải tiến chương trình, kiến thức sinh viên sau khi tốt nghiệp không đáp
ứng được yêu cầu của xã hội.
3. Về cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ dạy – học
3.1 Vai trò của cơ sở vật chất đối với hoạt động dạy – học ngành kỹ thuật – công
nghệ
- Cơ sở vật chất nói chung được hiểu là khuôn viên, phòng học, phòng làm việc, tài
liệu, giáo trình, máy tính, đường truyền, trang thiết bị phục vụ học tập các môn thí
nghiệm, thực hành…
- Cơ sở vật chất là một nguồn lực quan trọng, mang tính hỗ trợ và phục vụ cho quá
trình đào tạo. Đặc biệt, trong việc đào tạo nhóm ngành kỹ thuật – công nghệ, vấn
đề cơ sở vật chất đóng vai trò có thể nói là quyết định đến năng lực, trình độ tay
nghề của sinh viên, góp phần đào tạo sinh viên có tính thực tiễn cao, sẵn sàng hội
Tr. 18/27


nhập và làm việc, nhanh chóng tiếp cận và đáp ứng yêu cầu của đơn vị sử dụng lao
động.
- Tài liệu, giáo trình, thư viện (kể cả thư viện – tài liệu điện tử) là công cụ để tiếp
cận tri thức. Nguồn tri thức này nếu được cập nhật, bổ sung kịp thời sẽ giúp hoạt
động giảng dạy hiệu quả hơn.
- Trang thiết bị là phương tiện giúp cho giáo viên giảng dạy, giúp sinh viên lĩnh hội
kiến thức dễ dàng hơn.
- Trong số các ngành kỹ thuật – công nghệ, ngành Công nghệ thông tin (Khoa học
máy tính) có thể là chỉ cần hệ thống máy tính, đường truyền tốt là cơ bản đáp ứng
yêu cầu dạy – học – nghiên cứu. Cũng trong nhóm ngành công nghệ thông tin,
ngành Kỹ thuật máy tính thì cần nhiều hơn đến các thiết bị phần cứng, vi mạch, hệ
thống điều khiển… Trong đào tạo ngành Công nghệ kỹ thuật Cơ khí, tất yếu phải
có các máy móc thiết bị về tiện, phay, bào, hàn, các thiết bị cơ khí, máy CNC…

Trong đào tạo ngành Công nghệ kỹ thuật Điện – Điện tử sẽ phải trang bị hệ thống
động cơ điện, thiết bị điện, hệ thống cung cấp điện, chiếu sáng, truyền động
điện…
- Trong một cơ sở đào tạo nhóm ngành kỹ thuật công nghệ, cho dù có đội ngũ giảng
viên tốt, chất lượng sinh viên đầu vào cao, sử dụng chương trình đào tạo tiên tiến,
chính sách hỗ trợ sinh viên tốt… nhưng nếu trang thiết bị máy móc không đủ hoặc
không đạt yêu cầu thì chắc chắn sinh viên sau khi tốt nghiệp sẽ không đáp ứng
được yêu cầu của doanh nghiệp, hoặc là sẽ phải mất nhiều thời gian để tiếp cận và
hội nhập
3.2 Thực trạng:
3.2.1 Điểm mạnh
- Một số trường đại học có uy tín, truyền thống lâu đời về đào tạo ngành kỹ thuật –
công nghệ, những trường có điều kiện về tài chính… thường có hệ thống máy
móc trang thiết bị đáp ứng được yêu cầu giảng dạy và nghiên cứu.
- Có nhiều dự án quốc tế, trong nước đã đầu tư nhiều phòng thí nghiệm, phòng
nghiên cứu chất lượng cao, giúp cho giảng viên và sinh viên làm tốt công tác dạy –
học và nghiên cứu khoa học. Ví dụ tại Đại học Quốc gia TP.HCM có phòng thí
nghiệm nano; Trường Đại học Bách Khoa có phòng thí nghiệm trọng điểm thuộc
nhiều chuyên ngành như tự động điều khiển, vật liệu mới.
- Chính sách vĩ mô đã tạo điều kiện cho các trường về đất đai, xây dựng công trình
nhà xưởng. Một số trường sẽ dần dần chuyển địa điểm về khu vực ngoại thành để
có điều kiện về khuôn viên, đảm bảo diện tích khuôn viên – mặt sàn tính trên đầu
sinh viên… Ví dụ, tất cả các trường thành viên Đại Đại học Quốc gia TP.HCM dù
cho có mặt bằng, cơ sở vật chất rất tốt tại khu vực nội thành (Trường ĐH Bách
Tr. 19/27


Khoa, Trường ĐH Khoa học tự nhiên…) nhưng đã và đang chuyển dần quá trình
đào tạo tại cơ sở 2 – tại khu vực Khu đô thị Đại học Quốc gia TP.HCM.
- Có nhiều chương trình đào tạo tiên tiến, nhiều dự án và kèm theo là hệ thống trang

thiết bị đạt chuẩn.
- Một số trường đã xây dựng và đẩy mạnh họat động của thư viện và tài liệu điện tử,
tạo sự nhanh chóng, tiện lợi cho người học và người dạy.
- Một số trường đã phối hợp với doanh nghiệp hỗ trợ, tài trợ máy móc phục vụ học
tập.
3.2.2 Điểm yếu
- Một số cơ sở đào tạo lớn, tuy được trang bị trang thiết bị, máy móc phục vụ giảng
dạy – học tập nhưng phần lớn là đã lạc hậu, lỗi thời với sự phát triển nhanh chóng
của khoa học - kỹ thuật – công nghệ.
- Nhiều trường “ngại” đào tạo ngành kỹ thuật – công nghệ vì bắt buộc phải mất
nhiều chi phí mua sắm trang thiết bị, máy móc phục vụ học tập.
- Một số trường thuê mướn địa điểm, sinh viên phải học phân tán tại nhiều cơ sở,
thậm chí thuê mướn luôn cả hệ thống phòng thí nghiệm – thực hành.
3.2.3 Cơ hội:
- Chính sách xã hội hóa trong giáo dục tạo thuận lợi để huy động nguồn tài chính,
chủ động đầu tư, mua sắm trang thiết bị phục vụ đào tạo.
- Hợp tác quốc tế trong nghiên cứu và đào tạo, hợp đồng nghiên cứukhoa học,
chuyển giao công nghệ với doanh nghiệp.
3.2.4 Thách thức:
- Nền kinh tế đất nước nói riêng và toàn thế giới nói chung đang gặp nhiều khó
khăn, do đó có những cắt giảm đáng kể chi cho đầu tư công
- Khoa học – kỹ thuật – công nghệ phát triển nhanh chóng đòi hỏi nhà trường và
ngành phải cập nhật, cải tiến, đầu tư mới.
4. Thực trạng về khả năng làm việc và khả năng đáp ứng yêu cầu công việc của
nguồn nhân lực trình độ ĐH – CĐ
Nếu xem nguồn nhân lực của cơ sở đào tạo là hàng hóa và xem Doanh nghiệp là
người tiêu dùng, thì khi người tiêu dùng không chấp nhận sử dụng hàng hóa ấy, có nghĩa
là cơ sở đào tạo chưa đạt được mục tiêu và chưa hoàn thành sứ mạng. Vấn đề đào tạo
nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu xã hội trở thành một yêu cầu cấp bách đối với hoạt động
giáo dục và đào tạo nói chung và đối với các cơ sở đào tạo nói riêng.

Theo khảo sát gần đây của Hội Sinh viên Việt Nam, có gần 50% HS-SV ra trường
không tìm được việc theo đúng chuyên môn đã được đào tạo; Theo kết quả điều tra của
Cục thống kê năm 2010, tỉ lệ lao động có chuyên môn bị thất nghiệp lên đến 6,1%; Theo
khảo sát của dự án giáo dục đại học và việc làm cho Sinh viên sau tốt nghiệp, chỉ có 30%
Tr. 20/27


đáp ứng nhu cầu nhà tuyển dụng, 45-62% sinh viên tìm được việc làm sau khi tốt nghiệp
nhưng chỉ có 30% làm đúng ngành nghề đào tạo; Theo kết quả điều tra của tổ chức Jica –
Nhật Bản – liên quan tới các Doanh nghiệp chế tạo liên kết với Nhật Bản thì tình trạng
thiếu hụt lao động có kỹ năng tại Việt Nam là nghiêm trọng và cao hơn các nước trong
khu vực.
Từ kết quả trên có thể đưa ra nhận định rằng, chất lượng nguồn nhân lực không
đáp ứng được nhu cầu của thị trường lao động, bởi: Tỉ lệ HSSV tốt nghiệp có việc làm
đúng ngành nghề còn thấp; Tỉ lệ thất nghiệp của lao động đã qua đào tạo ở mức cao; Thị
trường lao động chất lượng cao đang bị thiếu hụt… Thực trạng này đang tạo ra một sự
lãng phí lớn về nguồn lực đào tạo của cả xã hội, gia đình và chính cá nhân người học.
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng sinh viên sau khi tốt nghiệp không
làm được việc, và đóng vai trò nhiều nhất đến chất lượng đầu ra chính là việc đảm bảo
chất lượng trong quá trình đào tạo. Để cải thiện tình trạng trên đòi hỏi cần phải có sự
chung tay và đồng bộ từ nhà nước, nhà trường, doanh nghiệp và cả chính bản thân của
sinh viên.

Tr. 21/27


IV.MỘT SỐ GIẢI PHÁP
Từ việc phân tích thực trạng theo thuyết SWOT về chất lượng đào tạo, thông qua
các yếu tố về đội ngũ, chương trình đào tạo, cơ sở vật chất, nhóm thực hiện đề xuất một
số giải pháp – dưới hiểu biết của người giảng viên nhằm nâng cao chất lượng đào tạo,

trong đó chú trọng đến năng lực thực tiễn của sinh viên sau khi tốt nghiệp.
1. Giải pháp cấp vĩ mô (nhà nước, ngành…)
1.1 Bộ giáo dục và đào tạo, phối hợi với Bộ lao động thương binh – xã hội, cùng với các
cơ quan chức năng phụ trách công tác dự báo nhu cầu nguồn nhân lực để xây dựng
chỉ tiêu đào tạo cho các trường ĐH – CĐ. Đặc biệt chú ý đến cơ cấu đào tạo nhóm
ngành kỹ thuật – công nghệ, dần dần trùng khớp giữa cung và cầu về nhân lực.
1.2 Khi xác định và cấp chỉ tiêu cho các trường, Bộ cần thẩm tra chặt chẽ, nghiêm túc
về nguồn lực đào tạo nhóm ngành kỹ thuật – công nghệ.
1.3 Xây dựng cơ chế phối hợp (bắt buộc) giữa nhà trường và doanh nghiệp trong hoạt
động đào tạo.
1.4 Nhà nước cấp trung ương và địa phương cần có một số cơ chế, chính sách đặc thù
cho đào tạo nguồn nhân lực nhóm ngành kỹ thuật – công nghệ, như:
- Đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị;
- Chính sách ưu tiên, khuyến khích cho đội ngũ giảng viên; Giải pháp thu hút, tạo
nguồn giảng viên; Giải pháp tuyển chọn giảng viên; chính sách đãi ngộ, đào tạo,
bồi dưỡng…
2. Giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo thông qua hoạt động hợp tác giữa nhà
trường và doanh nghiệp để điều chỉnh, cập nhật chương trình, nâng cao tính
thực tiễn cho giảng viên và sinh viên.
Trong thực tế về chất lượng đào tạo của các trường, năng lực và khả năng làm việc
của sinh viên không đáp ứng nhu cầu xã hội và doanh nghiệp tuyển dụng, giải pháp nâng
cao chất lượng đào tạo thông qua hoạt động hợp tác giữa nhà trường và doanh nghiệp là
nhu cầu cần thiết và cấp bách.
Mối quan hệ trong hoạt động hợp tác giữa nhà trường và doanh nghiệp là mối
quan hệ biện chứng, có cùng một đối tượng quan tâm và tác động đến, đó chính là sinh
viên – nguồn nhân lực.
Nhóm thực hiện xin đề xuất các giải pháp cụ thể để tăng cường mối quan hệ hợp
tác, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo:

Tr. 22/27



2.1 Về cơ chế
Mỗi cơ sở đào tạo nên có bộ phận chuyên trách cho mảng công việc “Hợp tác
Doanh nghiệp” để nghiên cứu, phát triển và làm đầu mối triển khai các hoạt động hợp tác
giữa nhà trường và doanh nghiệp; Xây dựng quy chế hợp tác giữa nhà trường và doanh
nghiệp, triển khai, phối hợp chặt chẽ, hiệu quả và chuyên nghiệp.
2.2 Các hoạt động doanh nghiệp tham gia đào tạo với nhà trường nhằm nâng cao
tính thực tiễn trong quá trình đào tạo
-

Nhà trường mời doanh nghiệp góp ý cho chương trình đào tạo. Trên cơ sở đó,
Khoa chuyên ngành kịp thời điều chỉnh, cập nhật và đổi mới nội dung theo hướng
tiếp cận thực tiễn và xu hướng phát triển của xã hội.
Trường xây dựng Phòng thực hành, mô phỏng nghiệp vụ tài chính, kế toán, quản
trị kinh doanh giúp HSSV quen với công việc

-

Trường mời giảng viên thỉnh giảng là lãnh đạo doanh nghiệp hoặc đang làm việc
tại doanh nghiệp để giảng dạy một phần hoặc toàn phần nội dung môn học; tham
gia hướng nghiệp, tập huấn, chia sẻ với HSSV kiến thức – kinh nghiệm thực tế về
chuyên môn và kỹ năng làm việc, tạo điều kiện cho HSSV được trải nghiệm
những bài toán thực tế, những tình huống cụ thể.

2.3 Tăng cường thực hành – thực tập tại doanh nghiệp đối với sinh viên và giảng
viên
-

-


-

Cần có sự phối hợp giữa cơ sở đào tạo và doanh nghiệp trong đó quá trình đào tạo
được tổ chức song song vừa ở cơ sở đào tạo vừa ở doanh nghiệp. Trong mỗi tuần
lễ, sinh viên được học một số ngày ở cơ sở đào tạo và một số ngày ở doanh
nghiệp. Thông thường là học lý thuyết ở cơ sở đào tạo và học thực hành ở doanh
nghiệp. Tỉ lệ số ngày học ở cơ sở đào tạo và ở doanh nghiệp phụ thuộc vào kế
hoạch, tiến độ và tổ chức quá trình đào tạo.
Đối với HSSV nếu có nhiều cơ hội học tập, làm việc tại doanh nghiệp ngay khi
còn đi học sẽ có định hướng và ý thức nghề nghiệp rõ ràng hơn, hiểu được môi
trường thực tế công việc mình sẽ làm sau khi tốt nghiệp, biết được những yêu cầu
của doanh nghiệp về chuyên môn lẫn kỹ năng làm việc, nhận thức được thiếu sót
của bản thân để có biện pháp hoàn thiện, bổ sung kiến thức, vững vàng bước vào
thị trường lao động đầy cam go và thách thức.
Đối với giảng viên, việc thâm nhập thực tế tại doanh nghiệp sẽ là một bước nâng
cao trình độ chuyên môn, giúp họ trải nghiệm, đối chiếu giữa lý thuyết và thực
Tr. 23/27


tiễn. Từ đó sẽ làm giàu hơn nội dung giảng dạy trên lớp, và HSSV cũng sẽ được
cập nhật kiến thức thực tế ngay tại giảng đường.
2.4
-

2.5

Tổ chức các hoạt động trao đổi, học tập kinh nghiệm với các doanh nghiệp
Nhà trường nên thường xuyên tổ chức đưa GV và HSSV tham quan nhà máy,
xưởng sản xuất thực tế tại các Công ty, cơ sở sản xuất.

Trường phối hợp với doanh nghiệp tổ chức một số hội thảo chuyên đề, giới thiệu
công nghệ mới, phần nào giúp sinh viên bắt kịp xu hướng phát triển của xã hội.
Trường định kỳ tổ chức hội thảo “Hợp tác giữa nhà trường và doanh nghiệp hướng
tới mục tiêu đáp ứng nhu cầu xã hội” nhằm tăng cường hoạt động hợp tác giữa nhà
trường và doanh nghiệp, kịp thời nắm bắt những yêu cầu, đòi hỏi từ phía doanh
nghiệp cũng như khả năng đáp ứng công việc của HSSV.
Vận động sự hỗ trợ doanh nghiệp

Ngoài những hỗ trợ trực tiếp cho người học và giảng viên trong việc tiếp cận kiến
thức thực tiễn, nhà trường cũng nên vận động sự hỗ trợ, tài trợ về cơ sở vật chất, máy
móc phục vụ việc học tập tại trường.
2.6

Thành lập các xưởng sản xuất tại trường

Đây là mô hình đưa doanh nghiệp vào nhà trường. Tại đây, giảng viên và sinh
viên có cơ hội thực hành, gia công các sản phẩm thực tế theo yêu cầu. Qua đó sẽ nâng
cao tính thực tiễn cho giảng viên và nâng cao tay nghề cho HSSV.
2.7
-

-

Duy trì mối liên lạc và đẩy mạnh hoạt động Cựu HSSV
Nhằm tạo thuận lợi để thực hiện công tác khảo sát, phản hồi của cựu sinh viên về
tình hình việc làm sau khi tốt nghiệp. Qua kết quả khảo sát về tình hình việc làm
của cựu sinh viên sau tốt nghiệp, nhà trường sẽ có biện pháp hỗ trợ, cung cấp
thông tin và giới thiệu việc làm và xây dựng chuỗi các hoạt động nhằm tư vấn, bồi
dưỡng kỹ năng nghề nghiệp cho HSSV ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường,
giúp các em tự tin hội nhập môi trường, văn hóa doanh nghiệp.

Trường nên định kỳ tổ chức gặp gỡ tọa đàm với cựu sinh viên. Qua đó, nhà trường
được lắng nghe các ý kiến góp ý của Cựu sinh viên về chương trình đào tạo, về
khả năng đáp ứng yêu cầu công việc, từ đó sẽ có những điều chỉnh kịp thời nhằm
góp phần nâng cao chất lượng và đưa công tác đào tạo tiến gần hơn với thực tiễn.

Tr. 24/27


2.8
Điều chỉnh, cập nhật chương trình đào tạo, đánh giá chất lượng đào tạo
thông qua hoạt động khảo sát tình hình việc làm của HS-SV sau khi tốt nghiệp
Kết quả khảo sát sẽ góp phần cho Nhà trường nghiêm túc và trung thực nhìn nhận
và đánh giá về chất lượng đào tạo của chính mình.
3. Một số giải pháp chiến lược của nhà trường
Nếu ở cấp nhà nước, cấp ngành có những chiến lược vĩ mô, thì tại mỗi nhà trường cũng
cần có cơ chế, chính sách riêng biệt. Các giải pháp cần phải thực hiện đồng bộ với sự
quyết tâm cao và thống nhất chung trong toàn trường.
3.1 Về đội ngũ:
- Có cơ chế khuyến khích giảng viên học tập nâng cao trình độ; tăng cường hoạt
động giao lưu, học tập và làm việc tại doanh nghiệp.
- Xây dựng chuẩn giảng viên, có chú trọng đến năng lực nghiên cứu, thực hành.
- Tổ chức hoặc tạo điều kiện cho giảng viên tham gia các khóa bồi dưỡng, nghiệp
vụ, các buổi hội thảo chuyên đề.
- Cơ chế khuyến khích (bắt buộc) giảng viên tham gia nghiên cứu khoa học, chuyển
giao công nghệ.
- Tăng cường mời chuyên gia, đại diện doanh nghiệp về giảng dạy.
3.2 Về xây dựng và vận hành chương trình đào tạo
- Hoàn chỉnh quy chế đào tạo theo học chế tín chỉ - áp dụng theo điều kiện thực tế
của từng trường.
- Tăng cường tính liên thông giữa các chương trình theo chiều ngang (cùng cấp,

khác ngành – khác trường) và theo chiều dọc (cùng ngành – khác bậc đào tạo).
- Hoàn thiện các quy định, quy trình tại đơn vị liên quan đến hoạt động đào tạo,
kiểm tra đánh giá.
- Vận dụng quy trình và cách thức xây dựng chương trình đào tạo theo các tiêu
chuẩn tiên tiến, hiện đại. Đối với ngành kỹ thuật – công nghệ có thể tham khảo
chương trình CDIO. Trong đó, chú ý đến năng lực thực hành, nghiên cứu của sinh
viên bằng cách tích hợp các nội dung vào chương trình đào tạo
- Tìm hiểu, học tập và vận dụng và chuyển giao các chương trình đào tạo tiên tiến.
- Tăng cường hợp tác quốc tế trong giáo dục
- Cập nhật thường xuyên và kịp thời chương trình đào tạo trên cơ sở lấy ý kiến của
doanh nghiệp và cựu sinh viên.
3.3 Giải pháp về đảm bảo cơ sở vật chất:
- Có chính sách ưu tiên đầu tư mới cơ sở vật chất cho nhóm ngành kỹ thuật – công
nghệ.
- Tăng cường tìm kiếm, tranh thủ nguồn đầu tư từ các dự án quốc tế và trong nước.
- Vận động nguồn tài trợ của xã hội, doanh nghiệp để trang bị cơ sở vật chất, trang
tiết bị.
Tr. 25/27


×