Tải bản đầy đủ (.docx) (55 trang)

Phương pháp kiểm tra tạp chất tinh bột, CMC trong tôm bằng test nhanh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.58 MB, 55 trang )

BỘ CÔNG THƯƠNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP THỰC PHẨM TP.HCM
KHOA THỦY SẢN

Môn: Kiểm tra và đánh giá chất lượng sản phẩm thủy sản

Đề tài: Phương pháp kiểm tra tạp chất tinh bột, CMC
trong tôm bằng test nhanh
GVHD: Trần Quốc Đảm
NHÓM 4 (thứ 5, tiết 7-9, phòng B406)
Nguyễn Vũ Hảo

2006140086

Nguyễn Công Khoa

2023140397

Nguyễn Duy Lợi

2006140170

Trần Trung Nhân

2006140222

Võ Thị Thu

2006140329

Vũ Quang Vinh



2006140404

Hồ Đặng Tuấn Vũ

2006140405


BẢNG PHÂN CÔNG CÔNG VIỆC
STT

Tên

MSSV

Công việc

1

Nguyễn Duy Lợi

206140170

Tổng hợp Word, PP, thuyết
trình

2

Trần Trung Nhân


2006140222

Phương pháp kiểm tra tinh
bột bằng test nhanh

3

Nguyễn Vũ Hảo

2006140086

Phương pháp kiểm tra tinh
bột bằng test nhanh

4

Vũ Quang Vinh

2006140404

Hóa chất, kết luận, clip,
nguyên liệu

5

Võ Thị Thu

2006140329

Tổng quan


6

Nguyễn Công
Khoa

2023140397

Phương pháp kiểm tra CMC
bằng test nhanh

7

Hồ Đặng Tuấn


2006140405

Phương pháp kiểm tra CMC
bằng test nhanh

7

Cả nhóm

Đánh giá
Thảo luận, phân công nhiệm
vụ, in bài

MỤC LỤC


Phân loại



MỞ ĐẦU

Trong những năm gần đây, xuất khẩu thủy sản luôn nằm trong những ngành có kim
ngạch xuất khẩu cao của Việt Nam do nguồn nguyên liệu dồi dào từ các hoạt động đánh
bắt và nuôi trồng. Trong đó đồng bằng sông Cửu Long là vùng có điều kiện tự nhiên
thuận lợi cho việc nuôi trồng thủy sản; đặc biệt là tôm. Hiện nay, nghề nuôi tôm đang
được phát triển tại các tỉnh ven biển miền tây như: Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Trà
Vinh… với sản lượng ngày càng lớn và giá trị xuất khẩu ngày càng cao.. Bên cạnh đó, do
yêu cầu khắt khe của thị trường nhập khẩu đòi hỏi các mặt hàng phải có chất lượng cao
và an toàn thực phẩm; do đó để đứng vững trên thị trường bắt buộc các nhà sản xuất phải
nâng cao chất lượng sản phẩm. Để sản phẩm đạt chất lượng cao đòi hỏi phải kết hợp
nhiều yếu tố từ nguyên liệu đầu vào, kỹ thuật sản xuất, đến những thiết bị hiện đại cần
thiết cho quá trình chế biến ra sản phẩm
Trong nghiên cứu điều tra cho thấy có rất nhiều loại hóa chất và chế phẩm sinh học
được sử dụng trong việc xử lý môi trường, ao nuôi, điều trị và phòng ngừa khi dịch bệnh
xảy ra trên tôm nuôi ở các trang trại tại Mỹ Thanh, Sóc trăng. Nhiều loại hóa chất được
sử dụng rất nhiều và thường xuyên trong ao nuôi đó là các loại vôi, và khoáng nhằm duy
trì ổn định pH và độ kiềm. Kết quả điều tra này cho thấy, hầu hết ở tất cả các trang trại
nuôi trong vùng đều không có ao lắng, ao xử lý nước thải. Bên cạnh đó, việc xử lý ao và
môi trường nước đều sử dụng thuốc diệt giáp xác để diệt giáp xác và thực hiện trong ao
nuôi mà không có xử lý trong ao lắng trước khi cho vào ao nuôi. Hệ quả của việc này là
tồn lưu một lượng lớn thuốc diệt giáp xác có gốc Cypermtherin trong ao với hàm lượng
thấp nhất là 31,49 ppb và cao nhất là 603,5 ppb dẫn đến tôm nuôi trong ao bị nhiễm độc
và chết. Đối với các ao nhiễm hàm lượng lớn thuốc diệt giáp xác hầu như không thu
hoạch được, với hàm lượng thấp hơn thì sản lượng có thể thu hoạch rất thấp

Bài tiểu luận sẽ trình bày phương pháp xác định 2 tạp chất trong tôm phương pháp
test nhanh. Bài tiểu luận còn mang tính sơ khai, mang tính tìm hiểu khái quát chung,
nhóm tha thiết mong sự đóng góp từ thầy và các bạn để đề tài được hoàn chỉnh và hoàn
thiện hơn.
Nhóm tác giả

Nhóm 4

4


CHƯƠNG I: TỔNG QUAN
1. Các khái niệm.
Tạp chất: là những chất rắn, lỏng không phải là thành phần tự nhiên của bản thân tôm,
được con người cố tình đưa vào để làm tăng khối lượng, tăng kích cỡ, làm thay đổi kết
cấu, lừa dối cảm giác về độ tươi nhằm mục đích gian dối kinh tế.
Đánh giá cảm quan: là việc sử dụng giác quan (nhìn, ngửi, nếm, sờ nắn và nghe) để
xét đoán, đánh giá những tiêu chí liên quan đến chất lượng.
Lô tôm nguyên liệu: là một lượng tôm cùng chủng loại, cùng một chủ sở hữu, vận
chuyển trên cùng một phương tiện, được tập kết hoặc giao nhận cùng một thời gian và
địa điểm.
Mẻ hàng: là lượng tôm nguyên liệu được chứa trong một dụng cụ chứa, có cùng điều
kiện bảo quản.
Lấy mẫu có chọn lựa: là việc lấy mẫu đại diện trong những mẻ hàng có dấu hiệu nghi
ngờ cao nhất. [2]
2. Sơ lược về tinh bột, CMC.
2.1. Tinh bột
Tinh bột tiếng Hy Lạp là amidon công thức hóa học: (C6H10O5)n) là một
polysacarit carbohydrate chứa hỗn hợp amyloza và amylopectin, tỷ lệ phần trăm amilose
và amilopectin thay đổi tùy thuộc vào từng loại tinh bột, tỷ lệ này thường từ 20:80 đến

30:70. Tinh bột có nguồn gốc từ các loại cây khác nhau có tính chất vật lý và thành phần
hóa học khác nhau. Chúng đều là các polymer carbohydrat phức tạp của glucose (công
thức phân tử là C6H12O6). Tinh bột, cùng với protein và chất béo là một thành phần
quan trọng bậc nhất trong chế độ dinh dưỡng của loài người cũng như nhiều loài động vật
khác. Ngoài sử dụng làm thực phẩm ra, tinh bột còn được dùng trong công nghiệp sản
xuất giấy, rượu, băng bó xương. Tinh bột được tách ra từ hạt như ngô và lúa mì, từ rễ và
củ như sắn, khoai tây, dong là những loại tinh bột chính dùng trong công nghiệp. Thuốc
thử tinh bột là iốt. Khi gặp iốt, tinh bột sẽ cho màu xanh dương.

Nhóm 4

5


Hồ tinh bột
Cơ chế tác dụng
Dung dịch hồ tinh bột khi gặp dung dịch Iot (Iod, I2) thì tạo một phức chất có màu xanh
dương (da trời, xanh lam), khi đun nóng thì mất màu xanh, khi để nguội lại xuất hiện màu
xanh.
Nguyên nhân là dạng amylozơ của tinh bột tạo một cấu trạng (cấu dạng) hình xoắn ốc và
phân tử I2 bị giữ trong ống này tạo phức chất có màu xanh dương. Khi đun nóng thì cấu
trạng xoắn ốc bị phá hủy, do đó không còn màu xanh nữa, nhưng nếu để nguội lại tái tạo
dạng ống nên I2 lại bị nhốt trong ống này, vì thế xuất hiện màu xanh trở lại.
Do đó dung dịch hồ tinh bột là thuốc thử để nhận biết Iot và ngược lại, dung dịch Iot là
một loại thuốc thử để nhận biết tinh bột.

2.2. CMC
Phụ gia tạo đặc (làm đặc, làm dầy) CMC carboxymethyl cellulose có nguồn gốc từ
cellulose – một hợp chất hữu cơ rất phổ biến trong tự nhiên và là thành phần chính của
hầu hết thành tế bào thực vật (cell wall). Nó là nguồn nguyên liệu đầu tiên được sử dụng

để tạo ra những sản phẩm biến tính (modification) ứng dụng trong công nghiệp thực
phẩm và các ngành khác.
Phụ gia tạo đặc CMC lần đầu tiên được sản xuất vào năm 1918, bởi tập đoàn
Hercules Incorporated. Ngày nay, CMC (carboxymethyl cellulose, một dẫn xuất của
Nhóm 4

6


cellulose với acid chloroacetic) được sử dụng ngày càng rộng rãi bởi những chức năng
quan trọng của nó như: chất làm đặc, ổn định nhũ tương, chất kết dính,… CMC bán
tinh khiết và tinh khiết đều được sử dụng trong dược phẩm, mỹ phẩm, thực phẩm và chất
tẩy rửa,…
Phụ gia tạo đặc Carboxymethyl cellulose (CMC) là một polymer, là dẫn xuất
cellulose với các nhóm carboxymethyl (-CH2COOH) liên kết với một số nhóm hydroxyl
của các glucopyranose monomer tạo nên khung sườn cellulose và thường được sử dụng
dưới

dạng

muối

Natri

carboxymethyl

cellulose.

Ngoài ra CMC còn được gọi với một số tên gọi khác như Carboxymethylcellulose,
carmellose, Sodium cellulose glycolat, Na CMC, cellulose gum, mã phụ gia thực phẩm

INS là E466

Phụ gia làm đặc, làm dầy CMC - Carboxymethyl cellulose E466

Tính chất phụ gia CMC carboxymethyl cellulose:

Nhóm 4

7


Là chế phẩm ở dạng bột trắng, hơi vàng, hầu như không mùi hạt hút ẩm. CMC tan
trong cả nước nóng và nước lạnh.
CMC có khả năng tạo đông thành khối vững chắc với độ ẩm rất cao (98%). Độ
chắc và tốc độ tạo đông phụ thuộc vào nồng độ CMC, độ nhớt của dung dịch và lượng
nhóm acetat thêm vào để tạo đông. Nồng độ tối thiểu để CMC tạo đông là 0.2% và của
nhóm acetat là 7% so với CMC.
CMC không tan trong dung môi hữu cơ như ethanol, glycerol,… nếu trong công
thức có các thành phần này phải tăng cường sự phân tán CMC trước bằng cách bổ sung
đường, fructose syrup hoặc syrup đường nghịch đảo. Dầu ăn có thể được sử dụng, mặc
dù khả năng hòa tan có thể chậm hơn vì dầu ăn tạo lớp vỏ bọc bao phủ các hạt CMC.
3. Sơ lược về nguyên liệu tôm
3.1.

Tình hình xuất nhập khẩu tôm hiện nay
3.1.1. Xuất khẩu

VASEP cho biết, kim ngạch xuất khẩu tôm quý II/2016 của Việt Nam đạt 732,3
triệu USD, tăng 2,3% so với cùng kỳ năm ngoái. Kim ngạch xuất khẩu tôm trong 6 tháng
đầu năm nay đạt 1,4 tỷ USD, tăng 4,8% so với cùng kỳ năm 2015. Top 10 thị trường nhập

khẩu chính tôm của Việt Nam gồm: Mỹ, EU, Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, Canada,
Australia, ASEAN, Đài Loan và Thụy Sĩ. Các thị trường này chiếm 95% tổng xuất khẩu
tôm của cả nước. Trong đó, duy nhất thị trường Nhật Bản giảm 8,8%, còn lại các thị
trường khác đều tăng.
Tình hình xuất khẩu tôm tăng những tháng đầu năm nay là nhờ nhu cầu từ các thị
trường chính hồi phục và lượng tồn kho giảm, tỷ giá tiền tệ ổn định hơn; giá tôm thế giới
và giá tôm xuất khẩu có xu hướng tăng. Tuy nhiên, năm 2016, ảnh hưởng của El Nino
vẫn tiếp diễn gây nắng nóng và hạn hán ở nhiều nơi, sản lượng tôm nuôi trên thế giới vì
thế sẽ ở mức hạn chế. Giá tôm thế giới có xu hướng tăng khoảng 10 - 15% sau khi giảm
mạnh trong năm 2015. Từ nay đến cuối năm, dự báo xuất khẩu tôm có thể duy trì mức ổn
định, kim ngạch xuất khẩu tôm năm nay có thể đạt mức 3 tỷ USD.

Nhóm 4

8


3.1.2. Nhập khẩu
Theo VASEP, năm 2015 nhập khẩu tôm đạt 426 triệu USD, chiếm 40% tổng kim
ngạch nhập khẩu thủy sản năm 2015. Trong đó Ấn Độ – quốc gia có giá xuất khẩu tôm rẻ
hơn Việt Nam, có lúc chênh lệch đến 2 USD/kg đã trở thành nguồn cung tôm lớn nhất
của Việt Nam và chiếm đến 74,7% tổng nhập khẩu tôm của cả nước trong năm 2015.
Trong năm 2016, Việt Nam sẽ có cơ hội tăng xuất khẩu tôm sang một số thị trường chủ
lực nhờ tận dụng các hiệp định thương mại tự do đã được ký kết. Vì vậy, nhu cầu nhập
khẩu tôm năm 2016 của Việt Nam sẽ lên khoảng 470 triệu USD, tăng 10% so với năm
2015.
3.2. Đặc điểm
3.2.1. Môi trường sống của tôm
Chủ yếu sống ở vùng nước lợ, cửa sông, ven biển, sống ở đáy nơi có bùn cát, sống vùi
mình.

Nhiệt độ thích hợp: 25-30oC.
Độ mặn: 0- 40‰ (thích hợp nhất là 15- 25‰), nhu cầu về độ mặn thay đổi tuỳ theo từng
loại tôm và thời điểm trong chu trình sinh sống của mỗi loại; lúc còn nhỏ tôm dễ bị ảnh
hưởng bởi sự thay đổi độ mặn một cách đột ngột hơn là lúc tôm đã lớn. Tôm sú có thể
chịu được sự biến thiên của độ mặn từ 3-45 0/00, nhưng độ mặn lý tưởng cho tôm sú là 18200/00.
PH thích hợp: 7,2- 8,8.
Oxy: đây là yếu tố quan trọng nhất cần đặc biệt chú trọng trong kỹ nghệ nuôi tôm. Lượng
dưỡng khí thấp trong ao dễ gây cho tôm chết nhiều hơn cả. So với lượng oxy trong không
khí là 200.000ppm, (1ppm = 1 phần triệu) thì số oxy hoà tan trong nước rất ít, nhưng ta
chỉ cần 5ppm oxygen trong nước là đủ cho tôm hô hấp một cách an toàn.
DO là 5mg/lit.

Nhóm 4

9


Độ cứng của nước: nước trong ao hồ có độ cứng 20-150 ppm thì thích hợp cho việc nuôi
tôm cá. Nhưng nước có độ cứng cao quá (trên 300 ppm) sẽ làm giảm sự thay vỏ và mức
tăng trưởng của tôm càng xanh.
3.2.2. Thành phần hóa học của tôm
-

Protein: 19-23 %
Lipid: 0,3-1,4 %
Glucid: 2%
Tro: 1,3-1,8 %
Canxi: 29-30 %
Phosphat: 33-67 %
Fe: 1,2-5,1 %


LOÀI TÔM

THÂN
(%)

TÔM THỊT
(%)

TÔM ĐẦU
(%)

TÔM VỎ TÔM
(%)

He

61,19

52,05

29,80

10,00

Thẻ

52,95

51,62


28,00

9,00



61,96

52,84

31,40

8,90

Rằn

58,23

48,60

33,90

10,40

Gân

59,30

41,45


33,14

11,27

Chì

57,71

47,43

31,85

11,07

Bộp

60,32

49,02

31,55

12,15

Rão

58,68

46,94


33,20

12,20

Nghệ

60,25

48,04

31,75

13,07

Sắt

50,47

39,15

42,38

11,62

Càng

40,22

31,61


51,95

8,56

Hùm

28,07

22,20

63,40

5,50

Mũ ni

41,52

30,77

52,02

12,57

3.2.3. Phân loại, phân bố, chu trình sống của tôm
 Phân loại
Tôm sú (Tên tiếng Anh: Giant/Black Tiger Prawn) được phân loại như sau:
– Ngành: Arthropoda
– Lớp: Crustacea

Nhóm 4

10


– Bộ: Decapoda
– Họ chung: Penaeidea
– Họ: Penaeus Fabricius
– Giống: Penaeus
– Loài: Monodon
– Tên khoa học: Penaeus monodon Fabricius
 Cấu tạo

Nhìn từ bên ngoài, tôm gồm các bộ phận sau:
+ Chủy: dạng như lưỡi kiếm, cứng, có răng cưa. Với tôm sú, phía trên chủy có 7 – 8 răng
và dưới chủy có 3 răng.
+ Mũi khứu giác và râu: cơ quan nhận biết và giữ thăng bằng cho tôm
+ 3 cặp chân hàm: lấy thức ăn và bơi lội
+ 5 cặp chân ngực: lấy thức ăn và bò
+ Cặp chân bụng: bơi
+ Đuôi: có 1 cặp chân đuôi để tôm có thể nhảy xa, điều chỉnh bơi lên cao hay xuống thấp.
+ Bộ phận sinh dục (nằm dưới bụng)
Tôm sú thuộc loại dị hình phái tính, con cái có kích thước to hơn con đực. Khi tôm
trưởng thành phân biệt rõ đực cái, thông qua cơ quan sinh dục phụ bên ngoài.
Con đực: cơ quan sinh dục chính của con đực nằm ở phía trong phần đầu ngực, bên ngoài
có cơ quan giao phối phụ nằm ở nhánh ngoài đôi chân ngực thứ 2, lỗ sinh dục đực mở ra
hốc háng đôi chân ngực thứ 5. Tinh trùng thuộc dạng chứa trong túi.
Con cái: Buồng trứng nằm dọc theo mặt lưng phía trên, hai ống dẫn trứng mở ra ở khớp

Nhóm 4


11


háng đôi chân ngực thứ 3. Bộ phận chứa túi tinh gồm 2 tấm phồng lên ở đôi chân ngực
thứ 4 và thứ 5 dưới bụng tôm.
 Phân bố
Phạm vi phân bố của tôm sú khá rộng, từ ấn Độ Dương qua hướng Nhật Bản, Đài Loan,
phía Đông Tahiti, phía Nam châu Úc và phía Tây châu Phi (Racek – 1955, Holthuis và
Rosa – 1965, Motoh – 1981, 1985) Nhìn chung, tôm sú phân bố từ kinh độ 30E đến 155E
từ vĩ độ 35N tới 35S xung quanh các nước vùng xích đạo, đặc biệt là Indonesia, Malaixia,
Philippines và Việt Nam.
Tôm bột (PL.), tôm giống (Juvenile) và tôm gần trưởng thành có tập tính sống gần bờ
biển và rừng ngập mặn ven bờ. Khi tôm trưởng thánh di chuyển xa bờ vì chúng thích
sống vùng nước sâu hơn.
 Chu kì sống của tôm sú
Các giai đoạn phát triển ấu trùng tôm sú :
– Nauplli: 6 giai đoạn: 36 – 51 giờ, các Nauplli bơi từng đoạn ngắn rồi nghỉ, lột vỏ
4 lần, mỗi lần khoảng 7 giờ, tự sống bằng noãn hoàng, không cần cho ăn
+ N1: dài khoảng 0,4 mm, dày 0,2 mm
+ N2: dài khoảng 0,45 mm, dày 0,2 mm
+ N3: dài khoảng 0,49 mm, dày 0,2 mm
+ N4: dài khoảng 0,55 mm, dày 0,2 mm
+ N5: dài khoảng 0,61 mm, dày 0,2 mm
– Zoea: 3 giai đoạn: 105 – 120 giờ, các Zoea bơi liên tục gần mặt nước, lột vỏ 2
lần, mỗi lần khoảng 36 giờ, ăn thực vất phiêu sinh.
+ Z1: dài khoảng 1 mm, dày 0,45 mm, xuất hiện hai phần dầu và bụng rõ rệt.
+ Z2: dài khoảng 1,9 mm, xuất hiện mặt và chủy.
+ Z3: dài khoảng 2,7 mm, xuất hiện gai trên bụng.
– Mysis: 3 giai đoạn: 72 giờ, các Mysis bơi hướng xuống sâu, đuôi đi trước, đầu đi sau.

+ M1: dài khoảng 3.4mm, có hình dạng của tôm trưởng thành, xuất hiện các cặp chân
bụng, đuôi và quạt đuôi, các gai bụng thu nhỏ lại.
+ M2: dài khoảng 4 mm.
Nhóm 4

12


+ M3: dài khoảng 4,4 mm, chân bụng dài hơn, phân thành đốt nhỏ, xuất hiện răng trên
chủy.
– Postlarvae: giai đoạn gần trưởng thành
– Juvenile: giai đoạn trưởng thành.
Tuổi thành thục: tuổi thành thục sinh dục của tôm đực và tôm cái từ tháng thứ 8 trở đi.
Xác định sự thành thục của tôm cái dễ hơn, chỉ cần quan sát có túi tinh ở cơ quan sinh
dục phụ. Phương pháp xác định thành thục ở con đực khó hơn, chỉ khi nào tìm thấy được
tinh trùng ở cuối ống dẫn tinh. Thường dựa vào trọng lượng để xác định khi con đực nặng
từ

50g

trở

lên.

+ Hormone điều khiển sự thành thục sinh dục (GIH, gonal inhibiting hormone) được sản
xuất bởi tế bào thần kinh trong cơ quan X của cuống mắt, vận chuyển tới tuyến giáp
sinap đưa vào kho dự trữ và khi cần thì tiết ra. Sự thành thục sinh dục của tôm sú thông
qua tác động của tuyến nội tiết, khi cắt mắt tức là thúc đẩy chu kỳ lộ xác, đem lại sự
thành


thục

mau

chóng

hơn.

+ Số lượng trứng đẻ của tôm cái: nhiều hay ít là phụ thuộc vào chất lượng buồng trứng và
trọng lượng cá thể: trọng lượng lớn cho trứng nhiều hơn. Khi con cái thành thục ngoài tự
nhiên có trọng lượng từ 100-300g cho 300.000 -1.200.000 trứng. Nếu cắt mắt nuôi vỗ
trong bể xi măng, thành thục và đẻ, cho số lượng trứng từ 200.000- 600.000 trứng.
+ Tôm cái đẻ trứng vào ban đêm (thường từ 22 giờ đến 2 giờ) trứng sau khi đẻ được 1415 giờ, ở nhiệt độ 27-28 độ C sẽ nở thành ấu trùng (Nauplii). Tôm sú đẻ quanh năm,
nhưng tập trung vào hai thời kỳ chính: tháng 3-4 và tháng 7-10.
– Tuổi thọ tôm sú con đực khoảng 1,5 năm, con cái chừng 2 năm.
Có hai đặc điểm cần chú ý trong vòng đời Tôm sú.
+ Tăng trưởng từ hậu ấu trùng đến lúc trưởng thành xảy ra vùng cửa sông (đặc trưng bởi
vùng nước lợ).
+ Sự chín sinh dục, kết cặp, đẻ trứng và sự phát triển ấu trùng đều xảy ra ở ngoài khơi nơi

Nhóm 4

13


có nồng độ muối giao động từ 28 – 32‰ và ổn định.

 Sinh sản
Tôm chân trắng thành thục sớm, con cái có khối lượng từ 30 - 45 g/con là có thể tham gia
sinh sản. Ở khu vực tự nhiên có tôm chân trắng phân bố thì quanh năm đều bắt được tôm

chân trắng. Song mùa sinh sản của tôm chân trắng ở vùng biển lại có sự khác nhau ví dụ:
ở ven biển phía Bắc Equađo tôm đẻ tử tháng 12 đến tháng 4. Lượng trứng của mỗi vụ đẻ
phụ thuộc vào cỡ tôm mẹ: Nếu tôm mẹ từ 30 - 45g thì lượng trứng từ 100.000 - 250.000
trứng, đường kính trứng 0.22mm.
Sau mỗi lần đẻ hết trứng, buồng trứng tôm lại phát triển tiếp. Thời gian giữa 2 lần đẻ cách
nhau 2 - 3 ngày. Con đẻ nhiều nhất tới 10 lần/năm. Thường sau 3 - 4 lần đẻ liên tục thì có
lần lột vỏ. Sau khi đẻ 14 - 16 giờ trứng nở ra ấu trùng Nauplius. ấu trùng Nauplius trải

Nhóm 4

14


qua 6 giai đoạn: Zoea qua 3 giai đoạn, Mysis qua 3 giai đoạn thành Postlarvae. Chiều dài
của Postlarvae tôm P.Vannamei khoảng 0,88 - 3mm.
 Tập tính
Ở vùng biển tự nhiên, tôm chân trắng thích nghi sống nơi đáy là bùn, độ sâu khoảng 72
m, có thể sống ở độ mặn trong phạm vi 5 - 50‰, thích hợp ở độ mặn nước biển 28 34‰, pH = 7,7 - 8,3, nhiệt độ thích hợp 25 - 32 oC, tuy nhiên chúng có thể sống được ở
nhiệt độ 12 - 28oC.
Tôm chân trắng là loài ăn tạp giống như những loài tôm khác. Song không đòi hỏi thức
ăn có hàm lượng đạm cao như tôm sú.
Tôm chân trắng có tốc độ sinh trưởng nhanh, chúng lớn nhanh hơn tôm sú ở tuổi thành
niên. Trong điều kiện tự nhiên từ tôm bột đến tôm cỡ 40 g/con mất khoảng thời gian 180
ngày hoặc từ 0,1 g có thể lớn tới 15 g trong giai đoạn 90 - 120 ngày. Là đối tượng nuôi
quan trọng sau tôm sú.
3.2.4. Khả năng thích nghi với điều kiện môi trường
3.2.4.1. Khả năng thích ứng với nhiệt độ.
Tôm có biên độ giao động nhiệt cao từ 14 – 35 độ C tôm có thể sống được. Nhiệt độ
thích hợp từ 28 – 30 độ C.
3.2.4.2. Độ muối

Tôm sú thích ứng rộng với độ muối từ 0.2 – 40‰, thích hợp là 15 – 32 ‰ nồng độ muối
thích ứng nhất cho các mô hình nuôi bán thâm canh và thâm canh là ở 10 – 1‰. Đối với
ấu trùng ương nuôi trong bể thích hợp nhất từ 28 – 30‰.
3.2.4.3. Độ pH
Phạm vi pH thích ứng của tôm là 7,5 – 9. Khi môi trường sống của tôm có pH = 5 tôm
chết sau 45 giờ, pH = 5,5 tôm chết sau 24 giờ. Nếu pH xuống thấp thì tôm mất khả năng
vùi mình xuống bùn, dạt vào bờ, tôm yếu ớt, màu sắc thay đổi đột ngột (tôm nhợt nhạt),
đôi khi tôm nhảy cả lên bờ. pH trong bể ương ấu trùng luôn nằm trong khoảng từ 7,5 –
8,5.

Nhóm 4

15


3.2.4.4 Các chất khí hòa tan
– Oxy: Tôm rất nhạy cảm với hàm lượng oxy hòa tan trong nước, phạm vi giới hạn từ 3 –
11mg/lít.
– CO2: Hàm lượng CO2 thích hợp là 10mg/lít.
– H2S: Hàm lượng H2S cho phép trong các ao nuôi thâm canh và bán thâm canh là
0,03mg/lít và tối ưu là bằng 0. Trong bể ương ấu trùng thì hàm lượng H2S luôn bằng 0.
3.2.4.5 Tính thích ánh sáng và hướng quang của tôm
Đặc tính của tôm là thích ánh sang yếu, mọi hoạt động như: Giao vĩ, sinh sản, bắt mồi…
đều diễn ra vào ban đêm nhất là lúc chập choạng tối và gần sáng. Tôm trưởng thành có
thể nhận biết được tầng ánh sáng 1 lux cách xa từ 20-30 m. Nhưng nếu nguồn sáng không
ổn định tôm có thể bỏ ăn. Ánh sáng trong bể ương ấu trùng không cần thiết, chủ yếu là
ánh sáng nhân tạo.
3.2.4.6. Cơ chế lột xác của tôm
Mỗi lần lột xác tôm tăng trưởng về chiều dài và trọng lượng trung bình từ 10-15% so với
trước khi lột xác. Sự lột xác của tôm do một loại hooc môn ở cuống mắt quy định. Cuống

mắt còn lại chứa các tế bào kết tủa ion Canxi và ion Photpho làm cho vỏ tôm cứng lại sau
khi lột xác được 0,5-1 giờ. Các tế bào này hoạt động được dưới tác dụng của ánh sáng
mặt trời.
3.2.4.7. Những yếu tố ảnh hưởng đến sự bắt mồi của tôm sú
- Nhiệt độ: Cường độ bắt mồi của tôm he lớn nhất từ 28 – 30 độ C, ở nhiệt độ dưới 20 độ
C hay trên 30 độ C tôm giảm bắt mồi và ở nhiệt độ dưới 15 độ C hay trên 35 độ C thì tôm
ngừng hẳn hoạt động bắt mồi.
– Ánh sáng: Tôm là loài thích ánh sáng yếu, cường độ bắt mồi của tôm lớn nhất vào
chiều tối và gần sáng, ngoài ra các hoạt động sinh sản, giao vĩ cũng diễn ra vào ban đêm.
Khi cường độ ánh sáng mạnh thì tôm giảm bắt mồi và có hiện tượng vùi mình xuống bùn.
Điều này có ý nghĩa to lớn đến hiệu quả sử dụng thức ăn trong thực tế sản xuất.

Nhóm 4

16


Đặc

điểm

sinh

sản

– Cơ quan sinh dục cái được nhận biết nhờ một cơ quan giao cấu gọi là Thelycum nằm
giữa đôi chân bò thứ 5.

– Cơ quan sinh dục đực được nhận biết dễ dàng bằng mắt thường qua cơ quan giao cấu
gọi là Petasma nằm giữa đôi chân bò thứ nhất.

Đặc điểm các giai đoạn phát triển buồng trứng của tôm
– Giai đoạn 1: Buồng trứng dạng sợi mãnh nằm trên ruột, dưới động mạch bụng kéo dài
từ tâm dạ dày đến hết đốt bụng thứ 6.
– Giai đoạn 2: Do buồng trứng phát triển tăng về thể tích và trọng lượng nên dễ dàng
phân biệt với ống tiêu hóa và động mạch bụng, kích thước trứng đạt từ 174 – 177μn. Nếu
nhìn tôm mẹ dưới ánh sáng qua lớp vỏ hoặc lưng ta thấy một đường đậm chạy dọc theo
chiều dài thân tôm.
– Giai đoạn 3: Buồng trứng trương phồng, đường kính trứng đạt kích thước trung bình
208 – 215 μn. Thể tích tăng nhiều lần so với giai đoạn 2.
– Giai đoạn 4: Là giai đoạn chín mùi sinh dục, trứng đã chuẩn bị cho quá trình chuyển
hóa vật chất sau này, đường kính trứng đạt kích thước tối đa 235 – 239 μn. Nếu đặt tôm
Nhóm 4

17


mẹ dưới nguồn sáng quan sát ta thấy có dãy trứng rộng nhất kéo dài từ tâm dạ dày đến
giữa đốt bụng thứ 6 và phình to hình tam giác ở đốt thứ nhất và thứ hai, hạt trứng có màu
xanh ngọc và phân biệt rõ ràng.
– Giai đoạn 5: Gọi là giai đoạn sau khi đẻ buồng trứng đã thải hết trứng ra ngoài nên khó
phân biệt với ống ruột.
– Khả năng đẻ trứng của tôm sú: Tôm sú tự nhiên (ở vùng biển Khánh Hòa, Cà Mau) có
thể đẻ từ 300.000 – 1.000.000 trứng. Tôm thường đẻ trứng ở các bãi xa bờ, nước xâu,
trong sạch và có độ mặn cao trên 30‰.
3.3.Thực trạng sử dụng tạp chất của tôm hiện nay
Nhiều loại hóa chất, chế phẩm sinh học được sử dụng để xử lý nền đáy, nước trong ao
nuôi tôm thâm canh và trong suốt quá trình nuôi trên các trang trại tôm nuôi ở Mỹ Thanh,
Sóc Trăng. Các chất chủ yếu là vôi các loại, thuốc diệt giáp xác, khoáng, thuốc kháng
sinh, các loại thức ăn bổ sung, vitamin và men vi sinh. Mặc dù, công dụng và hiệu quả
của chúng chưa được chứng minh có tác động tích cực đến năng xuất, sản lượng tôm

nuôi. Đa số các trang trại nuôi tôm điều không có ao xử lý nước nuôi và nước thải. Điều
tra cho thấy, tôm bệnh ở các mô hình trang trại trong vùng chủ yếu bị teo gan, nhũn gan
và chết nhiều ở giai đoạn trên dưới một tháng tuổi. Việc sử dụng các loại thuốc kháng
sinh để điều trị và phòng bệnh trong quá trình nuôi tuy có sự ngưng chết nhưng không có
hiệu quả trong trị bệnh tôm.
Nguyên nhân tôm chết trong vùng có liên quan đến sự tồn dư thuốc diệt giáp xác trong
quá trình xử lý ao nước và nền đáy ao nuôi, hơn 50 % ao kiểm tra trong nghiên cứu có
tồn lưu chất diệt giáp xác Cypermethrin dao động từ 31.5 - 603.5 ppb. 261 ĐẶT VẤN
ĐỀ Những năm gần đây diện tích nuôi tôm ở Đồng Bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) phát
triển rất mạnh về số lượng và diện tích nuôi. Đặc biệt Sóc trăng là một trong những tỉnh
đứng đầu về diện tích và qui mô nuôi tôm. Sự gia tăng nhanh chóng về qui mô cũng như
sự phát triển mạnh về diện tích dẫn đến việc sử dụng nhiều các loại hóa chất và chế phẩm
sinh học.

Nhóm 4

18


Thực tế trên cũng góp phần nguyên nhân đến những phát sinh tôm bệnh, suy thoái hệ
sinh thái ao, cũng như môi trường bên ngoài và ảnh hưởng xấu đến sức khỏe người sử
dụng. Hiện nay, nuôi tôm trong vùng đang gặp nhiều khó khăn, thử thách như ô nhiễm
môi trường, dịch bệnh và chi phí tăng cao như thức ăn, hóa chất. Bệnh cạnh đó, sự bùng
phát dịch bệnh đang tăng nhanh, ngoài diện tích thiệt hại bệnh tôm teo gan đã xảy ra, tôm
bị bệnh từng ngày tiếp tục lan rộng và tiếp tục gia tăng về diện tích nuôi. Chỉ riêng tỉnh
Sóc Trăng, tổng diện tích nuôi trồng thủy sản 4 tháng đầu năm 2011 là 24.859 ha trong đó
có 21.948 ha tôm sú thì đã có 13.702 ha tôm sú thiệt hại, chiếm 62,4% tổng diện tích thả
nuôi và là tỷ lệ bị thiệt hại lớn nhất so với cùng kỳ các năm gần đây (năm 2010 tỷ lệ thiệt
hại là 2,8%; năm 2009 là 0,7%; năm 2008 là 12,2%). Tính đến ngày 15/8/2011 diện tích
tôm nuôi bị thiệt hại 25.257 ha, chiếm 64% diện tích tôm thả nuôi. Diện tích đã khắc

phục 12.200 ha, bằng 48% diện tích thiệt hại. Hiện nay, diện tích tôm khắc phục tiếp tục
bị thiệt hại 3.636 ha, tôm chết ở giai đoạn dưới 1 tháng tuổi, tình trạng tôm chết ở tất cả
các mô hình nuôi, đều có dấu hiệu bị hoại tử gan tụy (Cổng điện tử Tỉnh Sóc Trăngwww.soctrang.gov.vn). Nhiều nghiên cứu cho thấy việc sử dụng hóa chất và các chế
phẩm sinh học được sử dụng trong các trang trại nuôi tôm ở các nước như Philipine,
Mexico, Thái Lan, Ấn Độ. Khoảng 40 loại hóa chất và chể phẩm sinh học được sử dụng
trong cải tạo, xử lý ao nuôi tôm ở thập niên 90 ở những vùng nuôi công nghiệp và bán
thâm canh ở Thái Lan.
Con số hóa chất dùng trong ao nuôi tôm không dừng ở đó mà đến năm 2000 là hơn 70
hóa chất và chế phẩm sinh học được sử dụng. Ở Mexico năm 2001 lên đến 104 hóa chất
và chế phẩm sinh học được sử dụng trong ao nuôi tôm. Năm 2002, ở Ấn độ có hơn 179
hóa chất đã sử dụng trong ao nuôi tôm (Lyle-Fritch và ctv., 2006). Như vậy, các loại hóa
chất và chế phẩm sinh học ngày càng được sử dụng nhiều trong ao nuôi. Thực tế cho
thấy, các trang trại nuôi thủy sản ở Việt nam cũng không ngoại lệ trong việc sử dụng các
loại hóa chất này. Bài viết này, nhằm cung cấp những thông tin về hiện trạng sử dụng
thuốc, hóa chất và các chế phẩm sinh học ở các trang trại nuôi tôm trong vùng và thảo
luận về các mối nguy phát sinh tôm bệnh do tác nhân sinh học hay những độc tố do xử lý
môi trường trong quá trình gây ra. Cũng như hiểu rõ cách quản lý ao nuôi và xử lý ao
nuôi trong quá trình nuôi. Nhằm đưa ra những thảo luận và có các biện pháp xử lý cho
Nhóm 4

19


một mùa vụ mới thành công hơn. PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRA Có khoảng 40 ao nuôi,
trên các trang trại nuôi ở Mỹ Thanh – Sóc trăng được điều tra từ tháng 1/6/201120/9/2011. Xác định bệnh được thực hiện tại hiện trường thông qua biểu hiện lâm sàng và
tại phòng thí nghiệm. Phỏng vấn điều tra được thực hiện tại ao nuôi như kích thước ao
nuôi, độ sâu mực nước ao nuôi, các loại hóa chất xử lý cải tạo ao sau khi vụ tôm trước
chết và sau khi thả tiếp vụ nuôi mới, xử lý nước, con giống và quản lý ao nuôi trong suốt
quá trình nuôi, loại thức ăn được sử dụng và sản lượng, năng suất sau khi thu hoạch. Dựa
trên qui mô và cơ sở hạ tầng kỹ thuật của từng trang trại, chúng tôi tiến hành điều tra ao

nuôi ở các mô hình: a. Mô hình nuôi hộ gia đình có diện tích < 10ha, đầu tư cho cơ sở hạ
tầng kém hơn trang trại trung bình, trang thiết bị nghèo nàn: 10 ao nuôi 262 b. Mô hình
trang trại trung bình có diện tích 20-35 ha, có hệ thống điện, quạt nước tuy nhiên mức độ
đầu tư cho hạ tầng thấp hơn so với trang trại lớn, không có khu tập thể hay bếp ăn cho
công nhân, không có hệ thống cho ăn tự động: 14 ao nuôi c. Mô hình trang trại lớn là
tổng diện tích là 76 ha, có đầu tư cơ sở hạ tầng tốt như hệ thống giao thông trong trang
trại, điện, quạt nước, thổi khí được trang bị có hệ thống, có hệ thống cho ăn tự động, có
nhà tập thể, bếp ăn cho công nhân, có biện pháp an toàn sinh học: 26 ao nuôi KẾT QUẢ
Thông tin chung các ao nuôi Các ao nuôi ở trang trại nuôi tôm Mỹ Thanh, Sóc Trăng đều
là ao nuôi công nghiệp, có diện tích trung bình là 6000 m2 / ao. Trong đó ao nhỏ nhất
khoảng 2500 m2 / ao và ao lớn nhất là 8700 m2 / ao, mực nước trong ao khoảng 1,2-1,5,
độ sâu của ao từ bờ đến đáy ao khoảng 2m. Các trang trại này điều nuôi 2 vụ/năm, có khi
là 3 vụ/năm tập trung chủ yếu trang trại trung bình và hộ gia đình. Hầu hết các ao nuôi ở
các trang trại thả giống ở vụ nuôi một (thả giống 3-4/2011) đều nuôi tôm sú (Peneaus
monodon) chiếm khoảng 90%. Tuy nhiên ở vụ hai tôm thả tháng (5- 6/2011) chủ yếu là
tôm thẻ chân trắng (99%). Mật độ thả tôm ở các trang trại trong vụ 2 khác nhau từ 60-130
con/m2 , cỡ tôm khoảng PL10-15. Hầu hết ở các trang trại qui mô trung bình và lớn,
trước khi thả con giống được xét nghiệm ở các Viện, trung tâm xét nghiệm giống. Tôm
thả trong vụ nuôi 2 đều là tôm thẻ chân trắng (Penaeus vannamei). Khoảng 50% các ao
nuôi đều gièo trước 5 -7 ngày để thả, còn lại là thả trực tiếp sau khi tôm mua ở các trại
giống về. Chỉ có 1 trang trại qui lớn và trung bình có xử lý giống trước khi thả bằng
Formol 150 ppm trong 30 phút. Mật độ thả là 70-130 con/m2 , tỷ lệ sống từ 70-80%.

Nhóm 4

20


Nguồn giống từ nhiều công ty khác nhau như Việt Úc, Anh Việt, Minh Phú và Viện
NCNT Thủy Sản III. Thức ăn sử dụng phổ biến cho thẻ có hàm lượng đạm khoảng 30 40%, đa số là thức ăn của các công ty CP Thái Lan (HYPO 30%) và Uni - Presedent (UP

38%). Đối với tôm thẻ thì nhu cầu về độ đạm không cao khoảng 25 - 35% tôm tăng
trưởng tốt cho thấy loại thức ăn này phù hợp. Sử dụng thức ăn cho tôm trong suốt quá
trình nuôi theo qui cách và chỉ dẫn của nhà sản xuất. Thức ăn được điều chỉnh hàng ngày
tùy theo biểu hiện của tôm, lượng thức ăn còn lại trên sàng ăn. Cải tạo ao sau khi tôm vụ
trước chết Ở đầu năm 2011, tôm thả vụ 1 (thả khoảng tháng 3-4/2011) các ao nuôi ở các
trang trại điều tra đều bị bệnh và chết ở giai đoạn rất sớm trên dưới 1 tháng tuổi. Tôm
chết có những biểu hiện bệnh như teo gan, sưng gan và chết đáy. Sau khi tôm chết, nước
trong ao được thải ra, hoặc xả bỏ một ít. Sau đó sử dụng hóa chất trong đó chủ yếu thuốc
diệt giáp xác để xử lý, xả bỏ tiêu diệt mầm bệnh trong ao. Bón vôi, phơi đáy ao cho khô
khoảng 1-2 tháng. Sử dụng máy ủi, ủi lớp mỏng đáy ao cho lên bờ hoặc sên lớp bùn bẩn
ở lõm giữa ao. Sau đó nền đáy được xử lý bằng vôi đá CaO (1,5 tấn/ 1000 m2 ). Dùng
máy cày đánh xới để vôi trộn đều vào lớp đất. Lấy nước vào ao khoảng 30 cm, ngâm
trong 3 ngày để vôi ngấm vào đất mục đích xử lý diệt mầm bệnh và hạ phèn. Xả bỏ, phơi
đáy ao cho khô nứt chân chim. Tiếp tục bón vôi canxi (CaCO3) để điều chỉnh pH trên
mặt đáy ao (700-800 kg/ao) và rải xung quanh bờ. Tùy theo pH đất mà có thể bón vôi
thay đổi liều lượng. Sau 2 ngày, xịt Formol 30 ppm, sau đó lấy nước vào ao nuôi. 263 Xử
lý nước trong ao nuôi Nước được lấy qua 1 ao trung gian (còn gọi là ao lắng). Nước được
bơm từ kênh ngoài sông vào trong ao lắng (ao này có nhiệm vụ lắng đọng chất bùn lơ
lửng) khoảng 2 ngày, thì nước được cho trực tiếp vào ao nuôi (100% ao). Hầu hết nước
được bơm ở kênh này là nguồn nước chủ yếu từ con sông Mỹ Thanh, đây là con sông vừa
là nguồn nước thải của các ao nuôi tôm bị bệnh xả bỏ và sản xuất nông nghiệp và vừa là
nguồn cấp cho các ao nuôi ở vùng này. Mực nước đo được trong ao lúc này là 1.7m. Sử
dụng quạt nước trong ao nuôi khoảng 3 ngày. Mục đích là để trứng ấu trùng, trứng tép, cá
nở hết để dàng xử lý. 100% các ao điều xử lý với thuốc diệt giáp xác có gốc
Cypermethrine (với nhiều tên thương mại khác nhau: Killer, Antiparasite, Novon,
Golden…) diệt giáp xác với nồng độ là 1-4 ppm, diệt cá bằng Saphonine (15ppm). Các
ao được điều chỉnh pH và tăng độ kiềm bằng cách sử dụng Diametine, CaCO3 (20ppm)

Nhóm 4


21


bón vào tối, sáng thì bón Dolomite 20 ppm liên tục trong 3-4 ngày hoặc có khi dùng CaO
để tăng nhanh độ pH. Dùng hóa chất chlorine 30 ppm, Iodine hoặc thuốc tím KMnO4
diệt khuẩn, vi rút để xử lý sau khi bón vôi với nồng độ theo hướng dẫn. Thêm vào đó là
các ao nuôi đều sử dụng EDTA (1-2ppm) sau hai ngày diệt khuẩn để loại bỏ một số kim
loại nặng trong ao. Hệ thống quạt nước được lắp đặt theo hệ thống trục dài để đảo nước
và tạo oxy cung cấp trong suốt quá trình nuôi. Màu nước rất quan trọng trong nuôi tôm
thâm canh, màu nước hạn chế sự phát triển của tảo đáy và nguồn dinh dưỡng tự nhiên
(tảo, phiêu sinh động thực vật phù du) để cho tôm con có thể bắt mồi dễ dàng. Đa số các
hộ nuôi đều sử dụng cám gạo hoặc cám tổng hợp (cám gạo, bột cá, đậu nành và men bánh
mì) để gây màu. Cám khoảng (5-15 kg) thường được ủ với với men vi sinh, EM (20-30
lít) trộn với rỉ đường (15-20 kg) để bón vào ao. Kết hợp với bón cám, men vi sinh là phân
hóa học DAP 1-2 kg/1000 m3 , Ure, phân lân, NPK (10-20 kg/ao) và khoáng (1-2 gói).
Màu nước sau khi đạt yêu cầu thi mới bắt đầu thả giống. Có những ao không gây màu
được thì sử dụng màu nhân tạo thực phẩm cho vào ao, mục đích là giảm tảo đáy và cải
thiện môi trường nước. Hóa chất và chế phẩm sinh học sử dụng trong quá trình nuôi Qua
thống kê cho thấy, 100% ao nuôi ở các trang trại điều sử dụng các hóa chất trong xử lý ao
đất và nước trong suốt quá trình nuôi như vôi nung, vôi nông nghiệp, vôi đá, chế phẩm vi
sinh như EM, Bokashi để ổn định pH nước, tăng độ kiềm trong ao và cải thiện đáy ao.
Đặc biệt, trong đó có 1 số ao ở trang trại lớn, khi xử lý pH thì dùng acid HNO3. Trong
quá trình nuôi, tùy theo tình huống biến động chỉ tiêu môi trường nước, mức độ ảnh
hưởng mà có biện pháp xử lý cụ thể: thí dụ Kill algae, BKC, CuSO4 với liều lượng 1
mg/L được xử lý khi tảo sắp tàn và mật độ tảo cao, Greenop để hạ phèn trong những đợt
con nước triều cường, Dolomite được bón trước và sau khi mưa nhằm ổn định pH môi
trường nước. Các loại hóa chất lắng tụ các loại kim loại nặng như EDTA, các loại phân
hóa học ure, NPK, DAP để gây màu khi tảo rớt hoặc lúc diệt khuẩn. Các loại hóa chất
trên điều sử dụng định kỳ hằng tuần hoặc tháng bón trực tiếp vào nước ao nuôi nhằm duy
trì mật độ tảo và bổ sung dinh dưỡng. Chỉ có 1 trang trại, sử dụng EM kết hợp với thức

ăn và tỏi để cho tôm ăn. Các chất diệt khuẩn, ký sinh trùng và tảo nở hoa như Iodine,
BKC, Formol và CuSO4. Các loại khoáng bổ sung trong ao như Azomite, Diametine
nhằm hấp thụ ion NH4 (NH3) trong môi trường nước. Bổ sung khoáng chất kích thích

Nhóm 4

22


tảo phát triển trong nước ao nuôi thủy sản và lắng tụ các chất lơ lửng trong nước ao nuôi.
100% các hộ đều sử dụng các loại vi lượng, men tiêu hóa tăng hệ miễn dịch, cải thiện hấp
thu dưỡng chất và giúp tăng trọng tốt trong cơ thể tôm như Oceanic, Azomite, Sorbitol,
Kenton, Enrolive, Betaglucan, Olimos… và kháng sinh như Flofenicol (0,5-1 g/kg thức
ăn), Oxytetraciline (10-20 g/kg thức ăn) nhằm phòng ngừa và diệt khuẩn gây bệnh trên
tôm khi có dịch bệnh. 264 Tồn lưu thuốc diệt giáp xác trong ao nuôi Việc các trang trại
nuôi tôm dùng thuốc diệt giáp xác để diệt giáp xác rất phổ biến ở vùng khảo sát. Vì
chúng mang lại hiệu quả tức thời, chi phí thấp nên người dùng rất ưa thích. Còn dùng các
loại hóa chất khác mà ngành thủy sản cho phép thì hiệu quả thấp, chi phí cao người nuôi
thường ngán ngại và ít dùng. Việc lạm dụng các loại hóa chất này trong ao nuôi sẽ rất
nguy hiểm, gây hủy hoại môi trường và đặc biệt là tồn lưu một lượng đáng kể. Mặc dù
người nuôi chỉ dùng để xử lý môi trường khi dịch bệnh hoặc đầu vụ, đến khi thả tôm là
20 – 40 ngày nhưng ao nuôi vẫn tồn dư một lượng đáng kể. Trong nghiên cứu đề tài của
Nguyễn Văn Hảo (2011) thuốc diệt giáp xác tồn dư trong những ao nuôi ở các trang trại
đã xử lý ao trước khi thả tôm. Trong 16 mẫu đất trên 16 ao nuôi trong tất cả các trang trại
thì có 50% (8/16 ao) nuôi ao có hàm lượng Cypermethrin dao động từ 31.5-603.5 ppb .
Qua kết quả phân tích này cho thấy tồn dư hàm lượng thuốc diệt giáp xác (cypermethtin)
trong ao nuôi rất lớn. Ở những ao có hàm lượng thuốc diệt giáp xác có nồng độ tồn lưu
cao, thì tôm chết rất nhanh và thời gian sống của tôm ngắn. Thuốc kháng sinh và bệnh
tôm Trong đầu năm 2011 có 90% ao thiệt do bệnh, hầu hết là bệnh teo gan tụy. Bệnh
được phân tích bằng mô học cho thấy gan tụy tôm bệnh chủ yếu là hoại tử, kết hợp với

nhiễm khuẩn Vibrio hoặc ký sinh trùng Gregarine. Các ao trong vùng điều tra có tôm
bệnh bị hoại tử gan tụy nhưng không nhiễm virus gây ảnh hưởng đến cơ quan gan tụy
như bệnh còi do MBV (Monodon Baculovirus), bệnh gan tụy do HPV (Hepatopancreatic
Parvovirus), bệnh hoại tử ruột giữa BMN (Baculoviral Midgut Gland Necrosis) và bệnh
hoại tử gan tụy do vi khuẩn nội bào (Necrotizing Hepatopancreatitis, NHP). MBV và
HPV thường gây chậm lớn mà không gây chết tôm hàng loạt (Lightner et al., 1996).
Ngoài ra còn có bào tử trùng Haplosporidian sp. cũng ký sinh trên gan tụy nhưng không
gây ảnh hưởng nghiêm trọng. và một loài vi bào tử trùng mới được phát hiện ở Thái Lan,
Enterocytozoon hepatopenaei sp. ký sinh trong tế bào của mô gan tụy, riêng chỉ có một ao

Nhóm 4

23


bị nhiễm virus đốm trắng. Khảo sát trên trang trại qui mô lớn thì số ao tôm thiệt hại đến
88%, trang trại qui mô trung bình là 90% và qui mô hộ gia đình là 100%. Trong quá trình
điều tra thông tin trên các trang trại, có đến 80% ao nuôi điều sử dụng kháng sinh cho
tôm ăn phòng ngừa vi khuẩn vào ngày thứ 20, và lên đến 100% ao nuôi có sử dụng kháng
sinh cho tôm ăn khi tôm có biểu hiện bệnh lâm sàng và khi được thông báo từ kết quả
kiểm tra mô học. Chủ yếu là kháng sinh Oxytetracinline kết hợp với Florfenicol hoặc
Chloroquinne phosphate (tỷ lệ là 20: 1:1g/kg thức ăn) và kèm theo khoáng như vitamin,
betaglucan, sorbitol…. Có khoảng 30 % ao nuôi không sử dụng kháng sinh cho tôm ăn
định kì phòng ngừa trong suốt 14 ngày mà thay vào đó là tỏi và vitamin. Các trang trại
cho rằng sau khi tôm phát hiện bệnh và sử dụng kháng sinh thì có khoảng 80 % ao nuôi
có hiệu quả là duy trì được tôm không chết, tuy nhiên sau khi ngưng điều trị thì tỷ lệ sống
của các ao không còn nhiều và không duy trì được tôm đến hết vụ. Năng suất, sản lượng
sau thu hoạch Ở vụ nuôi một đầu năm 2011, đa số các ao nuôi trong khu vực đều thất bại,
hầu như mất trắng. Ở vụ 2, mặc dù các trang trại đã xử lý nền đáy ao, xử lý nguồn nước,
con giống rất kỹ lưỡng, nhưng điều kiện thời tiết bất thường cộng thêm nguồn dư lượng

của các loại hóa chất xử lý tôm bệnh trong vụ trước và xử lý ao vụ này đã làm dịch bệnh
và chết xảy ra nhanh hơn. Chính vì vậy năng suất thu hoạch của từng trang trại ở vụ này
giảm đáng kể. Ở qui mô hộ gia đình, và trang trại trung bình dịch bệnh xảy ra rất sớm
khoảng 1 tháng tuổi, tôm bắt đầu chết và chết nhanh sau ba bốn ngày phát bệnh. Chính vì
thế, các trang trại đều thu hoạch sau 265 khi tôm chết, năng xuất trung bình mỗi ao chỉ
khoảng 300-400kg/ ao (ao khoảng 5500-6500 m 2 ). Trong khi đó nếu tôm nuôi duy trì
được hai tháng tuổi thì năng xuất cũng chỉ đạt được 1,5-2 tấn/ ao ở các trang trại qui mô
hộ gia đình và trung bình. Tuy nhiên, ở trang trại qui mô lớn, nếu tôm chết ở dưới 2 tháng
tuổi sản lượng thu hoạch cao hơn trung bình khoảng 3-4 tấn/ao (diện tích ao khoảng 6500
m2 ).
Ảnh hưởng tiêu cực của việc dùng thuốc trong nuôi trồng thủy sản
Việc sử dụng rộng rãi các loại hóa chất và kháng sinh trong nuôi trồng thủy sản có nhiều
ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường và hệ sinh thái. Môi trường nhiễm các hóa chất và
kháng sinh sẽ tích lũy trong các loài động vật thủy sinh hoang dã. Ngoài ra, các loài thực

Nhóm 4

24


vật thủy sinh như rong bèo cũng có khả năng hấp thụ các loại hóa chất, thuốc và cả kim
loại nặng trong môi trường nước. Các loài động thực vật hoang dã là một mắc xích quan
trọng trong chuỗi thức ăn, việc tích lũy các loại hóa chất và kháng sinh sẽ dẫn đến hậu
quả rất lớn và lâu dài. Quản lý việc sử dụng các hóa chất và thuốc trong nuôi trồng thủy
sản sẽ giảm các tác động xấu đến môi trường, các loài sinh vật trong hệ sinh thái và cả
con người.
Việc sử dụng quá nhiều các loại thuốc và hóa chất trong nuôi trồng thủy sản có ảnh
hưởng rất lớn đến môi trường, hệ sinh thái và cả sức khỏe của con người. Kiểm soát việc
sử dụng các loại hóa chất, kháng sinh trong nuôi trồng thủy sản cần phải được triển khai
trên quy mô toàn thế giới bằng các chính sách, pháp lý mạnh mẽ hơn để đảm bảo sự phát

triển bền vững ngành công nghiệp đóng một vai trò to lớn trong việc đảm bảo an ninh
lương thực của thế giới.

CHƯƠNG 2: NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
2.1. Phạm vi áp dụng
Căn cứ theo quyết định số 177/QĐ-BNN-QLCL.
Tài liệu này hướng dẫn quy trình kiểm tra, đánh giá và phát hiện tạp chất trong
tôm nguyên liệu bằng:
a) Phương pháp cảm quan, áp dụng cho Agar, CMC (Carboxymethyl cellulose), hỗn hợp
Agar + CMC, hỗn hợp Agar + PVA (Polyvinyl alcohol), hỗn hợp Agar + Adao (Gelatine),
tinh bột và những dạng tạp chất khác do con người cố tình đưa vào tôm nguyên liệu nhằm
mục đích gian dối kinh tế.
b) Phương pháp thử nhanh hóa học, áp dụng cho tinh bột, PVA, CMC, Adao, Agar và
Agar từ nguồn gốc động vật.
Giới hạn phát hiện của phương pháp thử nhanh hóa học theo quy trình này là:

Nhóm 4

25


×