Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

QUAN điểm, PHƯƠNG PHÁP LUẬN TRONG NGHIÊN cứu KHOA học xây DỰNG ĐẢNG và CHÍNH QUYỀN NHÀ nước ý NGHĨA TRONG học tập môn CÔNG tác ĐẢNG, CÔNG tác CHÍNH TRỊ HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (194.78 KB, 31 trang )

QUAN ĐIỂM PHƯƠNG PHÁP LUẬN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC XÂY
DỰNG ĐẢNG VÀ CHÍNH QUYỀN NHÀ NƯỚC Ý NGHĨA TRONG HỌC
TẬP, NGHIÊN CỨU MÔN CTĐ, CTCT HIỆN NAY
MỞ ĐẦU
Hệ thống lý thuyết về các con đường tìm tòi sáng tạo, về phương pháp
nghiên cứu khoa học cùng với hệ thống các khái niệm, phạm trù và hệ thống các
tri thức ứng dụng là những bộ phận hợp thành chủ yếu của một khoa học. Phương
pháp luận nghiên cứu khoa học được xem là kết quả của sự khái quát lý thuyết và
thực tiễn nghiên cứu khoa học, do vậy nó trở thành cẩm nang chỉ dẫn cho các nhà
khoa học thực hành sáng tạo hoạt động nghiên cứu, trở thành công cụ để tổ chức,
quản lý hoạt động khoa học có hiệu quả. Xây dựng Đảng và chính quyền Nhà
nước một bộ môn của khoa học xã hội, một bộ phận cấu thành không thể tách rời
của học thuyết Mác - Lênin về đảng cách mạng của giai cấp công nhân. Khoa học
xây dựng Đảng và chính quyền Nhà nước ra đời và phát triển trên cơ sở lý luận
Mác - Lênin, trên cơ sở tổng kết hoạt động thực tiễn của các Đảng Cộng sản và
công nhân. Nhìn một cách tổng quát, xây dựng Đảng và chính quyền Nhà nước là
khoa học về những quy luật của sự lãnh đạo của Đảng đối với xã hội, về những
quy luật xây dựng nội bộ Đảng, nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng,
làm cho Đảng ngày càng vững mạnh về phẩm chất, trí tuệ và năng lực lãnh đạo,
làm tròn vai trò đội tiên phong chính trị của giai cấp công nhân, lãnh đạo xã hội
phát triển toàn diện. Vì vậy, nghiên cứu khoa học xây dựng Đảng và chính quyền
Nhà nước phải tìm tòi, khám phá ra bản chất và quy luật xây dựng Đảng, của hệ
thống chính trị và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa từ đó để hình thành,
khái quát thành các luận điểm, nguyên lý, nguyên tắc, quy luật, vạch ra những con
đường để vận dụng các tri thức đó vào hoạt động xây dựng Đảng, xây dựng hệ
thống chính trị vững mạnh và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do
1


dân và vì dân. Đồng thời, nghiên cứu khoa học xây dựng Đảng và chính quyền
Nhà nước giúp cho chúng ta xác định đúng vị trí, vai trò của nó trong hệ thống các


bộ môn của khoa học xã hội, giúp cho việc nhận rõ được những mối quan hệ
khăng khít và phân biệt được ranh giới của khoa học xây dựng Đảng và chính
quyền Nhà nước với các bộ môn khoa học xã hội khác, đồng thời cũng là yêu cầu
thường xuyên của sự phát triển các khoa học hiện đại trong tình hình hiện nay.

2


NỘI DUNG
I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC XÂY DỰNG
ĐẢNG VÀ CHÍNH QUYỀN NHÀ NƯỚC
Nghiên cứu khoa học xây dựng Đảng và chính quyền Nhà nước là một dạng
hoạt động đặc biệt phức tạp của con người, là hoạt động trí tuệ sáng tạo của các
nhà khoa học nhằm nhận thức về các nguyên lý, nguyên tắc, quy luật và kinh
nghiệm về xây dựng Đảng Cộng sản, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh, xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, tạo ra hệ
thống tri thức có giá trị và ứng dụng hệ thống tri thức này vào việc xây dựng,
chỉnh đốn Đảng vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, có đủ phẩm chất
và năng lực lãnh đạo cách mạng đi đến thắng lợi.
Chủ thể của hoạt động nghiên cứu khoa học xây dựng Đảng và chính quyền
Nhà nước, đó là các cá nhân, tập thể các nhà khoa học, là đội ngũ những người
được đạo tạo cơ bản, có phẩm chất và khả năng nghiên cứu sáng tạo. Sự thành
công hay thất bại trong nghiên cứu khoa học xây dựng Đảng và chính quyền Nhà
nước phụ thuộc rất lớn vào phẩm chất, tài năng sáng tạo và sự phối hợp của cá
nhân và tập thể nhà khoa học. Trong đó, các cá nhân thường là khởi điểm đột phá,
đề xuất ý tưởng sáng tạo khoa học và lôi cuốn những người khác tham gia nghiên
cứu, phát minh. Tập thể nhà khoa học có vai trò quan trọng trong việc góp ý, phản
biện, thẩm định và hợp tác nghiên cứu theo ý tưởng đề xuất của cá nhân.
Khách thể, đối tượng nghiên cứu của khoa học xây dựng Đảng và chính
quyền Nhà nước bao gồm hệ thống các nguyên lý, nguyên tắc, quy luật và kinh

nghiệm về xây dựng Đảng Cộng sản, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh, xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. Tuy
nhiên, vấn đề xây dựng Đảng và chính quyền Nhà nước luôn mang tính đặc thù là
3


luôn gắn chặt với vấn đề giai cấp, với đảng cầm quyền, do dó các nhà lãnh đạo
đảng đồng thời cũng là các nhà nghiên cứu khoa học xây dựng Đảng và chính
quyền Nhà nước. Sự thành công hay thất bại trong nghiên cứu khoa học xây dựng
Đảng và chính quyền Nhà nước có liên quan chặt chẽ đến những cá nhân (bao
gồm các phẩm chất, trí tuệ) của các nhà nghiên cứu khoa học.
Phương pháp nghiên cứu khoa học xây dựng Đảng và chính quyền Nhà
nước thực chất là phương pháp nhận thức về Đảng , về hệ thống chính trị, về xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. Đó là các
quan điểm tiếp cận và các thao tác cụ thể tác động vào toàn bộ cơ cấu, tổ chức,
sinh hoạt và toàn bộ quy trình hoạt động của Đảng, Nhà nước để làm bộc lộ những
vấn đề mang tính bản chất nhất về Đảng, về hệ thống chính trị và về Nhà nước, từ
đó mà nhận thức được các quy luật, nguyên tắc, nguyên lý về xây dựng đảng, xây
dựng hệ thống chính trị, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đảm bảo cho
đảng luôn đứng vững, tồn tại, không ngừng phát triển, đủ năng lực lãnh đạo và và
hoàn thành vai trò lãnh đạo xã hội.
Sản phẩm và giá trị của nghiên cứu khoa học xây dựng Đảng và chính
quyền Nhà nước được đánh giá bởi cái mới của những tri thức đã được khái quát
và những giải pháp thực tiễn được đề xuất nhằm giải quyết và đáp ứng được
những yếu cầu bức thiết của thực tiễn công tác xây dựng Đảng, công tác xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong tình hình hiện nay.
Quá trình nghiên cứu khoa học xây dựng Đảng và chính quyền Nhà nước là
quá trình lao động trí tuệ, khó khăn, phức tạp và đầy mâu thuẫn, là quá trình tìm
tòi, khám phá những cái mới, nhưng khác với các khoa học khác là nghiên cứu
khoa học xây dựng Đảng và chính quyền Nhà nước, gắn với tính đảng, tính giai

cấp, vì vậy phải hạn chế thấp nhất những sai sót trong quá trình nghiên cứu. Trong
nghiên cứu các môn khoa học khác, có những sai sót, thậm chí gặp thất bại. Tuy
nhiên, thất bại trong nghiên cứu khoa học nói chung cũng được xem là một kết
quả, thậm chí từ những sai lầm đó, các nhà khoa học rút ra những kinh nghiệm
4


quý giá để có được những thành công mới trong quá trình nghiên cứu, và những
sai lầm, thất bại này không ảnh hưởng lớn đến các vấn đề xã hội. Còn riêng trong
nghiên cứu khoa học xây dựng Đảng và chính quyền Nhà nước, nếu tìm ra những
cái mới nhưng không đúng với bản chất, quy luật, nguyên lý xây dựng Đảng, xây
dựng hệ thống chính trị, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đề xuất
những biện pháp sai lầm sẽ làm cho Đảng yếu đi, Nhà nước sẽ không còn đủ sức
để quản lý và điều hành mọi hoạt động của xã hội. Bài học về công tác nghiên cứu
khoa học xây dựng Đảng và chính quyền Nhà nước ở các nước Đông Âu và Liên
Xô trước đây là một ví dụ sinh động trong công tác xây dựng Đảng Cộng sản,
trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Nghiên cứu khoa học xây dựng đảng và chính quyền Nhà nước là một quá
trình phát triển theo các trình độ nhận thức ngày một cao hơn. Trong lịch sử phát
triển khoa học, nhận thức khoa học đi theo các bậc thang trình độ từ mô tả khoa
học, giải thích khoa học đến phát hiện, phát minh khoa học. Căn cứ vào trình độ
nhân thức nêu trên, căn cứ vào mục tiêu sản phẩm cũng như phạm vi áp dụng các
kết quả nghiên cứu, người ta phân thành các loại hình nghiên cứu khoa học xây
dựng Đảng và chính quyền Nhà nước thành các loại hình chủ yếu sau:
Một là, nghiên cơ bản: Là loại hình tìm tòi, nghiên cứu sáng tạo ra những
tri thức cơ bản, làm nền tảng cho quá trình nghiên cứu tiếp theo (như các nguyên
lý, quy luật, phản ánh bản chất của đối tượng nghiên cứu…)
Hai là, nghiên cứu ứng dụng: Là loại hình nghiên cứu để vận dụng những tri
thức cơ bản vào giải quyết những vấn đề thực tiễn, đáp ứng những yêu cầu về xây
dựng đảng và chính quyền Nhà nước. Thí dụ: Đề tài nghiên cứu “Nâng cao năng lực

lãnh đạo và sức chiến đấu ở Đảng bộ X”.
Ba là, nghiên cứu triển khai: là loại hình nghiên cứu tương tự như nghiên cứu
ứng dụng, tức là nghiên cứu, triển khai, quán triển các loại nghị quyết, kế hoạch, chỉ
thị, hướng dẫn…

5


Bốn là, nghiên cứu dự báo: Là loại hình kết hợp giữa nghiên cứu cơ bản và
nghiên cứu ứng dụng để phát hiện ra những triển vọng, khả năng, xu hướng để dự
báo những xu thế phát triển của tương lai.
II. QUAN ĐIỂM PHƯƠNG PHÁP LUẬN TRONG NGHIÊN CỨU KHOA
HỌC XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ CHÍNH QUYỀN NHÀ NƯỚC
2.1. Quan điểm phương pháp luận và vai trò, chức năng của quan điểm
phương pháp luận trong nghiên cứu khoa học xây dựng Đảng và chính quyền
Nhà nước.
Phương pháp luận là hệ thống các nguyên lý, quan điểm(trước hết là những
nguyên lý, quan điểm liên quan đến thế giới quan) làm cơ sở, có tác dụng chỉ đạo,
xây dựng các phương pháp, xác định phạm vi, khả năng áp dụng các phương pháp
và định hướng cho việc nghiên cứu tìm tòi cũng như việc lựa chọn, vận dụng
phương pháp. Nói cách khác thì phương pháp luận chính là lý luận về phương
pháp bao hàm hệ thống các phương pháp, thế giới quan và nhân sinh quan của
người sử dụng phương pháp và các nguyên tắc để giải quyết các vấn đề đã đặt ra.
Phương pháp luận nghiên cứu khoa học: là khái niệm chỉ hệ thống các
nguyên lý, các học thuyết về hoạt động nhận thức và cải tạo thực tiễn, là khái niệm
để chỉ bản thân phương pháp duy vật biện chứng của triết học Mác.
Phương pháp luận nghiên cứu khoa học xây dựng Đảng và chính quyền Nhà
nước: là học thuyết triết học Mác – Lê nin về phương pháp, đó là phương pháp
duy vật biện chứng, lý thuyết về con đường, phương pháp nhận thức và khám phá,
cải tạo thế giới khách quan.

Quan điểm phương pháp luận trong nghiên cứu khoa học: là những luận
điểm chung nhất định hướng cho việc tiếp cận và nhận thức đối tượng nghiên cứu,
đó là hệ thống các luận điểm phản ánh tính quy luật trong nghiên cứu khoa học
được đúc kết từ nghiên cứu khoa học, định hướng cho việc tìm hiểu, nghiên cứu
thường mang màu sắc triết học nhưng không đồng nhất với triết học, dựa theo trục
lý luận của những nguyên lý.
6


Quan điểm phương pháp luận có chức năng thế giới quan và nhận thức luận
trong quá trình nghiên cứu khoa học xây dựng Đảng và chính quyền Nhà nước.
Chức năng thế giới quan được thể hiện ở hệ thống quan điểm có tính nguyên tắc
để chỉ đạo hoạt động nghiên cứu của nhà khoa học đi đúng hướng, mang lại hiệu
qủa cao. Chức năng nhận thức luận thể hiện ở hệ thống phương pháp nhận thức,
khám phá đối tượng nghiên cứu. Nó chỉ ra cách tiếp cận và logic trong nhận thức
đối tượng nghiên cứu. Chức năng thế giới quan và chức năng nhận thức luận có
mối quan hệ mật thiết, thống nhất với nhau, hỗ trợ cho nhau đảm bảo cho hoạt
động nghiên cứu khoa học xây dựng Đảng và chính quyền Nhà nước đạt chất
lượng, hiệu quả thiết thực.
2.2. Quan điểm phương pháp luận triết học trong nghiên cứu khoa học
xây dựng Đảng và chính quyền Nhà nước.
Quan điểm phương pháp luận chung nhất, phổ biến nhất trong nghiên cứu
khoa học xây dựng Đảng và chính quyền Nhà nước là quan điểm triết học Mác Lênin. Bởi vì, triết học Mác - Lênin là bộ phận quan trọng nhất của thế giới quan,
mà thế giới quan lại tạo nên phần quan trọng nhất trong nội dung của phương pháp
luận. Các quan điểm triết học là cơ sở để nghiên cứu và xây dựng căn cứ lý luận
cho các loại phương pháp nhận thức chung nhất. Thực chất của quan điểm này là
sử dụng hệ thống những luận điểm triết học của chủ nghĩa Mác - Lênin làm cơ sở
lý luận định hướng cho toàn bộ quá trình nghiên cứu khoa học xây dựng Đảng và
chính quyền Nhà nước. Nội dung của quan điểm này chỉ ra rằng, triết học Mác Lênin là cơ sở phương pháp luận phổ biến khoa học duy nhất, đáp ứng đầy đủ nhất
những yêu cầu của nghiên cứu khoa học hiện đại, làm cơ sở nghiên cứu, xây dựng

căn cứ lý luận, phương pháp nghiên cứu khoa học xây dựng đảng và chính quyền
Nhà nước Bởi vì triết học Mác - Lênin được xây dựng và khái quát từ những
thành tựu của khoa học và thực tiễn, và do đó, nó vũ trang cho nhà nghiên cứu
phương pháp đúng đắn nhất để nhận thức và cải tạo hiện thực.
7


Triết học Mác - Lênin với những quan điểm lý luận duy vật và biện chứng
đã trở thành cơ sở phương pháp luận triết học của mọi khoa học, kể cả khoa học tự
nhiên và khoa học kỹ thuật. Ph.Ăngghen viết: “Chính phép biện chứng là một hình
thức tư duy quan trọng nhất đối với khoa học tự nhiên, bởi vì chỉ có nó mới có thể
là cái tương đồng và do đó mới đem lại phương pháp giải thích những quá trình
phát triển diễn ra trong giới tự nhiên, giải thích những mối quan hệ chung, những
bước quá dộ từ một lĩnh vực nghiên cứu này sang một lĩnh vực nghiên cứu khác...
Chỉ có phép biện chứng mới có thể giúp cho khoa học tự nhiên thoát khỏi những
khó khăn về lý luận”. Triết học Mác - Lênin vũ trang cho các nhà khoa học về xây
dựng Đảng một phương pháp nhận thức đúng đắn duy nhất. Chỉ có triết học Mác Lênin mới xác định đúng được khuynh hướng của khoa học, chỉ ra được về đại thể
phương hướng đúng đắn của sự tìm tòi khoa học trong lĩnh vực xây dựng Đảng,
vạch ra các hình thức và các phương pháp làm phong phú nó bằng các kết quả
nghiên cứu mới. Do đó, triết học Mác - Lênin thực sự là phương pháp luận phổ
biến và duy nhất đứng đắn của khoa học hiện đại nói chung và nghiên cứu khoa
học xây dựng Đảng và chính quyền Nhà nước nói riêng. Cơ sở phương pháp luận
triết học trong nghiên cứu khoa học xây dựng Đảng và chính quyền Nhà nước bao
gồm những vấn đề cơ bản sau:
Thứ nhất, những luận điểm chung nhất của triết học Mác - Lênin về tự
nhiên, xã hội và tư duy: Đó là những luận điểm về biện chứng của tự nhiên, về
quy luật phát triển của xã hội, về con người trong triết học, về lý luận nhận thức,
về tư duy và logic. Những luận điểm này chỉ ra cho các nhà khoa học xây dựng
Đảng và chính quyền Nhà nước quy luật chung nhất của thế giới khách quan, của
tự nhiên, xã hội và tư duy, từ đó các nhà nghiên cứu khoa học nhận thức một cách

đầy đủ và đúng đắn về quy luật xây dựng và phát triển của Đảng, xây dựng chính
quyền Nhà nước.
Thứ hai, những nguyên lý cơ bản của phép biện chứng: Đó là nguyên lý về
mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển của mọi sự vật, hiện tượng
8


trong thế giới khách quan. Các nguyên lý này chỉ ra cho các nhà khoa học về tính
vô hạn của thế giới, tính hữu hạn của các sự kiện, hiện tượng cụ thể và mối quan
hệ phức tạp của chúng. Các nguyên lý này cũng chỉ ra cho các nhà khoa học xây
dựng Đảng và chính quyền Nhà nước rằng, mọi sự vật, hiện tượng đều tồn tại
trong trạng thái vận động, biến đổi không ngừng và đều có xu hướng phát triển, do
đó nghiên cứu khoa học xây dựng Đảng và chính quyền Nhà nước cũng phải tuân
thủ theo quy luật đó. Đảng có quá trình ra đời, tồn tại và phát triển. Nhiệm vụ của
công tác nghiên cứu khoa học xây dựng Đảng và chính quyền Nhà nước là tìm ra
các quy luật nhằm củng cố vai trò và nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng và xây
dựng chính quyền Nhà nước.
Thứ ba, những quy luật, các cặp phạm trù của phép biện chứng: Những quy
luật và các cặp phạm trù này đã chỉ ra nguồn gốc, động lực con đường, xu hướng
phát triển của thế giới khách quan, giúp cho nhà hoa học biết cách tiếp cận đối
tượng nghiên cứu đảm bảo tính khoa học, khách quan.
Phương pháp luận triết học trong nghiên cứu khoa học xây dựng Đảng và
chính quyền Nhà nước đặt ra những yêu cầu như sau:
Một là, đứng vững trên cơ sở triết học Mác – Lê nin để nghiên cứu, tiếp cận
đối tượng nghiên cứu khoa học xây dựng Đảng và chính quyền Nhà nước.
Hai là, đứng vững trên cơ sở, nề tảng tư tưởng Hồ Chí Minh để đánh giá,
xem xét các đề tài, các công trình nghiên cứu khoa học xây dựng Đảng và chính
quyền Nhà nước.
Ba là, nghiên cứu khoa học xây dựng Đảng và chính quyền Nhà nước phải
dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác.

Thứ tư, nghiên cứu khoa học xây dựng Đảng và chính quyền Nhà nước phải
dựa trên cơ sở những luận điểm chung nhất của triết học Mác về tự nhiên, xã hội
và tư duy, đó là những luận điểm về biện chứng của tự nhiên, quy luật phát triển
của xã hội, về con người, về lý luận nhận thức, về tư duy và lô gic.
Thứ năm, nghiên cứu khoa học xây dựng Đảng và chính quyền Nhà nước.
phải dựa trên những nguyên lý cơ bản, những quy luật, các cặp phạm trù cơ bản
của phép biện chứng duy vật.
9


Trong thời đại ngày nay, nghiên cứu khoa học xây dựng Đảng và chính
quyền Nhà nước muốn đạt đến chân lý khách quan phải dựa trên cơ sở phương
pháp luận triết học Mác - Lênin. Cơ sở phương pháp luận triết học trong nghiên
cứu khoa học hiện đại là toàn bộ triết học Mác - Lênin chứ không phải chỉ là lý luận
nhận thức, logic học hay một bộ phận nào đó của triết học, trong đó chủ nghĩa duy
vật biện chứng là hạt nhân quan trọng nhất. Các quan điểm, nguyên lý, các quy luật
và các cặp phạm trù của phép duy vật biện chứng là một cơ sở lý luận rất quan
trọng trong nghiên cứu khoa học xây dựng Đảng và chính quyền Nhà nước. Các
nhà khoa học xây dựng Đảng và chính quyền Nhà nước chỉ đứng trên lập trường
duy vật biện chứng để nghiên cứu mới có thể đạt được chân lý khách quan.
III. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC XÂY DỰNG ĐẢNG
Phương pháp nghiên cứu khoa học xây dựng Đảng và chính quyền Nhà
nước là tổng hợp những cách thức, biện pháp mà nhà khoa học sử dụng để nhận
thức, khám phá đảng, tạo ra những hệ thống tri thức mới về Đảng Cộng sản, về
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Mục đích của phương pháp nghiên cứu khoa học là nhận thức, khám phá về
Đảng, tìm ra hệ thống tri thức mới về xây dựng Đảng, về Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa. Khám phá cái mới là nét nổi bật nhất của phương pháp nghiên cứu
khoa học xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Mục
đích này chi phối cách thức hoạt động của chủ thể sử dụng phương pháp nghiên

cứu.
Chủ thể sử dụng phương pháp nghiên cứu khoa học xây dựng Đảng và
chính quyền Nhà nước là các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu. Người nghiên
cứu chỉ có thể sử dụng có hiệu quả các phương pháp nghiên cứu để khám phá ra
những tri thức mới về xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa sau khi đã nắm bắt được tất cả những tri thức về Đảng, về xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Như vậy, phương pháp nghiên cứu khoa học
xây dựng Đảng và chính quyền Nhà nước có sự thống nhất giữa quy luật khách
10


quan đã được con người nhận thức với tính mục đích của con người trong sự nhận
thức và trong sự biến đổi của Đảng, của Nhà nước.
Đối tượng tác động của phương pháp nghiên cứu khoa học xây dựng Đảng
và chính quyền Nhà nước là các sự kiện khoa học về Đảng, xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Các sự kiện này luôn vận động theo những quy luật
riêng. Phương pháp nghiên cứu khoa học xây dựng Đảng và chính quyền Nhà
nước là công cụ để nhà khoa học sử dụng nhằm tác động vào công tác xây dựng
Đảng,chính quyền Nhà nước, khám phá, tìm ra cái mới và thúc đẩy Đảng, Nhà
nước phát triển.
Bản chất của phương pháp nghiên cứu khoa học xây dựng Đảng và chính
quyền Nhà nước là việc con người vận dụng một cách có ý thức các quy luật vận
động của xây dựng Đảng, chính quyền Nhà nước như một phương tiện để khám
phá ra chính bản thân Đảng, Nhà nước. Cơ sở khách quan của việc lựa chọn và sử
dụng phương pháp nghiên cứu khoa học xây dựng Đảng và chính quyền Nhà nước
là hệ thống kiến thức khoa học phản ánh quy luật vận động của Đảng, chính quyền
Nhà nước tồn tại với tư cách là đối tượng nghiên cứu của khoa học xây dựng Đảng
và chính quyền Nhà nước. Trong công tác nghiên cứu công tác xây dựng Đảng và
chính quyền Nhà nước nhà nghiên cứu thường sử dụng các phương pháp sau


3.1. Phương pháp lịch sử - logic
Đây là phương pháp chủ đạo trong hoạt động nghiên cứu khoa học xây
dựng Đảng và chính quyền Nhà nước, là phương pháp nghiên cứu bằng cách cách
đi tìm nguồn gốc phát sinh, phát triển của các sự kiện, hiện tượng liên quan đến
công tác xây dựng Đảng và chính quyền Nhà nước, vấn đề nghiên cứu trong từng
không gian, thời gian cụ thể, đồng thời cho phép nhà nghiên cứu có cái nhìn tổng
quan, hệ thống, toàn diện về vấn đề nghiên cứu công tác xây dựng Đảng và chính
quyền Nhà nước, từ đó tìm ra quy luật vận động, phát triển của đối tượng trong
lịch sử của xây dựng Đảng và chính quyền Nhà nước. Bởi vì, bất kỳ một sự
11


nghiên cứu nào cũng phải nắm được thực tiễn lịch sử phát triển của vấn đề nghiên
cứu và lịch sử tư tưởng nghiên cứu về vấn đề đó. Phương pháp logic - lịch sử cung
cấp cho chúng ta bức tranh trung thực về bản thân đối tượng nghiên cứu, phương
diện thực tiễn và phương diện lý thuyết.
Phương pháp lôgic - lịch sử trong nghiên cứu khoa học là tập hợp các luận
điểm phương pháp luận quan trọng chỉ dẫn cách tiếp cận đối tượng nghiên cứu
bằng phương pháp lôgic lịch sử để tìm ra quy luật phát triển của đối tượng, dự báo
xu hướng tương lai của đối tượng đó.
Phương pháp lôgic - lịch sử có vai trò hướng dẫn tiến trình nghiên cứu tìm
tòi, sáng tạo khoa học theo lôgic lịch sử. Giúp cho việc nhìn thấy toàn cảnh sự xuất hiện,
phát triển và diễn biến của các đối tượng khách quan. Giúp nhà khoa học phát
hiện quy luật tất yếu về sự phát triển của đối tượng, trên cơ sở đó có những dự báo
chính xác về đối tượng.
Nội dung của quan điểm chỉ ra rằng, mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới
khách quan đều trải qua các giai đoạn lịch sử hình thành, phát triển và diễn biến
khác nhau, luôn chịu sự tác động, chi phối của hoàn cảnh xã hội lịch sử cụ thể.
Trong nghiên cứu khoa học phải đặt vấn đề nghiên cứu vào hoàn cảnh lịch sử để
xem xét nó trong mối quan hệ với hoàn cảnh đó, để tìm ra quy luật và lôgíc phát

triển của đối tượng nghiên cứu.
Lịch sử là tất cả những gì đã diễn ra, đã xảy ra, là một sự thật khách quan,
ngoài ý muốn chủ quan của con người. Sự phát triển của lịch sử mặc dù quanh co,
phức tạp chứa đựng đầy mâu thuẫn nhưng hoàn toàn tuân theo những quy luật
nhất định, tuân theo những trật tự tất yếu. Đó chính là lôgíc khách quan của sự vật.
Lôgíc là trật tự của quá trình phát triển, là sự phản ánh trong tư duy của con
người về quá trình diễn biến lịch sử của hiện thực khách quan. Theo quan điểm
của chủ nghĩa duy vật biện chứng, lịch sử là tính thứ nhất, lôgíc là tính thứ hai.
Lôgíc phải gắn bó hữu cơ với lịch sử, phải phù hợp với lịch sử.
12


Phương pháp lôgic - lịch sử đặt ra cho hoạt động nghiên cứu khoa học
những yêu cầu chung như sau:
Một là, trong nghiên cứu khoa học phải đặt đối tượng nghiên cứu vào hoàn
cảnh lịch sử cụ thể để phân tích tìm ra nguồn gốc lịch sử của vấn đề nghiên cứu.
Mỗi sự vật, hiện tượng đều được hình thành trong một hoàn cảnh lịch sử cụ
thể. Nghiên cứu khoa học phải làm rõ nguồn gốc xuất xứ của sự vật, hiện tượng
đó. Nó đã xuất hiện trong lịch sử như thế nào? Tại sao nó lại xuất hiện trong hoàn
cảnh đó? Cái gì quy định sự xuất hiện của đối tượng trong hoàn cảnh lịch sử đó?
Tức là chỉ ra sự tác động của hoàn cảnh lịch sự đến quá trình hình thành của đối
tượng nghiên cứu. Mặt khác, phải chỉ ra được ý nghĩa lịch sử của vấn đề nghiên
cứu. Sự xuất hiện của vấn đề đó vào thời điểm đó có ảnh hưởng như thế nào đến
lý luận và thực tiễn phát triển của khoa học, đến hoàn cảnh lịch sử.
Hai là, nghiên cứu khoa học phải chỉ ra các giai đoạn phát triển của đối
tượng trong lịch sử.
Mỗi sự vật, hiện tượng đều phải trải qua các giai đoạn phát triển nhất định.
Mỗi giai đoạn đó luôn gắn với một điều kiện lịch sử cụ thể. Trong nghiên cứu phải
dùng phương pháp lịch sử để chỉ ra các giai đoạn phát triển của đối tượng. Trong
khi chỉ ra các giai đoạn phát triển của đối tượng phải đồng thời chỉ ra cái gì quy

định sự phát triển của từng giai đoạn đó. Nghĩa là, nhà nghiên cứu phải trả lời
được câu hỏi: sự vật hiện tượng đang nghiên cứu đã phát triển qua mấy giai đoạn,
tại sao lại phải trải qua các giai đoạn như vậy.
Mặt khác, nhà nghiên cứu phải chỉ ra được đặc trưng cơ bản của từng giai
đoạn, mỗi giai đoạn có những tác giả tiêu biểu nào, có đóng góp gì cho lý luận và
thực tiễn, mối quan hệ và sự phát triển mới giữa giai đoạn sau so với giai đoạn
trước.
Ba là, nhà khoa học phải dựa vào quy luật phát triển lịch sử của vấn đề
nghiên cứu thực tại và dự đoán xu hướng phát triển tương lai.
13


Trong nghiên cứu khoa học, việc đánh giá đúng thực tại và dự báo trước sự
phát triển của đối tượng có ý nghĩa rất quan trọng. Đó là cơ sở khoa học để đề
xuất được giải pháp chính xác cho sự phát triển của đối tượng.
Việc dự báo xu hướng phát triển của đối tượng nghiên cứu, một mặt phải
dựa trên sự phân tích tổng quan lịch sử vấn đề nghiên cứu, rút ra những quy luật
vận động, phát triển của đối tượng, từ đó dự đoán xu hướng phát triển của đối
tượng trong tương lai. Mặt khác phải dựa trên sự phân tích xu thế phát triển của
điều kiện xã hội trong tương lai. Nghĩa là phải chỉ ra những điều kiện thuận lợi,
khó khăn, những nhân tố tác động, ảnh hưởng đến sự phát triển của đối tượng
trong tương lai.
Bốn là, các vấn đề nghiên cứu phải được trình bày theo lôgíc lịch sử và
chứng minh bằng thực tiễn lịch sử.
Những đề tài lịch sử hay những nội dung về lịch sử của vấn đề nghiên cứu
phải được trình bày theo lôgíc lịch sử. Những nhân vật và sự kiện lịch sử xuất hiện
trước phải được trình bày trước, những nhân vật và sự kiện lịch sử xuất hiện sau
phải được trình bày sau. Trong khi trình bày các sự kiện theo lôgíc lịch sử phải cố
gắng làm toát lên được lôgíc phát triển nội dung của vấn đề nghiên cứu qua từng
giai đoạn.


Trong quá trình nghiên cứu, phải dùng các sự kiện lịch sử để minh hoạ,
chứng minh làm sáng toả các luận điểm khoa học. Phải dùng các tài liệu lịch sử,
các kết luận khoa học đã có như một điểm tựa lý luận để dẫn dắt đến những vấn đề
phát triển mới của đề tài. Người nghiên cứu phải tích cực siêu tập, xử lý thông tin,
kinh nghiệm lịch sử để giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu, để tránh vấp phải
những sai lầm, khiếm khuyết đã từng diễn ra trong lịch sử.
Trên thực tế công tác nghiên cứu theo phương pháp biện chứng mácxít,
không bao giờ có phương pháp lịch sử hay phương pháp lôgíc thuần tuý tách rời
14


nhau, mà là trong cái này có cái kia, hai cái thâm nhập vào nhau, ảnh hưởng lẫn
nhau. Giới hạn giữa chúng chỉ là tương đối. Cụ thể, phương pháp lịch sử tuy phải
theo sát tiến trình phát triển của lịch sử của sự vật hiện tượng, diễn lại những bước
quanh co, ngẫu nhiên, thụt lùi tạm thời của quá trình phát triển hiện thực, nhưng
không phải là miêu tả lịch sử đó một cách kinh nghiệm chủ nghĩa, mà là miêu tả
theo một sợi dây lôgíc nhất định của sự phát triển lịch sử; không phải miêu tả lịch
sử một cách mù quáng, mà là phát triển một cách có quy luật.Cũng vậy, phương
pháp lôgíc tuy không nói đến những chi tiết lịch sử, những bước đường quanh co,
ngẫu nhiên của lịch sử đối tượng, nhưng không phải vì thế mà nó bỏ qua việc
nghiên cứu lịch sử cụ thể của đối tượng. Phương pháp lôgíc là sự phản ánh cái chủ
yếu được rút ra từ trong lịch sử sự vật, và làm cho cái chủ yếu ấy thể hiện được
bản chất của quá trình lịch sử.
3.2. Phương pháp hệ thống – cấu trúc trong nghiên cứu khoa học
Phương pháp hệ thống – cấu trúc là một luận điểm phương pháp luận chỉ
dẫn cách tiếp cận đối tượng nghiên cứu bằng phương pháp hệ thống để tìm ra cấu
trúc của đối tượng và phát hiện ra tính hệ thống của đối tượng.
Phương pháp hệ thống – cấu trúc giúp ta giải quyết hai vấn đề cơ bản trong
nghiên cứu khoa học là quan hệ giữa cái bộ phận với cái toàn thể và biện chứng

của sự phát triển, (tức là cấu trúc và cơ chế vận động của tập hợp các sự kiện, đối
tượng nghiên cứu). Nó giúp cho người nghiên cứu nhận biết được tính chất tổng
thể hoàn chỉnh, trọn vẹn của đối tượng nghiên cứu; nhận biết được mối quan hệ,
liên hệ của đối tượng nghiên cứu với các hiện tượng khác trong hệ thống; thấy
được sự vận động, nảy sinh, biến đổi, phát triển của đối tượng, đồng thời cũng
thấy tính ổn định trong một thời điểm nhất định với những điều kiện nhất định của
đối tượng đó. Quan điểm hệ thống – cấu trúc còn giúp người nghiên cứu nhận biết
được đối tượng theo các thứ bậc khác nhau trong hệ thống. Mọi sự vật hiện tượng
dù có cấu trúc phức tạp đến mấy vẫn có thể sử dụng phương pháp hệ thống – cấu
trúc đề xem xét, nghiên cứu, khám phá.
15


Nội dung của quan điểm này chỉ ra rằng, một thực thể là đối tượng nghiên
cứu bao giờ cũng tồn tại như một hệ thống, trong hệ thống, có cấu trúc theo những
cách thức nhất định. Khi nghiên cứu đối tượng, phải đặt đối tượng đó trong hệ
thống và trong môi trường nhất định để nghiên cứu tìm ra cấu trúc và tính hệ
thống của đối tượng.
Hệ thống là tập hợp các thành tố tạo thành một chỉnh thể toàn vẹn, ổn định
và vận động theo quy luật. Mọi sự vật hiện tượng đều tồn tại như một hệ thống
toàn vẹn, bao gồm các thành tố có mối quan hệ tương tác với nhau tạo thành một
chỉnh thể trọn vẹn. Mỗi hệ thống là một tập hợp gồm nhiều phần tử, nhiều bộ
phận có quan hệ và tác động qua lại, được xem như là một thực thể thống nhất ở
mức độ nhất định đứng trước môi trường. Hệ thống là một hệ phức hợp, một tổ
hợp hoặc một mạng lưới các thành tố, các bộ phận luôn liên hệ tương tác với nhau.
Thí dụ: Hệ thống giáo dục quốc dân gồm nhiều bộ phận, có mối quan hệ với nhau
như một thực thể thống nhất, trong môi trường kinh tế, chính trị, xã hội. Trong hệ
thống, các phần tử có mối liên hệ tương tác với nhau, tạo thành một chỉnh thể toàn
vẹn. TÝnh chỉnh thể, toàn vẹn là đặc trưng bản chất của hệ thống
Cấu trúc là tổ chức bên trong, là cách thức riêng của sự tác động giữa các

thành tố trong hệ thống. Mọi sự vật hiện tượng đều có cấu trúc theo một cách thức
nhất định. Mỗi cấu trúc bao giờ cũng gắn với một chức năng. Cấu trúc của hệ
thống tạo nên các mối liên hệ bên trong giữa các thành tố của hệ thống, quy định
sự vận động và phát triển của hệ thống, do đó quy định chất lượng của hệ thống.
Việc xác định cấu trúc của hệ thống dựa trên các nguyên tắc như sau: Nếu
chia hệ thống thành hệ thống nhỏ hơn thì phương hướng hoạt động chung của hệ
thống đó không thay đổi. Việc phân chia hệ thống thành những phân hệ phải dựa
vào những nét đặc trưng cơ bản của từng phân hệ đó, không làm phá vỡ tính hệ
thống của phân hệ.
Hệ thống và cấu trúc là những thuộc tính quan trọng của mọi sự vật, hiện
tượng. Giữa hệ thống và cấu trúc luôn thống nhất biện chứng với nhau. Nói đến
16


cấu trúc là nói đến tính hệ thống, ngược lại, nói đến tính hệ thống là nói đến cấu
trúc của sự vật. Trong nghiên cứu khoa học người ta thường chỉ ra cấu trúc các
thành tố, các bộ phận của đối tượng nghiên cứu, từ đó phân chia đối tượng thành
từng bộ phận nhỏ trong hệ thống để nghiên cứu sâu hơn và để tìm ra tính hệ thống
của đối tượng.
Quan điểm hệ thống – cấu trúc đặt ra cho hoạt động nghiên cứu khoa học
những yêu cầu chung như sau:
Một là, nghiên cứu các sự vật, hiện tượng một cách toàn diện trên cơ sở
phân chia chúng thành từng bộ phận để phân tích, xem xét tìm ra tính hệ thống.
Khâu then chốt của phương pháp nghiên cứu theo phương pháp hệ thống – cấu
trúc là phân chia đối tượng thành từng bộ phận, tìm cho được một hay một số đơn
vị (hay phần tử) mang tương đối đầy đủ những tính chất đặc trưng của hệ thống,
nhưng lại rất cụ thể, có thể nghiên cứu chúng để có cơ sở tìm ra được cấu trúc và
cơ chế hoạt động của hệ thống. Tức là thấy được mối quan hệ giữa cái bộ phận với
cái toàn thể (cấu trúc) và biện chứng của sự phát triển (cơ chế).
Phân chia đối tượng thành từng bộ phận để phát hiện ra tính hệ thống của

đối tượng. Tính hệ thống là thuộc tính quan trọng của thế giới, là hình thức diễn
đạt tính chất phức tạp của đối tượng, là thông số để đánh giá trình độ phát triển
của đối tượng. Tính hệ thống phản ánh lôgíc cấu trúc của đối tượng nghiên cứu và
các mối liên hệ biện chứng của cấu trúc đó. Để xác định tính hệ thống cần phải chỉ
ra cấu trúc của đối tượng. Đối tượng được phân chia thành bao nhiêu thành tố bộ
phận, sự phân chia đó dựa theo nguyên tắc nào, mối liên hệ bên trong và bên ngoài
của các thành tố bộ phận, tính chất, vai trò, vị trí và sự tác động lẫn nhau của các
thành tố bộ phận trong hệ thống. Nghiên cứu đối tượng theo các thứ bậc khác
nhau trong hệ thống. Ví dụ: nghiên cứu hành vi trong hệ thống hành vi chung,
nhưng có bậc hành vi bản năng, bậc hành vi ý thức. Đối tượng càng lớn, cấu trúc
càng phức tạp, các mối liên hệ bên trong càng phong phú việc xác định tính hệ
thống của đối tượng càng khó khăn.
17


Hai là, nghiên cứu đầy đủ các mối liên hệ bên trong tìm ra quy luật phát
triển nội tại của hệ thống.
Các sự vật, hiện tượng trong hiện thực khách quan luôn chứa đựng những
mối liên hệ qua lại rất phong phú, đa dạng và phức tạp. Các mối liên hệ cơ bản, ổn
định sẽ tạo nên quy luật chi phối sự vận động, phát triển của đối tượng. Điều quan
trọng đối với các nhà khoa học trong quá trình nghiên cứu phải phân tích đầy đủ
và chính xác tất cả các mối liên hệ trong hệ thống, xác định được những mối liên
hệ có tính luật để tìm ra thuộc tính bản chất quy định sự tồn tại, vận động và phát
triển của đối tượng. Nghĩa là thông qua phân tích các mối liên hệ trong hệ thống
để tìm ra quy luật nội tại của hệ thống, nhờ đó xác định được những giải pháp tối
ưu thúc đẩy đối tượng phát triển theo hướng tốt nhất.
Khi phân chia đối tượng thành từng bộ phận để nghiên cứu cần phải giữ
vững tính nhất thể của hệ thống. Cần xác định tính hướng đích (mục tiêu) của hệ
thống và từ đó xác định rõ mục tiêu cụ thể của các bộ phận trong hệ thống để đạt
tới mục tiêu chung. Khi nghiên cứu các mối liên hệ trong hệ thống phải xác định

rõ những mối liên hệ cơ bản tạo nên tính tổng thể hoàn chỉnh, trọn vẹn của đối
tượng nghiên cứu. Trên cơ sở đó phát hiện tính trội của hệ thống. Tính trội này khi
ở từng phần tử bộ phận riêng là không thấy được, không quan sát được. Tính trội
trong chỉnh thể khác với tổng các phần tử của hệ thống.
Ba là, nghiên cứu đối tượng trong mối liên hệ với các sự vật, hiện tượng
khác, với môi trường, tìm ra các mối liên hệ bên ngoài và điều kiện ảnh hưởng
đến sự tồn tại, phát triển của đối tượng.
Sự vận động, phát triển của đối tượng nghiên cứu không chỉ bị chi phối bởi
các mối liên hệ bên trong mà còn bị tác động bởi các mối liên hệ bên ngoài. Mối
liên hệ bên ngoài là mối liên hệ giữa đối tượng nghiên cứu với các hệ thống bên
ngoài. Hệ thống bên ngoài bao gồm các hệ thống đồng đẳng và hệ thống vĩ mô,
tạo thành môi trường bên ngoài của đối tượng nghiên cứu. Quá trình nghiên cứu
phải đặt đối tượng trong môi trường, chỉ ra sự chi phối lẫn nhau giữa đối tượng
18


với môi trường trong mối tương tác với các hiện tượng khác, tìm ra mối liên hệ
của đối tượng với các sự vật, hiện tượng có liên quan.
Muốn thấy được tính chất tổng thể, hoàn chỉnh, trọn ven của đối tượng
nghiên cứu, phải đặt đối tượng nghiên cứu trong mối liên hệ với các hiện tượng
khác, vào một hệ thống nào đó mà xem trong hệ thống ấy, trong thời điểm nào đó
cái gì là hạt nhân. Nghĩa là, nghiên cứu mối quan hệ giữa hệ thống với môi trường
cũng như ngoại cảnh môi trường tác động lên sự hoạt động của hệ thống, để từ đó
tìm ra được cách điều khiển hệ thống trong môi trường.
Bốn là, sử dụng phương pháp hệ thống phát hiện ra lôgíc cấu trúc của một
đề tài khoa học, trình bày kết quả nghiên cứu rõ ràng, khúc triết chặt chẽ.
Phương pháp hệ thống – cấu trúc không chỉ định hướng cho các nhà khoa
học về phương pháp khám phá đối tượng mà còn định hướng cho việc xem xét,
đánh giá và trình bày một đề tài khoa học. Quá trình nghiên cứu cần kết hợp chặt
chẽ phương pháp phân tích hệ thống (phân hoá) với tổng hợp hệ thống (nhất thể

hoá). Tức là phải kết hợp quá trình phân tích vi mô với quá trình tổng hợp vĩ mô trong
nghiên cứu khoa học.
Thông qua phương pháp phân tích và tổng hợp hệ thống để xem xét, đánh
giá về bố cục và cấu trúc, lôgíc nội dung của một đề tài khoa học. Khi xem xét,
đánh giá một đề tài nghiên cứu khoa học, trước hết cần phải xem cấu trúc tổng thể
của đề tài đó có đảm bảo tính lôgíc hệ thống không. Mặt khác, khi trình bày các
kết quả nghiên cứu phải đảm bảo tính lôgíc hệ thống trong toàn bộ đề tài. Nghĩa
là phải trình bày các vấn đề nghiên cứu theo một cấu trúc rõ ràng, cân đối và biện
chứng, tạo ra sự nhất quán, rằng buộc lẫn nhau, hỗ trợ và làm sáng tỏ cho nhau
giữa các phần các mục, các nội dung từ đầu đến cuối.
3.3. Phương pháp phân tích và tổng hợp.
Đối với phương pháp phân tích: Thực chất của phương pháp này là nghiên
cứu các văn bản, tài liệu (trong xây dựng Đảng, nghiên cứu các tác phẩm kinh
19


điển, các văn kiện, nghị quyết của Đảng...) về một chủ đề bằng cách phân chia
chúng thành những bộ phận, những mặt theo những dấu hiệu cụ thể để hiểu một
cách đầy đủ, toàn diện và từ đó chọn lọc ra những thông tin quan trọng để phục vụ
cho đề tài nghiên cứu. Phân tích lý thuyết nhằm phát hiện những xu hướng, những
trường phái nghiên cứu của từng tác giả và từ đó chọn lọc ra những thông tin quan
trọng phục vụ cho đề tài nghiên cứu của mình. Phương pháp này bao gồm phương
pháp phân tích và phương pháp tổng hợp
Đối với phương pháp tổng hợp: Là phương pháp liên kết từng mặt, từng bộ
phận thông tin đã thu thập được để khái quát thành những luận điểm, nhận định,
đánh giá, những bài học kinh nghiệm thực tiễn trong công tác xây dựng Đảng, tạo
ra một hệ thống lý thuyết mới đầy đủ, sâu sắc về vấn đề xây dựng Đảng. Tổng hợp
lý thuyết được thực hiện khi đã thu thập tương đối đầy đủ và phong phú các thông
tin về Đảng, cho chúng ta tài liệu toàn diện và đầy đủ hơn từ các thông tin đã có.
Phân tích và tổng hợp có chiều hướng trái ngược nhau nhưng có mối quan

hệ chặt chẽ và thống nhất biện chứng với nhau, cái nọ làm điều kiện, tiền đề cho
cái kia và ngược lại. Nghiên cứu lý thuyết thường bắt đầu từ sự phân tích các tài
liệu để tìm ra cấu trúc các lý thuyết, các trường phái, các xu hướng phát triển của
lý thuyết. Từ phân tích, tổng hợp chúng lại để xây dựng thành một hệ thống khái
niệm, phạm trù, tiến tới tạo thành các lý thuyết khoa học mới.
Cơ sở quan trọng nhất để các nhà nghiên cứu khoa học tiến hành các thao
tác phân tích và tổng hợp lý thuyết là dựa trên các khái niệm, phạm trù khoa học,
biết xây dựng khái niệm, biết thao tác trên khái niệm.
Về xây dựng khái niệm: Khoa học tồn tại bằng khái niệm. Khái niệm là
hình thức tư duy của con người về những thuộc tính, bản chất của sự vật và mối
liên hệ của những đặc tính đó với nhau. Khái niệm được tồn tại trong quá trình
nhận thức hay tư duy của con người bắt đầu từ những tri giác hay bằng từ những
quan sát sự vật hiện thực tác động vào giác quan. Nhà nghiên cứu khoa học hình
thành những khái niệm để tìm hiểu mối quan hệ giữa các khái niệm với nhau, để
20


phân biệt sự vật này với sự vật khác và để đo lường thuộc tính bản chất của sự vật
hay hình thành khái niệm nhằm mục đích xây dựng cơ sở lý luận cho vấn đề
nghiên cứu.
Cấu trúc của khái niệm gồm 2 bộ phận: Nội hàm và ngoại diên. Để xây
dựng khái niệm khoa học, nhà nghiên cứu phải tự mình xác định nội hàm và ngoại
diên của khái niệm, đồng thời phải lựa chọn thuật ngữ để biểu đạt khái niệm đó.
Trong mỗi khái niệm, có thể dùng các thuật ngữ tương đương hoặc các thuật ngữ
đồng nghĩa. Thuật ngữ được lựa chọn phải mang tính khoa học, trong sáng, diễn
đạt chính xác bản chất của sự vật, làm rõ nội hàm và ngoại diên của khái niệm.
Trong quá trình phân tích và tổng hợp lý thuyết, người nghiên cứu phải thực
hiện các thao tác trên khái niệm, như mở rộng, thu hẹp, phân chia khái niệm,
chuyển từ khái niệm này sang khái niệm khác, từ khái niệm hẹp sang khái niệm
rộng hoặc ngược lại. Mục đích của việc mở rộng hay thu hẹp khái niệm là để xác

định những phạm trù liên quan đến đối tượng nghiên cứu.
Phân tích và tổng hợp lý thuyết là phương pháp sử dụng thường xuyên trong
nghiên cứu khoa học xây dựng Đảng. Trong đó, khái niệm là công cụ chủ yếu
trong thao tác phân tích và tổng hợp. Để phân tích và tổng hợp lý thuyết, người
nghiên cứu phải nắm vững các khái niệm, dựa vào các khái niệm đã có để xây
dựng các khái niệm mới.
3.4. Phương pháp điều tra.
Điều tra là phương pháp khảo sát một nhóm đối tượng trên một diện rộng
nhằm phát hiện các quy luật phân bố, trình độ phát triển, những đặc điểm về mặt
định tính và định lượng của đối tượng cần nghiên cứu.
Điều tra được sử dụng cả trong nghiên cứu khoa học tự nhiên và khoa học
xã hội. Các tài liệu thu thập được bằng phương pháp điều tra sau khi đã xử lý sẽ là
những thông tin cần thiết về đối tượng, là căn cứ quan trọng để đề xuất những giải
pháp khoa học cho vấn đề nghiên cứu.
21


Phương pháp điều tra có hai loại hình thường dùng là điều tra cơ bản và
điều tra xã hội học. Điều tra cơ bản là khảo sát sự có mặt của các đối tượng trên
một diện rộng để nghiên cứu các quy luật phân bố cũng như các đặc điểm về mặt
định tính và định lượng. Ví dụ: Điều tra địa hình, địa chất; điều tra dân số, trình độ
văn hóa của quốc gia; điều tra về chỉ số thông minh của học viên; điều tra về khả
năng sẵn sàng chiến đấu, tình hình kỷ luật của một đơn vị quân đội...
Điều tra xã hội học là điều tra quan điểm, thái độ của quần chúng về một sự
kiện chính trị xã hội, hiện tượng văn hóa, thị hiếu nào đó. Ví dụ: Điều tra về lòng
tin của quần chúng nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng. Điều tra xã hội học
thường được sử dụng phổ biến trong nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn
bằng cách trưng cầu ý kiến thông qua phỏng vấn, hội thảo hoặc hệ thống anket...
Phỏng vấn là hình thức trưng cầu ý kiến thông qua nói chuyện trực tiếp giữa
nhà khoa học với các đối tượng cần biết ý kiến. Câu hỏi phỏng vấn phải được

chuẩn bị trước, được sắp xếp theo trật tự của suy luận logic phù hợp với chủ đề đã
được xác định. Người phỏng vấn phải có nghệ thuật chủ động dẫn dắt làm cho
cuộc trò chuyện diễn ra tự nhiên và người được phỏng vấn bộc lộ đúng quan điểm,
tâm trạng của mình. Cách thức phỏng vấn được thực hiện theo các loại hình:
Phỏng vấn có chuẩn bị trước; phỏng vấn không chuẩn bị trước; trao đổi trực tiếp;
trao đổi qua điện thoại hoặc qua e-mail. Quá trình phỏng vấn có thể được ghi âm,
tốc ký hay quay phim để có tài liệu đày đủ về đối tượng.
Hội thảo là phương pháp thu thập thông tin bằng cách tổ chức cho các đối
tượng nghiên cứu tham gia tranh luận khoa học về các tình huống liên quan đến
vấn đề nghiên cứu, thông qua đó để bộc bộc lộ quan điểm, tư tưởng của bản thân.
Điều quan trọng nhất trong kỹ thuật tổ chức hội thảo là khéo léo đặt câu hỏi tạo
tình huống thu hút sự tham gia tích cực của các thành viên và tạo bầu không khí
tranh luận thực sự khoa học.
Anket là hệ thống câu hỏi bằng văn bản với các phương án trả lời khác
nhau, người được hỏi chọn phương án trả lời theo quan niệm và nhận thức của
22


mình. Anket là phương pháp điều tra xã hội học quan trọng trong nghiên cứu các
môn khoa học xã hội và nhân văn nói chung và trong nghiên cứu khoa học xây
dựng Đảng nói riêng. Anket có hai loại gồm anket đóng và anket mở. Anket đóng
là hệ thống các câu hỏi với các phương án trả lời sẵn, người được hỏi chỉ việc
chọn một trong các phương án trả lời đã có. Anket mở là hệ thống câu hỏi
vừa có phương pháp trả lời sẵn, vừa có chỗ để người được hỏi có thể bổ sung ý
kiến riêng của mình.
Đối với các môn khoa học khoa học xã hội và nhân văn, vấn đề quan trọng
nhất của kỹ thuật xây dựng phiếu điều tra trong quá trình nghiên cứu là thiết kế hệ
thống câu hỏi. Câu hỏi phải ngắn gọn, rõ ràng, đúng mục đích để người trả lời
không thể hiểu sai hoặc đoán mò. Các câu hỏi phải có tính hệ thống và được sắp
xếp khoa học, đảm bảo hỗ trợ cho nhau vừa kiểm tra lẫn nhau. Mỗi câu hỏi nhằm

thu thập một lượng thông tin cần thiết và khi tập hợp các thông tin đó sẽ làm bộc
lộ nhận thức, tâm trạng hay quan điểm chung của xã hội theo mục đích điều tra.
Một là, chọn mẫu điều tra: Việc tiến hành điều tra phải tiến hành trên các
mẫu điều tra xác định. Mẫu điều tra là giới hạn phạm vi, kích thước của đối tượng
được điều tra. Mẫu điều tra phải đại diện cho số đông, bao quát được những đặc
trưng của đối tượng. Có hai kỹ thuật chọn mẫu là chọn mẫu xác suất ngẫu nhiên
và chọn mẫu theo chủ định. Kích thước của mẫu phải phù hợp với chiến lược điều
tra và phạm vi nghiên cứu của đề tài.
Hai là, tiến hành điều tra: Việc tiến hành điều tra phải được thực hiện cẩn
thận, nghiêm túc, theo đúng kế hoạch đã xác định, ở từng giai đoạn và trên từng
địa bàn. Đặc biệt, phải xác định khâu then chốt của một quá trình điều tra để tập
trung hơn. Phải bám sát, theo dõi các diễn biến, đánh dấu những điểm cần lưu ý,
cần điều chỉnh trong quá trình điều tra, sử dụng linh hoạt, sáng tạo các loại hình,
các kỹ năng điều tra để thu thập được những tài liệu sát thực về đối tượng. Tài liệu
thu thập được phải đảm bảo tính hệ thống, cơ bản, toàn diện về đối tượng. Phải
23


chọn thời điểm điều tra thích hợp, phải tạo được bầu không khí tự nhiện, cởi mở
trong buổi làm việc.
Ba là, xử lý tài liệu: Các tài liệu thu thập được bằng phương pháp điều tra
phải thông qua xử lý để rút ra kết luận định tính và định lượng. Để xử lý định
lượng các số liệu điều tra, người nghiên cứu phải sử dụng phương pháp thống kê
toán học tính toán các chỉ số thu thập được. Mức dộ xử lý định lượng càng chi tiết,
độ tin cậy của các luận điểm trong đề tài khoa học càng cao. Khi xử lý kết quả
điều tra phải lưu ý tới trình độ học vấn, đặc điểm nhận thức, thái độ, động cơ của
người trả lời. Đặc biệt phải lưu ý cẩn trọng với những ý kiến của tập thể có dấu
hiệu phát triển không bình thường.
Bốn là, kiểm tra kết quả điều tra: Để đảm bảo tính chính xác của các tài liệu
thu thập được, có thể kiểm tra kết quả nghiên cứu bằng cách lặp lại kiểm tra hoặc

thay đổi thời gian, địa điểm, thay người điều tra và có thể sử dụng các phương
pháp nghiên cứu hỗ trợ khác.
Như vậy, điều tra là phương pháp nghiên cứu thực tiễn quan trọng, có nhiều
ưu điểm. Tuy nhiên, điều tra cũng có những nhược điểm nhất định, kết quả điều
tra có thể cho ta thông tin bản chất về đối tượng, nhưng cũng nhiều khi chỉ cho ta
thông tin hỗ trợ bổ sung hay để kiểm tra kết quả của các phương pháp khác. Trong
mọi trường hợp, kết quả điều tra đều phải được kiểm chứng lại khi
đưa ra các kết luận khoa học.

3.5. Quan điểm thực tiễn và phương pháp tổng kết thực tiễn.
Là phương pháp dùng lý luận để nghiên cứu, phân tích, xem xét lại những
thành quả hoạt động thực tiễn của công tác xây dựng Đảng trong quá khứ nhằm
rút ra những kết luận, những đánh giá, những kinh nghiệm, những vấn đề thực tiễn
đang đặt ra cần giải quyết cho vấn đề nghiên cứu. Tổng kết thực tiễn thường
hướng vào nghiên cứu diễn biến và nguyên nhân của các sự kiện, nghiên cứu các
24


giải pháp thực tiễn đã áp dụng trong công tác tổ chức, xây dựng và hoạt động của
Đảng để rút ra những bài học kinh nghiệm, tìm ra những giải pháp tối ưu nhất cho
công tác xây dựng Đảng.
Phương pháp này rất quan trọng và được sử dụng nhiều trong nghiên cứu khoa
học xây dựng Đảng, nhưng nếu tổ chức không chặt chẽ sẽ thu được những kết quả rất
vụn vặt. Để sử dụng tốt phương pháp này, cần thực hiện các bước cơ bản sau:
Một là, phát hiện các sự kiện điển hình: Sự kiện điển hình là sự kiện có ảnh
hưởng hưởng đối với cuộc sống và hoạt động thực tiễn của một tổ chức đảng. Điển
hình chủ yếu là những thành công vang dội, nhưng cũng có thể bao gồm những sự
kiện điển hình về thất bại gây nên tổn thất lớn. Những điển hình này thường tự bộc
lộ như những sự kiện quan trọng mà mọi người đều quan tâm. Sự kiện điển hình
được lựa chọn để nghiên cứu, tổng kết kinh nghiệm phải có sức thuyết phục cao và

có thể phổ biến rộng rãi cho nhiều người cùng nghiên cứu tiếp thu.
Hai là, gặp gỡ, trao đổi với các nhân chứng: Nhân chứng là những người đã
theo dõi, đã chứng kiến hoặc những người đã trực tiếp tham gia sự kiện. Thực tiễn
công tác xây dựng Đảng, nhất là công tác xây dựng đảng trong những điều kiện khó
khăn phức tạp (như trong chiến tranh) có những thuộc tính đặc biệt mà chỉ có
những người trực tiếp tham gia mới cảm nhận được đầy đủ. Vì vậy, trong nghiên
cứu tổng kết kinh nghiệm xây dựng Đảng, cần phải tạo điều kiện cho những người
đã trực tiếp tham gia mô tả lại diễn biến của các sự kiện đó, đưa ra những nhận
định, đánh giá về nguyên nhân, diễn biến và bày tỏ cảm xúc của mình.
Ba là, dựng lại quá trình phát triển của đối tượng: Việc khôi phục lại sự
kiện đã xảy ra phải cố gắng đạt tới nguyên bản. Cần phải làm rõ hoàn cảnh nảy
sinh kinh nghiệm và thực trạng chất lượng ban đầu của sự kiện. Chỉ ra những yêu
cầu khách quan và những động lực đầu tiên thúc đẩy sự kiện đó phát triển; những
chuyển biến căn bản của sự vật, hiện tượng và những nhân tố tác động đến sự
chuyển biến đó; tình trạng hiện nay của sự vật, hiện tượng.
25


×