Tải bản đầy đủ (.doc) (50 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO NGHIÊN cứu LỊCH sử TRIẾT học THEO DÒNG CHẢY LỊCH sử từ cổ đại đến HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (284.34 KB, 50 trang )

1

NGHIÊN CỨU LỊCH SỬ TRIẾT HỌC THEO DÒNG CHẢY TỪ CỔ ĐẠI
ĐÊN HIỆN NAY
Lịch sử triết học với tư cách là dòng chảy liên tục từ thời cổ đại đến hiện
nay luôn là cuộc đấu tranh tư tưởng và lý luận triết học của các trường phái triết
học khác nhau từ Đông sang Tây . Nó chỉ rõ tính chất đúng đắn, tiến bộ của thế
giới quan duy vật và tính chất hạn chế, sai lầm của thế giới quan duy tâm. Nghiên
cứu lịch sử triết học cho ta khả năng hiểu biết về sự phát sinh, hình thành và phát
triển tư tưởng triết học của nhân loại. Lúc nào, ở đâu có sự nghiên cứu trên bình
diện vấn đề quan hệ giữa vật chất và ý thức thì lúc đó, ở đó việc nghiên cứu triết
học được bắt đầu.
Với tính cách là một khoa học, lịch sử triết học là sự phát triển của tư tưởng
triết học theo một dòng chảy liên tục qua các giai đoạn khác nhau của xã hội
không những giúp ta nắm được nhiệm vụ, đối tượng của triết học và vấn đề cơ
bản của nó. Mà còn, qua việc giải quyết hai mặt của vấn đề cơ bản như thế nào đã
cho ta chuẩn mực để phân biệt được thế nào là chủ nghĩa duy vật và thế nào là
chủ nghĩa duy tâm. Nó khẳng định, chỉ có triết học nào gắn liền mật thiết với đời
sống, với thực tiễn thì mới giúp con người tìm ra được chân lý khách quan, và
hơn thế nữa, giúp con người không những giải thích thế giới mà còn cải biến thế
giới phù hợp với qui luật, vì mục tiêu hạnh phúc của con người. Nghiên cứu lịch
sử triết học cho ta những kinh nghiệm của những nhận thức khoa học, sự hình
thành và phát triển của những phương pháp nhận thức khoa học, góp phần xây
dựng phương pháp tư duy đúng đắn. Lịch sử đã chứng minh rằng sự hình thành và
trong quá trình phát triển lâu dài của mình, chủ nghĩa duy vật cũng như phương
pháp tư duy biện chứng đã có nhiều đóng góp to lớn thúc đẩy xã hội phát triển.
Chủ nghĩa duy tâm với những hạn chế của mình đã kìm hãm sự phát triển của xã
hội.
Dưới ánh sáng của nhân sinh quan mácxít chúng ta đã hiểu sâu sắc quá trình
đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm chỉ là một hình thức đặc
biệt của sự giao lưu các hệ tư tưởng triết học trong toàn bộ lịch sử của nó. Trong


quá trình đấu tranh với các học thuyết đối lập, mỗi học thuyết triết học cũng tự
đấu tranh với bản thân mình để vươn lên trình độ mới. Mối quan hệ đấu tranh nói
trên khiến cho triết học của một thời đại, thể hiện qua các hệ thống triết học khác
nhau, có thể vươn lên phía trước hay thụt lùi lại phía sau so với điều kiện vật chất
của thời đại đó.


2

Triết học Mác-Lênin là đỉnh cao của sự phát triển triết học nhân loại. Sự
thống nhất hữu cơ, tính khoa học và cách mạng trong chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử đã đưa chủ nghĩa Mác-Lênin trở thành học
thuyết triết học hoàn bị nhất, triệt để nhất từ trước tới nay. Chủ nghĩa Mác- Lênin
từ khi ra đời đến nay luôn luôn là vũ khí lý luận của giai cấp công nhân, nhân dân
lao động, của lực lượng tiến bộ để chống lại các quan điểm tư tưởng của lực
lượng đối lập, thù địch nhằm giải phóng con người thoát khỏi áp bức bóc lột, bất
công trong xã hội. Một giai cấp, một dân tộc, một quốc gia muốn có một đường
lối, quan điểm phát triển đúng cần phải có tư duy lý luận khoa học. Tư duy lý luận
ấy chính là sự kế thừa và phát triển những tư duy lý luận trước đó và nâng nó lên
ngang tầm với yêu cầu của thời đại. Con đường đi đó không được áp dụng rập
khuôn máy móc mà phải đặt vào trong mối quan hệ lịch sử đời sống vật chất tinh
thần của xã hội mình, trước hết vào điều kiện kinh tế-xã hội để làm cơ sở hoạch
định những chủ trương đường lối đúng đắn của mình. Để chủ nghĩa Mác-Lênin
luôn luôn là vũ khí lý luận sắc bén, cần phải luôn kế thừa, phát huy và phát triển
sáng tạo, phù hợp với sự vận động và phát triển của khoa học hiện đại cũng như
những điều kiện thực tiễn mới mẻ và trong từng hoàn cảnh cụ thể của mỗi nước.
Từ khi ra đời, Đảng luôn lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng và
kim chỉ nam cho mọi hành động cách mạng của mình đồng thời vận dụng một
cách sáng tạo, linh hoạt, phù hợp với quá trình vận động, phát triển của cách
mạng, của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vì thế để nắm vững chủ nghĩa

Mác- Lênin, nắm vững chủ trương, đường lối của Đảng cũng như các bộ môn
khoa học khác chúng ta không thể không nghiên cứu lịch sử triết học. Bằng
những sự kiện lịch sử và phân tích khoa học, lịch sử triết học đã trang bị cho
chúng ta vũ khí tư tưởng đấu tranh chống lại việc đánh giá vô căn cứ về các nhà
triết học tiến bộ, nhằm hạ thấp vai trò của họ, cũng như tâng bốc một số nhà triết
học phản tiến bộ về mặt lịch sử, chống lại quan điểm sai lầm cho rằng, lịch sử
phát triển của triết học là có giới hạn, một lúc nào đó nó sẽ đạt tới tuyệt đỉnh,
ngoài ra không cần đến thứ triết học nào nữa. Mặt khác nó còn giúp ta thấy rõ
được sự xuất hiện của triết học Mácxít là một tất yếu lịch sử, phù hợp với lôgic
khách quan của sự phát triển tư tưởng nhân loại; thấy rõ tính chất khoa học cách
mạng của nó; việc mở rộng và phát triển triết học mácxít trong điều kiện mới của
thời đại cũng là một tất yếu lịch sử.


3

NỘI DUNG
Thế giới quanh ta có vô vàn sự vật hiện tượng phong phú, đa dạng và có thể
chia thành hai nhóm hiện tượng khác nhau đó là các hiện tượng vật chất và các
hiện tượng tinh thần. Theo quan niệm mácxít triết học là một hình thái ý thức xã
hội, là học thuyết về những nguyên tắc chung nhất của tồn tại và nhận thức, về
thái độ của con người đối với thế giới; là khoa học về những quy luật chung nhất
của tự nhiên, xã hội và tư duy. nghiên cứu mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
(tinh thần). Đó là mối quan hệ chung nhất làm cơ sở cho các mối quan hệ khác
của triết học. Vì thế mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là vấn đề cơ bản của triết
học, nó làm cơ sở cho việc phân biệt giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm
trong triết học, vấn đề cơ bản của triết học bao gồm hai mặt:
Mặt thứ nhất, trả lời cho câu hỏi: Ý thức hay vật chất, tinh thần hay tự nhiên
có trước, cái nào quyết định cái nào? Khi giải đáp câu hỏi đã đặt ra, các học
thuyết triết học đã chia thành hai trào lưu cơ bản là chủ nghĩa duy vật (đại diện

cho những yếu tố tiến bộ, cách mạng) và chủ nghĩa duy tâm (đại diện cho những
mặt còn hạn chế, lạc hậu).
Chủ nghĩa duy vật khẳng định vật chất có trước, ý thức có sau, thế giới vật
chất tồn tại một cách khách quan độc lập với ý thức con người; ý thức là phản ánh
thế giới khách quan vào bộ óc con người.
Chủ nghĩa duy vật trải qua lịch sử phát triển có ba hình thức khác nhau. Hình
thức thứ nhất là chủ nghĩa duy vật chất phác thuộc thời kỳ cổ đại còn thiếu cơ sở
khoa học. Hình thức thứ hai là chủ nghĩa duy vật siêu hình trong thời kỳ phục
hưng và còn hạn chế bởi trình độ khoa học và lợi ích giai cấp. Hình thức thứ ba là
chủ nghĩa duy vật biện chứng, được xây dựng trên cơ sở khoa học hiện đại và là
hình thức cao nhất của chủ nghĩa duy vật.
Chủ nghĩa duy tâm phân chia thành hai phái chủ yếu : chủ nghĩa duy tâm
khách quan và chủ nghĩa duy tâm chủ quan.
Chủ nghĩa duy tâm chủ quan cho rằng cảm giác, ý thức con người là cái có
trước và quyết định sự tồn tại của mọi sự vật và hiện tượng ở bên ngoài.
Chủ nghĩa duy tâm khách quan cho rằng ý thức là cái có trước thế giới vật
chất. Cái thực thể tinh thần tồn tại khách quan, nó quyết định sự tồn tại của tự


4

nhiên xã hội và tư duy con người. Chủ nghĩa duy tâm khách quan và chủ quan đều
phủ nhận sự tồn tại của thế giới tự nhiên; thừa nhận thế giới tự sáng tạo nên rất
gần gũi với tôn giáo.
Ngoài hai trào lưu cơ bản là duy tâm và duy vật còn có phái nhị nguyên luận
vì muốn dung hoà giữa chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật nên họ cho rằng
vật chất và tinh thần tồn tại song song nhưng độc lập với nhau. Nhưng thực chất
ngả về chủ ngĩa duy tâm. Vì họ thừa nhận ý thức hình thành và phát triển tự nó
không phụ thuộc vào vật chất.
Mặt thứ hai trả lời cho câu hỏi: con người có khả năng nhận thức thế giới

hay không?
Các nhà triết học duy vật khẳng định khả năng con người có thể nhận thức
được thế giới. Một số nhà triết học duy tâm cũng thừa nhận là thế giới có thể
nhận thức được, nhưng chỉ dừng lại ở mức độ là tự nhận thức, tự ý thức về bản
thân ý thức. Một bộ phận các nhà triết học duy tâm đã bác bỏ về nguyên tắc con
người có khả năng nhận thức được thế giới.
Vì bất kỳ một học thuyết, một hệ thống triết học nào cũng đều phải giải
quyết vấn đề cơ bản của triết học. Căn cứ vào cách giải quyết vấn đề cơ bản này
mà các nhà triết học được chia thành hai phái: duy tâm và duy vật và tất cả các
vấn đề có liên quan khác của triết học đều được giải quyết theo lập trường duy
tâm hay duy vật đó.
Trong suốt quá trình phát triển của lịch sử tư tưởng triết học các trường phái
triết học còn phải trả lời cho các câu hỏi: Thế giới là bất động, đứng im hay vận
động phát triển không ngừng? Các sự vật, hiện tượng của thế giới ở trạng thái cô
lập, tách rời nhau hay là có liên hệ với nhau, tác động qua lại và chuyển hoá lẫn
nhau? Giải đáp những câu hỏi đó có hai quan điểm, hai cách xem xét nhìn nhận
trái ngược nhau. Đó là phép biện chứng và phép siêu hình.
Phép biện chứng cho rằng các sự vật, hiện tượng có quan hệ qua lại với
nhau, không ngừng vận động và phát triển. Còn phép siêu hình cho rằng mọi sự
vật và hiện tượng của thế giới tồn tại cô lập nhau, tách rời và chúng luôn ở trạng
thái tĩnh, không vận động, không chuyển hoá và không phát triển v.v.
Trên quan điểm của phép biện chứng khoa học chúng ta sẽ nghiên cứu các
nét chính của lịch sử tư tưởng triết học phương Đông và phương Tây theo dòng
chảy liên tục từ thời kỳ từ cổ đại cho đến ngày nay. Bản thân nó đã mang cả
những yếu tố tích cực và những mặt còn hạn chế.


5

Lịch sử triết học là một khoa học có nhiệm vụ nghiên cứu lịch sử tư duy

triết học của nhân loại được biểu hiện thành lịch sử các hệ thống triết học nối tiếp
nhau từ cổ đại đến nay, từ đông sang tây. Việc nghiên cứ như vậy cho phép ta chỉ
ra được những qui luật cơ bản của lịch sử tư duy triết học nhân loại đã phát sinh
và phát triển như thế nào. Đồng thời việc nghiên cứu này cũng cho phép đánh giá
những giá trị và hạn chế lịch sử của các hệ thống triết học trong lịch sử và chứng
minh rằng sự ra đời của triết học Mác-Lênin (từ giữa thế kỷ XIX) là thành quả
cao nhất của tư duy triết học nhân loại.
Lịch sử triết học còn nghiên cứu lịch sử phát sinh, hình thành và phát triển
của hai phương pháp nhận thức đối lập nhau đó là phương pháp biện chứng và
phương pháp siêu hình và lịch sử đấu tranh giữa chúng luôn gắn liền hữu cơ với
cuộc đấu tranh giữa hai khuynh hướng triết học cơ bản là chủ nghĩa duy vật và
chủ nghĩa duy tâm. Cuộc đấu tranh này xuyên suốt lịch sử triết học từ cổ đại đến
đương đại, song cuộc đấu tranh đó là sự đấu tranh và thống nhất giữa các mặt đối
lập trong sự phát triển của lịch sử tư tưởng triết học.
Có thể phân kỳ của cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy
tâm theo dòng chảy lịch sử triết học qua các giai đoạn cơ bản sau: Triết học thời
cổ đại gồm triết học Ấn Độ cổ đại, triết học Trung Hoa cổ đại, triết học Hy Lạp cổ
đại; Triết học các nước Tây Âu thời trung cổ; Triết học các nước Tây Âu thời
phục hưng (cận đại); Triết học cổ điển Đức; Triết học Mác–Lênin. Sự phân kỳ
như vậy cho phép nhìn nhận lịch sử triết học diễn ra như một quá trình phát sinh,
phát triển tương ứng với sự phát triển của lịch sử nhân loại đã trải qua các hình
thái kinh tế – xã hội khác nhau từ trình độ thấp đến trình độ cao.
Có thể nói, lịch sử tư tưởng triết học từ cổ đại cho đến ngày nay, phương
Đông và phương Tây là dòng chảy liên tục, không ngừng của cuộc đấu tranh giữa
chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, của sự kế thừa phát triển những tư tưởng
tích cực; triết học Mác ra đời là một bước ngoặt cách mạng trong lĩnh vực triết
học. Điều này được thấy rõ hơn khi ta xem xét đến sự phát triển của các trường
phái triết học trên thế giới từ thời kỳ cận đại đến nay.
Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm được coi như
là một dòng chảy liên tục bởi lẽ sự phát triển của lịch sử tư tưởng triết học diễn ra

không ngừng có cả sự phủ nhận đối lập nhau và cả sự kế thừa và phát triển. Nó
diễn ra liên tục suốt từ thời kỳ cổ đại, trung đại cận đại và đến nay. Mỗi thời kỳ, ở
tại một quốc gia từ phương Đông đến phương Tây đều mang các sắc thái khác
nhau và đặc trưng cho một đất nước, hay một trường phái, tôn giáo… nhưng có sự


6

“giao lưu” trong việc giải thích thế giới và nhận biết, cải tạo thế giới. Sự đối lập
giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong triết học thực chất là vấn đề cơ
bản của thế giới quan. Cụ thể là mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại, vật chất và ý
thức.
Chính từ những vấn đề cơ bản này của triết học giữa quan điểm duy vật và
duy tâm luôn có xu hướng mâu thuẫn với nhau và đấu tranh nhau gắn liền với sự
phát triển của lịch sử thế giới nói chung và trong suốt các thời kỳ phát triển của
nền triết học thế giới nói riêng, tạo ra một “dòng chảy liên tục ” của cuộc đấu
tranh không ngừng giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Mà đại biểu
tiêu biểu cho các trường phái triết học đó là những nhà triết gia nổi tiếng. Họ cũng
đấu tranh với nhau không ngừng dưới nhiều hình thức để chứng minh khả năng
nhận thức và giải thích thế giới của mình. Tất cả họ đã đưa các luồng tư tưởng
triết học trên thế giới tạo thành một dòng chảy liên tục của cuộc đấu tranh giữa
chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm là nguyên nhân để dẫn đến kết quả của sự
ra đời triết học Mác, một bước ngoặt cách mạng trong lịch sử triết học thế giớimột hệ tư tưởng triết học đúng đắn và tiến tiến nhất. Hệ tư tưởng triết học này đã
được Lênin bảo vệ và phát triển.
Nói triết học Mác ra đời là “bước ngoặt” có ý nghĩa “cách mạng” và có sự
kế thừa phát triển những tư tưởng tích cực của các trường phái triết học trước đó
là bởi lẽ thông qua các cuộc đấu tranh giữa các hệ tư tưởng triết học khác nhau
theo trường phái chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm , thấy rõ được tính tích
cực, hạn chế của cả triết học duy vật nửa vời hay duy vật lịch sử, siêu hình, hay
duy tâm chủ quan hoặc duy tâm khách quan, trong việc giải thích thế giới, con

người và cả sự nhận biết và cải tạo thế giới.
Nền văn hóa thế giới được khởi nguồn từ văn hoá Phương Đông, mà đầu tiên
là nền văn hoá Ấn Độ cổ đại, một trong những ngọn nguồn của văn minh thế giới.
Ấn Độ là vùng đất thuộc Nam châu Á có khí hậu rất đa dạng và khắc nghiệt,
hai mặt Đông Nam và Tây Nam giáp Ấn Độ Dương, phía Bắc là dãy Hymalaya
hùng vĩ. Hymalaya theo tiếng Phạn có nghĩa là “xứ sở của tuyết”, nơi đây đã từng
là chốn tu hành, nơi khổ luyện của những đạo sỹ, nơi trú ngụ của các đấng thần
linh. Ấn Độ kết cấu kinh tế - xã hội theo chế độ quốc hữu về ruộng đất, không có
sự phân chia đối kháng giai cấp mà có sự phân chia xã hội thành 4 đẳng cấp lớn
rất khắc nghiệt, đó là: Tăng lữ (Brahman); Quí tộc (Kasatriya); Bình dân tự do
(Vai sya) và Cùng đinh, nô lệ ( K'sudra).


7

Sự hình thành và phát triển của tư tưởng triết học cổ đại Ấn Độ gắn liền với
nền văn hóa cổ đại, gồm ba thời kỳ:
Nền văn minh sông Ấn (Harappa): Từ giữa thiên niên kỷ thứ III đến giữa
thiên niên kỷ thứ II trước công nguyên (TCN). Đây là nền văn minh kỹ thuật cao
của thời kỳ cổ đại, có nhà nước và có chữ viết.
Thời kỳ nền văn hoá Véda: Kéo dài từ giữa thiên niên kỷ thứ II đến thế kỷ
thứ VII TCN. Thời kỳ này đã hình thành một văn hoá mới gọi là văn hoá Véda là cội nguồn của triết học Ấn Độ cổ đại. Trong đời sống tinh thần của nhân dân
Ấn Độ cổ đại là sự thống trị của thế giới thần thoại.
Thời kỳ nền văn hoá cổ điển: Kéo dài từ thế kỷ thứ VI đến thế kỷ thứ II
TCN. Là thời kỳ hình thành các trường phái triết học và tôn giáo về sau.
Tất cả những yếu tố tự nhiên, kinh tế chính trị, xã hội, văn hoá khoa học đã
hợp thành cơ sở hiện thực cho sự phát sinh, phát triển những hệ thống tư tưởng
triết học, tôn giáo và qui định đặc điểm của triết học Ấn Độ cổ đại.
Ngoài những đặc điểm chung của lịch sử sự hình thành và phát triển tư
tưởng triết học, lịch sử phát triển triết học Ấn Độ cổ đại còn có những đặc thù

riêng, đó là :
Hệ thống triết học mới xuất hiện thường dựa vào một hệ thống triết học đã
có từ thời cổ, sự phát triển sau đó chỉ là phát triển, hoàn thiện, tăng cường các
chứng cứ ban đầu hơn là tìm các sai lầm của nó. Do những điều kiện lịch sử đặc
biệt của mình triết học Ấn Độ cổ đại đã mang một hình thái đặc thù là triết lý ẩn
dấu sau những lễ nghi huyền bí tôn giáo, chủ nghĩa duy vật lại cần đến cái vỏ duy
tâm và chân lý biểu hiện qua thánh ca của tôn giáo. Tuy vậy, sức mạnh của tư duy
trừu tượng cao vẫn bộc lộ qua cuộc đấu tranh giữa hai luồng tư tưởng triết học
duy vật và duy tâm, giữa biện chứng và siêu hình. Các trường phái triết học, tôn
giáo vừa đấu tranh với nhau lại vừa kế thừa tư tưởng của nhau tạo nên những khái
niệm triết học, tôn giáo có tính truyền thống và hết sức phong phú. Cuộc đấu
tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm đề cập đến hầu hết các lĩnh
vực khác nhau của triết học gồm có vấn đề khởi nguyên thế giới, từ bản thể luận
đến nhận thức luận, từ tâm lý, đạo đức, đến quan điểm về chính trị, xã hội, pháp
luật…dù những hình thức muôn màu, muôn vẻ, nhưng hầu như các trường phái
triết học đều tập trung vào lý giải về căn nguyên của vũ trụ, vạn vật, chú ý đến
bản chất đời sống tâm linh và sự tương ứng, tương đồng giữa nội tâm và ngoại
giới, tìm ra căn nguyên nỗi khổ của cuộc đời, vạch ra cách thức, con đường để
giải thoát con người khỏi những nỗi khổ ấy bằng nhận thức trực giác và “ thực


8

nghiệm tâm linh”. Vì thế , tư tưởng triết học Ấn Độ gắn liền với tôn giáo. Do vậy
mà cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm thực chất là
cuộc đấu tranh giữa các trường phái tôn giáo với nhau. Theo cách phân chia
truyền thống người ta nói đến chín hệ thống triết học Ấn Độ cổ đại. Trong đó gồm
sáu hệ thống triết học chính thống (Astika) thừa nhận uy thế tối cao của kinh
Véda và đạo Bàlamôn gồm: Samkhya, Nyaya, Vaisesika, Yoga, Mimansa,
Veđanta. Và ba hệ thống triết học “không chính thống ” (Nastika) không thừa

nhận uy thế tối cao của kinh Véda và đạo Bàlamôn gồm: Lokàyata, Phật giáo,
Jaina.
Triết học Ấn Độ cổ đại đã đề cập đến hầu hết các lĩnh vực khác nhau của
triết học từ bản thể luận đến nhận thức luận lôgic học, từ tâm lí, đạo đức đến quan
điểm chính trị, xã hội, pháp luật. Sự đan xen và hoà đồng tôn giáo với các tư
tưởng triết học thể hiện ở chỗ: Trong các tư tưởng tôn giáo đã chứa đựng những
tư tưởng triết học và hầu hết các tư tưởng triết học lại ra đời trên cơ sở luận giải,
bảo vệ các tư tưởng tôn giáo. Chẳng hạn đạo Phật của Thích ca mâu ni vừa có tư
cách là một hệ tư tưởng triết học lại vừa tồn tại với tư cách là một tôn giáo lớn. Sự
phát triển về sau càng bộc lộ rõ bản chất đan xen hoà đồng này. Tính chất này còn
thể hiện ở chỗ mỗi học phái thường không có sự phân chia quá rạch ròi hay có sự
đấu tranh mang tính đối lập với nhau giữa các quan niệm duy vật với duy tâm,
biện chứng với siêu hình, bản thể luận với nhận thức luận, thế giới quan với nhân
sinh quan. Vì vậy, nó là triết học của đời sống, triết lý đạo đức nhân sinh gắn liền
với tôn giáo, nó được nảy sinh từ đời sống và đi ngay vào đời sống của nhân dân
Ấn Độ. Những tư tưởng triết học tôn giáo trong Veda, Upanishad, phật giáo… đã
có từ mấy ngàn năm trước đây, vẫn còn truyền tụng sâu rộng trong đời sống nhân
dân Ấn Độ. Nổi lên những vấn đề lớn biểu hiện của cuộc đấu tranh giữa chủ
nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm thời kỳ này là:
Vấn đề khởi nguyên thế giới : Triết học duy tâm tôn giáo coi “tinh thần
thế giới” Brahman là thực tại trước hết là nguồn gốc sinh ra thế giới bên ngoài
“kể cả con người” Đó là một thực thể tuyệt đối, bất diệt. Thế giới vật chất tuyệt
đối không hiện thực, hình ảnh của nó chỉ là ảo ảnh, sinh ra do “vô minh”. Phái
Mimána thừa nhận có sự tồn tại bản nguyên: tinh thần và vật chất trong thế giới.
Song bản nguyên “tinh thần thế giới” là thực thể duy nhất, có trước, sáng tạo và
chi phối thế giới hiện thực vật chất. Linh hồn có thể là hiện thân của “tinh thần thế
giới” và bị ràng buộc bởi thể xác, bởi thế giới hiện tượng, bởi đời sống trần tục.
Nhưng phái Védanta thì lại không thừa nhận sự tồn tại bất cứ cái gì ngoài “tinh



9

thần thế giới” Brahman hay ý thức thuần tuý. Nó trở thành cơ sở lý luận cho đạo
Hindu.
Triết học duy vật quan niệm thế giới vật chất, gồm cả con người, do các
nguyên tố vật chất sinh ra đó là nước-đất-lửa-không khí. Những yếu tố này có khả
năng tồn tại, tự vận động trong không gian để tạo thành vạn vật. Phái Pakudha
giải thích căn nguyên của vạn vật, vũ trụ bằng bẩy nguyên tố phân trong không
gian mà thành như: đất, nước, lửa, gió, khổ, vui và linh hồn. Chúng được chia
thành hai phần, phần hình là: đất, nước, lửa, gió và phần vô hình là: khổ vui và
linh hồn.
Về mối quan hệ giữa linh hồn và thể xác: Triết học duy tâm coi linh hồn
của con người là một bộ phận của tinh thần thế giới “Brahman”, tồn tại vĩnh viễn
theo luật luân hồi. Siêu thoát chính là mục đích của linh hồn là điều kiện để linh
hồn trở về với “tinh thần thế giới”.
Còn triết học duy vật giải quyết mối quan hệ giữa linh hồn và thể xác là coi
linh hồn chỉ là một thuộc tính của cơ thể, không thể tách rời, không thể độc lập
với cơ thể con người. Con người chết đi, thể xác tan rã thì ý thức cũng mất đi.
Tiêu biểu của chín trường phái triết học Ấn Độ cổ đại chính thống và không
chính thống kể trên, ta đi sâu nghiên cứu một số trường phái tiêu biểu cho chủ
nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật của triết học Ấn Độ cổ đại lúc đó là Triết học
Vêđa, Lokayata, Phật giáo. Để làm rõ những yếu tố tích cực và các mặt còn hạn
chế của nó.
Triết học Vêđa là những bộ kinh cổ nhất của Ấn Độ và cũng là của nhân
loại. Thực chất là những vần thơ truyền miệng từ đời nọ sang đời kia, ca ngợi thần
linh cao siêu và một tinh thần triết lý thuần tuý đồng thời còn là những lời cầu
nguyện những tập tục nghi lễ của người dân du mục Arya sống dọc theo sông Ấn,
sông Hằng và dãy Hymalaya. đến ngày nay kinh Vêđa gồm có 4 tập: Rig-vêđa;
Sama-vêđa; Yajur-vêđa; và Atharva-vêđa. Sau này chúng được chia thành các
trường phái triết học chính thống bằng những tác phẩm lớn như: Brahamana: gồm

các bài cầu nguyện, giải thích các nghi lễ giành cho các tu sỹ; Tác phẩm
Ananyakha: giải thích ý nghĩa huyền bí của những nghi lễ, thiên về lễ nghi hiến tế
của con người và các dạng thần linh, dùng cho các tu sỹ khổ hạnh, ẩn dật; và
Upanishad: có ý nghĩa “tri thức bí mật” biểu hiện một tinh thần mới, thiên về tư
duy của người Ấn Độ tìm tòi siêu thoát và đi tìm cái đồng nhất giữa cá nhân và vũ
trụ không phải bằng cầu cúng nghi lễ, bằng hành lễ bên ngoài, mà là hướng nội


10

bằng tri thức thuần tuý kinh nghiệm. Đó là sự giải phóng đầu tiên ý thức tự biện
khỏi lễ nghi ma thuật, hướng tới tri thức kinh nghiệm từ đời sống hiện thực.
Trường phái triết học này quan niệm rằng: Trong vũ trụ tồn tại ba lực lượng
có liên quan với nhau đó là thần linh, con người và quỉ ác. ứng với ba cõi của vũ
trụ: Thiên giới, trần thế và địa ngục đại diện cho ba lực lượng có liên quan với
nhau: thần linh, con người và ác quỉ. Các thần linh chi phối mọi hoạt động của vũ
trụ khắp ba cõi. Giai đoạn này đời sống tinh thần của nhân dân Ấn Độ cổ đại là sự
thống trị của thế giới quan thần thoại.
Về sự khởi nguyên của thế giới, triết học Véđa quan niệm rằng tự nhiên về
các vị thần linh đa dạng mà đồng điệu nhau, biểu tượng cho các hiện tượng tự
nhiên phong phú đã dần mờ nhạt. Thay vào đó, ngày càng nổi lên những nguyên
lý trừu tượng, khái quát giải thích căn nguyên và bản chất của vũ trụ bằng một
“đấng sáng tạo” duy nhất, bằng “tinh thần thế giới vô ngã ” tuyệt đối, tối cao. Xu
hướng chính là nhằm biện hộ cho học thuyết duy tâm, tôn giáo trong kinh Véđa
về cái gọi là “tinh thần sáng tạo tối cao”- Brahman sáng tạo và chi phối thế giới
này. Còn linh hồn con người (Atman) là một bộ phận của “tinh thần tối cao” Cơ
thể, nhục thể chỉ là cái “vỏ bọc” của linh hồn, là nơi trú ngụ của linh hồn, hiện
thân của “ tinh thần tối cao”, tuyệt đối bất tử Brahman và là tia nắng của ánh mặt
trời. Nên về bản chất linh hồn là đồng nhất với “linh hồn tối cao”. Trong vũ trụ, từ
cái vô cùng lớn đến cái vô cùng nhỏ, đều là sự biểu hiện của một tối cao, tuyệt

đối, duy nhất Brahman .
Về nhận thức của con người, thì Véđa cho rằng nhận thức được phân chia
thành hai trình độ khác nhau là hạ trí và thượng trí. Hạ trí có vai trò quan trọng
đối với nhận thức, là phương tiện cần thiết đưa người ta tới hiểu biết thượng trí.
Còn thượng trí là trình độ nhận thức vượt qua tất cả thế giới hiện tượng hữu hình,
hữu hạn thường xuyên biến đổi, duy nhất, bất diệt.
Phái Lokayata: khác với triết học Véda tư tưởng triết học của phái
Lokayata phát triển trong suốt nhiều thế kỷ và những người theo phái này đã luôn
chống lại những tư tưởng duy tâm, tôn giáo trong nhiều thời kỳ khác nhau.
Về sự khởi nguyên của thế giới, thì trong học thuyết về tồn tại, phái
Lokayata cho rằng : tất cả mọi sự vật, hiện tượng trong vũ trụ đều do bốn nguyên
tố đất, nước, lửa và không khí cấu thành (Trong một số văn bản khác người ta
thấy thêm yếu tố thu năm là ête). Bốn nguyên tố này có khả năng tự tồn tại, tự
hoạt động trong không gian để tạo thành vạn vật, kể cả con người. Tương ứng với
bốn nguyên tố là những nguyên tử đất, nước, lửa, không khí tồn tại ngay từ đầu,


11

không thay đổi, không bị tiêu diệt. Mọi đặc tính của các vật thể đều phụ thuộc vào
chỗ chúng là sự kết hợp của những nguyên tử nào và phụ thuộc vào số lượng, tỷ
lệ của sự kết hợp các nguyên tử. Phái Lokayata giải quyết mối quan hệ giữa ý
thức và vật chất một cách duy vật mộc mạc. Họ hiểu ý thức là thuộc tính cố hữu
của cơ thể. Rời khỏi nhục thể thì người ta không thể có ý thức.
Về nhận thức luận và logic học, thì trường phái Lokayata mang tính chất
cảm giác chủ nghĩa thừa nhận cảm giác là nguồn gốc duy nhất xác thực nhất của
nhận thức. Các giác quan có thể tri giác được các sự vật bởi vì bản thân các giác
quan cũng gồm những nguyên tố giống như các sự vật.
Về đạo đức học, phái Lokayata kịch liệt phê phán những học thuyết tuyên
truyền cho sự chấm dứt đau khổ bằng cách kìm chế mọi ham muốn dục vọng và

hy vọng sống cuộc đời hạnh phúc nơi thiên đường ở thế giới bên kia sau khi chết.
Theo phái Lokayata, đó là sự tuyên truyền cho cái chết và sự bịa đặt. Thực ra
chẳng có địa ngục mà cũng chẳng có thiên đường.
Triết học Phật giáo : Trong thời kỳ cổ đại này triết học Phật giáo là một
trào lưu tôn giáo ra đời trong làn sóng phản đối sự ngự trị của đạo Bàlamôn và
chế độ phân biệt đẳng cấp khắc nghiệt, đòi tự do bình đẳng và lý giải căn nguyên
nỗi khổ và tìm cách giải thoát con người khỏi nỗi khổ trầm luân. Nó xuất hiện
khoảng cuối thế kỷ thứ VI (TCN) ở miền Bắc Ấn Độ người sáng lập là Thích- camầu- ni (563- 483 TCN). Tư tưởng triết lý Phật giáo được ghi thành văn, thành
Kinh điển của đạo phật hiện nay rất đồ sộ.
Về vấn đề căn nguyên của thế giới, trái với các quan điểm của kinh Véda,
Upanishad, đạo Bàlamôn và các môn phái triết học đương thời thừa nhận sự tồn
tại của một thực thể siêu nhân tối cao, sáng tạo và chi phối vũ trụ – Brahman, thì
triết học đạo phật đã cho rằng vũ trụ là vô thủy, vô chung, vạn vật trong thế giới
chỉ là dòng biến hoá vô thường, vô định không do một vị thần nào sáng tạo nên
cả. Vì thế giới luôn là dòng biến ảo vô thường nên không có cái gọi là bản ngã,
không có thực thể; tất cả theo luật nhân quả cứ biến đổi không ngừng, không
nghỉ, không tìm ra nguyên nhân đầu tiên, tất cả đều theo luật nhân quả (nhân
duyên sinh), theo quá trình: sinh, trụ, di, diệt. Hay: thành, trụ, hoại, không và chỉ
có sự biến hóa ấy là thường hữu. Tất cả các sự vật hiện tượng tồn tại trong vũ trụ,
theo triết học Phật giáo, từ cái vô cùng nhỏ đến vô cùng lớn, đều không thoát ra
khỏi sự chi phối của luật nhân duyên. Cái nhân (hetu) nhờ có cái duyên (pratitya)
mới sinh ra được mà thành quả (phla). Quả lại do duyên mà thành ra nhân khác,
nhân khác lại nhờ có duyên mà thành ra quả mới… Cứ thế nối tiếp nhau vô cùng,


12

vô tận mà thế giới vạn vật, muôn loài cứ sinh sinh, hoá hóa mãi. Như vậy Phật
giáo bác bỏ Brahman “tinh thần thế giới” sáng tạo và chi phối vũ trụ của
Upanishad và đạo Bàlamôn.

Về con người, cũng do nhân duyên kết hợp và được tạo thành bởi hai thành
phần : thể xác và tinh thần. Hai thành phần ấy là kết quả hợp tan của
ngũ uẩn. Còn con người thì được cấu thành bởi các yếu tố hỗn hợp, vật chất “sắc”
và tinh thần “danh”. Danh và sắc được chia thành 5 yếu tố “ngũ uẩn”.
Cái tôi sinh lý, tức thể xác gọi là “sắc”(rupa) gồm : địa, thuỷ, hoả, phong, tức là
cái có thể cảm giác được. “Tứ diệu đế” là bốn chân lý (satya) chắc chắn, hiển
nhiên, hoàn toàn cao hơn hết, gồm :
+Khổ đế (Dukkha) : theo đạo phật thực tại nhân sinh là khổ ải, ngoài nỗi
khổ do sinh, lão, bệnh, tử, gây nên con người ta còn khổ vì không ưa mà hợp là
khổ, ưa mà phải lìa là khổ, mong không được cũng khổ, được cũng khổ mà mất
cũng khổ. đời là bể khổ.
+Tập đế (Samarudays) : tập là tụ hợp, kết tập lại. Giải thích các nguyên
nhân đã tạo ra nỗi khổ cho chúng sinh của thuyết “ Thập nhi nhân duyên” là Vô
minh (không sáng suốt), duyên hành (tâm từ trong sạch, cân bằng trở lên ô nhiễm
mất cân bằng), duyên danh-sắc (sự hội tụ các yếu tố vật chất, tinh thấninh ra thân
sác con người và các cơ quan cảm giác), duyên lục nhập (là quá trình tiếp xúc
giữa lục căn với thế giới xung quanh), duyên xúc (sự tiếp xúc, phối hợp giữa lục
căn, lục trần và thức.), duyên thụ (do tiếp xúc mà tạo ra yêu, nghét, vui, buồn.),
duyên ái (yêu thích, nảy sinh ham muốn, dục vọng.), duyên thủ (đã yêu thích rồi
thì muốn chiếm lấy, giữ lấy.), duyên hữu (hành động tạo nghiệp), duyên sinh (đã
có duyên hữu thì ắt có nghiệp quả, tức là phải sinh ra ta.), duyên lão-tử (đã có sinh
thì ắt có già đi và chết.) và do con người ta có lòng tham, sân, si. Con người
muốn còn mãi nhưng thực tại cứ biến dịch và thay đổi, muốn trường tồn nhưng
thực tại luôn biến hóa trong vòng sinh, già, bệnh, chết, không có cái gì thực là ta,
của ta, nhưng vì lòng tham dục mà luôn lầm tưởng là có ta, của ta. Bởi vậy, đã tạo
nên con người những nỗi khổ triền miên trong cuộc đời.
+Diệt đế (Nirodha) là lần theo thập nhị nhân duyên, tìm ra cội nguồn của
nỗi khổ và ái dục, dứt bỏ từ ngọn cho đến gốc mọi hình thức đau khổ, đưa chúng
sinh thoát khỏi chướng nghiệp luân hồi.
+Đạo đế (Marga) : Là con đường phải theo để diệt khổ. Con đường đó là

trung đạo mà đức phật đã vạch ra để xoá bỏ sự hôn mê, dứt bỏ được vô minh mờ
tối che lấp, đạt tới sự sáng tỏ bản nhiên, nhận ra chân bản của vạn vật, vạn sự.


13

Phật giáo nêu ra 8 con đường chính (bát chính đạo) để diệt khổ, giải thoát và đạt
tới cõi niết bàn.
Về lĩnh vực chính trị –xã hội, đạo phật là phản kháng chế độ đẳng cấp khắc
nghiệt, tố cáo chế độ xã hội bất công, đòi tự do tư tưởng và bình đẳng xã hội, nêu
lên ước vọng giải thoát con người khỏi nỗi bi kịch của cuộc đời, khuyên người ta
sống đạo đức, từ bi bác ái.
Về thế giới quan triết học, Phật giáo cho rằng mọi sự vật hiện tượng đều có
nguyên nhân đó là thuyết “nhân duyên” – chỉ quá trình nhân quả, biến đổi theo
chu trình (sinh, trụ, di, diệt). Vật chất luôn chuyển biến không ngừng, không có
cái gì tồn tại mãi mãi. Quá trình sinh diệt luân hồi. Chi phối theo nhân quả. Cuối
cùng phật phải tìm ra con đường giải thoát cho chúng sinh. Niết bàn phải được
thấu triệt bằng nhân quan tinh thần và do sự từ bỏ tất cả các luyến ái bên trong đối
với thế giới bên ngoài, theo” Bát chánh đạo” mà bất cứ thời nào, vào hoàn cảnh
nào đều có thể thực hiện được.
Nói chung đạo Phật còn đề ra những phương pháp trên con đường thực
hành tu luyện là “ngũ giới” (năm điều răn) và “lục độ” ( sáu phép tu). Trong
những giai đoạn đầu với vũ trụ quan nhân duyên, đạo phật đã có những yếu tố duy
vật và tư tưỏng biện chứng tự phát. Tuy nhiên trong luận thuyết về nhân sinh và
con đường giải thoát, tư tưởng Phật giáo vẫn còn hạn chế, mang nặng tính bi
quan, yếm thế về cuộc sống-xã hội, chủ trương “xuất thế”, “Siêu thoát” có tính
chất duy tâm, không tưởng về những vấn đề xã hội. Tuy nhiên tư tưởng phật giáo
cũng đã phản ánh thực trạng xã hội đẳng cấp khắc nghiệt và các ước vọng giải
thoát bi kịch của con người thời bấy giờ.
Tóm lại: Triết học Ấn Độ phát triển sớm, gắn bó chặt chẽ với thế giới và

phần lớn bắt nguồn từ Véda. Ngay từ đầu cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật
và chủ nghĩa duy tâm trong hệ thống tư tưởng triết học ấn độ cổ đại đã diễn ra
không kém phần gay gắt giữa thế giới quan duy tâm, tôn giáo với tư tưởng duy
vật, vô thần, giữa những quan điểm mang tính chất đa nguyên với những quan
điểm có tính chất nhất nguyên, giữa phương pháp tu luyện và địa bàn hoạt động,
càng về sau tính phong phú đa dạng càng biểu hiện rõ nét. Nó được thể hiện qua
các trường phái triết học, tôn giáo vừa đấu tranh với nhau lại vừa thừa kế thừa tư
tưởng của nhau tạo nên những khái niệm triết học, tôn giáo có tính truyền thống
và hết sức phong phú. Các luận thuyết chỉ dựa vào tiền bối phát triển , chú giải, lý
giải, không tạo ra tư tưởng triết học mới. Vì vậy nghiên cứu lịch sử tư tưởng triết
học Ấn Độ cổ đại không chỉ để tìm hiểu những nét tinh túy, độc đáo của tri thức


14

đa dạng và phong phú về tự nhiên và về con người Ấn Độ, mà cái chủ yếu là để
mài sắc tư duy, làm giàu trí tuệ của mình bằng tri thức của nhân loại đã tạo ra,
thực hiện chân lý “biết người để biết mình”, “tri cố nhi tri tân”.
Hầu hết các hệ thống triết học Ấn Độ cổ đại đều tập trung giải quyết vấn đề
nhân bản. Trong nhân sinh quan của triết học thường xoay quanh vấn đề giải thoát
hay siêu thoát khỏi vòng luân hồi (vòng tử không dừng).
Tính đan xen khó tách biệt giữa triết học và tôn giáo cũng là một đặc điểm
của triết học Ấn Độ cổ đại.
Triết học Ấn Độ cổ đại tập trung lý giải căn nguyên của thế giới, bản chất
của đời sống tâm linh, quan hệ giữa nội tâm và ngoại giới. Tìm căn nguyên của
nỗi khổ con người đồng thời tìm con đường và cách thức để giải thoát nỗi khổ. Đó
chính là triết học gắn liền với đời sống, triết lý đạo đức nhân sinh gắn liền với tôn
giáo nên những tư tưởng triết học tôn giáo trong Véda, Upanishad, Phật giáo v.v.
đã có từ mấy ngàn năm trước đây đã trở thành di sản văn hoá quí báu của văn hoá
thế giới nói chung, tư tưởng triết học nói riêng. Ngày nay vẫn còn truyền tụng sâu

rộng trong đời sống nhân dân Ấn Độ và có ảnh hưởng tác động đến các nước lân
cận và du nhập vào Việt Nam.
Do những điều kiện lịch sử đặc biệt của mình, triết học Ấn Độ cổ đại đã
mang một hình thái đặc thù: Triết lý ẩn dấu sau những nghi lễ huyền bí tôn giáo,
chủ nghĩa duy vật được bao bọc cái vỏ duy tâm. và chân lý được biểu hiện qua
thánh ca của tôn giáo. Triết học Ấn Độ cổ đại chịu sự chi phối mạnh mẽ của
Thánh kinh Véda, kinh Upanishad, đạo Phật hay các bộ sử thi cổ.
Triết học Ấn Độ cổ đại đã đề cập đến hầu hết các lĩnh vực khác nhau của của
triết học từ bản thể luận, nhận thức luận đến logic học, từ tâm lý, đạo đức đến
quan điểm chính trị xã hội, pháp luật. Triết học Ấn Độ cổ đại đã phản ánh sâu sắc
tính chất sinh hoạt xã hội Ấn Độ thời cổ.
Một trung tâm khác của triết học cổ đại, một kho tàng tư tưởng cổ xưa, rực
rỡ phong phú nhất, một chiếc nôi lớn của nền văn minh nhân loại, đó là triết học
cổ đại Trung Quốc.
Trung Quốc là một nước lớn ở miền Đông châu Á với lịch sử lâu đời, có
điều kiện thiên nhiên thuận lợi, đất đai phì nhiêu. Giai cấp và nhà nước xuất hiện
ở thiên niên kỷ thứ II TCN và trải qua nhiều thời đại khác nhau. So với phương
Tây (như La Mã, Hy Lạp cổ đại) thì lịch sử phát triển xã hội Trung Quốc có
những đặc điểm khác biệt sau: Nếu ở phương Tây thành thị là trung tâm sản xuất
thủ công nghiệp và công nghiệp. Có sự phân biệt rõ ràng ở thành thị với nông


15

thôn. Chế độ phong kiến hình thành chậm và mất đi nhanh thì ở Trung Quốc
thành thị là tâm chính trị nhưng không có khác biệt rõ ràng với nông thôn. Ruộng
đất thuộc sở hữu của nhà vua, nô lệ chỉ ở gia đình để nội trợ giúp việc. Chế độ
phong kiến độc quyền ra đời sớm và kéo dài.
Sự phát sinh, phát triển của tư tưởng triết học Trung Quốc cổ đại gắn liền với
quá trình biến đổi của điều kiện kinh tế, xã hội và sự phát triển của khoa học kỹ

thuật ở Trung Quốc ở thời kỳ cổ đại và được chia làm hai giai đoạn: Giai đoạn
Thương - Chu và giai đoạn Xuân thu - Chiến quốc.
Dưới triều đại Thương-Chu, thế giới quan thần thoại, tôn giáo và chủ nghĩa
duy tâm thần bí thống trị trong đời sống tinh thần xã hội Trung Quốc. Tư tưởng
triết học thời kỳ này gắn chặt với thần quyền và thế quyền, nó lý giải sự liên hệ
hữu cơ giữa lĩnh vực đời sống chính trị - xã hội và lĩnh vực đạo đức luân lý. Từ
trong đời sống hiện thực đã xuất hiện những quan điểm có tính chất duy vật mộc
mạc và những tư tưởng vô thần tiến bộ chống lại chủ nghĩa duy tâm, thần bí thống
trị đương thời, mở đường cho sự phát triển tiếp theo.
Sự phát triển rực rỡ của triết học Trung Quốc cổ đại là thời kỳ Xuân thu
Chiến quốc. Điều kiện lịch sử, xã hội trong thời kỳ này đã làm nẩy sinh một loạt
các trường phái triết học đa dạng như Nho gia, Mặc gia, Lão gia, Danh gia, Âm
dương gia, Pháp gia... Các trường phái triết học đó đã đấu tranh quyết liệt với
nhau và tạo nên không khí sôi động trong đời sống tinh thần xã hội Trung Quốc
cổ đại. Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm diễn ra xung
quanh các vấn đề khởi nguyên của thế thới, vấn đề cơ bản của triết học, vấn đề
con người, vấn đề đạo đức, vấn đề tri thức, vấn đề biến dịch v.v.
Đặc điểm lớn nhất về tư tưởng triết học Trung Quốc thời kỳ này là nó chịu
sự chi phối trực tiếp của những vấn đề chính trị. Nhiều học giả cho rằng đây cũng
là nét chi phối phổ biến đối với triết học Trung hoa thời Trung đại. Sự chi phối đó
khiến cho các tư tưởng gia Trung hoa cổ đại đã đặc biệt quan tâm suy tư, tìm cách
lý giải và tìm ra những triết lý, những biện pháp nhằm khắc phục hiện trạng xã
hội biến động đương thời. Đó là lý do cắt nghĩa tại sao hầu hết các học phái Trung
hoa cổ đại đều bàn về những vấn đề chính trị, đạo đức. Ngay trong cả những học
phái với chủ trương “vô vi”, xa lánh thời cuộc như học phái về Đạo của Lão tử,
Trang tử cũng không thể bỏ qua việc luận về đạo trị quốc. Học thuyết Âm–Dương
vốn là học thuyết chủ trương luận về sự biến dịch của vũ trụ cũng được sử dụng
để lý giải những vấn đề về chính trị, đạo đức của xã hội, về đạo xử thế của con
người. Đặc biệt, thời Xuân thu- Chiến quốc đã làm nảy sinh những học thuyết mà



16

nội dung căn bản của nó bàn về những vấn đề chính trị như Nho gia, Pháp gia.
Cũng vì vậy, thế mạnh của triết học Trung quốc cổ đại truớc hết thể hiện trên lĩnh
vực triết lý về xã hội, về chính trị, về đạo đức. Đương nhiên đây là đặc trưng, là
cái phổ biến nhưng không phải là tất cả những gì khi nói về triết học Trung Quốc
cổ đại.
Đặc điểm thứ hai của triết học Trung Quốc cổ đại là các phái triết học đã
diễn ra trong một bối cảnh học thuật hết sức “tự do tư tưởng” hay “đa nguyên biện
thuyết”. Có người gọi đây là thời kỳ “trăm hoa đua nở”, “trăm nhà trăm thuyết”,
“trăm nhà tranh luận” (Bách gia chư tử, bách gia tranh minh). Đây là điều không
tái hiện trong lịch sử Trung Quốc thời đại Trung đại sau này.
Những cuộc tranh luận, biện thuyết giữa các học phái đã tạo ra sự đa dạng
trong các quan điểm khác nhau về cùng một vấn đề, đã tạo ra những suy tư sâu
sắc và khá toàn diện về một vấn đề nào đó. Chẳng hạn vấn đề triết lý về “bản tính
con người”: Khổng Tử và Mạnh Tử cho rằng: bản tính con người sinh ra vốn là
thiện (tình thương người, biết liêm sỉ…). Tuân tử cũng như Hàn Phi Tử lại chủ
trương biện luận về bản tính ác của con người (tính tư hữu, vụ lợi, vị kỷ…); còn
Lão tử lại đưa ra luận thuyết về bản tính tự nhiên (không thiện, chẳng ác) của con
người. Với những quan niệm khác nhau như thế lại là xuất phát điểm cho một tư
duy triết lý về những phương cách “giáo dục” hay “pháp tự” trong đạo trị quốc
của các học phái khác nhau.
Trong quá trình biện luận cho các học vấn đề chính trị, đạo đức… đã khiến
các tư tưởng gia Trung quốc đẩy sâu quá trình suy tư về các vấn đề thuộc vũ trụ
quan và biến dịch luận. Càng về sau này những suy tư như vậy càng bộc lộ ra
những điểm tựa về vũ trụ quan cho những quan điểm về chính trị, về đạo đức. Về
căn bản, những kiến giải về vũ trụ quan của triết học Trung quốc cổ đại mang tinh
thần biện chứng sâu sắc. Điển hình cho tư duy loại này là học thuyết Âm-Dương.
Đó là trong Âm có Dương và trong Dương có Âm. Từ đó lý giải mọi hiện tượng

xã hội như trong phúc có họa, trong hoạ có phúc... Trình tự lô gíc của phái Âm
Dương được giải thích Thái cực sinh Lưỡng nghi, Lưỡng nghi sinh Tứ tượng, Tứ
tượng sinh Bát quái, Bát quái sinh vạn vật. Đây là học thuyết có ảnh hưởng
lớn và sâu sắc tới nội dung của nhiều học thuyết chính trị triết học đương thời,
nhất là Nho giáo và Đạo giáo (gia) đã giữ vai trò lớn trong sự phát triển của lịch
sử triết học. Những đặc điểm về tư tưởng triết học Trung quốc cổ đại nói trên chỉ
là những đặc điểm lớn. Việc nắm vững những đặc điểm này, một mặt cho phép


17

định hướng phân tích các hệ thống triết học như Nho gia, Đạo gia, Pháp gia, Mặc
gia, Danh gia, Âm dương gia…
Nói chung đặc điểm của cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ
nghĩa duy tâm của triết học Trung hoa thời kỳ này chủ yếu là xung quanh các vấn
đề khởi nguyên của thế giới, vấn đề cơ bản của triết học, vấn đề con người, vấn đề
đạo đức và vấn đề về tri thức.
Về vấn đề khởi nguyên của thế giới: Đây là vấn đề mà rất nhiều trường
phái triết học Trung hoa rất quan tâm và tìm mọi cách để lý giải. Những người
theo chủ nghĩa duy tâm cho rằng thế giới bên ngoài là do trời, do thượng đế sáng
tạo. Con người cũng do trời sinh ra và số phận của nó do trời qui định. Những nhà
duy vật theo thuyết Ngũ hành là Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ thì cho rằng vạn vật
trong thế giới tự do “ngũ hành” tương sinh, tương khắc mà tạo nên. Còn những
người theo thuyết “âm dương” thì quan niệm âm dương giao cảm với nhau tạo
nên trời đất vạn vật.
Vấn đề cơ bản của triết học thể hiện qua việc giải quyết vấn đề về mối quan
hệ giữa các cặp phạm trù : “hình” và “thân”, “tâm” và “vật”, “lý” và “khí”.
Những nhà duy tâm thì cho rằng “thần” có trước “hình”, “tâm” có trước “vật”,
“lý” có trước “ khí”; “hình” phụ thuộc “thần”, “vật” phụ thuộc “tâm”, “khí” phụ
thuộc “lý”.

Những nhà duy vật thì ngược lại cho rằng “hình” có trước “thần”, “vật” có
trước “tâm”, “khí” có trước “lý” và “thần” phải dựa vào “hình”, “tâm” phải dựa
vào “vật”, “lý” phải dựa vào “khí” thì mới tồn tại. Thời kỳ này chủ nghĩa duy tâm
được giai cấp thống trị cổ vũ nên đã chiếm được vị trí chủ đạo trong thế giới quan
của xã hội Trung hoa cổ đại. Tuy nhiên, các nhà duy vật do dựa trên những tri
thức khoa học tự nhiên, tiến hành quan sát giới tự nhiên , nên các quan điểm triết
học của họ đã có tác dụng trong việc phê phán các quan điểm duy tâm thần bí vốn
gắn liền với xã hội phong kiến Trung hoa.
Về vấn đề con người: Triết học Trung hoa cổ đại đề cập đến con người nói
chung, trong đó đặc biệt là vấn đề tính người và số phận con người là vấn đề nổi
bật. Điều đó được thấy rõ khi giai cấp thống trị Trung Hoa không hiểu được
nguyên nhân sâu xa của tình trạng rối loạn trong xã hội, sự chống đối liên tục của
nhân dân đối với triều đình. Họ qui tất cả là do tính người và tính cố gắng tìm
cách giải thích bản tính người để mong có những giải pháp trị yên đất nước. Các
nhà duy tâm cho rằng tính người do trời phú và nghĩa vụ của con người với xã hội


18

như thế nào là phụ thuộc vào tính trời phú đó. Muốn có sự thống nhất đạo đức
trong xã hội phong kiến thì cần phải tiến hành giáo dục. Các nhà duy vật thì cho
rằng tính người (tư tưởng, tình cảm, tâm lý con người) là do hoàn cảnh bên ngoài
sinh ra, nhưng ham muốn dục vọng của con người là điều tự nhiên trong cuộc
sống, không có gì xấu xa.
Còn về số phận con người thì các nhà duy tâm gắn với mệnh trời. Mệnh trời
chi phối cuộc sống xã hội và cuộc đời mỗi người. Giữa trời và người có sự thông
cảm( thiên nhân cảm ứng). Phật giáo Trung hoa thì cho rằng cuộc đời con người ở
trong vòng số kiếp, kiếp này là quả của kiếp trước và nhân của kiếp sau.
Các nhà duy vật thì cho rằng trời là giới tự nhiên, đạo trời và mệnh trời là
do sự vận hành có tính qui luật của giới tự nhiên không liên quan gì đến việc trị

loạn của con người. Cái đáng sợ không phải là “mệnh trời” mà là “nhân hoa”. Tuy
nhiên, do sự khó khăn trong việc giải thích vấn đề số kiếp con người, cho nên
quan điểm của chủ nghĩa duy tâm về vấn đề đó vẫn là quan điểm thắng thế trong
lịch sử triết học Trung hoa cổ đại.
Về vấn đề tri thức: Đây là vấn đề được xem là nổi bật nhất trong triết học
Trung hoa cổ đại. Nội dung của vấn đề này là các nhà triết học muốn bàn đến khả
năng nhận thức của các hạng người trong xã hội; thánh nhân và phàm nhân, kẻ
thượng trí và người hạ ngu. Các nhà duy tâm mà tiêu biểu là Khổng Tử thì cho
rằng bậc thánh nhân hay thượng trí thì sinh ra đã hiểu biết , còn người phàm nhân
và kẻ hạ ngu (nhân dân lao động) thì dù có học thì cũng không thể biết được.
Quan niệm đó phục vụ cho chính sách ngu dân thần bí của giai cấp thống trị.
Các nhà duy vật thì luôn quan niệm rằng ai cũng phải học thì mới biết được,
do đó mọi người dù thánh nhân hay phàm nhân, thượng trí, hạ ngu đều phải học.
Đến đây ta có thể thấy điểm hạn chế chung của triết học Trung hoa cổ đại
kể cả duy tâm và duy vật đều không lấy giới tự nhiên làm đối tượng nghiên cứu,
vì vậy tri thức luận của họ không trở thành công cụ đắc lực khám phá cải tạo tự
nhiên.
Vấn đề đạo đức: Đây là một trong những vấn đề chiếm vị trí trung tâm
trong triết học Trung hoa cổ đại. Những phạm trù đạo đức như “lễ”, “nghĩa”,
“nhân” được các nhà triết học đặc biệt chú ý. “Lễ” đóng vai trò quan trọng trong
đời sống đạo đức và đời sống chính trị, vì “lễ” trong quan niệm của Khổng tử vừa
là nghi lễ, tế lễ, vừa là thể chế chính trị và qui phạm đạo đức. Đặc biệt những qui
định về đạo đức về “lễ” trong xã hội Trung hoa hết sức khắc nghiệt và phiền tạp.


19

Các nhà duy vật đã cố gắng làm giảm nhẹ tính chất khắc nghiệt và phiền tạp
đó, nhân dân cũng nổi lên chống lại “lễ” nhưng do tính chất bảo thủ của chế độ
phong kiến Trung hoa nên vai trò của “lễ“ vấn thống trị trong xã hội Trung hoa

lúc bấy giờ cho đến thời kỳ cách mạng tư sản nước này.
Vấn đề biến dịch: Phép biện chứng về biến dịch cũng là một nét đặc sắc
trong triết học Trung hoa cổ đại. Trong “dịch học” , các nhà biện chứng cho rằng
trời đất, vạn vật luôn luôn ở trong quá trình biến đổi không ngừng và có tính qui
luật. Nguyên nhân của mọi biến hoá đó là sự giao cảm của hai mặt đối lập như
âm- dương, nước- lửa, trời- đất và chính trị –xã hội cũng biến đổi theo qui luật tự
nhiên đó. Hạn chế của phép biện chứng này là coi sự biến hoá chỉ có tính chất
tuần hoàn theo chu kỳ khép kín, không có sự phát triển, không xuất hiện cái mới.
Để thấy rõ hơn sự phát triển của triết học Trung Hoa cổ đại mà bản thân nó
đã mang cả những yếu tố tích cực và những mặt còn hạn chế chúng ta đi sâu
nghiên cứu một số nhà triết gia tiêu biểu của các trường phái triết học Nho gia,
Đạo gia, Pháp gia…thời kỳ đó là:
Khổng Tử (551 – 479 TCN) : Tên thật là Khổng Khâu, tự là Trọng Ni, ông
là người sáng lập trường phái Nho gia. Ông vừa là nhà triết học, nhà chính trị, nhà
giáo dục nổi tiếng ở Trung quốc cổ đại. Thời đại của Khổng tử là thời đại “Bá
đạo” (đạo các nước chư hầu) đang nổi lên lấn át “Vương Đạo” (đạo của nhà Chu),
trật tự lẽ pháp của nhà Chu bị đảo lộn.
Về quan điểm thế giới : Xuất phát từ tư tưởng của “Kinh Dịch”, ông cho
rằng, vạn vật trong vũ trụ luôn sinh thành, biến hoá không ngừng theo đạo của nó.
Sự vận động và biến đổi ấy của vạn vật bắt nguồn từ mối liên hệ, tương tác giữa
hai lực “âm” và “dương” trong một thể thống nhất “Thái cực”. Cái lực vô hình
mạnh mẽ giữ cho âm-dương, trời-đất “tương thôi”, “trung hoà” để vạn vật sinh
hoá không ngừng ấy, ông gọi là “Đạo”, là “thiên lý”. Đó là thịnh đức, là đạo chi
thành của trời đất, là gốc của thiên hạ. Do cái gốc ấy mà (bốn mùa vẫn thay đổi,
vạn vật vẫn sinh trưởng, Trời có nói gì đâu). Do tin có “thiên mệnh”, nên Khổng
tử coi việc hiểu biết mệnh Trời là một điều kiện tất yếu để trở thành con người
hoàn thiện. Mặt khác ông cũng tin có quỷ thần và cho rằng quỉ thần là do khí
thiêng trong trời đất tạo thành và cho rằng quỉ thần không có tác dụng chi phối
đời sống con người. Như vậy, trong quan điểm về thế giới, tư tưởng của ông luôn
có những tính chất mâu thuẫn. Khi chống lại chủ nghĩa thần bí, tôn giáo đương

thời, ông thừa nhận sự vật hiện tượng trong tự nhiên luôn luôn tự vận động biến


20

hoá không phụ thuộc vào mệnh lệnh của trời. Đó là yếu tố duy vật chất phác và tư
tưởng biện chứng tự phát-một bước tiến so với quan điểm duy tâm, thần bí, tôn
giáo phổ biến thời Thương, Chu. Nhưmg mặt khác, ông lại cho rằng , Trời có ý
chí và có thể phân phối vận mệnh của con người, đó là một bước lùi trong tư
tưởng triết học của ông.
Về vấn đề con người, thì đạo của ông là đạo quan tâm đến con người nhiều
hơn cả nhất là vấn đề đào tạo con người. Ông cho rằng bản chất con người là sinh
vật bởi vậy phải chú ý đến mặt lễ nghĩa của con người. Con người có mặt thiện và
ác và phải tuân theo ý Trời. Quan hệ phải phù hợp trong xã hội phải đúng với
“ngũ luân”. Đó là “Phụ tử hữu thân, quân thần hữu nghĩa, phu phụ hữu biệt,
trưởng tử hữu tự, bằng hữu thì hữu tín”. Chết đói là việc nhỏ, thất lễ là việc lớn.
Về quan điểm giáo dục, thì ông cho rằng để đất nước có thái bình thịnh trị
cần phải coi trọng cải cách giáo dục và pháp luật. Nhưng giáo dục bằng cái gốc
lâu bền, giáo dục sẽ đào tạo ra những con người có nhân, lễ, trí, dũng. Còn hình
luật chỉ là cái ngọn. Dùng hình luật chỉ là tạm thời để giáo huấn con người. Xuất
phát từ quan niệm đó Khổng Tử đã dành nhiều tâm huyết vào đặt nền móng cho
nền giáo dục lý tưởng của ông. Nền giáo dục theo ông phải tuân theo những
nguyên tắc cơ bản sau : “đại học chi đạo”, “tại minh minh đức”, “tại thần dân”,
“tại tri cơ tri thiện”, để cuối cùng đạt được mục đích của sự học cũng như của
giáo dục đó là “thành ý, chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”.
Về quan hệ xã hội, theo ông xã hội phải có “lễ”. “Lễ” là quan niệm quan
trọng nhất của ông là “tiên học lễ, hậu học văn”. “Lễ” là cơ sở của tư duy và hành
động con người: không có “lễ” là không có kỷ cương và pháp luật. Nếu phi “lễ”
thì vật thị (người không có lễ thì không nhìn), nếu phi lẽ thì vật thính (không có lễ
thì không nghe), nếu phi “lễ” thì vật ngôn (không có lễ thì không nói), nếu phi

“lễ” thì vật động (không có lễ thì không đi). Mặt khác ông cũng khẳng định rằng
xã hội thì phải quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử (người làm vua cho đúng vua,
làm tôi cho đúng tôi, làm cha cho đúng cha, làm con cho đúng con). Dăn dạy mọi
người phải sống đúng danh phận của mình. Về tư tưởng ông tìm ra đường lối trị
nước là “Đức trị, lễ trị, nhân trị” và xã hội muốn phát triển thì người trị vì đất
nước phải làm tốt ba điều “đủ ăn, binh cường và dân tín”. Về dân thì ông cho rằng
đó là đối tượng để sai khiến và là người làm ra của cải nuôi sống để thống trị, bởi
vậy, con người phải “lao lực lao tâm”, nước phải lấy dân làm gốc, nước là dân
triều đình là thuyền.


21

Về vấn đề đạo đức, thì đây là một trong những vấn đề chiếm vị trí trung
tâm trong triết học Trung hoa cổ đại mà ông là người đề cập và luôn cho rằng đây
là một vấn đề quan trọng đối với con người. Ngoài việc dùng “lễ”, “nghĩa” thì
Khổng Tử dùng “nhân” để giáo hoá con người, cải biến xã hội từ loạn thành trị,
đó là biểu hiện tính tích cực, tính nhân bản của ông. Mặt khác chữ “nhân” trong
triết học của ông còn có ý nghĩa rất rộng, bao hàm nhiều mặt trong đời sống con
người, có lúc trừu tượng, có lúc cụ thể, tuỳ theo trình độ hoàn cảnh mà ông diễn
đạt nội dung của nó một cách khác nhau như vậy “nhân” là một đức tính hoàn
thiện, là cái gốc đạo đức của con người, nên “nhân” chính là đạo làm người,
“nhân” là yêu người “nhân giả ái nhân”; “nhân” là coi người như mình, cái gì
mình không muốn thì đừng làm cho người. Vì vậy đối với người làm chính trị
muốn có đức nhân thì phải làm năm điều đó là : kính trọng dân, khoan dung độ
lượng, giữ lòng tin, mẫn cán, đem lòng nhân ái mà lo cho dân và đối xử với dân.
Muốn có đức nhân thì phải có trí và dũng. Theo Khổng Tử có đức nhân thì chẳng
việc gì lo buồn, có đức trí thì chẳng có gì sai lầm và có đức dùng thì chẳng bao
giờ kinh sợ. Mặt khác ông cho rằng để cải tạo xã hội đang trong thời kỳ đại loạn,
muốn cho thiên hạ “hữu đạm”, xã hội ổn định thì mọi người đều phải chính danh.

Với học thuyết về chính danh, nhân, lễ, người quân tử của ông nhằm tới đích cuối
cùng là phục vụ đường lối chính trị “đức trị”, “lễ trị” và “nhân trị”. Chủ trương
nhân trị đã phản ánh đúng tư tưởng triết học nhân bản của ông : tin tưởng vào bản
chất tính thiện nơi con người. Chính vì vậy Khổng Tử phản đối việc dùng pháp
trị, ông cho rằng nếu dùng luật pháp mà trị dân tuy người dân không dám phạm
tội chỉ vì họ sợ chứ không phải họ biết xấu hổ mà không phạm tội. Nếu dùng đức
và lễ mà trị dân người dân biết tự giác, biết tự xấu hổ mà tuân theo. Do xuất phát
từ lập trường chính trị bảo thủ được xây dựng trên cơ sở lý luận duy tâm đó mà
ông không phản ánh được xu thế tất yếu khách quan của xã hội Trung quốc cuối
thời Xuân–Thu là xóa bỏ chế độ thị tộc nhà Chu, xác lập chế độ phong kiến, cho
nên học thuyết chính trị của ông cuối cùng không tránh khỏi thất bại. Nhìn chung,
toàn bộ học thuyết của Khổng Tử tuy có chứa đựng yếu tố tích cực, nhưng suy
cho cùng còn có những mặt hạn chế là bảo thủ về mặt xã hội và duy tâm về triết
học.
Trong học thuyết của Khổng tử các phạm trù “nhân”, “lễ”, “trí”, “dũng”,
“chính danh định phận”, có nội dung hết sức phong phú, thống nhất với nhau và
luôn đi vào mọi lĩnh vực đời sống xã hội, nó luôn cố gắng giải đáp các vấn đề đặt
ra của lịch sử, đây là thành quả kết tinh rực rỡ nhất trong triết lý nhân sinh của


22

ông và ông xứng đáng được nhân dân Trung Quốc suy tôn là “Vạn tuế sư biểu”.
Tuy vậy ở ông do điều kiện lịch sử và lợi ích giai cấp nên học thuyết triết học của
ông còn chứa đựng mâu thuẫn, vừa có duy vật lại mang tính duy tâm. Ông bảo vệ
lợi ích của giai cấp thống trị, phủ nhận đấu tranh giai cấp. Ông bộc lộ quan điểm
bảo thủ.
Trong lịch sử tư tưởng Trung Quốc, các Nho gia chủ trương “nhân trị” nên
tất cả đều phản đối cách trị nước bằng pháp luật. Tư tưởng về pháp trị được phát
triển đến đỉnh cao bởi nhà tư tưởng và nhà chính trị lỗi lạc Hàn Phi.

Hàn Phi Tử (280-233 TCN) đại diện cho trường phái Pháp gia-một học
phái triết học lớn của Trung quốc cuối thời chiến quốc đã chủ trương dùng những
luật lệ, hình pháp của nhà nước là tiêu chuẩn điều chỉnh hành vi đạo đức của con
người. Học thuyết Pháp gia trở thành vũ khí để Nhà Tần thực hiện công cuộc
thống nhất Trung Quốc.
Về quan niệm thế giới, ông kế thừa và phát triển những yếu tố vi vật của
Lão tử, Tuân tử và thừa nhận đã là qui luật tự nhiên thì phải khách quan, giới tự
nhiên không do ai sinh ra nó vận động và tồn tại theo qui luật khách quan và vĩnh
hằng của tự nhiên. Đó là “đạo”. “Đạo” là cái phổ biến và sâu sắc, cái đã phân chia
thành sự vật cụ thể có hình dáng và biến đổi liên tục.
Về xã hội, ông cho rằng muốn thu phục được thiên hạ thì điều cốt yếu là
phải có sức mạnh áp đảo về kinh tế và quân sự, còn “nhân”, “nghĩa”, “lễ”, “hiếu”,
“trung”… đều là viển vông. Theo ông : muốn có sức mạnh thì mọi quyền lực phải
được tập trung vào một ông Vua chuyên chế và ông Vua phải dùng pháp trị. Nội
dung pháp trị của Hàn Phi tử gồm 3 yếu tố cơ bản gắn chặt với nhau đó là “pháp”,
“thế” và “thuật” trong đó “pháp” là nội dung của chính sách cai trị, còn “thế” và
“thuật”như là phuơng tiện để thực hiện chính sách đó. Cả ba pháp thế và thuật đều
là công cụ của đế vương. Theo ông căn cứ vào học thuyết đạo và lý ông cho rằng
phép trị nước không thể viện dẫn theo đạo đức và phương pháp của cổ nhân như
Nho gia, Mặc gia và Lão giáo chủ trương , muốn cải cách chế độ xã hội có thì
phải dùng pháp trị. Không những thế trên quan điểm duy vật, ông thừa nhận rằng
tự nhiên không có ý chí, ý muốn chủ quan của con người cũng không thể sửa đổi
được qui luật của tự nhiên, vận mệnh của con người là do con người tự quyết
định.
Về quan điểm chính trị xã hội, ông phê phán xã hội đương thời, kiến giải và
khắc phục theo tinh thần duy vật. Ông chủ trương dẹp bỏ nho học, trú trọng vào


23


cày ruộng, đánh giá và chỉnh đốn luật pháp với quan điểm “ Đời khác thì việc
khác, việc khác thì pháp độ phải khác”.
Về vấn đề cơ bản của triết học, kế thừa và phát huy quan điểm duy vật về tự
nhiên của Lão tử và Tuân tử, Hàn Phi Tử đã giải thích sự phát sinh và phát triển
của vạn vật theo tính qui luật khách quan. Ông cho rằng, mỗi sự vật đều tự có cái
“lý” của nó. Trong đó “Đạo” là qui luật phổ biến của giới tự nhiên vĩnh viễn tồn
tại và không thay đổi. Không những thế trên quan điểm duy vật, ông thừa nhận
rằng tự nhiên không có ý chí, ý muốn chủ quan của con người cũng không thể sửa
đổi được qui luật của tự nhiên; vận mệnh con người là do con người tự quyết
định. Với tư tưởng ấy ông đã kịch liệt phê phán những học thuyết thần bí tôn giáo
đương thời và ông được coi là nhà vô thần luận nổi tiếng của Trung quốc cổ đại.
Về lịch sử , thì ông cho rằng , lịch sử xã hội loài người luôn luôn biến đổi,
từ trước đến nay không có chế độ xã hội nào vĩnh viễn tồn tại và động lực căn bản
quyết định sự biến đổi của lịch sử là do sự thay đổi dân số và của cải xã hội nhiều
ít. Như vậy ở ông đã xem lợi ích của vật chất như là cơ sở của các quan hệ xã hội
và hành vi con người. Đây là một bước tiến dài so với quan điểm duy tâm tôn
giáo về lịch sử thời đó.
Như vậy, xét ở khía cạnh của chủ nghĩa duy vật thì học thuyết Pháp gia có
nhiều yếu tố tích cực và phù hợp với yêu cầu lịch sử thống nhất Trung hoa nhưng
nó cũng vấp phải sai lầm là tuyệt đối hoá mặt pháp trị, coi thường các quan hệ đạo
đức trong xã hội. Ông dại diện cho tiếng nói của tầng lớp quí tộc mới, tiến hành
đấu tranh quyết liệt chống lại tàn dư của chế độ truyền thống công xã gia trưởng
bảo thủ, mê tín tôn giáo đương thời.
Lão Tử là ông tổ của phái Đạo gia. Sống cùng thời với khổng Tử, tiểu sử
của ông không được ghi chép rõ ràng. Toàn bộ tư tưởng của ông được trình bầy
cô đọng trong tác phẩm Đạo Đức Kinh, nổi bật nhất là ba vấn đề cơ bản như học
thuyết về “ Đạo”, tư tưởng phép biện chứng và học thuyết “Vô vi” hay những vấn
đề đạo đức nhân sinh, chính trị-xã hội. Trong đó tư tưởng về “đạo” đóng vai trò
cực kỳ quan trọng trong triết học Lão tử.
Về thế giới, thì từ sự quan sát sự vận chuyển của vạn vật trong thế giới, Lão

Tử đã rút ra qui luật về sự biến hoá của tự nhiên, đề ra học thuyết “ đạo” để giải
thích nguồn gốc hình thành vạn vật. Ông luôn xem “đạo” là cơ sở vật chất đầu
tiên cả , dùng “ đạo” để giải thích tính vật chất là tính thống nhất của thế giới, nó
không chỉ một sự vật , hiện tượng cụ thể hữu hình nào mà là tất cả mọi vật từ đó
sinh ra, là cái tồn tại vĩnh viễn, bất biến. Vạn vật dù muôn hình, muôn vẻ cũng chỉ


24

là sự biểu hiện khác nhau của một cái duy nhất đó là “Đạo”. Nghĩa là “ đạo” vừa
là cái duy nhất, vừa thiên hình vạn trạng , vừa biến hoá, vừa bất biến. Căn cứ quan
điểm ấy mà ông dã đả kích quan điểm Trời sáng tạo ra thế giới và cho rằng, Trời
không phải là căn cứ tồn tại của “Đạo”, trái lại “Đạo” có trước thần linh.
Về vấn đề triết học, ông đã cố gắng tìm ra qui luật khách quan của sự phát
triển và biến hoá, dạy mọi người hành động theo qui luật tự nhiên. Nhưng ông lại
cho rằng, con người chỉ có thể thích ứng với qui luật tự nhiên một cách bị động,
đứng trước tự nhiên con người không làm gì cả. Như vậy vô hình dung ông đã
dẫn người ta đến chỗ không cần phải tích cực đấu tranh, cải tạo tự nhiên. Đây là
mặt hạn chế trong tư tưởng triết học của ông.
Ông cũng chỉ ra rằng “Đạo” không chỉ là bản nguyên nguồn gốc vạn vật, mà
còn là con đường, là qui luật sinh thành, biến hoá của mọi sự vật, hiện tượng
trong vũ trụ. Sự vận động của vạn vật không phải là hỗn độn mà tuân theo những
qui luật tất yếu, tự nhiên nghiêm ngặt, không sự vật nào đứng ngoài qui luật đó,
kể cả trời đất, thần linh. Toàn thể vũ trụ bị chi phối bởi hai qui luật phổ biến là qui
luật bình quân và phản phục. Luật quân bình luôn giữ cho vận động được thăng
bằng, theo một trật tự điều hoà tự nhiên, không có cái gì thái quá, không có cái gì
thiên lệch hay bất cấp. “Cái gì khuyết ắt được tròn đầy, cái gì cong ắt sẽ được
thẳng, cái gì cũ thì mới lại, cái gì ít sẽ được, nhiều thì mất”. Theo Lão tử quá trình
vận động, biến đổi của vạn vật còn tuân theo luật phản phục, cái gì phát triển đến
tột đỉnh thì sẽ trở thành cái đối lập với nó. Đó là “phản giả đạo chi động”. Phản

phục có nghĩa là vạn vật biến hóa nối tiếp nhau theo một vòng tuần hoàn đều đặn,
nhịp nhàng bất tận như bốn mùa xuân hạ thu đông thay đổi qua lại. Đây là qui luật
bất di bất dịch của tự nhiên. Đặc biệt ông đã chỉ ra được sự thống nhất biện chứng
của các mặt đối lập cũng là một tư tưởng biện chứng tiến bộ, độc đáo của Lão Tử.
Tất cả mọi mặt đều có mối quan hệ đối lập, không có mặt này thì không có mặt
kia và giữa chúng cũng chỉ là tương đối. Các mặt đối lập thì trong một thể thống
nhất, qui định lẫn nhau, là điều kiện tồn tại của nhau, trong cái này có cái kia “đẹp
tức là có xấu, dài ngắn tựa vào nhau, cao thấp liên hệ với nhau…” hoặc “hoạ là
chỗ tựa của phúc, phúc là nơi ẩn của hoạ” hoặc “ai cũng cho cái đẹp là đẹp do đó
mà sinh ra quan niệm về cái xấu, ai cũng cho điều kiện là thiện mà sinh ra quan
niệm về cái ác”. Do nhấn mạnh nguyên tắc thăng bằng và phản phục trong biến
dịch đó nên Lão tử không đề cao tư tưởng đấu tranh để giải quyết mâu thuẫn mà
nhấn mạnh tư tưởng điều hoà các mặt đối lập. Do vậy, có thể nói ở học thuyết của
Lão tử không có những tư tưởng về sự phát triển.


25

Về chính trị xã hội, với luận điểm “vô vi” có nghĩa là hành động theo bản
tính tự nhiên của đạo. Chính vì vậy ông kêu gọi trị nước bằng đạo vô vi tức là
đưa xã hội và cuộc sống của con người trở về với trạng thái tự nhiên, nguyên
thuỷ, chất phác không ham muốn không dục vọng, không thể chế, không pháp
luật, không bị ràng buộc bởi truyền thống đạo đức, không cần tri thức, trí sảo, văn
hóa kỹ thuật mà theo bản tính, khả năng sở thích tự nhiên, mọi người tự làm
những việc mà mỗi người cần làm một cách tự nhiên. Hạn chế lớn của ông là ông
hoài nghi tất cả, ông chủ trương thoát tục, ông khuyên mọi người không ham vật
chất, đừng tư hữu vì “lợi” là gốc của “loạn”. Một hạn chế nữa của ông là vấn đề
nhận thức luận, theo ông không ra khỏi nhà mà biết chuyện thiên hạ, không ra
khỏi cửa mà biết được thiên đạo. Dân khó trị vì họ biết nhiều. Ông lên án chiến
tranh, mơ ước một xã hội đại đồng theo mô hình xã hội cộng đồng nguyên thuỷ.

Về đạo đức, từ quan điểm vô vi ông đã rút ra những quan điểm căn bản về
nghệ thuật sống của con người về những đức tính: từ ái, cần kiệm, khiêm nhường,
khoan dung, trí túc và kiến vi. Họ luôn giữ được sự đồng nhất với “đạo” tự nhiên,
chất phác, họ hoà mình vào khoảng không nhưng lại biết giành cho người khác
một chỗ mà không mất chỗ của mình. Như vậy, tư tưởng của Lão tử về “đạo”
cũng như phép biện chứng và học thuyết “vô vi” là tư tưởng sâu sắc và độc đáo.
Với trình độ tư duy trừu tượng cao, những tư tưởng ấy đã đóng góp đáng kể vào
sự phát triển tư tưởng triết học phương Đông nói chung và tư tưởng triết học
Trung hoa nói riêng.
Tóm lại: Trung Quốc là trung tâm triết học lớn của các dân tộc phương
Đông cổ đại với các nội dung và phong cách của các triết thuyết nó là bằng chứng
nói lên rằng bất cứ một sự coi thường nào về nền văn hóa và tư tưởng triết học
của các dân tộc phương đông đều là biểu hiện chủ quan của khoa học lịch sử; là
cắt xén lịch sử và do đó không thấy được tính đa dạng trong sự thống nhất của
lịch sử tư tưởng triết học nhân loại.
Xung quanh vấn đề nhân sinh quan đã làm nảy sinh ra ba tư tưởng triết học
lớn: Đạo lão chú ý sâu sắc về vấn đề nhân sinh dưới góc độ tự nhiên, còn Khổng
giáo và Nho giáo đề cập tới vấn đề nhân sinh trên phương diện chính trị - đạo
đức; Mặc gia thì lại phản ánh quan điểm nhân sinh người lao động trong xã hội
Trung hoa cổ đại. Với sự cộng hưởng của ba tư tưởng lớn : Nho- Đạo- Phật, mà
nhiều tư tưởng gia thường gọi là “sự hòa đồng” của ba đạo, hay là “tam giáo
đồng nguyên” hoặc “tam giáo đồng qui” đặc biệt triết học Trung quốc cổ đại


×