Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

TƯ TƯỞNG hồ CHÍ MINH về CHÍNH ủy, CHÍNH TRỊ VIÊN và ý NGHĨA TRONG xây DỰNG, bồi DƯỠNG đội NGŨ CHÍNH ủy CHÍNH TRỊ VIÊN HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (195.03 KB, 27 trang )

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH UỶ, CHÍNH TRỊ VIÊN.
Ý NGHĨA TRONG VIỆC BỒI DƯỠNG, XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ
CHÍNH UỶ, CHÍNH TRỊ VIÊN HIỆN NAY
--------------------------------------Đội ngũ chính uỷ, chính trị viên là một bộ phận rất quan trọng đội ngũ
cán bộ của Quân đội nhân dân Việt Nam.Trong quá trình tổ chức, xây dựng
quân đội ta trở thành một quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân, một quân
đội thực sự của dân, do dân, vì dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm,
chăm lo xây dựng đội ngũ chính trị viên- Những người chịu trách nhiệm
chính và trực tiếp hoạt động trên lĩnh vực tư tưởng và tổ chức của Đảng trong
quân đội. Bằng hoạt động lý luận và hoạt động thực tiễn xây dựng đội ngũ
cán bộ chính trị trong quân đội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho chúng ta
những di sản vô giá.
Thực tiễn xây dựng, trưởng thành và chiến thắng của quân đội ta hơn
63 năm qua đã khẳng định và chứng minh ý nghĩa to lớn và giá trị bền vững
của tư tưởng Hồ Chí Minh về chính uỷ, chính trị viên. Tư tưởng đó không chỉ
đặt nền tảng dẫn đến sự ra đời của đội ngũ chính uỷ, chính trị viên mà còn chỉ
đạo xuyên suốt quá trình xây dựng, bảo đảm cho sự phát triển nhanh chóng và
vững chắc của các thế hệ cán bộ chính trị, ngay cả trong những điều kiện khó
khăn ác liệt nhất của chiến tranh cách mạng. Hình ảnh người chính uỷ, chính
trị viên “Bộ đội Cụ Hồ” qua các cuộc kháng chiến đã khắc sâu, in đậm trong
tư tưởng, tình cảm của bộ đội và nhân dân ta, trở thành những giá trị tốt đẹp
mà hôm nay và mãi mãi về sau sẽ luôn được trân trọng và phát huy. Văn kiện
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng xác định; “Thực hiện chế độ
một người chỉ huy gắn với thực hiện chế độ chính uỷ, chính trị viên, tăng
cường công tác đảng, công tác chính trị trong quân đội” 1. Vì vậy, đi sâu
1

ĐCSVN, Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H. 2006, tr.111.


2



nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về chính uỷ,chính trị viên, làm cơ sở cho
quán triệt và vận dụng vào xây dựng đội ngũ chính uỷ, chính trị viên, người
chủ trì về chính trị trong giai đoạn hiện nay là việc làm có ý nghĩa thiết thực
cả về lý luận và thực tiễn.
Nghiên cứu nguồn gốc, cơ sở lý luận – thực tiễn và quá trình hình thành
phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh là vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng giúp
chúng ta nắm rõ bản chất cách mạng, khoa học, sáng tạo của Người trong quá
trình tiếp thu, kế thừa, phát triển nguyên lý chủ nghĩa Mác - Lênin, các học
thuyết và tư tưởng khác. Nguồn gốc, cơ sở lý luận- thực tiễn của Tư tưởng Hồ
Chí Minh về chính uỷ, chính trị viên có thể khái quát trên những vấn đề cơ bản,
chủ yếu sau:
Thứ nhất, tư tưởng Hồ Chí Minh về chính uỷ, chính trị viên là kết quả
của quá trình nghiên cứu và vận dụng đúng đắn, sáng tạo lý luận chủ nghĩa
Mác - Lênin cũng như thực tiễn chế độ chính uỷ, chính trị viên của Quân đội,
Hải quân Liên Xô và Quân Giải phóng Trung Quốc vào điều kiện thực tiễn
Việt Nam.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính uỷ, chính trị viên được xuất phát từ lý
luận của chủ nghĩa Mác - Lênin. V.I.Lênin chỉ ra những nguyên lý xây dựng
quân đội kiểu mới của giai cấp vô sản cần đặc biệt chăm lo xây dựng bản chất
giai cấp công nhân; giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
quân đội; thiết lập mối quan hệ máu thịt với nhân dân, thấm nhuần chủ nghĩa
yêu nước, chủ nghĩa quốc tế vô sản chân chính; tiến hành tích cực, thường
xuyên có hiệu quả hoạt động công tác đảng, công tác chính trị; chăm lo xây
dựng và phát huy tốt vai trò của hệ thống cán bộ chính trị trong quân đội.
V.I.Lênin đã khẳng định: “Ở đâu mà công tác chính trị trong quân đội, công
tác của các chính uỷ làm được chu đáo nhất, thì ở đó nói chung, trong đó
chuyên gia quân sự ít thấy có khuynh hướng phản bội hơn cả, ở đấy có rất ít



3

cơ hội cho họ thực hiện ý định của họ, ở đấy không thể có tình trạng lỏng lẻo
trong quân đội, quân đội giữ gìn được trật tự tốt hơn và tinh thần của họ cũng
cao hơn, ở đấy thu được nhiều thắng lợi hơn” 2.
Trong xây dựng quân đội kiểu mới, V.I.Lênin nhấn mạnh: trong khi
chăm lo xây dựng sức mạnh toàn diện cho quân đội để quân đội thực sự trung
thành và phục vụ lợi ích giai cấp vô sản, chúng ta cần hết sức chăm lo, củng
cố và tăng cường bản chất giai cấp công nhân cho quân đội, coi đó là vấn đề
sống còn của quân đội cách mạng, là một trong những nguyên tắc hết sức cơ
bản trong xây dựng quân đội kiểu mới. Khi đề cập đến vai trò của nhân tố
chính trị tinh thần, V.I.Lênin chỉ rõ: rốt cuộc mọi thắng bại trên chiến trường
đều tuỳ thuộc vào tâm trạng của người lính đang đổ máu trên chiến trường.
Tư tưởng về chính uỷ, chính trị viên của Chủ tịch Hồ Chí Minh còn bắt
nguồn từ thực tế vai trò vị trí của chính uỷ, chính trị viên của Hồng quân Liên
Xô trong cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất và thứ hai chống lại sự xâm lược
của chủ nghĩa phát xít. Cùng với nắm vững tư tưởng V.I.Lênin vận dụng sáng
tạo có phê phán những kinh nghiệm của Hồng quân Liên Xô và Quân giải
phóng Trung Quốc vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, Đảng ta và Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã phát huy cao độ, toàn diện sức mạnh công tác đảng, công tác
chính trị trong lực lượng vũ trang cách mạng Việt Nam, từ đó Người xây
dựng nên hình ảnh người chính uỷ, chính trị viên của quân đội nhân dân Việt
Nam. Người cán bộ chính trị theo tư tưởng Hồ Chí Minh vừa có phẩm chất
chung của người đảng viên cộng sản trong thời đại mới, vừa có đức tính tốt
đẹp thực sự tiêu biểu trong cốt cách của con người phương Đông. Hồ Chí
Minh khẳng định: “Nói chung thì các dân tộc phương Đông đều có tình cảm,
và đối với họ một tấm gương sáng còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn
tuyên truyền”3. Trong mối quan hệ giữa cán bộ chính trị với chiến sĩ không
2
3


V.I.Lênin toàn tập . tập 39, Nxb Tiến bộ M, 1979, trang 66.
Hồ Chí Minh toàn tập, tập 1, Nxb CTQG, H, 2002, tr.262.


4

chỉ có tình đoàn kết của những người cùng giai cấp, mà còn có nghĩa tình sâu
nặng như những người thân thiết trong một gia đình, người cán bộ chính trị
được coi như người chị, người anh, người bạn của đội viên. Về cách thức xây
dựng đội ngũ cán bộ nói chung, cán bộ chính trị của quân đội nói riêng,
Người luôn nhắc nhở phải “khéo đánh giá”, “khéo tuyển chọn”, “khéo huấn
luyện”, “khéo cất nhắc”, “khéo sắp xếp”, “khéo dùng tài năng”... Tư tưởng về
chính uỷ, chính trị viên của Chủ tịch Hồ Chí Minh còn bắt nguồn từ vị trí, vai
trò của chính trị viên đối với sinh mệnh chính trị của quân đội, đối với việc
xây dựng bản chất giai cấp công nhân, lập trường chính trị, xây dựng ý chí
quyết tâm chiến đấu của cán bộ chiến sĩ trong quân đội. Vị trí vai trò chính trị
viên, Hồ Chí Minh khẳng định: “tư cách người chính trị viên có ảnh hưởng rất
lớn đến bộ đội. Người chính trị viên tốt thì bộ đội ở đấy tốt, người chính trị
viên không làm tròn nhiệm vụ thì bộ đội ấy không tốt”4.
Thứ hai, tư tưởng Hồ Chí Minh về chính uỷ, chính trị viên còn là kết quả
của quá rình nghiên cứu, tiếp thu và phát triển những giá trị tốt đẹp trong truyền
thống văn hoá dân tộc, nổi bật là chủ nghĩa yêu nước, lòng nhân ái Việt Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định “cán bộ là cái gốc của mọi công
việc”, “muôn việc thành công hay thất bại, đều do cán bộ tốt hay kém”. Đồng
thời Người xem đạo đức cách mạng là cái gốc, là nền tảng của người cách
mạng, không có đạo đức dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân.
Người cán bộ cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh, không chỉ là hiện thân
của chủ nghĩa yêu nước được kết tinh từ truyền thống mà còn là biểu tượng
cho trí tuệ, lương tâm, danh dự của dân tộc Việt Nam trong thời đại mới.

Chính uỷ, chính trị viên là nơi hội tụ những phẩm chất đức tính tiêu biểu cho
tâm hồn khí phách của dân tộc Việt Nam trong chiến đấu, lao động và học
tập: “chính trị viên phải làm người kiểu mẫu trong mọi việc” 5. Yêu nước,
4
5

Hồ Chí Minh với lực lượng vũ trang, Nxb QĐND, H, 1976, trang 60.
Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, H, 2002, tr.393


5

thương dân và “sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì
chủ nghĩa xã hội” là động lực tư tưởng, tình cảm chi phối mọi suy nghĩ và
hành động của người cán bộ chính trị trong quân đội cách mạng. Nền tảng của
chủ nghĩa nhân văn, giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc ta là sự hoà
đồng, hoà mục với lòng yêu thương và tinh thần đoàn kết rất cao. Kế thừa
những giá trị đó, Hồ Chí Minh căn dặn chính uỷ, chính trị viên phải “là linh
hồn” của đơn vị, là hạt nhân đoàn kết nội bộ, đoàn kết quân dân. Người nhắc
nhở cán bộ chính trị phải sâu sát, gắn bó với bộ đội, “đối với binh sĩ, thì từ lời
ăn tiếng nói, niềm vui, nỗi buồn, quần áo, nhất nhất phải biết rõ và hết sức
chăm nom”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đề cao những tinh hoa văn hoá của dân tộc
đã được kết đọng trong tư tưởng lớn, nổi bật là tư tưởng của Nguyễn Trãi.
Nguyễn Trãi rất coi trọng xây dựng mối quan hệ nội bộ trong quân đội “tướng
sĩ một lòng phụ tử, hoà nước sông chén rượu ngọt ngào”. Trong “Thư gửi Hội
nghị chính trị viên” Hồ Chí Minh ân cần chỉ bảo: “Đối với bộ đội, chính trị
viên phải thân thiết như một người chị, công bình như một người anh, hiểu
biết như một người bạn”. Kế thừa tư tưởng “Đẩy thuyền là dân, lật thuyền
cũng là dân” của Nguyễn Trãi, Hồ Chí Minh dành tình cảm cao quý và niềm

tin yêu sâu sắc với nhân dân, Người viết: “Trong bầu trời không gì quý bằng
nhân dân, trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân
dân” và Người căn dặn chính trị viên: “Nhân dân là nền tảng, là cha mẹ của
bộ đội. Chính trị viên phải làm cho dân tin, dân yêu bộ đội. Phải làm sao cho
bộ đội được dân tin, dân phục, dân yêu”6.
Thứ ba, tư tưởng Hồ Chí Minh về chính uỷ, chính trị viên là quá trình
chọn lọc, tiếp thu những tinh hoa văn hoá của nhân loại.

6

Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, H, 2002, tr.392 - 393.


6

Khi nghiên cứu, đánh giá những mặt tích cực trong tư tưởng Khổng Tử,
Hồ Chí Minh viết: “Khổng Tử sống ở thời Chiến quốc. Đạo đức của ông, học
vấn của ông và những kiến thức của ông làm cho những người cùng thời và
hậu thế phải cảm phục”7. Hồ Chí Minh tìm thấy trong mô hình lý tưởng theo
tư tưởng Khổng – Mạnh chứa đựng những nhân tố hợp lý, tiêu biểu cho cốt
cánh phương đông, theo quan điểm Khổng – Mạnh có nhân, có trí, có dũng
giúp cho người quân tử đạt được phong thái ung dung tự tại, không ham tiền
tài địa vị. Tiếp thu tinh thần trên, khi bàn về đạo đức người cán bộ cách mạng,
Hồ Chí Minh nói: người cách mạng phải khiêm tốn, khoan hoà, lượng thứ,
can đảm khi sa cơ, bình tĩnh khi thắng thế, không ham giầu sang, không e cực
khổ, không sợ oai quyền. Để thực hiện nhân, trí, dũng theo Khổng Tử người
quân tử phải nghiêm khắc với bản thân mình tuân theo điều lễ. Hồ Chí Minh
khái quát nhân cách người cán bộ cách mạng ở hai mặt “đức”, “tài” và cũng
luôn đòi hỏi người cán bộ phải luôn tu dưỡng rèn luyện đạo đức ở mọi lúc
mọi nơi. Khi nghiên cứu, tiếp thu tư tưởng của phật giáo Người yêu cầu người

chính uỷ, chính trị viên cũng là người có lòng nhân ái cao cả. Tuy nhiên,
những tư tưởng trong các tôn giáo chỉ khuyên con người làm điều thiện nhưng
chưa chỉ ra phương hướng đấu tranh chống cái ác; hướng con người lên thiên
đường nhưng lại lờ đi những lo toan, vất vả của con người trong thực tại; xem
con người là trung tâm nhưng lại đề cao thần thánh, tuyệt đối hoá vai trò của
cá nhân. Theo Hồ Chí Minh Chính uỷ, chính trị viên là người giàu lòng nhân
ái, bao dung, nhân từ, độ lượng, nhưng đó là sự khoan dung có nguyên tắc
theo hướng tích cực, cùng với mọi người đấu tranh không mệt mỏi vì tự do,
bình đẳng thực sự và hạnh phúc trọn vẹn của nhân dân, mà trước hết là của
người lao động. Không chỉ nghiên cứu, tiếp thu tinh hoa văn hoá phương
Đông, Hồ Chí Minh còn nghiên cứu, tiếp thu những tư tưởng về nhân đạo,
7

Hồ Chí Minh toàn tập, tập 2, Nxb CTQG, H, 2002, tr.452.


7

nhân quyền, dân chủ, tự do, bình đẳng, bác ái trong các trào lưu triết học và
văn học nghệ thuật phương Tây, từ đó xây dựng mẫu người chính trị viên của
quân đội nhân dân Việt Nam: phải biết quan tâm đến công việc thực tế hàng
ngày, thẳng thắn, trung thực trong đấu tranh tự phê bình và phê bình; có ý
thức tổ chức kỷ luật cao, tôn trọng công bằng lẽ phải, thưởng phạt nghiêm
minh. Chủ tịch Hồ Chí Minh khuyên cán bộ chính trị: “Thấy việc phải thì
làm, thấy việc phải thì nói. Không sợ người ta phê bình mình, mà phê bình
người khác cũng luôn luôn đúng đắn”, “Khen thưởng người tốt, trừng phạt
người xấu cũng là trách nhiệm của chính trị viên”8.
Từ những cơ sở trên chúng ta thấy: nguồn gốc tư tưởng Hồ Chí Minh
về chính uỷ, chính trị viên bắt nguồn từ lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, kế
thừa có chọn lọc những học thuyết và tư tưởng khác nhau của phương Đông

và phương Tây, từ tinh hoa khí phách, tâm hồn, truyền thống dân tộc, từ kinh
nghiệm hoạt động công tác đảng, công tác chính trị trong quân đội và từ vai
trò lãnh đạo của Đảng được thể hiện qua nguyên tắc lãnh đạo tuyệt đối, trực
tiếp của Đảng đối với quân đội nhân dân Việt Nam, đây chính là nguồn gốc
cơ bản quyết định đến bản chất giai cấp nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh. Tuy
nhiên, chủ nghĩa Mác - Lênin, truyền thống văn hoá dân tộc và tinh hoa nhân
loại không tác động riêng rẽ mà tác động trong mối liên hệ biện chứng, thông
qua sự thâu hoá, tiếp biến rất sáng tạo của Hồ Chí Minh trước đòi hỏi của
thực tiễn đấu tranh cách mạng ở Việt Nam, nhằm xây dựng lực lượng vũ
trang, quân đội nhân dân vững mạnh về chính trị, đủ sức hoàn thành thắng lợi
mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao cho.
Thực tiễn trải qua hơn 63 năm xây dựng và trưởng thành của quân đội
ta, kể từ ngày đầu thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân,
cũng như trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và qua công
8

Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, H, 2002, tr.392


8

cuộc xây dựng bảo vệ Tổ quốc hiện nay đã chứng minh vị trí vai trò hết sức
quan trọng và to lớn của chính uỷ, chính trị viên, cùng với đội ngũ cán bộ
chính trị với nhiệm vụ tiến hành công tác đảng, công tác chính trị trong quân
đội, đã xây dựng được sự đoàn kết thống nhất bảo đảm nền tảng chính trị tinh
thần vững chắc cho bộ đội càng đánh càng thắng, càng đánh càng mạnh, động
viên kích lệ tinh thần vượt qua khó khăn gian khổ, chiến đấu hy sinh anh dũng
góp phần làm nên thắng lợi của hai cuộc kháng chiến thần kỳ chống thực dân
Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Sự thắng lợi đó, không thể không nói đến vai
trò người chính uỷ, chính trị viên.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính uỷ, chính trị viên hàm chứa rất nhiều
vấn đề sâu sắc, cô đọng, có thể khái quát thành những nội dung chủ yếu sau:
1. Chính uỷ, chính trị viên là cán bộ chính trị của Đảng cộng sản Việt
Nam, được tổ chức lựa chọn, bố trí làm đại biểu của Đảng bên cạnh người
chỉ huy trong các đơn vị vũ trang cách mạng.
Thấu hiểu những bài học kinh nghiệm trong xây dựng Hồng quân công
nông, xuất phát từ điều kiện của một nước thuộc địa, nửa phong kiến, để xây
dựng quân đội kiểu mới ở Việt Nam. Ngay từ những năm 1930 - 1940 khi ra
đời những đội du kích tự vệ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quan tâm đến xây
dựng đội ngũ cán bộ chính trị trong những tổ chức mầm mống của lực lượng
vũ trang cách mạng. Trong “Nghị quyết đội tự vệ”, Đảng đã chủ trương “đem
những đảng viên và đoàn viên cương quyết nhất vào tự vệ và các cấp bộ chỉ
huy của tự vệ” để luôn giữ vững “quyền chỉ huy nghiêm ngặt của Đảng trong
tự vệ thường trực” và mỗi trung đội, đại đội bên cạnh người chánh đội trưởng,
phó đội trưởng có một đại biểu của Đảng chỉ huy. Trong cuốn “Chiến thuật
du kích”, Hồ Chí Minh viết năm 1947 dùng làm tài liệu huấn luyện cho các
đội du kích cách mạng, Người viết: “về mặt chính trị cấp nào cũng có một
người chính trị phái viên do đoàn thể cách mạng chọn trong bộ đội ấy hoặc


9

phái người ngoài đến làm”9. Trong cao trào cách mạng chuẩn bị cho tổng khởi
nghĩa từ các đội du kích đến đội Việt nam tuyên truyền giải phóng quân. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã chỉ thị trực tiếp, bên cạnh người đội trưởng bao giờ
người chính trị uỷ viên cũng giữ một vị trí không thể thiếu, đảm nhiệm trọng
trách giữ vững bản chất cách mạng của toàn đội trước những thử thách gian
khổ hy sinh quyết liệt đấu tranh sống mãi giành đất giành dân với kẻ thù. Để
gấp rút chuẩn bị lực lượng vũ trang khởi nghĩa giành chính quyền, Nghị quyết
TW 8 (5/1941) xác định trong các trung đội, đại đội, liên tiểu tổ du kích đều

có đội trưởng, phó đội trưởng và chính trị chỉ đạo viên hoặc uỷ viên chính trị
để lo “phương diện của đội”.
Từ đó đến nay, ở các đơn vị trong lực lượng vũ trang cách mạng bên
cạnh người chỉ huy quân sự bao giờ cũng có người cán bộ chính trị – người
tiêu biểu cho đường lối chính trị, quân sự của Đảng; được tổ chức đảng lựa
chọn và giao nhiệm vụ chịu trách nhiệm chủ yếu trước Đảng về bản chất cách
mạng của phân đội vũ trang mà mình được phân công đảm nhiệm. Theo Hồ
Chí Minh đội ngũ này là một bộ phận cán bộ chính trị của Đảng Cộng sản
Việt Nam, thực sự tiêu biểu cho ngọn cờ chính trị, tư tưởng của Đảng, kiên
định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định với mục tiêu
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Là đại biểu của Đảng bên cạnh người chỉ
huy, hơn ai hết, họ là người giữ nghiêm kỷ luật của Đảng, nắm vững và thực
hiện tốt các nguyên tắc của Đảng, thực sự tiêu biểu cho sự đoàn kết thống
nhất trong tổ chức đảng và trong toàn đơn vị.
Những luận điểm trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra đặc trưng
cơ bản của chính trị viên, người cán bộ đảng trong các phân đội vũ trang
cách mạng, người đại biểu trung thành của giai cấp công nhân và toàn thể
dân tộc Việt Nam trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, giải
9

Hồ Chí Minh toàn tập, tập 3, Nxb CTQG, H, 2002, tr.472.


10

phóng xã hội, giải phóng con người. Đây là vấn đề cơ bản để phân biệt
với những người lãnh đạo, chỉ huy của quân đội phong kiến, tư sản. Sự ra
đời phát triển đội ngũ chính trị viên gắn liền với vai trò lãnh đạo của
Đảng đối với lực lượng vũ trang nhằm bảo đảm cho các đơn vị thực sự
chiến đấu dưới lá cờ của Đảng, không ngừng giữ vững và phát huy bản

chất của giai cấp công nhân góp phần bảo đảm cho lực lượng vũ trang,
Quân đội nhân dân xứng đáng là công cụ vũ trang sắc bén của Đảng, Nhà
nước, là lực lượng chính trị tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Sẵn
sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ trong mọi tình huống .
2. Chính uỷ, chính trị viên là người chủ trì về chính trị ở các đơn vị vũ
trang cách mạng, đồng thời có chức năng nhiệm vụ quan trọng trong giải
quyết các mối quan hệ chính trị – xã hội trong nội bộ, với nhân dân và với
quân địch.
Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định chính uỷ, chính trị viên được xác định
là cán bộ lãnh đạo, là người chủ trì về chính trị, người chịu trách nhiệm chủ
yếu chăm lo cơ sở chính trị, tinh thần, chăm lo xây dựng tổ chức đảng, quán
triệt sự lãnh đạo của Đảng trong mọi hoạt động của đơn vị, đồng thời là thành
viên của bộ máy chỉ huy, quản lý, điều hành duy trì kỷ luật, kiểm tra đôn đốc
mọi hoạt động của đơn vị.
Tuy nhiên, chính uỷ, chính trị viên phải tham gia công tác chỉ huy,
quản lý chủ yếu và trước hết với tư cách là cán bộ của Đảng chủ trì về hoạt
động công tác đảng, công tác chính trị ở các đơn vị trong quân đội. Trên
cương vị của mình chính uỷ, chính trị viên phải hướng mọi hoạt động của đơn
vị đi đúng đường lối, quan điểm của Đảng, bảo đảm cho mọi người, mọi tổ
chức trong đơn vị không ngừng trưởng thành vững mạnh, đủ sức hoàn thành
mọi nhiệm vụ cả trước mắt và lâu dài. Về phạm vi lãnh đạo, quản lý của đội
ngũ chính uỷ, chính trị viên tuy được xác định ở các đơn vị trong quân đội,


11

nhưng vai trò nhiệm vụ của họ không chỉ thu hẹp giải quyết trong mối quan
hệ nội bộ mà có chức năng nhiệm vụ quan trọng giải quyết mối quan hệ với
nhân dân và với quân địch. Trong thư gửi Hội nghị chính trị viên tháng
3/1948 Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “vô luận ở cấp bậc nào, chính trị viên

cũng có ba nhiệm vụ chính: Đối với bộ đội, đối với nhân dân, đối với quân
địch”10. Đối với bộ đội: chính trị viên phải săn sóc luôn luôn đến sinh hoạt vật
chất của họ, ăn, mặc, ở, nghỉ, tập luyện, công tác, sức chiến đấu. Về mặt tinh
thần, phải săn sóc đến nâng cao kỷ luật, bài trừ hủ hoá, phát triển văn hoá và
đường lối chính trị trong bộ đội, chính trị viên cần phải biết rõ và báo cáo cho
cấp trên biết rõ số lượng và chất lượng của bộ đội mình. Khen thưởng người
tốt trừng phạt người xấu cũng là trách nhiệm của chính trị viên. Đối với nhân
dân: nhân dân là nền tảng, là cha mẹ của bộ đội, chính trị viên phải làm cho
dân tin, dân phục, dân yêu bộ đội. Muốn như thế phải đốc thúc bộ đội siêng
giúp dân, hăng hái đánh giặc. Đối với quân địch, gồm cả binh lính Pháp cùng
những người ngoại quốc và người Việt Nam trong quân đội Pháp, chính trị
viên phải biết cách tuyên truyền khôn khéo thiết thực để giác ngộ họ, lôi kéo
họ về phía ta.
Những tư tưởng của Người mang ý nghĩa sâu sắc về thái độ công tác
của chính trị viên đối với con người, đối với bộ đội, đối với nhân dân và đối
với binh lính địch. Giải quyết đúng đắn chính xác mối quan hệ xã hội sẽ tạo
nên sức mạnh to lớn để chiến đấu và chiến thắng. Sự khái quát đó không chỉ
khẳng định vị trí xã hội của đội ngũ chính uỷ, chính trị viên mà còn là cơ sở
khoa học đúng đắn để hiểu rõ và phân định đúng đắn chức năng, nhiệm vụ
của họ trong sự nghiệp đấu tranh cách mạng. Hiện nay chúng ta đang triển
khai thực hiện Nghị quyết số 51- NQ/TƯ của Bộ Chính trị “về việc tiếp tục
hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng, thực hiện chế độ một người chỉ huy gắn
10

Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, H, 2002, tr.392


12

với thực hiện chế độ chính uỷ, chính trị viên trong quân đội nhân dân Việt

Nam” có ý nghĩa rất sâu sắc cả về lý luận và thực tiễn.
3. Chính uỷ, chính trị viên không chỉ là người lãnh đạo, quản lý chỉ huy
mà còn là “ người anh, người chị, người bạn” của đội viên.
Là người sáng lập, giáo dục, rèn luyện quân đội ta- Một quân đội kiểu
mới của giai cấp công Việt Nam, quân đội của dân, do dân và vì dân. Chủ tịch
Hồ Chí Minh đòi hỏi đối với chính uỷ, chính trị viên phải có năng lực công
tác, có bản lĩnh chính trị vững vàng, đồng thời phải trong sáng về đạo đức,
mẫu mực về phương pháp tác phong công tác. Đây là tiêu chuẩn hàng đầu của
chính trị viên. Bác chỉ rõ: chính trị viên là người có năng lực đoàn kết cán bộ,
đảng viên, chiến sĩ trong đơn vị thành một khối thống nhất, có quan hệ gần
gũi thân thiết dân chủ đối với quần chúng, dân chủ tập thể sâu sát. Bác dạy:
“trời sinh ra con người ai cũng có ngũ quan để làm việc cho Đảng, cho nhân
dân, mắt phải siêng năng nhìn sát thực tế, quan sát kỹ tình hình; mũi phải
siêng ngửi những vấn đề mới mẻ; tai phải siêng nghe ý kiến anh em bạn bè,
đồng chí cấp dưới, còn phải nghe cả địch nữa để dễ bề đối phó; chân phải đi
sát quần chúng, đi sát bộ đội” 11 . Người ví cán bộ như “đầu óc”, đội viên như
“chân tay” trong một cơ thể thống nhất. Hồ Chí Minh dạy rằng: “cán bộ
không có đội viên, lãnh tụ không có quần chúng thì không làm gì được”, cán
bộ dù ở cương vị nào “cũng chỉ là người đặt kế hoạch và điều khiển đánh
trận. Lúc ra trận việc đặt mìn phá lô cốt đều do tay anh em đội viên làm” do
vậy “cán bộ có thân đội viên như chân tay thì đội viên mới thân cán bộ như
ruột thịt” 12
Như vậy, người chính trị viên không chỉ là người lãnh đạo, quản lý, chỉ
huy mà còn là người anh, người chị, người bạn của đội viên. Nói đến người
anh, người chị, người bạn ở đây Hồ Chí Minh muốn nói đến phương pháp tác
11
12

Bài nói chuyên của Bác Hồ tại Trường võ bị Trần Quốc Tuấn 5/1946
Hồ Chí Minh toàn tập, tập 6, Nxb CTQG, H, 2002, tr.109



13

phong công tác của chính trị viên. Chính vì vậy mà Người đặc biệt quan tâm
xây dựng mối quan hệ đoàn kết gần gũi giữa cán bộ, chiến sĩ. Bằng sự hiểu
biết sâu sắc và trên cơ sở thực tiễn phong phú trong tổ chức chỉ đạo xây dựng
quân đội. Người phát hiện ra rằng ở một đất nước vốn là thuộc địa, nửa phong
kiến thói quen lạc hậu và tư tưởng gia trưởng còn ảnh hưởng nặng nề, nhất là
trong môi trường quân sự, càng dễ nảy sinh bệnh quan liêu, chuyên quyền độc
đoán, quân phiệt ở đội ngũ cán bộ, đảng viên có chức có quyền. Vì thế, Người
thường xuyên nhắc nhở cán bộ chính trị: đối với bộ đội, chính trị viên phải
thân thiết như một người chị, công bình như một người anh, hiểu biết như một
người bạn. Phong cách ứng xử của cán bộ chính trị với chiến sĩ không chỉ thể
hiện tinh thần trách nhiệm cao mà còn biểu lộ thái độ tình cảm chân tình cởi
mở như những người thân thiết trong gia đình cách mạng. Bác dùng hình ảnh
rất dễ hiểu phù hợp với truyền thống, tập quán của dân tộc Việt Nam để giải
quyết mối quan hệ cán bộ - chiến sĩ, đó là mối quan hệ tình nghĩa “máu chảy
ruột mềm” mối quan hệ giữa cán bộ - chiến sĩ như chân tay ruột thịt đó là sự
thân thiết là tình cảm của người chính trị viên với chiến sĩ. Nhưng trong giải
quyết các công việc phải công bình, Bác chỉ rõ đối với bộ đội chính trị viên
phải thân thiết, công bình hiểu biết khen thưởng người tốt, xử phạt người xấu,
nhưng kỷ luật phải được thi hành từ trên đến dưới, trên dưới đều phải giữ gìn
kỷ luật. Trong kỷ luật phải chú ý thưởng phạt cho công minh, chớ vì nể ai mà
thưởng, ghét ai mà phạt ai …thì dùng, ai trực tính nói ngay thì bỏ. Bác còn
chỉ rõ chính trị viên phải là người biết rộng, hiểu biết như một người bạn, do
đó phải gần gũi chiến sĩ, sâu sát cấp dưới, phải hiểu và nắm tâm tư nguyện
vọng của bộ đội, luôn săn sóc đến mọi sinh hoạt vật chất và tinh thần của bộ
đội. Bác còn căn dặn: “từ tiểu đội trưởng trở lên, từ tư lệnh trở xuống phải săn
sóc đời sống tinh thần của đội viên, phải xem xét đội viên ăn uống như thế

nào, phải hiểu nguyện vọng và thắc mắc của đội viên. Bộ đội chưa ăn cơm


14

cán bộ không được kêu mình đói, bộ đội chưa đủ áo mặc cán bộ không được
kêu mình rét, bộ đội không đủ chỗ ở cán bộ không được kêu mình mệt thì mới
là dân chủ, là đoàn kết, là tất thắng”13.
Chủ tịch Hồ Chí Minh còn chỉ rõ: Người chính trị viên ngoài việc cùng
với người chỉ huy luôn quan tâm đầy đủ đời sống vật chất, tinh thần của bộ
đội, bởi vì đặc điểm hoạt động của chính trị viên là hoạt động lãnh đạo, làm
công tác đối với con người, tác động xây dựng nhân cách từng con người và
từng tập thể quân nhân, do đó người chính trị viên phải hiểu và nắm chắc tình
hình tư tưởng, tâm tư nguyện vọng của từng cán bộ chiến sĩ trong đơn vị, thật
thà trung thực đánh giá và báo cáo với cấp trên về số lượng và chất lượng của
bộ đội mình. Phương pháp không phải bằng mệnh lệnh mà chủ yếu là giáo
dục thuyết phục, phân rõ phải trái, cái đúng cái sai, cái tốt, cái xấu đúng như
lời căn dặn của Người: đối với bộ đội chính trị viên phải thân thiết như người
chị, công bình như người anh, hiểu biết như người bạn.
4. Chính uỷ, chính trị viên phải thực sự mẫu mực về phong cách, tác
phong công tác, lời nói đi đôi với việc làm.
Trong thư gửi “Hội nghị chính trị viên” tháng 3/1948 Bác chỉ rõ chính
trị viên phải làm kiểu mẫu trong mọi việc, thật sự kiên định vững vàng về
mục tiêu lý tưởng cách mạng, tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc và
nhân dân, chủ động đấu tranh với những khuynh hướng tư tưởng lệch lạc, có
ý thức tổ chức kỷ luật cao, có tinh thần ham học cầu tiến bộ, gương mẫu về
đạo đức lối sống. Bên cạnh đó chính trị viên phải có năng lực toàn diện đáp
ứng yêu cầu lãnh đạo, chỉ huy chỉ đạo mọi mặt ở đơn vị cơ sở. Trong tổ chức
phải mẫu mực về phương pháp tác phong công tác, lời nói phải đi đôi với việc
làm. Người chỉ rõ: để làm kiểu mẫu người chính trị viên nhất thiết phải có

phẩm chất tổng hợp đạo đức và năng lực. Trước hết phải có phong cách đạo
13

Hồ Chí Minh về đấu tranh vũ trang và lực lưọng vũ trang nhân dân Nxb QĐND, H, 1970, trang 224.


15

đức của người đảng viên cộng sản, phải có năng lực thực hiện nhiệm vụ đạt
hiệu quả và chất lượng. Bác yêu cầu: chính trị viên phải vừa có đức, vừa có
tài, vừa có tâm, thực sự là tấm gương cho mọi người noi theo, luôn giữ được
uy tín với tập thể, đơn vị và lãnh đạo các cấp, trong cuốn sách chính trị viên
Bác đã lý giải : “Con đường chính trị là kim chỉ nam của quân đội du kích,
chính trị viên chính là người nắm cái kim chỉ nam ấy. Cho nên chính trị viên
phải là người giác ngộ cách mạng sâu sắc, nhận thức cách mạng vững vàng,
lý luận cách mạng cứng cáp. Đồng thời phải là người có kinh nghiệm chính trị
dồi dào ”14. Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định: “chính trị viên là linh hồn của
đội, chính trị viên phải bảo đảm cho mỗi quân nhân cách mạng đi đúng con
đường chính trị của đoàn thể, chính trị viên phải nhúng tay vào mọi việc để do
đó mà dìu dắt người khác, người chính trị viên phải là người có năng lực lãnh
đạo, năng lực này phải đủ mọi mặt bao gồm quân sự, chính trị năng lực về
tuyên truyền tổ chức xếp đặt kế hoạch, năng lực giải quyết những vấn đề cấp
bách, cũng như vấn đề sinh hoạt hàng ngày về chính trị hay về vật chất”
Hồ Chí Minh chỉ rõ: để làm kiểu mẫu, chính trị viên phải nêu gương,
phải gương mẫu trong mọi hoàn cảnh chiến đấu, khó khăn gian khổ thiếu
thốn, đồng thời Bác cũng chỉ ra: chính trị viên không những chỉ làm kiểu mẫu
mà còn phải biết giáo dục, chỉ đạo, dìu dắt tổ chức mọi người hành động đúng
đắn. Khi thăm trường chính trị trung cấp quân đội, Bác dặn mọi người tự
mình cần, kiệm, liêm, chính chưa đủ mà phải biết tuyên truyền giáo dục tổ
chức cho bộ đội thực hiện tốt cần, kiệm, liêm, chính. Bác nói: “Nếu cả ngày

các chú chỉ hùng hục làm việc của mình không dạy cho bộ đội chăm chỉ học
tập chính trị, quân sự để giết được nhiều giặc không khuyến khích và giúp đỡ
nhân dân tăng gia sản suất phục vụ tiền tuyến cũng chưa thực hiện được chữ
cần”15.
14
15

Cuốn sách của chính trị viên- TL nghiên cứu. Hội Tân văn hoá Thuận Hoá xb 1945.
Hồ Chí Minh với các lực lượng vũ trang Nxb QĐND, H, 1975, trang 185.


16

Bác nhấn mạnh: trong việc giáo dục quân nhân, sự gương mẫu cá nhân
của chính trị viên có ý nghĩa hết sức to lớn. Người chính trị viên nếu gây ra sự
nghi ngờ dù là nhỏ bé về tư cách đạo đức của mình đối với đơn vị, thì đồng
chí đó dù có kiến thức chính trị và quân sự cao bao nhiêu, tài năng tổ chức
xuất chúng bao nhiêu vẫn không thể có uy tín và khó có thể đạt được hiệu quả
tốt trong thực hiện nhiệm vụ mà cấp trên giao cho.
Những quan điểm về chính uỷ, chính trị viên của Chủ tịch Hồ Chí
Minh đến nay vẫn còn nguyên giá trị cả về phương diện lý luận và thực tiễn,
là cơ sở khoa học soi sáng cho công tác xây dựng đội ngũ cán bộ trong quân
đội, nhất là đội ngũ chính uỷ, chính trị viên của quân đội ta trước đây, hiện
nay và mai sau. Nắm vững tư tưởng Hồ Chí Minh về chính uỷ, chính trị viên
không chỉ đặt nền móng cho sự ra đời của đội ngũ cán bộ chính trị mà nó còn
chỉ đạo xuyên suốt quá trình xây dựng bảo đảm cho sự phát triển nhanh
chóng, vững chắc của hệ thống cán bộ chính trị trong quân đội, kể cả trong
điều kiện khó khăn ác liệt nhất của cuộc chiến tranh cách mạng. Mỗi thành
tựu cũng như hạn chế về xây dựng đội ngũ cán bộ chính trị trong quân đội đều
gắn liền với nhận thức về vai trò của đội ngũ cán bộ chính trị và sự vận dụng có

đúng đắn sáng tạo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đội ngũ chính uỷ,
chính trị viên.
Trong tình hình hiện nay xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ chính uỷ, chính
trị viên trong quân đội là vấn đề hết sức cần thiết và cấp bách là vấn đề quan
tâm của cả hệ thống lãnh đạo chỉ huy các cấp. Do đó, việc xây dựng, bồi
dưỡng đội ngũ chính uỷ, chính trị viên hiện nay là hết sức khách quan bởi nó
được bắt nguồn từ những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về nguyên tắc
xây dựng quân đội kiểu mới. V.I.Lênin là người đặt nền móng cho việc tiến
hành công tác đảng, công tác chính trị trong quân đội kiểu mới của giai cấp vô
sản, V.I.Lênin khẳng định: công tác đảng, công tác chính trị là một bộ phận


17

cấu thành có tính tất yếu của sự nghiệp xây dựng quân đội, là vũ khí mạnh mẽ
của Đảng Cộng sản trong việc nâng cao khả năng chiến đấu và sẵn sàng chiến
đấu của quân đội. Để tiến hành công tác đảng, công tác chính trị Người nói
điều tất yếu là phải xây dựng đội ngũ cán bộ chính trị nói chung và đội ngũ
chính uỷ, chính trị viên nói riêng.
Việc xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ chính uỷ, chính trị viên trong giai
đoạn hiện nay nó còn bắt nguồn từ những quan điểm tư tưởng của Chủ tịch
Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh bao
giờ cũng coi “chính trị là một động lực to lớn”, trong sự nghiệp xây dựng và
chiến đấu của lực lượng vũ trang, bởi vì theo Người: Quân sự mà không có
chính trị như cây không có gốc, vô dụng lại có hại.
Mặt khác, xây dựng bồi dưỡng đội ngũ chính uỷ, chính trị viên còn bắt
nguồn từ vị trí vai trò công tác đảng, công tác chính trị nói chung và vị trí vai
trò của đội ngũ chính uỷ, chính trị viên nói riêng. Công tác đảng, công tác
chính trị là bộ phận rất quan trọng của hoạt động lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam đối với quân đội nhân dân Việt Nam, là một mặt công tác cơ bản

của hoạt động lãnh đạo, chỉ huy các cấp trong quân đội, là công tác xây dựng
quân đội về chính trị và quán triệt sự lãnh đạo chính trị của Đảng trong mọi
mặt hoạt động của Đảng trong quân đội. Để tiến hành công tác đảng, công tác
chính trị phải có đội ngũ chính uỷ, chính trị viên đảm nhiệm tiến hành hoạt
động công tác đảng, công tác chính trị. Đội ngũ cán bộ chính trị trong quân
đội có vai trò rất quan trọng trong tiến hành công tác đảng, công tác chính trị,
nhằm xây dựng đảng bộ quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ
chức, bảo đảm cho quân đội trung thành vô hạn với Tổ quốc xã hội chủ nghĩa,
với nhân dân, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ của Đảng, Nhà nước giao
cho. Từ vị trí vai trò đó cho nên xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ chính uỷ, chính
trị viên trong quân đội hiện nay là tất yếu khách quan và hết sức cần thiết.


18

Trong tình hình hiện nay, việc tiếp tục xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ
chính uỷ, chính trị viên còn xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ, phương hướng
xây dựng quân đội trong giai đoạn cách mạng mới. Về nhiệm vụ bảo vệ Tổ
quốc Nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X xác định: “Bảo vệ vững
chắc Tổ quốc, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ
Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ an ninh chính
trị, an ninh kinh tế, an ninh tư tưởng văn hoá và an ninh xã hội; duy trì trật tự,
kỷ cương, an toàn xã hội; giữ vững ổn định chính trị của đất nước, ngăn ngừa,
đẩy lùi và làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá, thù địch, không để
bị động, bất ngờ”16. Về phương hướng xây dựng quân đội Đảng ta xác định:
“Xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân cách mạng, chính quy,
tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Nâng cao chất lượng tổng hợp, sức chiến đấu
để lực lượng vũ trang thật sự là lực lượng chính trị trong sạch, vững mạnh,
tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân, được
nhân dân tin cậy, yêu mến”17.

Xây dựng quân đội về chính trị là nhằm nâng cao chất lượng chính trị,
nhất là bản lĩnh chính trị của cán bộ, chiến sĩ luôn kiên định vững vàng trước
mọi yếu tố tác động và khó khăn thử thách. Do vậy, phải xây dựng, bồi dưỡng
đội ngũ cán bộ chính trị là tất yếu, là đòi hỏi khách quan .
Xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ chính uỷ, chính trị viên còn xuất phát từ
thực tiễn quá trình xây dựng và phát triển của quân đội ta trong hơn 63 năm
qua. Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã luôn chăm lo xây dựng đội ngũ cán
bộ chính trị, do đó đội ngũ cán bộ chính trị đã hoàn thành tốt nhiệm vụ, chức
trách của mình, đã xây dựng sự vững vàng kiên định về lập trường tư tưởng
của cán bộ, chiến sĩ trong quân đội, xây dựng tinh thần đoàn kết thống nhất,
vượt qua khó khăn gian khổ, tin tưởng tuyệt đối với Đảng, Nhà nước và nhân
16
17

ĐCSVN, Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H. 2006,tr. 108, 109.
ĐCSVN, Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H. 2006, tr. 110.


19

dân. Vì vậy, cán bộ chiến sĩ trong quân đội đã sát cánh cùng nhân dân cả nước
đánh bại hai cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ,
xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Từ thực
tiễn đó đòi hỏi phải tiếp tục xây dựng, bồi dưỡng nâng cao phẩm chất năng
lực của đội ngũ cán bộ chính trị trong tình hình hiện nay là hết sức cần thiết.
Trong bối cảnh quốc tế hiện nay chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù
địch đang âm mưu thực hiện chiến lược "diễn biến hoà bình" nhằm phi chính
trị hoá quân đội, làm xa rời mục tiêu phương hướng chính trị của cán bộ,
chiến sĩ trong quân đội. Do đó càng đòi hỏi hơn bao giờ hết phải xây dựng
cho được đội ngũ chính uỷ, chính trị viên có đủ phẩm chất và năng lực tiến

hành tốt công tác đảng, công tác chính trị làm cơ sở, nòng cốt nhằm đánh bại
hoàn toàn âm mưu thủ đoạn của địch.
Hiện nay đội ngũ chính uỷ, chính trị viên trong quân đội, nét nổi bật là:
Hầu hết kiên định với chủ nghĩa Mác - Lênin, với mục tiêu, lý tưởng xã hội
chủ nghĩa, giữ vững và tin tưởng vào thắng lợi của sự nghiệp đổi mới theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, nhận thức sâu sắc về nhiệm vụ, có trách nhiệm
cao với nhiệm vụ được giao, giữ vững được phẩm chất đạo đức, trình độ trí
tuệ có bước phát triển.
Tuy nhiên, đội ngũ chính uỷ, chính trị viên ở đơn vị cơ sở hiện nay còn
nhiều bất cập, ở cấp phân đội chưa được qua rèn luyện thử thách nhiều, chưa
thật chú ý rèn luyện phương pháp tác phong cụ thể, tỉ mỉ, giải quyết các mối
quan hệ còn nhiều yếu kém, phương pháp lãnh đạo, chỉ đạo còn nhiều hạn
chế. Nhìn chung phẩm chất cách mạng và năng lực trí tuệ của đội ngũ cán bộ
chính trị hiện nay chưa phát triển đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ chức trách,
chưa tương xứng với vai trò nòng cốt trong xây dựng Quân đội về chính trị.
Trình độ tư duy lý luận, biết nhận diện và đấu tranh phê phán những quan
điểm khuynh hướng sai trái, lệch lạc còn hạn chế, khả năng giáo dục thuyết


20

phục vận động quần chúng còn yếu. Chính vì vậy chúng ta phải đi sâu nghiên
cứu và vận dụng đúng đắn, sáng tạo, đầy đủ những quan điểm của Chủ tịch
Hồ Chí Minh vào xây dựng bồi dưỡng đội ngũ chính uỷ, chính trị viên cho
phù hợp với tình hình hiện nay là việc làm có ý nghĩa quan trọng. Văn kiện
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X xác định: “Cán bộ phải là người có phẩm
chất chính trị tốt, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, hết lòng phấn
đấu vì lợi ích của nhân dân, của dân tộc; có bản lĩnh chính trị vững vàng,
không dao động trước những khó khăn, thử thách; có năng lực hoàn thành
nhiệm vụ được giao; có nhân cách và lối sống mẫu mực, trong sáng; có ý thức

tổ chức kỷ luật cao, tôn trọng tập thể, gắn bó với nhân dân”18.
Xây dựng bồi dưỡng đội ngũ chính uỷ, chính trị viên trong Quân đội
giai đoạn hiện nay, trước hết phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, dựa trên sự
giác ngộ sâu sắc về thế giới quan, niềm tin cộng sản chủ nghĩa, có kinh
nghiệm đấu tranh chính trị trung thành tuyệt đối với Đảng, với Tổ quốc và
nhân dân, có lập trường chính trị vững vàng trong mọi tình huống.
Chính uỷ, chính trị viên trong Quân đội phải là người tiên phong cả về
lý luận và thực tiễn hành động trong đấu tranh vì lợi ích cách mạng, có ý chí
chiến đấu cao, kiên trì dũng cảm vượt qua mọi khó khăn thử thách. Đồng thời
phải biết thuyết phục vận động tập hợp quần chúng là tấm gương sáng về đạo
đức tác phong. Đây chính là cái gốc của người cách mạng.
Chính uỷ, chính trị viên còn phải là người có năng lực đoàn kết cán bộ
đảng viên chiến sĩ trong đơn vị thành một khối thống nhất, có quan hệ gần gũi
thân thiết, dân chủ với quần chúng. Đây chính là cơ sở để công tác tư tưởng tổ
chức giáo dục thực sự đi vào cuộc sống. Mặt khác, chính uỷ, chính trị viên
phải có kiến thức chuyên sâu về công tác đảng, công tác chính trị, kiến thức
đủ rộng về khoa học xã hội nhân văn, kiến thức vững chắc về quân sự và
18

ĐCSVN,Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X-Nxb CTQG,H 2006,tr 136.


21

những kiến thức cần thiết về kinh tế, kỹ thuật. Không những có kiến thức,
chính uỷ, chính trị viên còn rất cần năng lực và kinh nghiệm tổ chức thực tiễn,
năng lực và kinh nghiệm của người chủ trì về chính trị ở đơn vị. Và đó cũng
chính là yêu cầu xây dựng bồi dưỡng đội ngũ chính uỷ, chính trị viên trong
giai đoạn hiện nay.
Trong tình hình hiện nay, để xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ chính uỷ,

chính trị viên có phẩm chất, năng lực, phương pháp tác phong công tác khoa
học, cụ thể, tỉ mỉ, sâu sát, dân chủ cần thực hiện tốt một số nội dung, biện
pháp chủ yếu sau:
Một là, tiếp tục quát triệt, triển khai thực hiện nghiêm túc Nghị quyết
số 51- NQ/TƯ của Bộ Chính trị về tiếp tục hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của
Đảng, thực hiện chế độ một người chỉ huy gắn với chế độ chính uỷ, chính
trị viên trong Quân đội. Đây là biện pháp hàng đầu, có ý nghĩa pháp lý và
nguyên tắc về xây dựng và phát huy vai trò người chính uỷ, chính trị viên,
bảo đảm cho Đảng lãnh đạo tuyệt, đối trực tiếp về mọi mặt đối với Quân
đội. Trong đó, quan trọng hàng đầu là qua sơ kết 2 năm thực hiện Nghị
quyết số 51- NQ/TƯ của Bộ Chính trị, trên cơ sở đó tiếp tục hoán thiện các
quy định và thực hiện tốt hơn nữa chức năng, chức trách, phạm vi quyền
hạn của tổ chức lãnh đạo, chỉ đạo, chỉ huy và hệ thống bộ máy hoạt động
công tác đảng, công tác chính trị. Cần phải cụ thể hoá hơn nữa nguyên tắc
tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, nhất là trong công tác cán bộ, trong các
quyết định về kinh tế, tài chính, trong chỉ huy quản lý tài chính…
Hai là, cùng với thực hiện nghiêm Nghị quyết 51- NQ/TƯ của Bộ
Chính trị, cần phải hoàn thiện hệ thống chức danh của cán bộ chính trị trong
Quân đội cho phù hợp với yêu cầu mới. Đây vừa là hoàn thiện và phát huy cơ
chế lãnh đạo của Đảng, vừa là một điều kiện để tạo ra động lực mạnh mẽ, trực
tiếp cho sự phát huy tinh thần trách nhiệm, tính tích cực và hiệu quả công tác


22

của người chính uỷ, chính trị viên. Thực tiễn xây dựng quân đội cho thấy:
Chức danh chính uỷ chính trị viên là phù hợp với tổ chức quân sự vô sản và
phát triển đúng hướng. Hơn nữa về bản chất: Chế độ chính uỷ, chính trị viên
không hề mâu thuẫn với chế độ một người chỉ huy nếu không có sự lẫn lộn
trong nhận thức giữa lãnh đạo và chỉ huy, không có sự đề cao cá nhân, đề cao

quyền lực vượt ra khỏi khuôn khổ của tập thể.
Để thực hiện tốt Nghị quyết 51/NQ- TW của Bộ Chính trị, cần phải dựa
chắc vào lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh và tư tưởng của Người về chính
trị viên. Tập trung tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức của mọi
người về vị trí vai trò của đội ngũ chính uỷ, chính trị viên trong tình hình mới.
Trước hết cần phải phân tích đánh giá đúng những ưu điểm, khuyết điểm của
đội ngũ cán bộ chính trị các cấp, chỉ ra những nguyên nhân và những ảnh
hưởng của những hạn chế yếu kém đó, cung cấp những luận cứ khoa học cho
lãnh đạo chỉ huy và cơ quan chức năng các cấp , cung cấp, giải trình, đề nghị
Đảng, nhà nước, Đảng uỷ Quân sự Trung ương trong hoàn thiện hệ thống
chức danh cán bộ chính trị. Phải tiến hành tốt các đợt sinh hoạt tự phê bình và
phê bình, đấu tranh khắc phục những tư tưởng bảo thủ, nhận thức giản đơn,
phiến diện và những biểu hiện giáo điều, rập khuôn, máy móc.
Phải phát huy tốt vai trò của các cấp, các ngành đối với việc xây dựng
đội ngũ chính uỷ, chính trị viên trong Quân đội, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, có đủ khả năng hoàn thành tốt
mọi nhiệm vụ mà Đảng, nhà nước và nhân dân giao cho.
Ba là, tập trung bồi dưỡng, rèn luyện về phẩm chất chính trị, đạo đức,
lối sống, bảo đảm cho chính uỷ, chính trị viên thực sự là “ kiểu mẫu về mọi
mặt”, nâng cao bản lĩnh chính trị, năng lực toàn diện, trước hết là năng lực
chính trị và quân sự để đội ngũ chính uỷ, chính trị viên thực sự là tri thức
quân sự cách mạng. Bản lĩnh chính trị của đội ngũ chính uỷ, chính trị viên có


23

tác động và ảnh hưởng rất lớn đến mức độ hoàn thành nhiệm vụ đặc biệt là
những lúc khó khăn, những bước ngoặt của cách mạng hoặc trong chiến tranh
gian khổ, ác liệt. Thực tiễn qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ
và thực tiễn những năm đổi mới vừa qua đã chứng minh điều đó.

Hiện nay, bản lĩnh chính trị của chính uỷ, chính trị viên trước hết thể
hiện ở sự trung thành với mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội, sẵn sàng hy sinh bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, tuyệt đối
tin tưởng vào đường lối đổi mới của Đảng, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước. Bồi dưỡng bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ nói chung,
đội ngũ chính uỷ, chính trị viên nói riêng, ngoài yêu cầu chung mang tính bản
chất cốt lõi về phẩm chất nhân cách, quan điểm, lập trường, cần phải bám sát
vào tình hình thực tiễn hiện nay, phù hợp với từng đối tượng. Vì vậy, tiếp tục
bồi dưỡng nâng cao bản lĩnh chính trị cho đội ngũ chính uỷ, chính trị viên
hiện nay là vấn đề hết sức cần thiết.
Mặt khác, theo tinh thần Nghị quyết số 51-NQ/TƯ của Bộ Chính trị đã
xác định: “ở mỗi cấp có chính uỷ (hoặc chính trị viên) là người chủ trì về
chính trị. Chính uỷ, chính trị viên: “Có trách nhiệm trực tiếp chỉ đạo, tổ chức
tiến hành các nội dung công tác đảng, công tác chính trị theo chức trách,
nhiệm vụ; tham gia xây dựng, tổ chức thực hiện các kế hoạch công tác chung
của đơn vị”. Do vậy, đặt ra yêu cầu chính uỷ, chính trị viên không những phải
giỏi công tác tư tưởng, công tác tổ chức mà còn phải biết và thành thạo công
tác chỉ huy tham mưu quân sự, hậu cần, kỹ thuật. Nếu không có năng lực
chính trị, năng lực quân sự, hậu cần, kỹ thuật, người chính uỷ, chính trị viên
không thể hoàn thành được nhiệm vụ. Vì vậy, quá trình đào tạo xây dựng bồi
dưỡng đội ngũ chính uỷ, chính trị viên phải có tỷ lệ cấu trúc nội dung môn
học phù hợp cả về kiến thức khoa học kỹ thuật, quân sự, bồi dưỡng nâng cao


24

trình độ chỉ huy, quản lý đảm bảo có một khối lượng kiến thức đủ để hoàn
thành chức trách, nhiệm vụ được giao.
Ngoài xây dựng đào tạo ở nhà trường, cần coi trọng đào tạo bồi dưỡng
ở đơn vị, tăng cường nội dung bồi dưỡng kỹ năng công tác đảng, công tác

chính trị và phương pháp làm việc khoa học, cần có giải pháp cụ thể, quy định
thành chế độ, cụ thể hoá thành kế hoạch hàng năm. Các tổ chức Đảng phải coi
trọng đó là nhiệm vụ lãnh đạo thường xuyên. Hệ thống tổ chức chỉ huy và cơ
quan chính trị cần có giải pháp cụ thể kiểm tra giám sát kết quả học tập của
từng cán bộ. Mặt khác, từng cán bộ phải tự giác học tập, căn cứ vào khả năng
trình độ của mình để kịp thời bổ sung những kiến thức còn thiếu, còn yếu với
tinh thần tự giác học tập, học nữa, học mãi, học suốt đời, không ngừng phấn
đấu vươn lên về mọi mặt.
Bốn là, bồi dưỡng nâng cao phẩm chất đạo đức, lối sống và phương
pháp, tác phong của đội ngũ chính uỷ, chính trị viên trong thời kỳ mới. Bất kỳ
ở giai đoạn nào, yêu cầu chuẩn mực về phẩm chất đạo đức, lối sống, tác
phong của người chính uỷ, chính trị viên đều được đặt lên hàng đầu. Tuy
nhiên, trong điều kiện hiện nay có nhiều yêu cầu mới. Trong giai đoạn chiến
tranh trước đây, phẩm chất đạo đức, phương pháp, tác phong của người chính
uỷ, chính trị viên đòi hỏi phải sẵn sàng nhận khó khăn về phần mình, sẵn sàng
hy sinh, cùng đồng cam cộng khổ với cán bộ, chiến sĩ. Trong điều kiện thời
bình và trước tác động của mặt trái nền kinh tế thị trường, hội nhập, mở cửa,
trước sự phá hoại của các thế lực thù địch, thì phẩm chất đạo đức, lối sống của
chính uỷ, chính trị viên đang đứng trước những thử thách mới, chủ nghĩa cá
nhân, lối sống thực dụng, sự xuống cấp của các giá trị đạo đức đang trỗi dậy
và len lỏi vào đội ngũ cán bộ chính trị nói chung và chính uỷ, chính trị viên
trong quân đội nói riêng.


25

Do vậy, tiếp tục bồi dưỡng phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng,
phương pháp, tác phong công tác khoa học cho đội ngũ chính uỷ, chính trị
viên hiện nay đặt ra yêu cầu bức thiết, khó khăn, phức tạp hơn. Đặc biệt là bồi
dưỡng nhân cách của người chính uỷ, chính trị viên, người chủ trì về chính trị

ở các đơn vị. Vì vậy, quá trình đào tạo bồi dưỡng phải gắn “dạy chữ, dạy
nghề, dạy người” chặt chẽ với nhau, bồi dưỡng nhân cách theo yêu cầu đặc
thù của người chính uỷ, chính trị viên như Bác Hồ kính yêu của chúng ta đã
từng dạy: “đối với bộ đội chính trị viên phải thân thiết như một người chị,
công bình như một người anh, hiểu biết như một người bạn”; với nhân dân,
chính trị viên phải làm cho dân tin, dân phục, dân yêu; với quân địch: chính
trị viên phải biết tuyên truyền khôn khéo thiết thực để giác ngộ họ, lôi kéo họ
về phía ta.
Mặt khác, chính uỷ, chính trị viên phải có phong cách của người đảng
viên, người cán bộ lãnh đạo luôn giữ vững nguyên tắc nói đi đôi với làm, nói
ít làm nhiều, phải tinh tế nhạy bén, quan tâm gần gũi mọi người, khiêm tốn và
nghiêm khắc với cả chính bản thân mình, độ lượng vị tha đối với cấp dưới,
chính uỷ, chính trị viên phải vừa có đức, vừa có tài, vừa có tâm, thật sự là tấm
gương cho mọi người noi theo, luôn luôn giữ được uy tín đối với tập thể đơn
vị và lãnh đạo các cấp. Đó cũng chính là mục tiêu yêu cầu của việc xây dựng
bồi dưỡng đội ngũ chính uỷ, chính trị viên trong giai đoạn hiện nay.
Năm là, kết hợp chặt chẽ việc đào tạo bồi dưỡng tại nhà trường với tự
bồi dưỡng của đội ngũ chính uỷ, chính trị viên. Đây là vấn đề có ý nghĩa trực
tiếp quyết định số lượng và chất lượng của chính uỷ, chính trị viên, tạo tiền
đề, tạo điều kiện cho sự phát triển toàn diện của họ. Do đó, phải tiếp tục đổi
mới, hoàn thiện công tác đào tạo theo hướng kết hợp tại trường với tự rèn
luyện, tự bồi dưỡng của chính bản thân đội ngũ chính uỷ, chính trị viên. Bởi
vì, nếu chúng ta không khuyến khích và phát huy được việc tự rèn luyện, tự


×