Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

VAI TRÒ LÃNH đạo của ĐẢNG NHÂN tố QUYẾT ĐỊNH đến mọi THẮNG lợi của PTCS và CNQT sự vận DỤNG của ĐẢNG TA TRONG THỰC HIỆN ĐỒNG bộ các GIẢI PHÁP THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT TRUNG ƯƠNG4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (241.17 KB, 29 trang )

“Phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản là nhân tố cơ bản
quyết định đến mọi thắng lợi của phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế và sự vận dụng của Đảng ta tiếp tục thực hiện đồng bộ các
giải pháp Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI hiện nay”
Sự hình thành, phát triển của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế gắn
liền với sự phát triển của giai cấp công nhân, với sự ra đời của các Đảng cộng sản.
Trong quá trình đó, có giai đoạn phát triển thuận lợi, có giai đoạn gặp những khó
khăn, thử thách, thậm chí thoái trào. Do đó nhân tố cơ bản, có ý nghĩa quyết định
đến mọi thắng lợi của phong trào cách mạng cần phải phát huy tốt vai trò lãnh đạo
của Đảng cộng sản - đội tiên phong của giai cấp công nhân; không ngừng tổng kết
thực tiễn, rút ra các bài học kinh nghiệm, bổ sung, phát triển và hoàn thiện các
nguyên lý lý luận cho phù hợp với thực tiễn; phải tập hợp lực lượng, trí tuệ, sức
mạnh chống lại giai cấp tư sản, chủ nghĩa tư bản, bọn cơ hội xét lại. Thực tiễn lịch
sử đã chứng minh, ở đâu và khi nào giai cấp công nhân xây dựng được chính đảng
vững mạnh về mọi mặt, thì phong trào đấu tranh của công nhân đi đúng hướng và
đạt hiệu quả; ngược lại ở đâu giai cấp công nhân không tổ chức ra được chính
đảng của mình, không thường xuyên quan tâm đến công tác xây dựng, chỉnh đốn
Đảng thì phong trào trì trệ, khủng hoảng, thậm chí sụp đổ; đó là vấn đề có tính quy
luật trong sự phát triển của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Sự sụp đổ chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông âu có nhiều nguyên
nhân nhưng nguyên nhân sâu xa và cốt lõi nhất là Đảng Cộng Sản không phát huy
được vai trò lãnh đạo, công tác xây dựng, chỉnh đốn và bảo vệ Đảng còn lỏng lẻo,
để phần tử cơ hội chui sâu, leo cao, cài cắm, chống phá, lật đổ chế độ. Sự sai lầm
và sụp đổ đó làm cho phong trào cộng sản và công nhân quốc tế lâm vào giai đoạn
thoái trào. Những sai lầm đó cũng đã để lại bài học xương máu cần không ngừng
xây dựng, chỉnh đốn và phát huy vai trò lãng đạo của Đảng.
Ngày nay, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đang ráo riết chống phá
các nước xã hội chủ nghĩa, chúng xác định chống phá Đảng Cộng Sản là một trọng
điểm. Đối với nước ta, để thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, đấu tranh làm
thất bại mọi âm mưu của kẻ thù, giữ vững chế độ, vấn đề tất yếu là phải nâng cao
năng lực, sức chiến đấu để Đảng ngang tầm với nhiệm vụ và tình hình mới.


1. Cơ sở lý luận và thực tiễn về sự cần thiết phải phát huy vai trò lãnh
đạo của Đảng cộng sản đối với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế
1.1 Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về

1


vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản đối với phong trào cộng sản và công
nhân.
* Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về vai trò lãnh đạo của Đảng
cộng sản đối với phong trào cộng sản và công nhân
Khi nghiên cứu về sự vận động, phát triển của lịch sử - xã hội, Mác và
Ăng Ghen đã luận chứng một cách khoa học về sự diệt vong của chủ nghĩa tư
bản và sự tất yếu ra đời của một chế độ xã hội cao hơn là chủ nghĩa cộng sản,
mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội. Hai ông cũng chỉ rõ lực lượng thực hiện
sự chuyển biến đó là giai cấp vô sản hiện đại và khẳng định đó chính là sứ mệnh
lịch sử vinh quang và cao cả của giai cấp vô sản hiện đại. Sứ mệnh lịch sử ấy
không phải do ý muốn chủ quan của giai cấp vô sản, một tầng lớp hay một cá
nhân nào đặt ra, mà là do chính địa vị kinh tế - xã hội của họ quy định.
Tuy nhiên, giai cấp vô sản muốn thực hiện được sứ mệnh lịch sử của
mình thì phải tổ chức ra được chính đảng cách mạng; chính đảng đó phải có đủ
khả năng, phẩm chất lãnh đạo, hướng dẫn phong trào cách mạng của họ. Đó là
điều kiện tiên quyết nhất và quan trọng nhất bởi vì chỉ khi nào giai cấp vô sản tổ
chức được ra chính đảng chính trị của mình, thì cuộc đấu tranh của giai cấp vô
sản mới chuyển từ đấu tranh tự phát, thành cuộc đấu tranh tự giác, mới tạo được
sự thống nhất về ý chí và hành động; cũng chỉ khi đó thì giai cấp vô sản mới
chuyển từ giai cấp “tự mình” thành giai cấp “vì mình”, mới lấy khoa học để
thay cho “mộng tưởng”.
Mác và Ăng Ghen đã khẳng định “Trong cuộc đấu tranh của mình chống
quyền lực liên hợp của giai cấp có của, giai cấp công nhân chỉ khi tổ chức

thành một chính Đảng độc lập với tất cả các chính đảng cũ do giai cấp có của
lập lên, thì mới có thể hành động như một giai cấp. Việc tổ chức như vậy giai
cấp công nhân thành một chính đảng là cần thiết để đảm bảo thắng lợi của
cách mạng xã hội và thắng lợi của mục đích cuối cùng của nó là: thủ tiêu các
giai cấp”.1
Không chỉ làm rõ tính tất yếu phải thành lập ra chính đảng, coi đó là điều
kiện tiên quyết để giai cấp vô sản thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của mình;
các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác còn chỉ rõ mối quan hệ giữa người đảng viên
với toàn thể giai cấp vô sản, cũng như mục đích nhiệm vụ và lập trường của
đảng cộng sản. Các ông đã chỉ rõ vị trí, vai trò của những đảng viên, đây là bộ
phận kiên quyết nhất trong các đảng công nhân ở tất cả các nước, là bộ phận
luôn thúc đẩy phong trào tiến lên. Về mặt lý luận họ hơn bộ phận còn lại của
1

C.Mác- Ph.Ăng ghen toàn tập, tập 4, Nxb CTQG, Hà nội 1995, Tr 207

2


giai cấp ở chỗ họ hiểu được những điều kiện, tiến trình và kết quả chung của
phong trào. Như vậy theo Mác, Ăng Ghen thì đảng cộng sản không nằm ngoài,
nằm trên giai cấp, đồng thời họ cũng không phải toàn bộ giai cấp mà chỉ là bộ
phận tiên tiến nhất của giai cấp mà thôi. Họ có mối liên hệ chặt chẽ với giai cấp,
đấu tranh vì quyền lợi của giai cấp vô sản, đại biểu cho toàn bộ giai cấp vô sản
do vậy: “Họ không có lợi ích nào tách khỏi lợi ích của toàn thể giai cấp vô
sản”2 .
Đảng cộng sản chính là lực lượng lãnh đạo cuộc đấu tranh của giai cấp vô
sản và nhân dân lao động chống lại sự áp bức bóc lột của chế độ tư bản, thực
hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản, xây dựng thành công xã hội
mới xã hội khác về chất so với những xã hội trước đó. Vì vậy, để thực hiện

được sứ mệnh lịch sử đó thì nhiệm vụ trước tiên của đảng cộng sản là tập hợp
quần chúng để đấu tranh giành lấy chính quyền về tay giai cấp vô sản, sau đó
dùng chính quyền đó để cải tạo xã hội cũ, xây dựng thành công xã hội mới, xã
hội cộng sản chủ nghĩa. Do vậy, giai cấp vô sản dưới sự lãnh đạo của đảng cộng
sản phải xoá bỏ tất cả những gì là nguyên nhân gây ra nạn áp bức bóc lột người,
mà suy cho cùng đó là chế độ tư hữu. Mác viết: “Những người cộng sản có thể
tóm tắt lý luận của mình thành một luận điểm duy nhất là xoá bỏ chế độ tư
hữu”3 .
Như vậy, ngay từ khi mới ra đời, chủ nghĩa Mác đã chỉ ra tính tất yếu phải
thành lập chính đảng của giai cấp vô sản; làm rõ mục đích, nhiệm vụ của nó và
mối quan hệ giữa những người đảng viên cộng sản với toàn bộ giai cấp và dân
tộc. Đây là những luận điểm tiền đề để các nhà lý luận cách mạng sau này lấy
đó làm căn cứ, tiêu chí xây dựng các Đảng cộng sản lãnh đạo hoạt động của
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Kế thừa và phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác về xây dựng chính đảng
vô sản, trong suốt quá trình hoạt động và lãnh đạo cuộc đấu tranh của công nhân
để giành chính quyền và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô, Lênin đã khái
quát nhiều vấn đề quan trọng về đảng và công tác xây dựng đảng cộng sản kiểu
mới của giai cấp công nhân.
Trước hết, Lênin khẳng định những luận điểm cơ bản của C.Mác, Ph.Ăng
ghen về chính đảng vô sản và chỉ rõ vị trí, vai trò và tầm quan trọng của đảng
đối với sự phát triển của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Quá trình
trực tiếp chỉ đạo và hoạt động trong phong trào công nhân Nga, Lênin đã phát
2
3

C.Mác – Ph.Ăng ghen toàn tập, tập 4, Nxb CTQG, H.1995, Tr 614
C.Mác – Ph.Ăng ghen toàn tập, tập 4, Nxb CTQG, H.1995, Tr 616

3



triển tư tưởng của C.Mác, Ph. Ăng ghen về chính đảng của giai cấp vô sản lên
một tầm cao mới, thành học thuyết về xây dựng đảng kiểu mới của giai cấp
công nhân. Trong đó Lênin đã chỉ rõ rằng: đảng cộng sản là sản phẩm của sự
kết hợp giữa chủ nghĩa xã hội khoa học với phong trào công nhân, đây chính là
quy luật chung của sự hình thành đảng cộng sản. Cũng thông qua các tác phẩm
của mình, Lênin cũng làm rõ tính tất yếu phải xây dựng “Đảng kiểu mới” và
chỉ ra những nguyên tắc cơ bản trong xây dựng đảng đó là: Chủ nghĩa Mác là
nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng; Đảng là một bộ
phận của giai cấp công nhân, là đội tiền phong chính trị có tổ chức và là tổ chức
chặt chẽ nhất, giác ngộ nhất của giai cấp công nhân; khi có chính quyền, đảng là
hạt nhân lãnh đạo hệ thống chính trị của chủ nghĩa xã hội và là một bộ phận của
hệ thống đó; tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản trong xây dựng tổ
chức sinh hoạt và hoạt động của đảng; đảng gắn bó chặt chẽ với quần chúng,
kiên quyết đấu tranh để ngăn ngừa và khắc phục bệnh quan liêu xa rời quần
chúng; đảng là một khối thống nhất về chính trị, tư tưởng và tổ chức; đảng lấy
tự phê bình và phê bình là quy luật phát triển của đảng; đảng phải tích cực kết
nạp những đại biểu ưu tú của giai cấp công nhân và nhân dân lao động vào
đảng, đồng thời phải thường xuyên đưa những người không đủ tiêu chuẩn và
những kẻ cơ hội ra khỏi đảng; chủ nghĩa quốc tế vô sản là một trong những
nguyên tắc quan trọng của việc xây dựng tổ chức và hoạt động của đảng kiểu
mới của giai cấp công nhân.
Trong quá trình hình thành những nguyên tắc xây dựng đảng kiểu mới,
Lênin đặc biệt coi trọng vai trò của lý luận chủ nghĩa Mác, coi chủ nghĩa Mác là
lý luận của phong trào giải phóng của giai cấp vô sản, nắm được lý luận đó thì
giai cấp vô sản và đội tiền phong của nó mới có được vũ khí tư tưởng mạnh mẽ
nhất, còn bản thân lý luận thì khi thấm vào phong trào công nhân sẽ trở thành
sức mạnh vật chất to lớn. Trong tác phẩm “Bệnh ấu trĩ tả khuynh trong phong
trào cộng sản”, Lênin đã khẳng định: Không có một đảng sắt thép được tôi

luyện trong đấu tranh, không có một đảng được sự tín nhiệm của tất cả những
phần tử trung thực trong giai cấp nói trên, không có một đảng biết nhận xét tâm
trạng của quần chúng và biết tác động vào tâm trạng đó thì không thể tiến hành
thắng lợi cuộc đấu tranh ấy đuợc. Người cũng nhấn mạnh rằng: “Không có lý
luận cách mạng thì cũng không thể có phong trào cách mạng” 4, và “Chỉ Đảng
nào được một lý luận tiên phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai

4

V.I. Lênin toàn tập, tập 06, Nxb Tiến bộ Mát-xcơ- va, 1978, Tr30

4


trò chiến sĩ tiên phong”5.
Tóm lại, quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về đảng cộng sản và vai trò
của nó đối với sự phát triển của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế là
một thể thống nhất toàn vẹn, những tư tưởng của các Ông là nền tảng tư tưởng,
kim chỉ nam cho ý chí và hành động của các đảng cộng sản nói chung và Đảng
cộng sản Việt Nam nói riêng. Phong trào cộng sản và công nhân quốc tế muốn
thành công thì nhiệm vụ trước tiên là phải tổ chức ra chính đảng vô sản và xây
dựng nó vững mạnh về mọi mặt theo quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin.
* Tư tưởng Hồ Chí Minh về về vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản đối
với phong trào cách mạng
Sức mạnh của nhân dân là vô cùng to lớn, nhưng chỉ được phát huy khi
được giác ngộ, tập hợp, đoàn kết, lãnh đạo của một tổ chức cách mạng. Người
nói: “Lực lượng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động là rất to lớn, vô
cùng vô tận. Nhưng lực lượng ấy cần có Đảng lãnh đạo mới chắc chắn thắng
lợi”6.
Muốn làm cách mạng, trước hết phải có Đảng, Người khẳng định, cách

mạng Việt Nam: “Trước hết phải có Đảng cách mệnh, để trong thì vận động và
tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp
mọi nơi. Đảng có vững thì cách mạng mới thành công, cũng như người cầm lái
có vững thuyền mới chạy"7. “Cách mạng thắng lợi rồi, quần chúng vẫn cần có
Đảng lãnh đạo”8.
Hồ Chí Minh còn khẳng định: cách mạng muốn thắng lợi phải có Đảng
lãnh đạo để nhận rõ tình hình, đường lối, và định phương châm cho đúng, để
khỏi lạc đường. Làm cách mạng là rất gian khổ, phải có chí khí kiên quyết, phải
được tổ chức chặt chẽ. Vì vậy phải có Đảng để tổ chức và giáo dục nhân dân
thành một đội quân thật mạnh, để giành lấy chính quyền và “Cách mạng thắng
lợi rồi, quần chúng vẫn cần có Đảng lãnh đạo”9.
Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân
Việt Nam, có khả năng đoàn kết tập hợp các tầng lớp nhân dân khác làm cách
mạng. Đảng là đội tiền phong dũng cảm và là đội tham mưu sáng suốt. Đảng
Cộng sản Việt Nam tận tâm, tận lực phụng sự Tổ Quốc, phụng sự nhân dân,
trung thành tuyệt đối với lợi ích của giai cấp, của nhân dân, của dân tộc, Đảng
không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của nhân dân và của dân tộc. Mục tiêu
5

V.I. Lênin toàn tập, tập 06, Nxb Tiến bộ Mát-xcơ- va, 1978, Tr32
Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2002, tập 9, tr.290
7
Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H1995, Tập 2, Tr 267-268
8
Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2002, tập 7, tr.229
9
Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2002, tập 7, tr.229
6

5



phấn đấu của Đảng là độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân, hạnh phúc cho
mọi người.
1.2. Thực trạng phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản trong
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế
* Vai trò lãnh đạo của chính đảng vô sản trong quá trình đấu tranh,
phát triển của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế
Thực tiễn lịch sử phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đã chứng
minh rằng bất kỳ ở đâu, vào lúc nào, nếu giai cấp vô sản tổ chức và xây dựng
được một chính đảng cách mạng, độc lập vững mạnh thì ở đó, lúc đó phong trào
thành công và phát triển mạnh; ngược lại ở đâu, lúc nào giai cấp vô sản chưa tổ
chức và xây dựng được chính đảng của mình thì ở đó, lúc đó phong trào hoạt
động trì trệ thậm chí khủng hoảng thoái trào.
Giai cấp công nhân ra đời gắn liền với phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa, là sản phẩm của nền công nghiệp hiện đại. Ngay từ khi ra đời, giai cấp
công nhân đã liên tục đấu tranh với giai cấp tư sản, các cuộc đấu tranh của công
nhân không ngừng phát triển từ thấp đến cao, từ tự phát lên tự giác. Phong trào
công nhân quốc tế trước khi chủ nghĩa Mác ra đời vốn là các phong trào mang
tính tự phát, hoạt động đấu tranh của họ mới chỉ hướng vào đập phá máy móc,
đòi hỏi quyền lợi kinh tế như đòi tăng lương, giảm giờ làm, chống cúp phạt…
Các cuộc đấu tranh tiêu biểu như cuộc khởi nghĩa Liông (Pháp): 1831 -1834;
của công nhân dệt Xilêdi (Đức): 1844; Phong trào Hiến chương(Anh): 1835 1848...Kết quả tất cả các phong trào trên đều thất bại và bị giai cấp tư sản đàn
áp đẫm máu.
Năm 1848 bất mãn trước cảnh cùng cực của mình và chế độ bóc lột tàn
khốc của chính phủ đương thời, giai cấp công nhân châu Âu mà đặc biệt là giai
cấp công nhân ở Pháp và ở Đức đã tự phát cùng với giai cấp tư sản và nhân dân
lao động (giai cấp công nhân là người tiên phong), đã nổi dậy làm lên các cuộc
cách mạng Tháng Hai và cách mạng Tháng Sáu vang dội Châu Âu; song khi
giành được thắng lợi thành quả cách mạng không phải về tay giai cấp vô sản mà

là giai cấp tư sản. Những thất bại đó do nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân
cơ bản, quan trọng: giai cấp công nhân còn non trẻ; đấu tranh tự phát, chưa có
lý luận, chưa có chưa có một đảng chân chính lãnh đạo phong trào, với một hệ
tư tưởng cách mạng chỉ lối soi đường đúng đắn; chưa liên minh với các giai cấp
khác; giai cấp tư sản đang lên, đang mạnh, đang đóng vai trò tiến bộ.
Tuy nhiên, ngay cả khi chủ nghĩa Mác đã ra đời, đã từng bước thấm sâu
vào phong trào công nhân, giúp giai cấp công nhân đã có một vũ khí lý luận
6


cách mạng soi đường; nhưng nếu giai cấp công nhân không tổ chức được ra
chính đảng, không có sự lãnh đạo của đảng, thì phong trào cũng không thể
thành công. Thực tiễn Công xã Pa ri (1871) đã minh chứng điều đó, mặc dù đã
giành được chính quyền, bước đầu bắt tay vào tổ chức xây dựng xã hội mới,
nhưng cũng chỉ tồn tại được trong vòng 72 ngày và rồi cuối cùng cũng thất bại
dưới sự đàn áp của giai cấp tư sản. Thất bại của công xã Pa ri một lần nữa lại
chứng minh rằng, nếu không thành lập được chính đảng Mác xít thì phong trào
công nhân không những không phát triển được, mà còn phải chịu những thất bại
thảm hại.
Trên cơ sở những bài học được rút ra từ sự thất bại trong lịch sử phong
trào cách mạng, do có sự thâm nhập của lý luận Mác xít vào phong trào công
nhân, giúp cho giai cấp công nhân có những bước tiến rõ rệt. Những năm 70 90 của thế kỷ thứ XIX; giai cấp vô sản ở hàng loạt các nước Châu Âu đã tổ
chức ra chính Đảng của mình, như Đảng xã hội dân chủ Đức (1875), Đảng công
nhân Pháp (1879), Đảng xã hội dân chủ áo (1889), Đảng xã hội dân chủ Nga
(1898)...đến năm 1896 trên lục địa Châu Âu đã có 15 Đảng của giai cấp công
nhân ra đời và đã thành lập được tổ chức quốc tế của giai cấp công nhân (quốc
tế II). Có thể nói rằng, với sự hoạt động của các Đảng công nhân và Quốc tế II,
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đã thu được những thành tựu rất đáng
khích lệ; giai cấp công nhân đã thực sự trở thành lực lượng độc lập về chính trị,
tư tưởng và tổ chức, đã ngày càng nhận thức rõ hơn về sứ mệnh lịch sử của

mình và đã có nhiều hình thức, phương pháp đấu tranh mới; những cuộc đấu
tranh của họ giờ đây đã được các đảng lãnh đạo và tổ chức; họ không những
đấu tranh đòi những quyền lợi về kinh tế mà mục tiêu đấu tranh của họ lúc này
đã có tính chất chính trị đòi xoá bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, giành chính
quyền về tay mình để cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới.
Tuy vậy, sau khi Mác và Ăng Ghen mất, công tác xây dựng đảng không
được trú trọng và tiến hành thường xuyên, quốc tế II đã bị bọn cơ hội, xét lại
lũng đoạn và kết quả là nó đã làm cho phong trào công nhân khủng hoảng trì
trệ. Chủ nghĩa cơ hội, xét lại đã biến quốc tế II vốn là cách mạng thành một tổ
chức phản động, tiếp tay hoặc phục vụ cho các luận điệu của giai cấp tư sản,
phản lại lợi ích của giai cấp công nhân, phản lại lý luận chủ nghĩa Mác.
Trước sự lũng đoạn của bọn cơ hội, xét lại trong quốc tế II, phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế có xu hướng chệch hướng. Nhận thức rõ vị trí
vai trò của đảng Mác xít đối với sự phát triển của phong trào công nhân, Lênin
đã đấu tranh tích cực chống bọn cơ hội chủ nghĩa, vạch trần bản chất của chúng
7


bảo vệ chủ nghĩa Mác và cùng những người đảng viên trung kiên trong đảng
dân chủ xã hội Nga đã từng bước đấu tranh thành lập ra tổ chức đảng kiểu mới,
một Đảng thực sự cách mạng trên nền tảng của chủ nghiã Mác, kết quả tháng
7/1903 Đảng cộng sản Nga - Bônsêvích đã ra đời lãnh đạo phong trào công
nhân Nga.
Với sự lãnh đạo của Đảng Bônsêvích, đứng đầu là Lênin, phong trào
công nhân Nga đã phát triển mạnh mẽ. Sự phát triển đó được đánh dấu bằng các
cuộc cách mạng năm 1905, 1907 mà đỉnh cao của nó là cách mạng tháng Mười
Nga vĩ đại. Trong cách mạng Tháng Mười vai trò to lớn của Đảng Bônsêvích và
Lênin đã thể hiện, thông qua việc đánh giá tình hình trong nước, quốc tế để xác
định nhiệm vụ của cách mạng, xác định lực lượng cách mạng…Đặc biệt, việc
xác định hình thức hòa bình của sự chuyển biến cách mạng từ cách mạng dân

chủ tư sản Tháng Hai lên cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười là một sự
sáng tạo, một phát kiến độc đáo của Đảng Bônsêvích và Lênin. Khi điều kiện
cho sự chuyển biến cách mạng bằng phương pháp hòa bình không còn, một lần
nữa Đảng Bônsvích và Lênin lại thể hiện sự sáng tạo, không bị động trong việc
phát động khởi nghĩa vũ trang trong tòan quốc. Đỉnh cao của sự sáng tạo và
cũng là thể hiện vai trò quyết định của Đảng Bônsêvích mà đứng đầu là Lênin
trong cách mạng Tháng Mười là việc nắm tình thế, thời cơ và chớp thời cơ, phát
động cách mạng vào đêm 24, rạng ngày 25/10/1917. Dưới sự lãnh đạo của
Đảng Bônsêvích và Lênin, giai cấp công nhân và nhân dân lao động Nga đã làm
được điều kỳ diệu, đã biến chủ nghĩa Mác từ học thuyết, lý luận thành hiện
thực, bắt tay vào xây dựng Nhà nước XHCN đầu tiên trên thế giới. Thắng lợi
của cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại đã mở ra cho nhân loại một kỷ nguyên
mới, kỷ nguyên xây dựng CNXH hiện thực; mở ra một thời đại mới thời đại
quá độ từ CNTB lên CNXH hội trên phạm vi toàn thế giới. Hồ Chí Minh khẳng
định: “Giống như mặt trời chói lọi, cách mạng tháng Mười chiếu sáng khắp
năm châu, thức tỉnh hàng triệu người bị áp bức bóc lột trên trái đất. Trong lịch
sử loài người chưa từng có cuộc cách mạng nào có ý nghĩa to lớn và sâu xa
như thế”10
Sau thắng lợi của cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại, dưới sự lãnh đạo
của Đảng cộng sản Nga; giai cấp công nhân và nhân dân Nga đã bảo vệ được
thành quả của cách mạng trước sự bao vây chống phá của chủ nghĩa đế quốc,
xây dựng chủ nghĩa xã hội và đã thu được nhiều thành công, tạo ra sức mạnh để
giành thắng lợi trong chiến tranh thế giới lần thứ II.
10

Hồ Chí Minh, tuyển tập, tập 02, Nxb CTQG, Hà Nội 1980, Tr461

8



Với những thành công vang dội ấy, đã cổ vũ và thúc đẩy phong
trào cộng sản và công nhân quốc tế phát triển mạnh mẽ; các Đảng cộng sản,
dưới ngọn cờ của cách mạng tháng Mười Nga đã lãnh đạo giai cấp công nhân
và nhân dân nước mình làm cách mạng, dẫn đến sự ra đời của một loạt các nước
xã hội chủ nghĩa, hình thành lên hệ thống xã hội chủ nghĩa hùng mạnh vào
những năm 50, 60 của thế kỷ XX; hàng loạt nước thuộc địa sau khi giành chính
quyền đã lựa chọn con đường chủ nghĩa xã hội hoặc phát triển theo định hướng
XHCN: Năm 1921, cách mạng Mông Cổ, 1944 - Cách mạng Anbani, Bunga ri,
Rumani, Ba lan, - 1945 - Cách mạng Hungga ri, Tiệpkhắc, Việt Nam, Nam Tư,
1949 Cách mạng Công hoà dân chủ Đức, Trung Quốc, 1949 - Cách mạng Cu
Ba, 1976 - Cách mạng Lào, 1979 - Cách mạng Cămpuchia (theo quan niệm
trước đây)...
Những năm 70- 80 của thế kỷ XX, những thành tựu to lớn của chủ nghĩa
xã hội đã chứng thực đó là một xã hội tốt đẹp; đã luận giải tính đúng đắn của lý
luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, trong đó có lý luận về sự lãnh đạo của Đảng vô
sản, lý luận về xây dựng đảng và quy luật về mối quan hệ giữa xây dựng, phát
huy vai trò lãnh đạo của chính Đảng vô sản với sự phát triển của phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế.
Đến giữa những năm 80 của thế kỷ XX ở các nước xã hội chủ nghĩa đã
bắt đầu xuất hiện những dấu hiệu trì trệ, nhu cầu phải cải tổ, cải cách, đổi mới
đã trở lên cấp bách. Một số nước do kiên định với chủ nghĩa Mác - Lênin, kiên
định chủ nghĩa xã hội, làm tốt công tác xây dựng, củng cố, phát huy vai trò lãnh
đạo của Đảng nên đã thu được những thành tựu đáng khích lệ trong công cuộc
đổi mới. Song bên cạnh đó cũng đã có nhiều nước do sai lầm về đường lối đổi
mới, đặc biệt là do không làm tốt công tác xây dựng Đảng, xa rời lý tưởng cộng
sản, xét lại chủ nghĩa Mác - Lênin, buông lỏng nguyên tắc tập trung dân chủ, sai
lầm trong công tác tổ chức, công tác cán bộ, để cho kẻ thù lợi dụng và bọn cơ
hội xét lại chui vào trong hàng ngũ của đảng, lũng đoạn Đảng, làm cho Đảng
mất vai trò lãnh đạo, cùng với sự chống phá của kẻ thù; vì vậy công cuộc cải tổ
thất bại dẫn đến sụp đổ chế độ.

Sự sụp đổ chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu là một tổn thất to lớn
của CNXH hiện thực, song cũng đã để lại cho chúng ta nhiều bài học quý báu.
Một trong những bài học đó là phải thường xuyên làm tốt công tác xây dựng
Đảng và phát huy, tăng cường vai trò sự lãnh đạo của Đảng. Điều này một lần
nữa chứng minh mối quan hệ giữa công tác xây dựng Đảng với sự phát triển và
sinh tồn của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
9


* Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong tiến trình đấu
tranh, phát triển cách mạng qua các thời kỳ
Hơn 80 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, đất
nước Việt Nam từ một nước thuộc địa nửa phong kiến bị chia cắt thành nhiều
mảnh đã trở thành một nước Việt Nam hoà bình, độc lập và toàn vẹn lãnh thổ;
dân tộc Việt Nam từ địa vị bị nô nệ, bị bóc lột giã man đã vươn lên thành chủ
nhân chân chính của xã hội. Những thành tựu vẻ vang của cách mạng Việt Nam
xuất phát từ những nhân tố, những tiền đề khách quan và chủ quan khác nhau
trong đó đường lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng cộng sản Việt Nam là nhân tố
quyết định. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng cộng sản
Việt Nam khẳng định: “Đường lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố
quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam”.
Ngược dòng lịch sử, vào những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX,
trước khi Đảng cộng sản Việt Nam ra đời, dân tộc Việt Nam “chìm đắm” dưới
ách đô hộ của thực dân Pháp xâm lược và phong kiến tay sai, đời sống của nhân
dân vô cùng khổ cực; đã có nhiều cuộc đấu tranh của nhân dân ta nổ ra nhằm
giải phóng dân tộc thoát khỏi ách áp bức, bóc lột của chủ nghĩa thực dân, phong
kiến; tiêu biểu như phong trào nông dân của Hoàng Hoa Thám, phong trào cứu
nước theo hệ tư tưởng phong kiến của chiếu Cần vương, hay theo tư tưởng tư
sản và tiểu tư sản của Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu, Nguyễn Thái Học…
song tất cả các phong trào đó đều dẫn đến thất bại...Một trong những nguyên

nhân dẫn đến sự thất bại là do các phong trào đó chưa có đường lối cách mạng
đúng đắn, chưa được trang bị một hệ tư tưởng cách mạng, khoa học để thực
hiện nhiệm vụ giải phóng dân tộc.
Vận dụng sáng tạo học thuyết Mác- Lênin về chính đảng vô sản của giai
cấp công nhân, Hồ Chí Minh đã sáng lập và rèn luyện Đảng cộng sản Việt Nam
trở thành đội tiên phong, bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân, nhân
dân lao động và của cả dân tộc. Đảng cộng sản Việt Nam đã trở thành người tổ
chức và lãnh đạo duy nhất của cách mạng Việt Nam. Khi mới ra đời ngay từ
cương lĩnh đầu tiên, Đảng đã xác định cách mạng Việt Nam phải trải qua hai
giai đoạn là thực hiện cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, khi hoàn thành tiến
thẳng lên chủ nghĩa xã hội không trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa,
vì vậy đã chấm dứt sự khủng hoảng, bế tắc về đường lối, đáp ứng được với đòi
hỏi của lịch sử và phù hợp với xu thế mới của thời đại do cách mạng Tháng
Mười tạo ra. Đường lối chiến lược đó đã trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá
trình đấu tranh của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng.
10


Với đường lối cách mạng đúng đắn nên ngay sau đó, Đảng đã phát động
được hàng loạt cao trào đấu tranh rộng lớn. Mở đầu là cao trào 1930 - 1931 với
đỉnh cao là Xô Viết nghệ Tĩnh. Đó là cuộc tổng diễn tập đầu tiên của cách mạng
nước ta, để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu trong quá trình đấu tranh
giành và giữ chính quyền sau này. Tiếp đó là cao trào đòi tư do, dân chủ, cơm
áo, hòa bình những năm 1936- 1939, một trong những thành công của cao trào
này là Đảng ta đã tập hợp và xây dựng được lực lượng chính trị, lực lượng vũ
trang, căn cứ địa cách mạng, chớp thời cơ cách mạng đã chín muồi, Đảng đã
phát động và lãnh đạo tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước giành
thắng lợi cách mạng Tháng Tám 1945.
Thắng lợi của cách mạng tháng tám năm 1945, chấm dứt gần một thế kỷ
đô hộ của thực dân Pháp, mở ra cho dân tộc ta một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên

độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Sau cách mạng tháng tám, tình thế cách
mạng nước ta như “ngàn cân treo sợi tóc”, song với đường lối chiến lược, sách
lược đúng đắn, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân ta vượt qua mọi khó khăn, chính
quyền non trẻ được giữ vững và ngày càng lớn mạnh.
Trước những khó khăn chồng chất dân tộc ta tiếp tục bước vào cuộc kháng
chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược. Với đường lối kháng chiến
toàn dân, toàn diện, lâu dài, tự lực cánh sinh; với tư tưởng “vừa kháng chiến,
vừa kiến quốc”, chúng ta đã làm lên chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy năm
châu, chấn động địa cầu; đánh bại chủ nghĩa thực dân cũ, đưa miền Bắc tiến lên
CNXH, tiếp tục cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Miền Nam.
Với đường lối tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng trên hai miền
Tổ Quốc, Đảng phát động lời kêu gọi: “Tất cả vì Miền Nam ruột thịt”, “Đánh
cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào”, quân, dân hai miền dưới sự lãnh đạo của
Đảng đã làm lên thắng lợi mùa xuân năm 1975, đập tan chế độ thực dân mới
của đế quốc Mỹ ở Miền Nam. Thắng lợi của cách mạng mùa xuân năm 1975
mở ra một trang sử mới cho dân tộc Việt Nam, thời kỳ độc lập, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ, cả nước bước vào xây dựng CNXH.
Bước vào xây dựng CNXH với muôn vàn khó khăn thử thách: Điểm xuất
phát thấp, lực lượng sản xuất nhỏ lẻ, manh mún lại bị tàn phá nặng nề sau chiến
tranh, cơ sở sản xuất hầu như không đáng kể; tập quán, thói quen sản xuất nhỏ
ăn sâu bám rễ trong tư tưởng người lao động... Song với đường lối lãnh đạo tài
tình, sáng suốt của Đảng, cách mạng Việt Nam vẫn được giữ vững, chính trị ổn
định, an ninh được tăng cường tạo điều kiện cho đổi mới và phát triển đất nước
sau này.
11


Vào thập niên 80 của thế kỷ XX, trong khi các nước xã hội chủ nghĩa ở
Liên Xô và Đông Âu nóng vội, chủ quan, thực hiện cải tổ cải cách ồ ạt và vấp
phải những sai lầm nghiêm trọng dẫn đến khủng hoảng và sụp đổ, thì ở Việt

Nam Đảng ta kiên trì đường lối độc lập dân tộc gắn liền với CNXH; kiên định
hệ tư tưởng Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tiến hành đổi mới thận trọng
từng bước. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986) của Đảng cộng sản
Việt Nam là một mốc quan trọng đánh dấu sự nghiệp đổi mới toàn diện đất
nước. Tiếp đó các Đại hội VII, VIII, IX, X đã lãnh đạo, đưa sự nghiệp đổi mới
của nước ta đạt những thành tựu to lớn, tạo thế và lực mới và khẳng định bước
đi đúng đắn của cách mạng Việt Nam. Từ thực tiễn đổi mới toàn diện đất nước,
Đảng ta đã rút ra bài học quan trọng: “Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân
tố hàng đầu bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam”11...
Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh: dù bất cứ tình huống nào,
đường lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của
cách mạng Việt Nam. Vì vậy, việc xây dựng Đảng vững mạnh là một nhiệm vụ
thường xuyên, then chốt trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng Việt Nam, nó đòi
hỏi phải được sự quan tâm của không chỉ bản thân những người đảng viên cộng
sản mà là của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta. Trước khi từ trần, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Việc cần làm trước tiên là chỉnh đốn Đảng, làm cho
mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó
cho mình, toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân. Làm được như vậy, thì dù công to
việc lớn mấy, khó khăn mấy chúng ta cũng nhất định thắng lợi”12
2. Sự vận dụng của Đảng ta tiếp tục thực hiện đồng bộ các giải pháp
Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI hiện nay
Trong những năm gần đây, nhất là sau khi chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và
Đông Âu sụp đổ, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch ra sức chống phá
các nước xã hội chủ nghĩa còn lại. Bằng chiến lược “diễn biến hoà bình” chúng
hòng xoá bỏ các nước xã hội chủ nghĩa còn lại, lật đổ vai trò lãnh đạo của đảng
cộng sản trên phạm vi toàn thế giới. Cách mạng Việt Nam trở thành trọng điểm
chống phá, trong đó xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam là
một mũi nhọn. Để làm tốt vai trò lãnh đạo của mình và đấu tranh có hiệu quả
làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù
địch hơn lúc nào hết, việc xây dựng Đảng vững mạnh cả về chính trị tư tưởng

và tổ chức không chỉ là nhiệm vụ then chốt của cách mạng Việt Nam trong giai
11
12

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb.CTQG, H.2001, Tr.137
Hồ Chí Minh, Toàn Tập, Nxb. CTQG,1995, t.12, tr512

12


đoạn hiện nay nó còn là một vấn đề cấp bách.
2.1. Tính tất yếu khách quan của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng
trong thời kỳ đổi mới.
Ngay từ khi vừa ra đời và trong suốt tiến trình lãnh đạo cách mạng nước
ta, Đảng ta luôn thể hiện là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng
nước ta. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay, trước những diễn biến phức tạp
của tình hình thế giới và trong nước; trước sự chống phá mạnh mẽ của kẻ thù;
trước những bất cập, và hạn chế trong công tác xây dựng Đảng đòi hỏi Đảng ta
cần phải chú trọng hơn nữa đến công tác xây dựng Đảng, coi công tác xây dựng
đảng không những chỉ là một quy luật thường xuyên mà còn là vấn đề cấp bách.
Tính cấp bách của công tác xây dựng Đảng xuất phát từ những lý do cơ bản sau:
Một là, xuất phát từ vị trí, vai trò ngày càng tăng của Đảng trong sự nghiệp
đổi mới toàn diện đất nước hiện nay.
Hiện nay chúng ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước
và hội nhập quốc tế. Tình hình trong nước và quốc tế đem lại những vận hội
mới, nhưng cũng đặt ra những nguy cơ, thách thức lớn cho cách mạng nước ta.
Vì vậy một trong những vấn đề hết sức quan trọng là chúng ta phải quan tâm
hàng đầu đến công tác xây dựng Đảng, bảo đảm cho Đảng ngang tầm nhiệm vụ,
đủ sức lãnh đạo cách mạng Việt nam tận dụng những cơ hội, vượt qua thách
thức, đẩy lùi nguy cơ, đưa sự nghiệp đổi mới của Việt nam đến thắn lợi cuối

cùng.
Mặt khác, sự nghiệp đổi mới, với chủ trương thực hiện kinh tế thị trường
định hướng XHCN do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã đạt những thành tựu
vô cùng quan trọng, nhất là trên lĩnh vực kinh tế. Trong thực tiễn, cơ chế thị
trường đã tạo ra những bước phát triển mới đối với nền kinh tế nước ta, kích
thích được năng lực sản xuất của xã hội; đẩy mạnh quá trình áp dụng những
thành tựu của cách mạng khoa học kỹ thuật vào quá trình sản xuất để tăng năng
xuất lao động làm ra ngày càng nhiều của cải vật chất cho xã hội. Tuy vậy, bên
cạnh đó mặt trái của kinh tế thị trường cũng để lại nhiều vấn đề cần giải quyết,
nó làm thay đổi cơ cấu xã hội giai cấp, nới rộng khoảng cách phân hoá giàu
nghèo; đạo đức, lối sống xã hội có nhiều phức tạp; đất nước đang đặt trước
những nguy cơ lớn, đặc biệt là nguy cơ tham nhũng và nguy cơ chệch hướng xã
hội chủ nghĩa.
Để khắc phục những “mặt trái”, những hạn chế trên đòi hỏi Đảng ta phải
có những quyết sách phù hợp, để đảm bảo vừa tăng trưởng kinh tế nhưng cũng
vừa kích thích được tiến bộ xã hội; vừa khuyến khích được tính tích cực, năng
13


động, sáng tạo của các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, nhưng cũng vừa
giữ vững được định hướng xã hội chủ nghĩa; vừa tiến hành hợp tác, đầu tư kinh
tế vì những mục tiêu kinh tế trước mắt lại vừa đảm bảo sự nghiệp đấu tranh
chống chủ nghĩa tư bản, thực hiện sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp vô
sản...Tất cả những yêu cầu đó chỉ được thực hiện thông qua các chủ trương,
quyết sách của Đảng và Nhà nước ta. Để giải quyết những mâu thuẫn trên đòi
hỏi Đảng ta phải có đường lối, chủ trương đúng đắn , mềm dẻo và linh hoạt, để
vừa thực hiện được nhiệm vụ dân tộc lại vừa giải quyết được nhiệm vụ giai cấp.
Do vậy, Đảng ta một mặt phải không ngừng nâng cao bản lĩnh chính trị, trí tuệ
của mình mặt khác phải thường xuyên làm tốt công tác xây dựng Đảng trong
sạch vững mạnh; có như vậy mới đảm bảo cho Đảng ta có đủ sức lãnh đạo sự

nghiệp đổi mới giành thắng lợi giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, tiến tới
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Hai là, xuất phát từ âm mưu, thủ đoạn chống phá của chủ nghĩa đế quốc và
các thế lực thù địch đối với nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Sau khi CNXH ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, chủ nghĩa đế quốc và các
thế lực thù địch càng ráo riết chống phá cách mạng thế giới, trong đó chúng tập
trung chống phá hòng xoá bỏ các nước XHCN còn lại, đưa thế giới phát triển
theo quỹ đạo của CNTB. Bằng chiến lược “diễn biến hoà bình” chúng đã sử
dụng rất nhiều những âm mưu, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt điên cuồng chống
phá các nước XHCN còn lại, trong đó Việt Nam là một trọng điểm. Chúng
chống phá trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hoá; chống
phá Đảng, Nhà Nước XHCN...một trong mũi nhọn chúng tập trung chống phá
đó là Đảng cộng sản, hòng xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản, coi đây
là một mũi nhọn tiến tới xoá bỏ chế độ XHCN.
Bằng những luận điệu phản động chúng ra sức xuyên tạc bản chất giai
cấp công nhân của Đảng cộng sản Việt Nam, hoặc lợi dụng những thiếu sót của
Đảng, tô hồng, bóp méo sự thật, vu khống, xuyên tạc đường lối lãnh đạo của
Đảng, cho Đảng ta chuyên quyền độc đoán ; đòi xoá bỏ vai trò lãnh đạo của
Đảng đối với toàn thể xã hội, kích động, chia rẽ gây mất đoàn kết trong Đảng,
tạo ra lực lượng chống phá từ bên trong; đòi đa nguyên chính trị, đa đảng đối
lập... Tất cả những âm mưu thủ đoạn đó chúng đã áp dụng thành công ở Liên
Xô và Đông Âu, gây ra sự khủng hoảng dẫn đến sụp đổ CNXH ở Liên Xô và
Đông Âu, gây tổn thất to lớn cho phong trào cộng sản và công nhân quốc tế;
nay cũng với nhũng âm mưu thủ đoạn đó chúng đem áp dụng vào để chống phá
các nước XHCN còn lại, trong đó có nước ta. Đảng ta và nhân dân ta đã nhận
14


thức rõ và cảnh giác trước âm mưu thủ đoạn của bọn chúng, kiên quyết đấu
tranh làm thất bại những âm mưu thủ đoạn đó. Nhưng trước diễn biến phức tạp

của tình hình thế giới; trước sự chống phá điên cuồng của chủ nghĩa đế quốc và
các thế lực thù địch, đáng tiếc có một số đảng viên của Đảng dao động lập
trường tư tưởng, hoặc bị lôi kéo móc lối đã ngả sang hàng ngũ của kẻ thù, phản
bội lại lợi ích của Đảng của cách mạng. Do vậy, để đấu tranh có hiệu quả với
những âm mưu thủ đoạn của kẻ thù, đòi hỏi Đảng ta phải vững mạnh cả về
chính trị, tư tưởng và tổ chức, tạo ra cho đảng viên và Đảng có đủ sức “miễn
dịch” với chiến lược “diễn biến hoà bình” của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực
thù địch. Để làm được điều đó đòi hỏi Đảng ta phải thường xuyên làm tốt công
tác xây dựng Đảng, coi xây dựng Đảng là quy luật phát triển của Đảng, đảm bảo
cho Đảng luôn trong sạch, đủ sức lãnh đạo cách mạng nước ta.
Ba là, do thực trạng công tác xây dựng Đảng hiện nay còn tồn tại nhiều bất
cập, yếu kém.
Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, tự phê
bình nghiêm túc, tại đại hội VI và sau đó được tiếp tục tại đại hội Đảng VII,
Đảng ta đã chỉ rõ những khuyết điểm của Đảng, ý thức một cách sâu sắc về tầm
quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Tại đại hội Đảng VI, Đảng
ta đã đề ra chủ trương đổi mới tư duy, đổi mới tổ chức, đổi mới công tác cán bộ,
đổi mới phong cách công tác. Tiếp tục phương hướng này, tại đại hội Đảng
VII, Đảng ta đã đề ra chủ trương tự đổi mới, tự chỉnh đốn. Tại Hội nghị Trung
ương ba khoá VII (6 - 1992), Đảng ta đã cụ thể hoá chủ trương đó và nhấn
mạnh rằng lúc này xây dựng kinh tế là trung tâm và xây dựng Đảng là then
chốt.Tại Đại hội Đảng lần thứ VIII và tiếp đó trong Hội nghị Trung ương 6 (lần
2), Đảng ta đã đưa ra chủ chương: Toàn Đảng tiến hành cuộc vận động xây
dựng, chỉnh đốn Đảng, thực hiện tự phê bình và phê bình. Góp phần tạo ra
những bước chuyển biến mới trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, Bộ
chính tri Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX đã ban hành chỉ thị số 03CT/TW về việc tiếp tục thực hiện nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khoá VIII.
Như vậy, từ khi ra đời cho đến nay Đảng ta đã rất quan tâm đến công tác xây
dựng, chỉnh đốn Đảng và chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, giữ vững
và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng. Song bên cạnh đó, công tác xây dựng,
chỉnh đốn Đảng trong thời gian vừa qua còn nhiều bất cập yếu kém.

Để khắc phục tình trạng trên góp phần phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng
trong tình hình mới Ngày 16/1/2012, thay mặt Ban Chấp hành Trung ương
Đảng, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Nghị quyết số 1215


NQ/TW – Nghị quyết Hội Nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(khóa XI): Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay, Nghị quyết đã
nêu ra thực trạng công tác xây dựng Đảng hiện nay, bên cạnh những kết quả đạt
được, vẫn còn tồn tại nhiều bất cập, yếu kém và nguyên nhân.
Trải qua hơn 80 năm phấn đấu, xây dựng và trưởng thành, vượt qua muôn
vàn khó khăn, thử thách, với bản lĩnh của một đảng cách mạng chân chính, dạn
dày kinh nghiệm, luôn gắn bó máu thịt với nhân dân, Đảng đã lãnh đạo, tổ chức
và phát huy sức mạnh to lớn của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, giành được
nhiều thắng lợi vĩ đại trong sự nghiệp cách mạng.
Từ khi thực hiện đường lối đổi mới, Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng,
Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư các khóa đã ban hành
nhiều chủ trương, nghị quyết về xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Trên cơ sở đó, công
tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã đạt được nhiều kết quả tích cực; năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của Đảng không ngừng được nâng cao; phương thức lãnh
đạo của Đảng từng bước được đổi mới; vai trò lãnh đạo của Đảng được giữ
vững, niềm tin của nhân dân với Đảng được củng cố; đội ngũ cán bộ, lãnh đạo,
quản lý các cấp đã có bước trưởng thành và tiến bộ về nhiều mặt. Đa số cán bộ,
đảng viên có ý thức rèn luyện, nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống,
có ý thức phục vụ nhân dân, được nhân dân tin tưởng. Thành tựu 25 năm đổi
mới là thành quả của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, trong đó có sự đóng góp
to lớn của đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Bên cạnh kết quả đạt được, công tác xây dựng Đảng vẫn còn không ít hạn
chế, yếu kém, thậm chí có những yếu kém khuyết điểm kéo dài qua nhiều
nhiệm kỳ chậm được khắc phục, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với
Đảng; nếu không được sửa chữa sẽ là thách thức đối với vai trò lãnh đạo của

Đảng và sự tồn vong của chế độ. Nổi lên một số vấn đề cấp bách sau đây:
Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên
giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý
tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi,
tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc...
Đội ngũ cán bộ cấp Trung ương, cấp chiến lược rất quan trọng, nhưng
chưa được xây dựng một cách cơ bản. Công tác quy hoạch cán bộ mới tập trung
thực hiện ở địa phương, chưa thực hiện được ở cấp trung ương, dẫn đến sự hẫng
hụt, chắp vá, không đồng bộ và thiếu chủ động trong công tác bố trí, phân công
cán bộ. Một số trường hợp đánh giá, bố trí cán bộ chưa thật công tâm, khách
16


quan, không vì yêu cầu công việc, bố trí không đúng sở trường, năng lực, ảnh
hưởng đến uy tín cơ quan lãnh đạo, sự phát triển của ngành, địa phương và cả
nước.
Nguyên tắc "tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách" trên thực tế ở nhiều nơi
rơi vào hình thức, do không xác định rõ cơ chế trách nhiệm, mối quan hệ giữa
tập thể và cá nhân; khi sai sót, khuyết điểm không ai chịu trách nhiệm. Do vậy,
vừa có hiện tượng dựa dẫm vào tập thể, không rõ trách nhiệm cá nhân, vừa
không khuyến khích người đứng đầu có nhiệt tình, tâm huyết, dám nghĩ, dám
làm; tạo kẽ hở cho cách làm việc tắc trách, trì trệ, hoặc lạm dụng quyền lực một
cách tinh vi để mưu cầu lợi ích cá nhân.
Tình hình trên đây có nguyên nhân khách quan do việc thực hiện đổi mới
kinh tế phải vừa làm, vừa rút kinh nghiệm, chưa lường hết được những tác động
của mặt trái cơ chế thị trường, hội nhập quốc tế; chưa có sự chuẩn bị thật kỹ về
lập trường, tư tưởng và cả cách thức tiếp cận mới cho cán bộ, đảng viên. Đặc
biệt, còn thiếu những cơ chế, chính sách đồng bộ, khoa học để chủ động ngăn
ngừa những vi phạm.

Đất nước ta đang trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
hội nhập quốc tế, xây dựng, phát triển với quy mô ngày càng lớn, một bộ phận
cán bộ lãnh đạo, quản lý nắm giữ khối lượng tài sản, nguồn vốn lớn của tập thể,
của Nhà nước; đó là môi trường để chủ nghĩa cá nhân vụ lợi, thực dụng phát
triển.
Trong khi đó, các thế lực thù địch không từ bỏ âm mưu và hoạt động "diễn
biến hòa bình", thúc đẩy "tự diễn biến", "tự chuyển hóa", tăng cường hoạt động
chống phá, chia rẽ nội bộ Đảng và phá hoại mối quan hệ gắn bó giữa Đảng với
nhân dân, làm suy yếu vai trò lãnh đạo của Đảng.
Đặc biệt là nhưng chủ yếu là do những nguyên nhân chủ quan: Cán bộ,
đảng viên thiếu tu dưỡng, rèn luyện, giảm sút ý chí chiến đấu, quên đi trách
nhiệm, bổn phận trước Đảng, trước nhân dân. Việc tổ chức thực hiện các chủ
trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, các nghị quyết, chỉ thị, quy định về xây
dựng, chỉnh đốn Đảng ở một số nơi chưa đến nơi đến chốn, kỷ cương, kỷ luật
không nghiêm, nói không đi đôi với làm, hoặc làm chiếu lệ.
Các nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình ở nhiều nơi vừa
bị buông lỏng trong thực hiện, vừa chưa được quy định cụ thể để làm cơ sở cho
công tác kiểm tra, giám sát. Việc nghiên cứu, sửa đổi, ban hành cơ chế, chính
sách, pháp luật thích ứng với quá trình vận hành của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa chưa kịp thời; nhiều văn bản quy định thiếu chế tài cụ
17


thể. Đánh giá, sử dụng, bố trí cán bộ còn nể nang, cục bộ; chưa chú trọng phát
hiện và có cơ chế thật sự để trọng dụng người có đức, có tài; không kiên quyết
thay thế người vi phạm, uy tín giảm sút, năng lực yếu kém.
Công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống nhiều
khi còn hình thức, chưa đủ sức động viên và thường xuyên nâng cao ý chí cách
mạng của cán bộ, đảng viên; một số nơi có tình trạng những việc làm đúng,
gương người tốt không được đề cao, bảo vệ; những sai sót, vi phạm không được

phê phán, xử lý nghiêm minh. Công tác kiểm tra, giám sát, giữ gìn kỷ cương, kỷ
luật ở nhiều nơi, nhiều cấp chưa thường xuyên, ráo riết; đấu tranh với những vi
phạm còn nể nang, không nghiêm túc. Vai trò giám sát của nhân dân thông qua
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội chưa được phát huy, hiệu
quả chưa cao.
Trước những yếu kém, bất cập của công tác xây dựng Đảng, hơn lúc nào
hết, để Đảng ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ, đủ sức lãnh đạo cách mạng nước
ta trong giai đoạn mới, giai đoạn đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước, hội nhập quốc
tế hiện nay, đòi hỏi Đảng ta phải quan tâm hơn nữa đến công tác xây dựng
Đảng, coi đó là vấn đề bức thiết và cấp bách.
2. 2. Sự vận dụng của Đảng ta tiếp tục thực hiện đồng bộ các giải pháp
Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI hiện nay
* Mục tiêu, phương châm, các nhóm giải pháp Nghị quyết Trung ương
4 khóa XI trong công tác xây dựng Đảng hiện nay.
Mục tiêu; phải tạo được sự chuyển biến rõ rệt, khắc phục được những hạn
chế, yếu kém trong công tác xây dựng Đảng, nhằm xây dựng Đảng ta thật sự là
đảng cách mạng chân chính, ngày càng trong sạch, vững mạnh, không ngừng
nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, củng cố niềm tin trong
Đảng và nhân dân, động viên toàn Đảng, toàn dân, toàn quân thực hiện thắng
lợi các chủ trương, nghị quyết của Đảng.
Với phương châm; nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, khách
quan, không nể nang, né tránh. Các giải pháp phải bảo đảm đồng bộ, có trọng
tâm, trọng điểm, khả thi, kết hợp "chống và xây", "xây và chống", nói đi đôi với
làm, tập trung giải quyết những vấn đề bức xúc, trì trệ nhất. Chỉ đạo, tổ chức
thực hiện với trách nhiệm và quyết tâm chính trị cao trong toàn Đảng. Ban Chấp
hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các cấp ủy đảng, cán bộ chủ chốt,
nhất là cấp trung ương, người đứng đầu làm trước và phải thật sự gương mẫu để
cho các cấp noi theo. Phải làm kiên quyết, kiên trì, xác định rõ lộ trình thực
hiện, thời gian hoàn thành, làm từng bước vững chắc, thường xuyên kiểm tra,
18



giám sát chặt chẽ. Làm tốt nhiệm vụ xây dựng Đảng cũng chính là để thúc đẩy
thực hiện nhiệm vụ chính trị. Phải bình tĩnh, tỉnh táo, không nóng vội, cực đoan;
đồng thời không để rơi vào trì trệ, hình thức, không chuyển biến được tình hình;
giữ đúng nguyên tắc, không để các thế lực thù địch, những phần tử cơ hội lợi
dụng, kích động, xuyên tạc, đả kích gây rối nội bộ.
Nội dung, các nhóm giải pháp; Nhóm giải pháp về tự phê bình và phê
bình, nêu cao tính tiền phong, gương mẫu của cấp trên; nhóm giải pháp về tổ
chức, cán bộ và sinh hoạt đảng; nhóm giải pháp về cơ chế, chính sách; nhóm
giải pháp về công tác giáo dục chính trị, tư tưởng.
Những kết quả đạt được và những khuyết điểm hạn chế còn tồn tại trong
quá trình thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI hiện nay.
Nhìn lại hơn 3 năm thực hiện Nghị quyết, những kết quả đạt được tuy chưa
đáp ứng được lòng mong đợi của cán bộ, đảng viên và nhân dân, nhưng đa số ý
kiến đều cho rằng: Việc triển khai, tổ chức thực hiện Nghị quyết lần này có sự
lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ và thể hiện quyết tâm chính trị cao của Ban Chấp
hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Nội dung và các nhóm giải pháp
nêu trong Nghị quyết đã được thể chế hoá, cụ thể hoá bằng các kế hoạch, quy
định, hướng dẫn… tương đối nhanh, kịp thời và khá đồng bộ, tạo điều kiện
thuận lợi cho việc triển khai thực hiện ở các cấp. Công tác chỉ đạo thực hiện
cũng như nội dung, quy trình và cách làm có một số điểm mới, có tác dụng và
đem lại một số kết quả bước đầu.
Bên cạnh những kết quả trên, việc thực hiện Nghị quyết cũng bộc lộ một
số hạn chế, khuyết điểm sau:
Thứ nhất, trong quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết, một bộ phận cán
bộ, đảng viên chưa nhận thức đầy đủ, sâu sắc về Nghị quyết Trung ương 4 và
việc kiểm điểm tự phê bình và phê bình; nhiều cấp ủy, tổ chức đảng và cơ quan,
đơn vị góp ý kiến kiểm điểm cho cấp trên, nhất là góp ý cho cá nhân còn nể
nang, e ngại nên chất lượng hạn chế. Tình trạng suy thoái về tưởng chính trị,

đạo đức lối sống trong cán bộ, đảng viên tuy đã được đấu tranh, ngăn chặn một
bước, nhưng vẫn đang tồn tại, chưa được đẩy lùi, thậm chí có mặt còn phát triển
với những hình thức tinh vi, phức tạp hơn.
Thứ hai, quá trình chuẩn bị và tiến hành kiểm điểm tự phê bình và phê
bình tập thể, cá nhân, một số cán bộ, đảng viên, kể cả cán bộ lãnh đạo, quản lý ở
các cấp chưa nhìn nhận đúng mức khuyết điểm và trách nhiệm của mình trước
những hạn chế, khuyết điểm của tập thể. Qua kiểm điểm, một số vấn đề như
chạy chức, chạy việc, chạy tội, lợi ích nhóm…, vẫn chưa làm rõ được thực chất
19


và mức độ nghiêm trọng của tình hình, chưa chỉ ra được địa chỉ cụ thể và trách
nhiệm của tập thể, cá nhân.
Thứ ba, sau kiểm điểm tự phê bình và phê bình, một số nơi chậm đề ra kế
hoạch, biện pháp sửa chữa, khắc phục khuyết điểm hoặc xây dựng kế hoạch còn
chung chung, thiếu cụ thể; việc chỉ đạo thực hiện kế hoạch khắc phục khuyết
điểm ở một số nơi chưa đồng bộ, thiếu quyết liệt nên kết quả còn hạn chế. Việc
kiểm điểm theo Nghị quyết Trung ương 4 khi đi vào thường xuyên, gắn với
kiểm điểm cuối năm ở nhiều nơi có xu hướng lỏng lẻo; còn biểu hiện khá phổ
biến tình trạng nể nang, né tránh và bệnh thành tích; chưa đi sâu phân tích, làm
rõ nguyên nhân của những khuyết điểm và xác định trách nhiệm của tập thể, cá
nhân liên quan.
Thứ tư, việc nghiên cứu, ban hành một số quy định, quy chế, hướng dẫn để
cụ thể hoá, thể chế hoá thực hiện Nghị quyết còn chậm và chưa thật đồng bộ.
Một số cấp ủy, tổ chức đảng chưa coi trọng công tác kiểm tra, đôn đốc trong
quá trình thực hiện Nghị quyết cũng như việc xây dựng, thực hiện kế hoạch sửa
chữa, khắc phục khuyết điểm. Việc xem xét, xử lý một số trường hợp vi phạm
khuyết điểm chưa kịp thời, nghiêm khắc; một số vụ việc nổi cộm, phức tạp, gây
bức xúc trong Đảng và trong xã hội giải quyết còn chậm so với yêu cầu.
Thứ năm, Việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh ở

nhiều nơi còn hình thức, mang tính phong trào, chưa trở thành công việc thường
xuyên hàng ngày của mỗi cán bộ, đảng viên. Công tác thông tin, tuyên truyền
về thực hiện Nghị quyết còn hạn chế, chưa mạnh mẽ, sắc bén và có lúc thiếu kịp
thời.
Nguyên nhân của những hạn chế, khuyết điểm trên là do: Những vấn đề
cấp bách nêu trong Nghị quyết Trung ương 4 về xây dựng Đảng là những vấn
đề lớn, khó và phức tạp, tác động đến nhiều mặt của công tác xây dựng Đảng,
trong đó có những vấn đề đã tồn đọng kéo dài qua nhiều nhiệm kỳ và liên quan
đến nhiều cấp, nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, đòi hỏi phải có thời gian mới có thể
khắc phục, giải quyết được.
Công tác chỉ đạo, kiểm tra, giám sát của một số cấp ủy, tổ chức đảng và
người đứng đầu cơ quan, đơn vị chưa thường xuyên, chặt chẽ và thiếu kiên
quyết; một số vụ việc phức tạp, nổi cộm còn để kéo dài, chưa được xử lý kịp
thời, dứt điểm. Một bộ phận cán bộ, đảng viên tính chiến đấu yếu, còn tư tưởng
nể nang, né tránh, “dĩ hòa vi quý”. Cá biệt, có một số còn nghi ngờ, không tự
giác thực hiện và thiếu tin tưởng vào kết quả thực hiện Nghị quyết.
Trong thời gian tới, các cấp ủy đảng cần tiếp tục lãnh đạo đẩy mạnh thực
20


hiện đồng bộ các giải pháp mà Nghị quyết đã đề ra, nhất là tập trung chỉ đạo
khắc phục những khuyết điểm đã được chỉ ra qua tự phê bình và phê bình, giải
quyết dứt điểm những vụ việc nổi cộm ở địa phương, đơn vị, đưa Nghị quyết
vào cuộc sống.
* Một số bài học kinh nghiệm chủ yếu về công tác xây dựng, chỉnh đốn
Đảng.
Từ thực tiễn công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong quá trình đổi mới,
đành giá toàn diện mặt mạnh, mặt yếu. Đảng ta đã rút ra một số bài học kinh
nghiệm chủ yếu sau:
Một là, kiên trì đường lối đổi mới, đổi mới toàn diện, có nguyên tắc và

sáng tạo; trong quá trình đổi mới phải luôn giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng, kiên định chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định
mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, không đa nguyên, đa đảng.
Hai là, Đảng phải được xây dựng vững mạnh vê chính trị, tư tưởng và tổ
chức, thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu; đổi mới công tác xây dựng Đảng. phát huy dân chủ trong Đảng,
thực hiên đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, giữ vững kỉ cương, kỉ luật; thường
xuyên tự phê bình và phê bình; giư gìn và tăng cường xây dựng sự đoàn kết
thống nhất trong Đảng, đáu tranh kiên quyết với những phần tử cơ hội. Xây
dựng hệ thóng tổ chức bộ máy trong sạch, vững mạnh, tinh gọn; xác định thẩm
quyền rõ ràng, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả. Coi trọng xây dựng tổ chức cơ
sở Đảng.
Ba là, Đảng phải chăm lo xây dựng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên
có đủ bản lĩnh chính trị, phẩm chất, trí tuệ và năng lực thực tiễn để hoàn thành
nhiệm vụ. Phải tạo sự chuyển biến thực sự và đồng bộ trong công tác cán bộ
trên tất cả các khâu đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí
và sử dụng cán bộ. Đặc biệt coi trọng xây dựng hạt nhân lãnh đạo, trọng dụng
nhân tài.
Bốn là, Đảng phải gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, dự vào nhân dân để xây dựng Đảng. Phải xây
dựng các thiết chế mở rộng và phát huy dân chủ, bảo đảm các chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước đều có sự tham gia xây dựng của nhân dân, phản
ánh ý chí, lợi ích chính đáng của nhân dân, của quốc gia, dân tộc. Cán bộ, đảng
viên phải thực sự là công bộc của nhân dân.
Năm là, Đảng phải tăng cường và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác
kiểm tra, giám sát; khẳng định đó là chức năng, là phương thức lãnh đạo quan
21


trọng của đảng. Thường xuyên kiểm tra việc thực hiện các nghị quyết, quyết

định của Đảng để phát huy ưu điểm, phòng ngừa và khắc phục kịp thời mọi sai
phạm, khuyết điểm; kiểm tra, giám sát kết quả công tác, năng lực và phẩm chất
của cán bộ, đảng viên góp phần xây dựng tổ chức Đảng, cơ quan Nhà nước và
cán bộ, đảnh viên ngày càng trong sạch, vững mạnh. Phát huy vai trò giám sát
của nhân dân, của Mặt trận, của đoàn thể và của các cơ quan thông tin đại
chúng.
Sáu là, Đảng phải đổi mới và hoàn thiện phương pháp lãnh đạo, nhất là
phương thức lãnh đạo Nhà nước, bảo đảm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đáu của Đảng, phát huy hiệu quả, hiệu lực quản lí của Nhà nước, tính tích
cực, chủ động, sáng tạo của Mặt trận, các đoàn thể nhân dân. Phải xây dựng hệ
thống các quy chế về sự lãnh đạo của Đảng ở các nghành, các cấp. Đảng hoạt
đọng trong khuân khổ Hiến pháp và pháp luật; không làm thay công việc của
các tổ chức khác trong hệ thống chính trị.
* Một số giải pháp có tính nguyên tắc trong xây dựng, chỉnh đốn
Đảng hiện nay
Trong bối cảnh hiện nay, để xây dựng, chỉnh đốn Đảng ta thật sự trong
sạch, vững mạnh, bảo đảm vị thế của Đảng cầm quyền, thiết nghĩ công tác xây
dựng, chỉnh đốn Đảng cần thiết phải thực hiện tốt những vấn đề mang tính
nguyên tắc sau:
Thứ nhất, phải phát huy truyền thống tốt đẹp, giữ vững và tăng cường bản
chất cách mạng và khoa học của Đảng.
Là Đảng cầm quyền, Đảng thực hiện sự lãnh đạo toàn xã hội trong điều
kiện kinh tế thị trường, mở cửa hội nhập với quốc tế, mặt trái của mở cửa hội
nhập và của kinh tế thị trường kiến không ít cán bộ, đảng viên có chức có quyền
bị quyến rũ bởi biết bao cám dỗ về danh và về lợi. Nếu không được giáo dục,
rèn luyện, giữ vững và phát huy những truyền thống tốt đẹp, bản chất cách
mạng của Đảng thì khó có thể giữ được sự thoái hoá, biến chất. Giữ cho Đảng
thực sự trong sạch, không thoái hoá, biến chất, bảo đảm vị thế của Đảng cộng
sản cầm quyền chân chính vì lợi ích và mục đích của nhân dân và dân tộc là vấn
đề hệ trọng trong công tác xây dựng, chỉnh đốn đảng.

Giữ vững và tăng cường bản chất cách mạng, trong điều kiện hiện nay, là
giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng, kiên định quan
điểm, lập trường của giai cấp công nhân, tuyệt đối trung thành với lợi ích của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động và của cả dân tộc; phấn đấu vì mục
tiêu lý tưởng của Đảng: độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vững vàng trước
22


những bước ngoặt, trước những “khúc quanh” của lịch sử.
Giữ vững và phát huy bản chất khoa học của Đảng đòi hỏi Đảng thường
xuyên đổi mới bảo đảm sự thống nhất giữa bản lĩnh và trình độ trí tuệ Đảng,
nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng theo pháp luật, năng lực nắm bắt qui
luật, dự báo tình hình đề ra và tổ chức thực hiện đường lối, năng lực vận hành
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và năng lực đối phó với tình
hình phức tạp...
Bản chất khoa học và cách mạng của Đảng đòi hỏi Đảng ta phải thấm
nhuần chủ nghĩa Mác- lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh- nền tảng tư tưởng, kim chỉ
nam cho hành động cách mạng; không ngừng trau dồi tư duy lý luận, khả năng
tổng kết thực tiễn phát triển lý luận, đặc biệt là lý luận về chủ nghĩa xã hội và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Bản chất cách mạng và khoa học của Đảng đòi hỏi Đảng phải được tổ chức
chặt chẽ và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá
nhân phụ trách, chống mọi sự chia rẽ, bè phái, cục bộ, buông lỏng kỷ luật của
Đảng; tăng cường mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với dân...
Thứ hai, phải thường xuyên nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ và
chất lượng công tác tư tưởng- lý luận của Đảng làm cho Đảng trở thành lực
lượng tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của toàn dân
tộc.
Thực tế trong suốt hơn 80 năm qua, từ khi Đảng ra đời đến nay, cách mạng
Việt Nam đã trải qua nhiều “khúc quanh”, đòi hỏi bản lĩnh vững vàng của

Đảng: sau năm 1945, chính quyền công nông mới được thiết lập thì thế nước
đứng trước thách thức “ngàn cân treo sợi tóc”, Đảng cộng sản tuyên bố “tự giải
tán”, thực chất là rút vào chiến khu; năm 1954, sau khi Chiến dịch Điện Biên
Phủ toàn thắng, tổ quốc lại bị chia cắt làm hai miền; năm 1975, sau khi nước
nhà thống nhất, quyết tâm đưa cả nước cùng đi lên chủ nghĩa xã hội cũng đặt
trước thách thức nhận thức về mô hình và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ;
năm 1991, khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và đông Âu sụp đổ, chủ nghĩa
xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội đặt trước yêu cầu phải đổi mới
nhưng không làm thay đổi mục tiêu chủ nghĩa xã hội...Trước mỗi bước ngoặt,
thử thách như vậy, đòi hỏi bản lĩnh chính trị của Đảng phải được phát huy, toả
sáng để làm tốt công tác tư tưởng, uốn nắn kịp thời những nhận thức không
đúng, phê phán những quan điểm, khuynh hướng lệch lạc tạo sự thống nhất cao
trong Đảng, sự đồng thuận trong toàn xã hội.
Ngày nay, trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp
23


hoá, hiện đại hoá đất nước, phát triển kinh tế thị trường mở cửa hội nhập quốc
tế, một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên có biểu hiện phai nhạt lý tưởng,
thoái hoá về tư tưởng chính trị; hiện tương quan liêu tham nhũng có chiều
hướng không giảm, bản lĩnh chính trị của Đảng, lại một lần nữa, đặt trước thách
thức. Nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật, Đảng chủ trương thực hiện triệt
để Nghị quyết trung ương 6 (lần2) khóa VIII, đẩy mạnh công tác phê và tự phê
bình, quyết tâm sửa chữa khuyết điểm, đẩy mạnh công cuộc xây dựng, chỉnh
đốn Đảng cả về tư tưởng, chính trị, tổ chức và phương thức lãnh đạo.
Nâng cao bản lĩnh chính trị cũng có nghĩa phải nâng cao trình độ trí tuệ
của Đảng để Đảng thực sự trở thành “lương tâm, trí tuệ và danh dự”. Muốn vậy,
mỗi đảng viên cũng như toàn Đảng, hơn bao giờ hết hãy thấm nhuần lời dạy của
Lênin: người cộng sản phải biết làm giàu trí tuệ của minh bằng sự hiểu biết tất
cẳ những kho tàng tri thức mà nhân loại đã tạo ra.

Trình độ trí tuệ của Đảng không chỉ biểu hiện ở trình độ tư duy lý luận mà
còn thể hiện ở trình độ nắm vững khoa học công nghệ, làm chủ công nghệ
thông tin thực hiện đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng, mấu chốt
là đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng với Nhà nước, không ngừng năng
cao năng lực cầm quyền của Đảng.
Nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ có quan hệ chặt chẽ với việc
nâng cao chất lượng công tác tư tưởng- lý luận của Đảng. Trên cơ sở thấm
nhuần chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng cần đổi mới, nâng
cao chất lượng công tác tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận, nhất là lý luận về
chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Hơn nữa,
công tác tư tưởng- lý luận của Đảng phải hướng vào việc nâng cao trình độ tư
duy lý luận củng cố niềm tin, kiên định mục tiêu, lý tưởng cách mạngcho cán
bộ, đảng viên. Ngoài ra, công tác tư tưởng- lý luận của Đảng còn có mục tiêu
nâng cao trình độ lý luận cho toàn dân để chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh chiếm vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần của nhân dân, thúc đẩy
hoạt động tự giác của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã
hội chủ nghĩa.
Thứ ba, Thường xuyên chăm lo xây Đảng về tổ chức, bảo đảm nội bộ
Đảng luôn đoàn kết thống nhất, có sức chiến đấu cao.
Xây dựng, chỉnh đốn Đảng về tổ chức, trước hết và quan trọng hơn cả là
thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ và chấn chỉnh, kiện toàn hệ thống tổ
chức của Đảng.Thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ là vấn đề cốt tử bảo
đảm cho Đảng thật sự vững mạnh về tổ chức, đoàn kết thống nhất và có sức
24


chiến đấu cao. Bác Hồ, trong Di chúc lịch sử đã từng căn dăn: “Đoàn kết là
truyền thống cực kỳ quí báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ trung
ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn
con ngươi của mắt mình”13. Để thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, một

mặt phải thực hiện tốt các quyền dân chủ của Đảng viên, có qui chế, qui trình để
đảng viên tham gia vào việc hoặch định và thực hiện đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; cán bộ lãnh đạo phải tôn trọng,
lắng nghe ý kiến của đảng viên, của cấp dưới, tôn trong những ý kiến khác
nhau, nhất là ý kiến của các nhà khoa học, các trung tâm nghiên cứu khoa học,
bảo đảm tự do dân cảu tư tưởng, thực hiện nguyên tắc tập thể trong công tác cán
bộ; Mặt khác, phải đấu tranh chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa dân chủ hình
thức, dân chủ cực đoan, lợi dụng dân chủ để gây mất đoàn kết, chia rẽ, bè phái,
mị dân, theo đuôi quần chúng. Dân chủ phải đi liền với tập trung, kỷ cương, kỷ
luật. Dân chủ không tương dung với độc đoán chuyên quyền, cũng không đồng
nghĩa với tự do vô chính phủ. Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ phải
được thể hiện trong công tác tổ chức vả trong hoạt động của Đảng.
Trong xây dựng, kiện toàn hệ thống tổ chức Đảng đỏi hỏi phải xác định
đúng chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức, nhất là tổ chức cơ sở đảng; khắc
phục tình trạng chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ và tổ chức; kiên quyết tinh
giản bộ máy theo hướng gọn nhẹ, năng động, thích ứng tốt với cơ chế thị trường
và việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, đặc biệt là phương thức lãnh
đạo của các tổ chức cơ sở đảng trong các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh...
Thứ tư, Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ, thường xuyên chăm lo
công tác cán bộ cho cả hệ thống chính trị, trên tất cả các lĩnh vực.
Thực tiễn lãnh đạo cách mạng nước ta của Đảng đã xác nhận: sau khi có
đường lối, phương pháp cách mạng đúng, thì sự thành bại của cách mạng, phần
quyết định tuỳ thuộc vào cán bộ và công tác cán bộ. Bác Hồ đã khẳng định,
“cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “Muôn việc thành công hoặc thất bại đều
do cán bộ tốt hay kém”14. Vì vậy, chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh,
có trí tuệ, tuyệt đối trung thành với cách mạng, có quan điểm quần chúng, có
đạo đức cách mạng, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư là việc làm vô cùng hệ
trọng đảm bảo cho sự lãnh đạo của Đảng cầm quyền. Trong điều kiện hiện nay,
để có đội ngũ cán bộ vừa “có tâm và có tầm”, trước hết, Đảng cần đổi mới tư
duy trong công tác cán bộ. Trên cơ sở nắm vững quan điểm giai cấp công nhân,

13
14

Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb CTQG, H 1996, t12, tr 497
Hồ Chí Minh toàn tập Nxb CTQG, H.1996, t5, tr240

25


×