Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

LÝ LUẬN của CHỦ NGHĨA mác lên NIN về CHUYÊN CHÍNH vô sản và sự vận DỤNG của ĐẢNG TA TRONG đổi mới hệ THỐNG CHÍNH TRỊ ở nước TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (241.93 KB, 28 trang )

1

LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ
CHUYÊN CHÍNH VÔ SẢN VÀ SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TA
TRONG ĐỔI MỚI HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Sự phát triển của chủ nghĩa xã hội khoa học một nấc thang cao hơn trong lịch
sử tư tưởng xã hội chủ nghĩa nhân loại qua các giai đoạn của nó gắn liền với sự
phát triển của hiện thực xã hội và thực tiễn cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp
công nhân quốc tế. Toàn bộ lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học cũng như mỗi
nguyên lý của nó, trải qua chiều dài lịch sử, ngày càng được bổ sung, phát triển và
hoàn thiện hơn. bằng tư duy khoa học sáng tạo trên nền tảng thế giới quan và
phương pháp luận duy vật biện chứng; qua thực tiễn đấu tranh của phong trào cộng
sản và công nhân quốc tế; trước những đổi mới của cuộc sống và thời đại, lý luận
chủ nghĩa xã hội khoa học ngày càng thể hiện tính đúng đắn và sức sống của mình,
thực sự trở thành nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động của giai cấp
công nhân quốc tế, các Đảng công sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa và cộng sản
chủ nghĩa, nhằm thực hiện thắng lợi sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng xã
hội và giải phóng loài người.
Tư tưởng về chuyên chính vô sản chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng trong
hệ thống lý luận mácxít. Nó chỉ ra rằng; trong quá trình đấu tranh cách mạng để
thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp công nhân sẽ không đánh đổ được kẻ
thù của mình là giai cấp tư sản, sẽ không cải tạo được xã hội cũ, xã hội tư bản chủ
nghĩa và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản nếu như giai
cấp công nhân không giành được chính quyền và thiết lập chuyên chính vô sản.
Chuyên chính vô sản là hình thức chính trị tất yếu phải trải qua để đưa loài người
tiến tới một xã hội không còn giai cấp, không còn áp bức, bóc lột, mọi người được
sống tự do hạnh phúc. Chính vì vậy, V.I.Lênin cho rằng đây là vấn đề chủ yếu nhất
của toàn bộ cuộc đấu tranh giai cấp của giai câp vô sản đặc biệt là trong cách mạng
xã hội chủ nghĩa.



2

Chuyên chính vô sản, theo VI.Lê-Nin đó là: “Việc tổ chức đội tiền phong
của những người bị áp bức thành giai cấp thống trị để chấn áp bọn áp bức”1. Thực
chất đây là vấn đề chính quyền nhà nước, là thứ mà giai cấp công nhân phải giành
lấy cho được và dùng nó để đập tan sự phản kháng của giai cấp bóc lột, xây dựng
thành công xã hội mới. Vì vậy, chuyên chính vô sản đã đang và sẽ là vấn đề chống
phá quyết liệt của các thế lực thù địch đối với chủ nghĩa xã hội. Theo VI.Lê-Nin
“khi cuộc đấu tranh chống tư bản toàn thế giới trở lên đặc biệt quyết liệt thì vấn đề
nhà nước có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, có thể nói đã trở thành vấn đề nóng bỏng
nhất, trở thành trung tâm của mọi vấn đề chính trị và mọi cuộc đấu tranh lý luận
chính trị”.
Đối với cách mạng Việt Nam, chủ tịch Hồ Chí Minh thấm nhuần quan điểm
chuyên chính vô sản của chủ nghĩa Mác-Lênin, trung thành và vận dụng sáng tạo tư
tưởng chuyên chính vô sản vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Bác đã nhìn nhận
vấn đề chính quyền nhà nước như một nội dung cơ bản cùa cách mạng Việt Nam.
Người quan tâm đến vấn đề giành chính quyền và tổ chức xây dựng chính quyền
cách mạng. Tư tưởng về chuyên chính vô sản của Hồ Chí Minh là tài sản vô giá, là
nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho Đảng ta trong việc vận dụng, xây dựng và đổi
mới hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay.
Ở nước ta trong thời gian qua, cũng đã xuất hiện những quan điểm sai trái,
phản động xuyên tạc bản chất của chủ nghĩa xã hội, của nhà nước chuyên chính vô
sản mà chúng ta đang xây dựng. Chúng đưa ra mô hình “ Nhà nước phi giai cấp”,
“Nhà nước siêu giai cấp”, “ Nhà nước đa Đảng đối lập”…nhằm hạ bệ nhà nước xã
hội chủ nghĩa suy tôn nhà nước tư bản, duy trì trật tự vĩnh hằng của chủ nghĩa tư
bản. Chính vì vậy, trong cuộc đấu tranh “ai thắng ai” giữa hai con đường tư bản
chủ nghĩa và chủ nghĩa xã hội hiện nay, thực chất vẫn đặt ra những vấn đề trực tiếp
đó là chuyên chính vô sản hay chuyên chính tư sản. Vì thế, làm rõ tư tưởng của
C.Mác- Ph.Ăng ghen, VI.Lê-Nin và chủ tịch Hồ Chí Minh về chuyên chính vô sản
là một trong những vấn đề quan trọng trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội

và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Mặt khác trong quá trình xây dựng
1

VI.Lª-Nin toµn tËp, tËp33, Nxb tiÕn bé M1976, tr109.


3

nhà nước pháp quyền của dân, do dân, và vì dân đòi hỏi chúng ta luôn luôn phải
đấu tranh chống các quan điểm sai trái, xuyên tạc, về chuyên chính vô sản, về bản
chất nhà nước xã hội chủ nghĩa, đây là nhiệm vụ thường xuyên, cấp bách hiện nay.

NỘI DUNG
1. Quan điểm của C.Mác- Ph. Ăngghen và VI.Lênin về chuyên chính vô sản.
Tư tưởng về chuyên chính vô sản hình thành gắn liền với quá trình hoạt động
lý luận và thực tiễn của C.Mác- Ph. Ăngghen với quá trình chuyển đổi lập trường
từ duy tâm sang duy vật, từ dân chủ cách mạng sang cộng sản chủ nghĩa. Trong quá
trình đó, với tư duy biện chứng duy vật và thực tiễn đấu tranh cách mạng của giai
cấp công nhân chống giai cấp tư sản, C.Mác- Ph. Ăng ghen đã không ngừng tìm tòi
khám phá trên cơ sở nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn qua từng thời kỳ, từng
giai đoạn thang trầm của phong trào cách mạng để hoàn thiện học thuyết của mình.
Thông qua các tác phẩm chủ yếu như: “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” (1848);
“đấu tranh giai cấp ở Pháp” (1850); “ngày 18 tháng sương mù của LuiBôlapactơ” (1851); “thư gửi cho Vâyđơmâyơ”(1852); “nội chiến ở Pháp”(1871)…
tư tưởng về chuyên chính vô sản không ngừng được bổ xung, phát triển ngày càng
rõ hơn. tuy nhiên tác phẩm đầu tiên đánh dấu sự manh nha hình thành tư tưởng về
chuyên chính vô sản đã dược C.Mác đề cập tới trong tác phẩm “hệ tư tưởng Đức”
viết năm 1845. trong tác phẩm này, khi phê phán những quan điểm sai trái, duy tâm
của các nhà tư tưởng Đức, đứng trên lập trường duy vật về lịch sử, C.Mác đã phân
tích, luận giải xã hội tư bản, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và phát hiện
thấy một lực lượng có khả năng xoá bỏ trật tự xã hội tư bản chủ nghĩa đó là giai câp

vô sản. Cùng với tư duy biện chứng và khả năng suy luận lôgíc, C.Mác cho rằng,
giai câp vô sản muốn thực hiện vai trò lịch sử của nó thì trước hết phải giành lấy
quyền thống chính trị. Ông chỉ rõ: “Mỗi giai cấp muốn vươn lên giành lấy quyền
thống trị- thậm chí sự thống trị của nó đòi hỏi phải thủ tiêu toàn bộ hình thức xã
hội cũ và thống trị nói chung, như điều xẩy ra ở giai cấp vô sản- thì giai cấp đó
trước hết phải giành được quyền về tay mình”2. Như vậy, tư tưởng về một nền
2

C.M¸c- Ph. ¡ng ghen toµn tËp, tËp3, NxbCTQG, H1995,tr1


4

chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản đã xuất hiện từ tác phẩm “hệ tư tưởng
Đức”(1845) trước khi chủ nghĩa Mác ra đời. Trải qua các giai đoạn hoạt động lý
luận và thực tiễn đấu tranh cách mạng của phong trào công nhân từ năm 1845 đến
1848, C.Mác- Ph. Ăng ghen cho ra đời nhiều tác phẩm lý luận kinh điển đánh dấu
bước phát triển các nguyên lý của chủ nghĩa xã hội khoa học. tháng 2/1848, với
việc Công bố “tuyên ngôn của Đảng cộng sản”, cương lĩnh chính trị đầu tiên của
giai cấp vô sản, chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa khoa học chính thức ra đời. Trong tác
phẩm này, tư tưởng về chuyên chính vô sản có một bước phát riển mới trên cơ sở
phân tích sự hình thành, phát triển của hai giai cấp cơ bản trong xã hội tư bản là
giai cấp vô sản và giai cấp tư sản cũng như vạch ra sự tất yếu sự đấu tranh giữa
chúng, C.Mác- Ph. Ăng ghen đã chỉ rõ đỉnh cao của cuộc đấu tranh ấy sẽ là sự bùng
nổ của một cuộc cách mạng vô sản, và tất yếu giai cấp vô sản sễ giành được thắng
lợi, giành lấy chính quyền, giành lấy dân chủ trở thành giai cấp thống trị xã hội .
các ông vạch rõ: “giai câp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền,
tự vươn lên thành giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc, tuy hoàn toàn
không phải theo cái nghĩa như giai cấp tư sản hiểu”3
Tác phẩm “tuyên ngôn Đảng cộng sản” chỉ ra cho giai cấp vô sản “phải tự

vươn lên thành giai cấp dân tộc”, điều đó có nghiã là giai cấp vô sản phải thiết lập
một nền chuyên chính của mình, và trở thành giai cấp thống trị xã hội, giai cấp đại
diện cho quốc gia dân tộc mình. Hoàn thành nhiệm vụ của cuộc cách mạng vô sản
trước hết ở trong nước mình, tất nhiên giai cấp dân tộc ở đây không phải là theo
chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi ích kỷ, biệt lập như là cách mà giai cấp tư sản thường
hiểu, mà giành chính quyền trong một quốc gia dân tộc chỉ là mục tiêu trước mắt,
và là tiền đề cho công cuộc giải phóng nhân loại của giai câp vô sản. Rõ ràng đến
đây, tư tưởng về giai cấp vô sản được hình thành rõ nét hơn trong tác phẩm “hệ tư
tưởng Đức”. Trong tác phẩm này C.Mác- Ph. Ăng ghen trình bầy chuyên chính vô
sản như là một tất yếu, con đường, biện pháp, để cho giai câp vô sản thực hiện sứ
mệnh lịch sử của mình.
3

C.M¸c- Ph. ¡ng ghen toµn tËp, tËp 4, NxbCTQG, H1995, tr624


5

Sau cỏch mng 1848-1849 thụng qua tng kt cuc u tranh giai cp
Phỏp, c bit din bin cuc cỏch mng dõn ch t sn thỏng hai v cỏch mng
thỏng 6 nm 1848, C. Mỏc ó khng nh: vic giai cõp vụ sn trong cuc u tranh
chng k thự ca mỡnh nht thit phi thnh lp nn chuyờn chớnh cỏch mng.
C.Mỏc gi ú l nn chuyờn chớnh ca giai cp cụng nhõn, chuyờn chớnh ca
nhng ngi bn ng minh ca giai cp nụng dõn, hay ú l chuyờn chớnh ca
giai cõp vụ sn. Trong tỏc phm u tranh giai cp Phỏp, C.Mỏc gn t
tng chuyờn chớnh vụ sn vi khỏi nim cỏch mng khụng ngng, cỏch mng vụ
sn. ễng ch rừ: ch ngha xó hi nay l li tuyờn b cỏch mng khụng ngng, l
chuyờn chớnh ca giai cp vụ sn, coi ú l quỏ tt yu i n xoỏ b tt c cỏc
quan h sn xut4. Rừ rng, C.Mỏc ó ch ra rng, thc hin thng li mc
tiờu ch ngha xó hi, giai cõp vụ sn phi tin hnh cuc cỏch mng khụng ngng

v kt qu ca nú, ng thi cng l bc tip theo ca nú l phi thit lp c
nn chuyờn chớnh vụ sn, dựng nn chuyờn chớnh ny xoỏ b quan h sn xut t
bn ch ngha- cỏi c s kinh t sinh ra ch ỏp bc, búc lt t bn ch ngha.
Nh vy l t tng chuyờn chớnh vụ sn c phỏt trin m rng thờm, Nhng
n giai on ny, C.Mỏc- Ph. ng ghen mi nờu ra s cn thit v tt yu phi
ginh c chớnh quyn trong quỏ trỡnh u tranh ca giai cp vụ sn, cũn thỏi
ca giai cp vụ sn i vi b mỏy ca giai cp t sn nh th no thỡ giai hai ụng
cha cp n. Vn ny c cỏc ụng cp n trong tỏc phm ngy 18
thỏng sng mự ca Lui-Bụnapact C.Mỏc vit nm 1851. ú l thỏi dt
khoỏt l phi p tan b mỏy nh nc ỏp bc ú. C.Mỏc vit: Tt c cỏc cuc
cỏch mng u hon b b mỏy nh nc ú ch khụng phi p tan nú, cỏc chớnh
ng ni gút u tranh ginh chớnh quyn u coi vic ot ly to lõu i nh
nc s y l chin li phm ch yu ca thng li ca mỡnh5.
Cú th núi, t tng v chuyờn chớnh vụ sn ca C.Mỏc- Ph. ng ghen ó
tin thờm mt bc lm rừ, giai cõp vụ sn khụng ch ginh ly chớnh quyn nh
nc m nú phi phỏ hu, p tan b mỏy nh nc ú. S d, cú t tng ny l
(sách đã dẫn; tập17, tr126)
(C.Mác- Ph. Ăng ghen toàn tập, tập 18, NxbCTQG, H,1995, tr236)

4
5


6

do khi nghiên cứu lịch sử các cuộc cách mạng ở Pháp, C.Mác đã nhận thấy rằng từ
cách mạng tư sản Pháp năm 1897, một cuộc cách mạng tư sản với sự ra đời của nền
cộng hoà I, cho đến cuộc cách mạng tháng2/1848, với sự ra đời của nền cộng hoà II
và cuộc đảo chính tháng chạp năm 1851 của Lui Bônapactơ, dẫn đến sự phục hồi
của chiều đại quân chủ tư sản; thì kết quả sau các cuộc cách mạng, hoặc phản cách

mạng đó là một bộ máy áp bức, bóc lột mới ra đời. Và dường như, bộ máy nhà
nước ra đời sau lại hoàn bị hơn bộ máy nhà nước trước ở sự rã man và bản chất ấp
bức, bóc lột tinh vi sảo quyệt hơn, tính chất bóc lột của nó đối với quần chúng nhân
dân lao động càng nặng nề hơn. Do đó, C.Mác cho rằng, giai câp vô sản không thể
chiếm lấy một chính quyền như thế, mà cần phải đập tan nó, giành chính quyền về
tay mình. Tuy nhiên lấy gì để thay thế cho bộ máy nhà nước vừa bị đập tan thì lúc
đó C.Mác không có kinh ngiệm thực tiễn lịch sử để giải đáp vấn đề đó.
Tư tưởng về chuyên chính vô sản được cụ thể hơn trong thư gửi cho một
người bạn trong “Đồng minh những người cộng sản” ở Mỹ, ngày 05/03/1852 là
Vâyđơmâye. Trong đó C.Mác khảng định: Đấu tranh giai cấp tất yếu dẫn đến
chuyên chính vô sản và bản thân sự chuyên chính này chỉ là bước quá độ để tiến tới
xoá bỏ giai cấp, đi tới một xã hội không còn giai cấp. đến đây, chung ta thấy thuật
ngữ “chuyên chính vô sản” lần đầu tiên được xuất hiện và một lần nữa, C.Mác
khảng định: Về phần tôi, tôi không hề có công phát hiện sự tồn tại của các giai cấp
trong xã hội hiện đại và sự đấu tranh của những giai cấp đó. Trước tôi từ lâu các
nhà sử học đã trình bầy sự phát triển của lịch sử, của cuộc đấu tranh giai cấp đó và
các nhà kinh tế tư sản đã mổ sẻ các giai cấp đó về mặt kinh tế. Điều mới mẻ mà tôi
đã làm là đã chứng minh rằng:
1-Sự tồn tại của các giai cấp chỉ gắn liền với những giai đoạn phát triển nhất
định của sản xuất.
2- Đấu tranh giai cấp tất nhiên đưa đến chuyên chính vô sản.
3- Bản thân sự chuyên chính này chỉ là bước quá độ để tiến tới xoá bỏ giai
cấp và tiến tới một xã hội không có giai cấp.
Vậy là, đến năm 1852, tư tưởng về chuyên chính vô sản đã có một bước
tiến dài so với “Tuyên ngôn Đảng cộng sản”. Chuyên chính vô sản là một tất yêú


7

lịch sử, là bước quá độ để đi tới một xã hội không có giai cấp. Trong giai đoạn này,

C.Mác- Ph. Ăng ghen đã nêu rõ nhiệm vụ của chuyên chính vô sản là: Xoá bỏ
những sự khác biệt giai cấp nói chung, xoá bỏ tất cả những quan hệ sản xuất làm cơ
sở cho những sự khác biệt ấy, xoá bỏ tất cả các quan hệ xã hội thích ứng với những
quan hệ sản xuất đó, đồng thời cũng cải biến tất cả những tư tưởng nảy sinh từ
những quan hệ sản xuất đó. Nhiệm vụ của chuyên chính vô sản đã thể hiện rõ tính
chất triệt để của cách mạng vô sản.
Nhận xét về tư tưởng chuyên chính vô sản của C.Mác sau này VI.Lênin cho
rằng: chủ nghĩa Mác đã tiến một bước dài so với “Tuyên ngôn Đảng cộng sản”.
Trong tuyên ngôn, vấn đề nhà nước mới được đặt ra một cách trìu tượng, thì ở đây
vấn đề đó được đặt ra một cách cụ thể và kết luận được rút ra một cách chính xác.
Kết luận ấy là căn bản trong học thuyết của chủ nghĩa Mác về nhà nước. Tuy nhiên,
VI.Lê-Nin cũng nhận xét rằng lấy cái gì để thăy thế cho bộ máy tư sản đã bị đập
tan thì vào năm 1852, C.Mác chưa có kinh nghiệm lịch sử cung cấp tài liệu để giải
đáp vấn đề đó. Tư tưởng về “đập tan”cũng chưa được C.Mác- Ph. Ăngghen cụ thể
hoá rõ ràng, chưa chỉ rõ yếu tố nào của bộ máy nhà nước phải phá huỷ, đập tan và
những yếu tố nào, bộ phận nào có thể được sử dụng tiếp. Lời giải đáp đó chỉ có thể
đến công xã Pa ri mới được giải đáp.
Công xã Pari năm 1871 là cuộc cách mạng vô sản đầu tiên trên thế giới, nổ
ra ngày 28/3 ở thủ đô Pari và giành được thắng lợi, thiết lập được chính quyền của
giai cấp công nhân. tuy công xã chỉ tồn tại 72 ngày đêm nhưng đó là mốc son chói
lọi trong trang sử hào hùng của giai cấp công nhân Pháp và giai cấp công nhân thế
giới. Thắng lợi đó đã chứng tỏ khả năng cách mạng của giai cấp công nhân, vừa
giải quyết tốt vấn đề dân tộc vừa giải quyết tốt vấn đề giai cấp trong cách mạng.
Công xã Pari đã chứng cũng chứng minh giai cấp công nhân đã có bước trưởng
thành vượt bậc từ sau cách mạng 1848-1849. Công xã Pari là một thực tiễn lịch sử
vô cùng quý giá để cho C.Mác- Ph. Ăng ghen tổng kết kinh nghiệm phát triển và
hoàn thiện học thuyết của mình.
Trước khi cuộc cách mạng Pari nổ ra, C.Mác- Ph. Ăng ghen là những người
theo dõi sát sao mọi diễn biến của tình hình. Cuộc chiến Pháp -Phổ nổ ra ngày



8

19/7/1870 như là một tiếng chuông báo hiệu sự sụp đổ hoàn toàn của nền đế chế II
thối nát. Từ theo dõi tình hình cách mạng ở Pháp, C.Mác đã đưa ra lời tiên đoán
hiên tài: “dầu cho cuộc chiến tranh của Lu-i Bô-na-pác-tơ chống nước Phổ kết
thúc như thế nào chăng nữa, tiếng chuông đưa đám nền đế chế II cũng sẽ điểm ở
Pari rồi. Đế chế II sẽ kết thúc…”.Trong quá trình diễn biến của cách mạng ở Pari,
C.Mác- Ph. Ăng ghen đã có những chỉ đạo cần thiết đối với cách mạng. Sau công
xã Pari, C.Mác- Ph. Ăng ghen đã bắt tay ngay vào việc tổng kết hoạt động của công
xã. Những vấn đề đó được thể hiện trong tác phẩm “nội chiến ở Pháp”. Trong tác
phẩm này C.Mác đã tổng kết cuộc nội chiến diễn ra ở Pháp và qua công xã Pari,
C.Mác đã chỉ ra, vai chò nhiệm vụ, con đường hình thành, chức năng, hình thức tổ
chức và bản chất của chuyên chính vô sản. Nếu như ở tác phẩm “Đấu tranh giai
cấp ở Pháp” C.Mác cho rằng chuyên chính vô sản được biểu hiện là giai cấp công
nhân phải đấu tranh tự mình trở thành giai cấp dân tộc, phải giành lấy dân chủ và
đập tan các bộ máy nhà nước cũ thì qua thực tiễn công xã Pari, C.Mác- Ph. Ăng
ghen chỉ rõ, giai cấp công nhân phải thủ tiêu toàn bộ bộ máy nhà nước tư sản và
thiết lập bộ máy nhà nước chuyên chính của giai cấp công nhân. trong bộ máy nhà
nước tư sản C.Mác cho rằng cần phải đập tan các “công cụ quyền lực vật chất” như
quân đội thường trực, cảnh sát, bộ máy quan liêu, quan toà. đồng thời phải xoá bỏ
“các công cụ áp bức tinh thần” như các thế lực tăng lữ, tách nhà thờ ra khỏi trường
học, tách giáo hội ra khỏi nhà nước. Về bản chất của nhà nước chuyên chính vô
sản, C.Mác cho rằng, chuyên chính vô sản mang bản chất của một nhà nước dân
chủ, trong đó quyền lực thực tế thuộc về giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Ông khảng định: “về thực chất, công xã là một Chính phủ của giai cấp công nhân,
là kết quả của cuộc đấu tranh giai cấp những người sản xuất chống lại giai cấp
chiếm đoạt, là hình thức chính trị rốt cuộc đã tìm ra được khiến cho có thể thực
hiện việc giải phóng lao động về mặt kinh tế”6. và qua đó C.Mác cũng chỉ ra con
đường hình thành chuyên chính vô sản đó là con đường bạo lực vũ trang cách mạng

của quần chúng nhân dân do giai cấp công nhân lãnh đạo. Chuyên chính vô sản có
chức năng là chấn áp sự chống đối của giai cấp tư sản và các thế lực phản động và
6

C.M¸c- Ph. ¡ng ghen toµn tËp, t©p.17,NxbCTQG, H1994,tr454


9

tổ chức xây dựng một xã hội mới. Nhiêm vụ của nhà nước chuyên chính vô sản
gồm cả nhiệm vụ đối nội và đối ngoại. thông qua hoạt động của công xã Pari,
C.Mác cho rằng:Muốn hiểu về chuyên chính vô sản là gì, hãy nhìn vào công xã
Pari, chuyên chính vô sản là như thế đấy.
Tư tưởng về chuyên chính vô sản được C.Mác trình bầy một cách rõ ràng
hơn trong tác phẩm “Phê phán cương lĩnh Gôta”. Trong tác phẩm này, C.Mác đã
kịch liệt phê phán quan điểm về “nhà nước tự do” của chủ nghĩa Lát xan. Ông cho
rằng: “nhà nước tự do” thể hiện quan niệm về tính siêu giai cấp của nhà nước, do
đó có thể dựa vào nhà nước của giai cấp bóc lột để tổ chức củ nghĩa xã hội( lập các
hợp tác xã do nhà nước Phổ gúp đỡ để xây dựng chủ nghĩa xã hội ). C.M ác cho
rằng: “mặc dầu tất cả những lời lẽ dân chủ rất kêu của nó, toàn bộ cương lĩnh từ
đầu chí cuối đều nhiễm phải cái bệnh của phái Látxan là lòng tin của thần dân vào
nhà nước, hoặc là- điều này cũng chẳng có gì tốt hơn- tin vào phép màu dân chủ ,
hay nói cho đúng hơn, đó là sự thoả hiệp gữa hai lòng tin ấy vào phép mầu, cả hai
loại đều xa lạ như nhau với chủ nghĩa xã hội”7. Cùng với sự phê phán quan điểm
của chủ nghĩa Latxan về nhà nước chuyên chính vô sản, C.Mác đã chỉ rõ vai trò
của nhà nước vô sản sau khi giai cấp công nhân giành được chính quyền, chuyên
chính vô sản phải tiến hành cải tạo xã hội cũ xây dựng xã hội mới xã hội chủ nghĩa.
C.Mác khảng định rằng: giữa xã hội tư bản và xã hội cộng sản có một thời kỳ cải
biến cách mạng từ xã hội trước đến xã hội sau. Tương ứng với thời kỳ ấy là một
thời kỳ quá độ chính trị trong đó nhà nước không thể có gì khác hơn là chuyên

chính cách mạng của giai câp vô sản.
Tóm lại, chúng ta có thể thấy rằng, tư tưởng về chuyên chính vô sản của
C.Mác- Ph. Ăng ghen tư lúc còn manh nha cho đến 1895 đã không ngừng được bổ
xung và phát triển, hoàn thiện. Đặc biệt đến công xã Pari 1871, nó không đơn thuần
chỉ là một tư tưởng mà đã trở thành hiện thực vật chất dưới hình thức chính quyền
công xã. Tuy nhiên chủ nghĩa xã hội khoa học nói chung cũng như tư tưởng về
chuyên chính vô sản nói riêng không phải là cái gì đó bất biến mà nó phải không
ngừng được bổ sung và phát triển trong điều kiện hoàn cảnh lịch sử mới, vấn đề
7

C.M¸c- Ph. ¡ng ghen toµn tËp, NxbCTQG,H,1995, tr51-52.


10

mang tính quy luật đó được chứng minh rõ nét nhất trong giai đoạn VI.Lê-Nin tiếp
tục bảo vệ và phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học về chuyên chính vô
sản trong điều kiện lịch sử mới.
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX,chủ nghĩa tư bản đã phát triển thành chủ
nghĩa đế quốc, chấm dứt thời kỳ phát triển tương đối hoà bình của thế giới những
năm 70-80 của thế kỷ thứ XIX.
Chủ nghĩa tư bản phát triển thành chủ nghĩa đế quốc làm cho mâu thuẫn vốn
có trong lòng chủ nghĩa tư bản trở nên găy gắt, đặc biệt là mâu thuẫn giữa giai cấp
vô sản và giai cấp tư sản. Ngoài ra còn xuất hiện những mâu thuẫn mới, đó là mâu
thuẫn giữa nhân dân lao động của các nước thuộc địa với chủ nghĩa đế quốc. Giai
cấp tư sản tăng cường bóc lột giai cấp vô sản, dùng siêu lợi nhuận mua chuộc một
số công nhân lành nghề, biến họ thành bộ phận công nhân quý tộc. Hơn nữa ở khắp
nơi, giai cấp tư sản còn tìm cách cấu kết với bọn địa chủ, phong kiến phản động
bóc lột nhân dân lao động, làm cho đời sống của họ khổ cực nặng nề hơn. Sự cạnh
tranh của chủ nghĩa tư bản không những làm xuất hiện mâu thuẫn giữa các tập đoàn

tư bản với nhau mà còn làm xuất hiện ngày càng chầm trọng mâu thuẫn giữa các
nước đế quốc với nhau. Từ sự phát triển của chủ nghĩa tư bản trong giai đoạn này ta
có thể khảng định: giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản đã lỗi thời lạc hậu không còn
đóng vai trò trung tâm trong sự phát triển của lịch sử nữa. Thời đại đã chuyển sang
một thời đại mới thời đại của “cách mạng vô sản”, thời đại của “chuyên chính vô
sản”, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội sắp bắt đầu.
Cũng trong giai đoạn này phong trào cách mạng chuyển từ Đức sang Nga,
phong trào công sản và công nhân quốc tế có bước phát triển mới cả về chiều rộng
lẫn chiều sâu. Tuy nhiên trong phong trào công nhân cũng xuất hiện các trào lưu
cơ hội xét lại chia làm ba phái: phái hữu cầm đầu là Becxanh; muốn khuôn phong
trào công nhân vào đấu tranh kinh tế, đưa ra khẩu hiệu phản động “phong trào là
tất cả, mục đích cuối cùng chỉ là con số không” đòi xét lại chủ nghĩa Mác trên tất
cả các nguyên lý trong đó trọng tâm là về cách mạng vô sản và vấn đề chuyên
chính vô sản. Phái giữa do Kausky đứng đầu “ luồn lách như con rắn nước”
khoác áo chủ nghĩa Mác chống lại, xuyên tạc chủ nghĩa Mác. Chúng cho rằng vấn


11

đề chuyên chính vô sản là vấn đề mà Mác “lỡ miệng nói ở đâu đó có một lần”.
Do đó vấn đề khách quan đặt ra yêu cầu phải có một Đảng như thế nào? Trang bị
lý luận tư tưởng như thế nào để đáp ứng với đòi hỏi sự phát triển của lịch sử,
phong trào công nhân và phát triển chủ nghĩa Mác lên một trình độ mới. Giữa lúc
bấy giờ, VI.Lê-Nin lãnh tụ vĩ đại đã đáp ứng yêu cầu của lịch sử và phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế.
Đứng trước tình hình đó, VI.Lê-Nin đã đấu tranh không khoan nhượng
chống chủ nghĩa cơ hội, xét lại, bảo vệ và phát triển học thuyết Mác, trong đó vấn
đề chuyên chính vô sản là vấn được VI.Lê-Nin quan tâm đặc biệt. Ông cho rằng,
chuyên chính vô sản là vấn đề cốt lõi xuyên suốt toàn bộ học thuyết Mác, là “hòn
đá thử vàng” với lập trường của những người Mác-xít và còn nhấn mạnh rằng “chỉ

người nào mở rộng việc thừa nhận đấu tranh giai cấp đến mức thừa nhận chuyên
chính vô sản thì mới là người Mác-xít”8
Thông qua các tác phẩm như : “Nhà nước và cách mạng” (1917); “cách
mạng vô sản và tên phản bội Kausky” (1918) và nhiều tác phẩm khác, tư tưởng về
chuyên chính vô sản đã được phát triển hoàn thiện. Trong đó VI.Lê-Nin chỉ ra khái
niệm về chuyên chính vô sản, người cho rằng: chuyên chính vô sản là “việc tổ chức
đội tiền phong của những người bị áp bức thành giai cấp thống trị để chấn áp bọn
áp bức”. Như vậy, trong khái niệm này, nội dung cốt lõi của chuyên chính vô sản
được thể hiện, đó là giai cấp công nhân phải tổ chức thành giai cấp cầm quyền.
Chính quyền đó phải thuộc về một giai cấp duy nhất, là giai cấp công nhân. Tính
chất của chuyên chính vô sản: là công cụ của cách mạng vô sản, là sự thống trị
của giai câp vô sản đối với giai cấp tư sản. Khối công nông dưới sự lãnh đạo của
giai câp vô sản là chính quyền mà nó không chia sẻ cho ai hết và trực tiếp dựa vào
vũ trang của quần chúng. Trong đó Đảng của giai câp vô sản là lực lượng lãnh
đạo của chuyên chính vô sản, sự lãnh dạo đó để đảm bảo cho nền chuyên chính vô
sản vững mạnh, hoàn thành được chức năng nhiêm vụ của mình. VI.Lê-Nin chỉ
rằng: trong cuộc đấu tranh cho chuyên chính vô sản và xây dựng chủ nghĩa xã hội,
cần cho Đảng có đủ sức làm thầy, làm người dẫn đường, làm lãnh tụ của tất cả
8

VI.Lª-Nin toµn tËp, tËp33, NxbTB,M1976, tr42.


12

nhng ngi lao ng v nhng ngi b búc lt. Nu khụng cú ng lónh o,
thỡ giai cp vụ sn v nhõn dõn lao ng khụng th lt giai cp t sn, khụng
th ginh c thng li ca cỏch mng xó hi ch ngha, khụng th xõy dng
c ch ngha xó hi
Mt khỏc VI.Lờ-Nin cng ch rừ ni dung ca chuyờn chớnh vụ sn, nú bao

gm hai mt: chuyờn chớnh v dõn ch. õy l hai mt i lp gn bú vi nhu
cựng tn ti chuyờn chớnh thc hin, m rng dõn ch xó hi ch ngha. Dõn ch
xó hi ch xó hi ch ngha l nn dõn ch rng rói nht trong lch s, nhng khụng
phi dõn ch hon ton m phi thc hin chuyờn chớnh vi thiu s bn búc lt,
chng i. V s chuyờn chớnh ny khụng th nng nh m phi tin hnh cng
quyt, chng no cũn nhng k búc lt, cũn s khỏc bit giai cp thỡ cũn phi thc
hnh chuyờn chớnh. Theo VI.Lờ-Nin : Thit lp nn chuyờn chớnh ca giai cõp vụ
sn mt nn chuyờn chớnh s b gy c s phn khỏng quyt lit ca cỏc giai
cp búc lt b gt ra khi chớnh quyn9.
Tuy nhiờn, trong chuyờn chớnh vụ sn cỏi bn cht nht ca nú chớnh l mt
dõn ch, tt nhiờn l dõn ch vi nhõn dõn v s tc b dõn ch vi bn búc lt.
Ngi khng nh: Dõn ch cho tuyt i a s nhõn dõn v chn ỏp bng v lc
bn búc lt, bn ỏp bc nhõn dõn, nghió l tc b dõn ch i vi bn chỳng10.
Thờm na VI.Lờnin cũn vch rừ chuyờn chớnh vụ sn l mt nh nc kiu mi,
nh nc dõn ch kiu mi (dõn ch vi nhng ngi vụ sn v núi chung vi
nhng ngi khụng cú ca) v chuyờn chớnh kiu mi chng li giai cp t sn11.
Núi v hỡnh thc chuyờn chớnh vụ sn: Qua ỳc kờt kinh nghim lch s,
kinh nghim t cụng xó Pari 1871 v cuc cỏch mng Nga ln th nht 1905,
VI.Lờnin ó nờu nờn tớnh muụn hỡnh muụn v ca cỏc hỡnh thc chớnh tr ca
chuyờn chớnh vụ sn . Ngi khng nh rng: s quỏ t ch ngha t bn lờn
ch ngha xó hi s to ra tớnh muụn hỡnh, muụn v ca hỡnh thc chớnh quyn nh
nc ca giai cp vụ sn, song thc cht chỳng ch l mt: ú l chuyờn chớnh vụ
sn ca giai cp cụng nhõn. sau khi lónh o phong tro cỏch mng Nga thnh
VI.Lê-Nin toàn tập, tập33,NxbTB, M1976, tr42.
(sách đã dẫn; trang109)
11
(sách đã dẫn; trang43)
9

10



13

công, cuộc cách mạng tháng mười Nga thắng lợi, nhà nước Xô viết ra đời,
VI.Lênin cho rằng, về hình thức của chuyên chính vô sản thì tiếp theo sau công xã
Pari là chính quyền Xô viết Nga, một thành quả từ cách mạng tháng Mười. Với
thực tế ở một số nước, VI.Lênin còn chỉ ra một hình thức chuyên chính vô sản mới
là chính quyền dân chủ nhân dân. chế độ này phản ánh tính chất độc đáo của cách
mạng xã hội chủ nghĩa và đặc điểm lịch sử dân tộc của những nước đó.
Để chuyên chính vô sản tồn tại và phát triển VI.Lênin luận giải cơ sở của nó:
Theo VI.Lênin đó là sự liên minh của giai cấp công nhân với giai cấp nông dân, với
toàn thể nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân. cơ sở khách
quan của khối liên minh ấy là sự thống nhất của các quyền lực cơ bản về kinh tế,
chính trị của giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và nhân dân lao động. Và người
chỉ rõ: “Nếu không có sự liên minh ấy thì không thể có dân chủ vững bền, không
thể cải tạo xã hội chủ nghĩa được”12.
Đề cập về nhiệm vụ của chuyên chính vô sản, theo VI.Lênin đó là phải thủ
tiêu mọi chế độ người bóc lột người, là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Để
thực hiện được nhiệm vụ đó cần phải có một chế độ quản lý mới thực sự có tính
nhân dân và được xây dựng theo nguyên tắc “tập trung dân chủ”. Khi phê phán
quan điểm của kẻ thù cho rằng chuyên chính vô sản là sự kích động bạo lực của
quần chúng chống chính quyền, VI.Lênin đã chỉ rõ, chuyên chính vô sản không chỉ
là bạo lực với bọn bóc lột, mà còn có chức năng chủ yếu là việc tổ chức xây dựng
thành công xã hội mới. Đây mới là thực chất của chuyên chính vô sản.
Với sự phát triển của VI.Lênin về chuyên chính vô sản gắn liền với học
thuyết về đấu tranh giai cấp. Nếu như từ những năm 1852, C.Mác đã khảng định
rằng đấu tranh giai cấp tất yếu dẫn đến chuyên chính vô sản, thì đến khi giai cấp
công nhân và nhân dân lao động đã giành được chính quyền, thiết lập nền chuyên
chính vô sản của mình, VI.Lê-Nin tiếp tục khảng định: Cuộc đấu tranh giai cấp

chưa chấm dứt mà diễn ra dưới thức mới, nội dung mới và điều kiện mới. Trong đó
tất yếu phải tăng cường sức mạnh của nhà nước chuyên chính vô sản để chấn áp sự
phản kháng của các giai cấp bóc lột tuy bị đánh đổ nhưng chưa bị tiêu diệt hẳn; để
12

VI.Lª-Nin toµn tËp, TËp33, NxbTB, M1976, tr49.


14

tiến hành cải tạo xã hội cũ, làm sạch môi trường xã hội và để tổ chức được một
kiểu sản xuất xã hội mới, tăng nhanh năng xuất lao động tạo cơ sở chiến thắng hoàn
toàn xã hội tư bản chủ nghĩa.
Đến đây, chúng ta thấy sự trung thành và kế thừa sáng tạo, tư tưởng về
chuyên chính vô sản của C.Mác- Ph. Ăng ghen, tư tưởng đó tiếp tục được VI.Lênin bảo vệ và phát triển một cách toàn diện, từ tính chất, chức năng, nhiệm vụ, hình
thức và cả những yêu cầu cần thiết để duy trì và tăng cường nền chuyên chính vô
sản của giai cấp công nhân trong giai đoạn giai cấp công nhân trở thành giai cấp
cầm quyền, tiến hành xây dựng một xã hội mới. VI.Lê-Nin còn chỉ rõ là, sự lãnh
đạo của Đảng là điều cốt yếu trong nền chuyên chính vô sản. Không có sự lãnh đạo
của Đảng thì không giữ vững được bản chất của nền chuyên chính vô sản, không
thực hiện được thắng lợi của sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
Công lao của VI.Lê-Nin không chỉ ở việc phát triển tư tưởng về chuyên
chính vô sản của C.Mác- Ph. Ăng ghen lên đến hoàn thiện, mà người đã lãnh đạo
giai cấp công nhân và nhân dân lao động Nga thực hiện thành công cách mạng
tháng Mười, thiết lập nên một nhà nước chuyên chính vô sản đầu tiên, vạch ra cho
Đảng cộng sản và phong trào cách mạng các nước nhìn thấy con đường, bước đi để
thực hiện thắng lợi sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở từng nước.
Sau khi VI.Lê-Nin qua đời, tư tưởng về chuyên chính vô sản tiếp tục được
các Đảng công sản bảo vệ và phát triển. việc các Đảng cộng sản làm rõ khái niệm
chuyên chính vô sản là sự lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua chính Đảng

của nó là Đảng cộng sản đối với toàn xã hội , cũng như việc mở rộng các hình thức
chuyên chính vô sản như: chuyên chính công nông, nhà nước dân chủ nhân dân,
đưa ra các bước quá độ để chuyển từ chuyên chính công nông lên chuyên chính vô
sản, đã nói lên sự đóng góp của các Đảng cộng sản để phát triển về tư tưởng
chuyên chính vô sản trong thời đại mới, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội trên toàn thế giới. Đặc biệt là sự vận dụng của chủ tịch Hồ Chí Minh
về xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân ở Việt Nam.
2- Sự vận dụng của Đảng ta về đổi mới hệ thống chính trị hiện nay –
những nét chấm phá cơ bản


15

Hệ thống chính trị ở nước ta được hình thành và phát triển trên cơ sở của chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và thực tiễn cách mạng nước ta gần một
thế kỷ đấu tranh để giải phóng dân tộc. Chính vì vậy, vấn đề đổi mới, nâng cao chất
lượng và hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị và các thành tố khác của hệ
thống chính trị, để từng bước đưa công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa đi đến thắng lợi là nhiệm vụ trọng tâm, thường
xuyên của Đảng. Từ khi tiến hành công cuộc đổi mới (1986), cùng với những thành
tựu to lớn và quan trọng về kinh tế, xã hội hệ thống chính trị ở nước ta đã từng
bước được đổi mới về tổ chức, phương thức hoạt động và đã góp phần quan trọng
vào thành tựu chung của công cuộc đổi mới, giữ vững ổn định về chính trị, thúc
đẩy kinh tế, xã hội phát triển, củng củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng
cường quốc phòng và an ninh, thực hành dân chủ, phát huy quyền làm chủ của
nhân dân, mở rộng quan hệ đối ngoại, tiến hành hợp tác quốc tế.
Ở nước ta, khái niệm hệ thống chính trị xuất hiện vào những năm cuối thập
kỷ 80 của thế kỷ XX, tại văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương
khóa VI, tháng 3 năm 1989, trong đó chỉ rõ đổi mới tổ chức và phương thức hoạt
động của hệ thống chính trị là nhằm tăng cương vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực

quản lý Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, làm cho các tổ chức
trong hệ thống chính trị hoạt động năng động và có hiệu quả cao hơn. Còn từ Đại
hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986) trở về trước, trong các văn kiện, Đảng ta
vẫn dùng khái niệm hệ thống "chuyên chính vô sản", "Nhà nước chuyên chính vô
sản" hoăc cơ chế "Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý".
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII (1991) đã thông qua Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh đã khẳng đinh
toàn bộ tổ chức hoạt động của hệ thống chính trị nước ta trong giai đoạn mới, là
nhằm xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, đảm bảo
quyền lực thuộc về nhân dân. Trong đó Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời
là một bộ phận của hệ thống chính trị. Đảng liên hệ mật thiết với nhân dân, chịu sự
giám sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiếp pháp và pháp luật. Nhà
nước là tổ chức thể hiện ý chí, quyền lực của nhân dân, thay mặt nhân dân. Nhà


16

nước Việt Nam thống nhất ba quyền hành pháp, lập pháp và tư pháp với sự phân
công rành mạch ba quyền đó. Mặt trận tổ quốc Việt Nam là liên minh chính trị của
các đoàn thể nhân dân và cá nhân tiêu biểu của các giai cấp và tầng lớp xã hội, các
dân tộc, các tôn giáo là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Đảng Cộng sản
vừa là thành viên vừa là người lãnh đạo Mặt trận. Các đoàn thể nhân dân tùy theo
tính chất, tôn chỉ và mục đích của mình, vừa vận động đoàn viên, hội viên giúp
nhau chăm lo bảo vệ lợi ích thiết thực, vừa giáo dục nâng cao trình độ mọi mặt cho
đoàn viên, hội viên, vừa tham gia quản lý nhà nước.
Như vậy, khái niệm hệ thống chính trị (bao gồm Đảng, Nhà nước, Mặt trận
và các đoàn thể nhân dân) có điểm khác với khái niệm hệ thống chuyên chính vô
sản thường được dùng trước năm 1989, đó là: thứ nhất, "Hệ thống chính trị" là
khái niệm thể hiện rõ hơn tính hệ thống, tính chỉnh thể trong mối liên hệ giữa các
bộ phận hợp thành hệ thống chính trị của xã hội xã hội chủ nghĩa; thứ hai, định

hình rõ các bộ phận hợp thành của hệ thống chính trị là các tổ chức chính trị, chính
trị - xã hội, các tổ chức chính trị - xã hội nghề nghiệp và các tổ chức xã hội khác
trong hệ thống chính trị.
Về mặt pháp lý, khái niệm hệ thống chính trị lần đầu tiên được ghi nhận
trong Hiếp pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992. Hệ thống
chính trị của nước ta bao gồm các yếu tố thể chế, tạo thành mô hình tổng thể của nó
là: Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của của
Mặt trận Tổ quốc, trong đó mỗi yếu tố có vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ riêng,
nhưng nhằm một mục đích chung nhất là là phục vụ cho sự nghiệp đổi mới vì độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì lợi ích của nhân dân và Tổ quốc. Trong hệ thống
chính trị, các yếu tố cấu thành có mối liên hệ mật thiết với nhau, có sự tác động qua
lại với nhau. Đảng Cộng sản Việt Nam là một yếu tố cấu thành hệ thống chính trị,
đồng thời là hạt nhân lãnh đạo và là một bộ phận quan trọng trong cơ cấu quyền lực
chính trị đất nước. Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta làm cuộc Cách mạng Tháng Tám
năm 1945 thành công, lập nên nước Việt Nam dân chủ đầu tiên ở Đông nam Á.
Đảng lãnh đạo nhân dân ta đánh thắng hai cuộc chiến tranh xâm lược đế quốc Pháp
và đế quốc Mỹ, giải phóng hoàn toàn đất nước và đưa cả nước vào thời kỳ xây


17

dựng chủ nghĩa xã hội. Với đường lối đổi mới đúng đắn, cách mang nước ta, dưới
sự lãnh đạo của Đảng, đã đạt được những thành tựu to lớn: kinh tế phát triển, chính
trị - xã hội ổn định. Chính vì vây, trong hệ thống chính trị của nước ta, Đảng Cộng
sản Việt Nam luôn là lực lượng có vị trí đặc biệt quan trọng. Vai trò lãnh đạo của
Đảng đã được khẳng định rõ trong thực tiễn đấu tranh cách mạng và trong các Hiến
pháp năm 1959, 1980, 1992 và mới nhất là bổ sung sữa đổi Hiếp pháp năm 1992
(Hiến pháp năm 2013). Địa vị pháp lý này là điều kiện quan trọng để Đảng phát
huy vai trò lãnh đạo của mình. Quyền lực của Đảng là quyền lực chính trị, do đó
hoạt động của Đảng là hoạt động lãnh đạo xã hội bằng Nhà nước và thông qua Nhà

nước. "Đảng lãnh đạo xã hội bằng cương lĩnh, chiến lược, sách lược, các đinh
hướng lớn về các chủ trương công tác, bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục,
vận động, tổ chức kiểm tra và bằng hành động gương mẫu của đảng viên. Đảng
giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong
các cơ quan lãnh đạo chính quyền và các đoàn thể. Đảng không làm thay công việc
của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị" 13. Toàn bộ hệ thống chính trị nước ta
vận hành theo phương hướng do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Cần phải khẳng định là:
sự lãnh đạo của Đảng, sự vận hành của hệ thống chính trị, sự vận động của các yếu
tố thiết chế trong hệ thống chính trị và vai trò gắn kết của các yếu tố định chế trong
hệ thống chính trị ở nước ta đều hướng tới trung tâm của hệ thống chính trị. Hạt
nhân trung tâm của hệ thống chính trị mà các yếu tố khác đều hướng tới là quyền
lực nhân dân. Nội dung, sự hoàn thiện, quá trình phát triển của hạt nhân trung tâm
này, về thực chất là thước đo sự phát triển của hệ thống chính trị.
Hệ thống chính trị nước ta được xem như một hệ thống về mặt tổ chức và
chức năng của các cơ quan, các tổ chức đảng, nhà nước, mặt trận và các đoàn thể
nhân dân, thể hiện quyền lực chính trị của nhân dân, thông qua nội dung của nền
dân chủ, cơ chế thực hiện quyền lực chính trị và quyền lực nhà nước. Do đó , để
phản ánh sự đổi mới hệ thống chính trị Việt Nam cần đánh giá phương thức hoạt
động, chức năng, nhiệm vụ của hệ thống chính trị trong một bối cảnh, giai đoạn
lịch sử cụ thể. Chất lượng và hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị Việt Nam là
13

Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb sự thật, H. tr.21.


18

chất lượng và hiệu quả hoạt động của từng bộ phận hợp thành và sự phối hợp giữa
chúng với nhau. Đồng thời còn xem xét một cách có chọn lọc những nhân tố khác
nhau, như sự ảnh hưởng của quốc tế, tâm lý cộng đồng, văn hóa làng xã... tác động

đến lịch sử đổi mới hệ thống chính trị ở Việt Nam. Quá trình đổi mới này phải đảm
bảo quá trình phát triển của xã hội, được tiến hành có căn cứ khoa học, dựa trên sự
hiểu biết các quy luật phát triển xã hội và sử dụng những quy luật đó vì lợi ích xã
hội, đáp ứng những lợi ích căn bản của nhân dân, thường xuyên được đại đa số
người dân ủng hộ.
Đảng Cộng sản Việt Nam đã khởi sướng công cuộc đổi mới, nhất là đổi mới
hệ thống chính trị, vì mong muốn xây dựng hệ thống chính trị phù hợp với sự phát
triển xã hội và đáp ứng những lợi ích căn bản của nhân dân. Để đẩy mạnh sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đòi hỏi phải đẩy mạnh hơn nữa quá
trình đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị, với các mối quan hệ đan
xen, chi phối giữa các bộ phận ở từng cấp, từng ngành, từ trung ương đến địa
phương cơ sở. Quá trình đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta có thể khái quát lại ở
những điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, bước vào thế kỷ XX,
tình hình thế giới và khu vực diễn biến phức tạp. Tốc độ phát triển như vũ bão của
khoa học – công nghệ giúp cho hiều quả sản xuất vật chất tăng lên không ngừng.
Hợp tác kinh tế và toàn cầu hóa làm cho quan hệ giữa các nước, các dân tộc trên
thế giới xích lại gần nhau hơn, thúc đẩy xu hướng hòa bình, hợp tác cùng phát
triển. Bên cạnh những mặt tích cực của thế giới, sự bất bình đẳng về kinh tế - xã
hội cũng tăng lên tương ứng, tài nguyên thiên nhiên bị khái thác ngày càng cạn
kiệt. Môi trường bị hủy hoại nghiêm trọng; vũ khí giết người hàng loạt vẫn đang
phát triển và hoàn thiện. Hàng trăm quốc gia sau khi giành được độc lập vẫn đang
bị kiềm hãm trong tình trạng lạc hậu, kém phát triển. Lợi dụng toàn cầu hóa, một số
thế lực quốc tế đang âm mưu tiến công vào chủ quyền các quốc gia, làm xói mòn
văn hóa dân tộc, đe dọa sự ổn định kinh tế, xã hội của các nước chậm phát triển,
trong đó có Việt Nam.


19


Qua 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (2001
- 2006), dưới sự lãnh đạo của Đảng, công cuộc đổi mới của đất nước đã đạt được
những thành tựu quan trọng, nhất là trong quá trình đổi mới về phương thức lãnh
đạo của Đảng, nhằm nâng cao phẩm chất chính trị và đạo đức cách mạng, thực hiện
nhiệm vụ xây dựng Đảng ta thật sự trong sạch vững mạnh, vững mạnh về chính trị,
tư tưởng và tổ chức, gắn bó mật thiết với nhân dân, nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của Đảng trong thời kỳ mới. Ngày 18 tháng 4 năm 2006, Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam đã nêu cao ý chí phấn đấu
sớm đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm
2020. Chủ đề Đại hội X là nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng,
phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, thực hiện
mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Từ sau đại
hội X, đất nước ta phát triển thuận lợi, Việt Nam trở thành thành viên của Tổ chức
thương mại thế giới (WTO), Việt Nam đã ký kết một số hiệp định thương mại tự do
song phương và đa phương với một số đối tác quan trọng, góp phần quan trọng vào
việc mở rộng thị trường hàng hóa, dịch vụ và đầu tư vào Việt Nam, thu hút đầu tư
trực tiếp nước ngoài, tranh thủ vốn hỗ trợ và các nguồn tài trợ quốc tế. Tuy nhiên,
đến cuối năm 2007 đầu năm 2008, kinh tế và đời sống trong nước gặp nhiều khó
khăn. Các thế lực thù địch tiếp tục chống phá, kích động bạo loạn, đẩy mạnh hoạt
động "diễn biến hòa bình". Trong bối cảnh đó, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta
đã nổ lực phấn đấu vượt qua khó khăn, thách thức, đạt được những thành tựu quan
trọng trong việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ Đại hội X đề ra. Nhiệm vụ đổi
mới phương thức lãnh đạo của Đảng là: Củng cố sự lãnh đạo của Đảng, rà soát lại
phương pháp lãnh đạo của Đảng. Trong đó xác định Đảng lãnh đạo phải bằng
cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và những chủ trương lớn,
bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát và
bằng hành động gương mẫu của đảng viên. Đảng thống nhất lãnh đạo công tác
cán bộ và quản lý đội ngủ cán bộ trong các cơ quan của hệ thống chính trị. Đảng
lãnh đạo thông qua tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong tổ chức của hệ
thống chính trị, tăng cường chế độ trách nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu.



20

Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là bộ phận của hệ thống chính trị ấy.
Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của
nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, chịu sự giám sát của nhân dân,
hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Trong công tác lý luận, các cơ quan tham mưu của Đảng đã chủ động nghiên
cứu nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn của công cuộc đổi mới, tổng kết và bổ sung,
phát triển Cương lĩnh, xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Hệ thống
các cơ quan tuyên truyền của Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể tăng
cường công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng, xây dựng đạo đức cách
mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Tuy vậy, trong quá trình đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng vân chưa
làm sáng tỏ được một số vấn đề về đảng cầm quyền, về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Tình trạng suy thoái về chính trị, tư
tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tình
trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, những tiêu cực và tệ nạn xã hội chưa được
ngăn chặn, đẩy lùi mà còn có những diễn biến phức tạp, cùng với sự phân hóa
giàu nghèo và sự yếu kém trong quản lý, điều hành nhiều cấp, nhiều ngành đã làm
giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, đe dọa sự ổn định, phát
triển của đất nước. Cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh" chưa được thật sự đi vào chiều sâu, ở một số nơi còn mang tính hình
thức, hiệu quả chưa cao.
Tổ chức một số cơ quan đảng, nhà nước và tổ chức chính trị - xã hội chưa
thật sự tinh gọn, hiệu quả; chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ chưa rõ ràng. Việc
đổi mới công tác cán bộ còn chậm; thiếu cơ chế, chính sách cụ thể để thực sự phát
huy dân chủ trong công tác cán bộ, phát hiện và sự dụng người tài; chậm đổi mới
cơ chế, phương pháp và quy trình đánh giá, bổ nhiệm, miễn nhiệm, từ chức với cán

bộ vẫn là khâu yếu. Tình trạng chạy chức, chạy tội, chạy quyền, chạy bằng cấp,
huân chương chưa được khắc phục. Công tác cán bộ thiếu tầm nhìn xa. Chất lượng
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ còn thấp. Môi trường làm việc, chính sách cán bộ chưa
tạo được động lực để khuyến khích, thu hút, phát huy năng lực, sự cống hiến của


21

cán bộ; chưa cổ vũ ý chí phấn đấu vươn lên, sự gắn bó, tận tụy của cán bộ đối với
công việc. Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và
các đoàn thể chính trị - xã hội trên một số nội dung chưa rõ, chậm đổi mới. Chức
năng, nhiệm vụ của đảng đoàn, ban cán sự đảng chưa được xác định rõ ràng, cụ thể
nên hoạt động còn lúng túng. Phong cách, lề lối làm việc còn chậm đổi mới; hội
hợp vẫn còn nhiều. Nguyên tắc tập trung dân chủ còn vi phạm, ảnh hưởng đến sự
đoàn kết, thống nhất trong Đảng.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam, với
quan điểm "Nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật, đề cao tinh thần tự phê bình
nghiêm túc, để kiểm điểm, đánh giá khách quan, toàn diện những thành tựu và yếu
kém, khuyết điểm"14. Đại hội đã nêu rõ những hạn chế của quá trình đổi mới hệ
thống chính trị ở Việt Nam trong thời gian vừa qua. Việc đổi mới phương thức lãnh
đạo còn lúng túng, "Chưa làm sáng tỏ được một số vấn đề về đảng cầm quyền, về
chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta" 15. Công tác cán
bộ chậm đổi mới, thiếu cơ chế, chính sách cụ thể để thực sự phát huy dân chủ
trong công tác cán bộ và sử dụng người tài. Bộ máy tổ chức các cơ quan đảng, nhà
nước và tổ chức chính trị - xã hội còn cồng kềnh, mối quan hệ chưa rõ ràng.
Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn
thể chính trị xã hội tên một số nội dung chưa rõ, chậm đổi mới. Xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chưa theo kịp yêu cầu phát triển kinh tế và quản
lý đất nước. Cải cách hành chính chưa đạt yêu cầu đề ra; thủ tục hành chính còn
gây nhiều phiền hà cho tổ chức và công dân. Quan liêu, tham nhũng, lãng phí vẫn

còn nghiêm trọng, với những biểu hiện tinh vi, phức tạp, chưa được ngăn chặn, đẩy
lùi, gây bức xúc xã hội. Chủ trương, quan điểm của Đảng về đại đoàn kết toàn dân
tộc, về quyền và lợi ích giai cấp, tầng lớp nhân dân chưa được thể chế hóa đầy đủ
thành pháp luật; hoặc đã thể chế hóa, những chưa được thực hiện nghiêm túc. Hoạt
động của các đoàn thể, Mặt trận Tổ quốc chưa được sâu sát với các tầng lớp nhân
dân và cơ sở.
14
15

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011, tr.10
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011, tr.172-173.


22

Đại hội XI tiếp tục chủ trương đổi mới hệ thống chính trị "Xây dựng hệ
thống chính trị trong sạch, vững mạnh; phát huy dân chủ và sức mạnh khối đại
đoàn kết dân tộc"16. Ngày nay, toàn Đảng, toàn dân cả nước đang nổ lực thực hiện
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mở cửa, hội nhập, xây dựng và bảo vệ đất nước.
Tình hình thế giới và trong nước có nhiều biến đổi to lớn và sâu sắc. Con đường
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là con đường mới mẻ, chưa có tiền lệ. Đại
hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã tổng kết, bổ sung, phát triển Cương
lĩnh năm 1991 nhằm làm nền tảng chính trị, tư tưởng cho mọi hoạt động của Đảng,
Nhà nước và nhân dân trong quá trình đổi mới; vừa mang tính lý luận khoa học vừa
có tình thực tiễn sâu sắc, đáp ứng yêu cầu bức thiết của cách mạng ở mỗi giai đoạn
và nguyện vọng của nhân dân. Quá trình đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng
đã góp phần đưa đất nước phát triển lớn mạnh, sớm thực hiện mục tiêu của một
nước công nghiệp theo hướng hiện đại và nhân dân ta có cuộc sóng ấm no, tự do,
hạnh phúc, sánh vai với các cường quốc năm chấu khác trên thế giới trong bối cảnh
toàn cầu hóa hiện nay.

Thứ hai, đẩy mạnh công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền. Bước vào
giai đoạn mới, công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền nước ta đứng trước bối
cảnh mới. Xu thế của thế giới thời kỳ này là hòa bình, hợp tác và phát triển, nhưng
xung đột dân tộc, sắc tộc, tôn giáo, tranh giành tài nguyên và lãnh khổ, nạn khủng
bố và tội phạm xuyên quốc gia có thể gia tăng cùng với những vấn đề toàn cầu
khác như đói nghèo, dịch bệnh, các thảm họa thiên nhiên, biến đổi khí hậu... buộc
các quốc gia phải có chính sách đối phó và phối hợp hành động. Sự tùy thuộc lẫn
nhau, hội nhập, cạnh tranh và hợp tác giữa các nước ngày càng trở thành phổ biến.
Kinh tế tri thức phát triển mạnh, do đó con người và tri thức ngày càng trở thành
nhân tố quyết định phát triển của mỗi quốc gia. Các nước trong Hiệp hội các quốc
gia Đông Nam Á bước vào thời kỳ hợp tác mới, xây dựng cộng đồng dựa trên ba
trụ cột: chính trị - an ninh, kinh tế, văn hóa – xã hội; hợp tác với các đối tác tiếp tục
phát triển và đi vào chiều sâu.
16

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011, tr.33.


23

Tình hình đất nước và bối cảnh quốc tế nêu trên, tạo cho nước ta vị thế mới
với những thuận lợi và cơ hội to lớn cùng với những khó khăn và thức thức gay gắt
trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền, nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân, do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Nhà nước chăm lo, phục vụ nhân dân, bảo
vệ các quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân. Tổ chức và hoạt đọng
của bộ máy nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Quyền lực Nhà nước là sự
thống nhất, có sự phân công phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Đẩy mạnh xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong những năm gần đây tập trung vào những vấn đề
lớn sâu đây:

Một là, tiếp tục đổi mới tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước. Đổi mới
tổ chức và hoạt động của Quốc hội, đảm bảo cho Quốc hội thật sự là cơ quan đại
biểu cao nhấy của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Nâng cao chất
lượng đại biểu Quốc hội, tăng hợp lý số lượng đại số lượng đại biểu Quốc hội
chuyên trách; có cơ chế đại biểu Quốc hội gắn bó chặt chẽ và có trách nhiệm với cử
tri; cải tiến, nâng cao hoạt động của Hội đồng nhân dân và các Ủy ban của Quốc
hội. Đổi mới, nâng cao chất lượng các kỳ hợp của Quốc hội, chất lượng công tác
xây dựng pháp luật; thực hiện tốt hơn nhiệm vụ quyết định và giám sát các vấn đề
quan trọng của đất nước.
Tiếp tục đổi mới và hoạt động của Chính phủ theo hướng xây dựng nền hành
chính thống nhất, thông suốt, trong sạch, vững mạnh, tổ chức tinh gọn, hợp lý; xác
định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, tổ chức của cán bộ, cơ quan
ngang bộ. Thực hiện phân cấp hợp lý cho chính quyền địa phương đi đôi với tăng
cường thanh tra, kiểm tra, giám sát của Trung ương. Nâng cao năng lực dự báo chất
lượng xây dựng và tổ chức thực hiện thể chế, các chính sách, chiến lược, quy hoạch
phát triển kinh tế - xã hội, quản lý và sử dụng có hiệu quả tài sản quốc gia, hệ thống
kết cấu hạ tầng, đảm bảo quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội của chính
quyền các cấp. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, bãi bỏ các thủ tục hành
chính gây phiền hà cho nhân dân và các tổ chức cá nhân. Ngoài ra, tiếp tục đổi mới
tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương, nâng cao chất lượng hoạt động của


24

Hồi đồng nhân dân các cấp; tiếp tục thực hiện chủ trương không tổ chức hội đồng
nhân dân huyện, quận, phường; nghiên cứu về tổ chức chính quyền đô thị, hải đảo.
Hai là, xây dựng đội ngủ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực, đáp
ứng yếu cầu của tình hình mới. Phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm và
quyền hạn của mỗi cán bộ công chức; tăng cường tính công khai, minh bạch, trách
nhiệm của hoạt động công vụ. Nâng cao chất lượng đội ngủ cán bộ, công chức cả

về bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực công tác; có chính sách đãi ngộ,
động viên, khuyến khích cán bộ, công chức hoàn thành nhiệm vụ và có cơ chế loại
bỏ, bãi miễn những người không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm kỷ luật, mất uy tính
với nhân dân.
Ba là, tích cực phòng ngừa và kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham
nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm. Tiếp tục hoàn thiện thể chế và đẩy mạnh cải
cách hành chính phục vụ phòng chống tham nhũng, lãng phí, tập trung vào các lĩnh
vực dễ xảy ra tham nhũng, lãng phí; thực hiện chế độ công khai, minh bạch về kinh
tế, tài chính trong các cơ quan hành chính, đơn vị cung ứng dịch vụ công, doanh
nghiệp nhà nước, các dự án đầu tư, xây dựng cơ bản, mua sắm từ ngân sách nhà
nước, quản lý, sử dụng đất đai, tài sản công; thực hiện có hiệu quả việc kê khai và
công khai tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức theo quy định; xác định rõ trách
nhiệm người đứng đầu khi để cơ quan, đơn vị xảy ra tham nhũng, lãng phí; xử lý
đúng pháp luật, kịp thời, công khai cán bộ tham nhũng, tịch thu sung công quỹ tài
sản tham nhũng và có nguồn gốc từ tham nhũng; có cơ chế khuyến khích và bảo về
người đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; tổng kết, đánh giá cơ chế,
mô hình tổ chức cơ quan phòng chống tham nhũng để có chủ trương giải pháp phù
hợp hơn.
Tuy nhiên, những thành tựu đạt được trong công cuộc xây dựng Nhà nước
pháp quyền chưa tương xứng với tiềm năng và chi phí bỏ ra. Thực tiễn quá trình
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong giai đoạn vừa qua
đã chưa theo kịp yêu cầu phát triển kinh tế và quản lý đất nước. Năng lực xây dựng
thể chế, quản lý điều hành, tổ chức thực thi pháp luật còn yếu. Chất lượng đội ngũ
cán bộ, công chức chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới của


25

đất nước. Cải cách hành chính chưa đạt yêu cầu đề ra. Cải cách tư pháp còn chậm,
chưa đồng bộ. Nhiều vấn đề bức xúc trong xã hội chậm được giải quyết, "Suy thoái

về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng
viên, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí còn nghiêm trọng" 17, quyền làm chủ của
nhân dân chưa được phát huy đầy đủ; kỷ luật, kỷ cương chưa nghiêm; tham nhũng,
lãng phí còn nghiêm trọng, chưa được đẩy lùi.
Thứ ba, đổi mới tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn
thể. Mặt trận và các đoàn thể là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân, là hình
ảnh thu nhỏ của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, nơi gửi gắm tâm tư nguyện vọng
của nhân dân, là nền tảng chính trị của Đảng, Nhà nước ta, là nơi các tầng lớp nhân
dân thực hiện các quyền làm chủ của mình, là nồng cốt trong các phong trào thi đua
yêu nước. Do đó, đổi mới tổ chức và hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể chính
trị trong giai đoạn vừa qua đó chính là xây dựng Mặt trận và các đoàn thể ngày
càng vững mạnh, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động để phù hợp với điều
kiện mới, có chất lượng và hiệu quả cao hơn... Phát huy mạnh mẽ vai trò Mặt trận
Tổ quốc và các đoàn thể trong việc đưa các chủ trương, chính sách, pháp luật của
Đảng, Nhà nước vào thực tiễn cuộc sống, đồng thời lắng nghe, tập hợp tất cả các ý
kiến, nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, tổ chức các phong trào hoạt động
để biến các tư tưởng thành hành động. Mặt trận và các đoàn thể tăng cường và nâng
cao hiệu quả công tác phối hợp hành động với các cơ quan trong hệ thống chính trị,
phục vụ đắc lực cho công cuộc xây dựng và bảo về Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa, không ngừng củng cố và nâng cao vai trò, vị thế của Việt Nam trên trường
quốc tế.
Thông qua đổi mới tổ chức và phương thức hoạt đông của Mặt trận và các
đoàn thể trong thời gian qua, Đảng, Nhà nước tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân
dân. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều
xuất phát từ lợi ích của đất nước, của dân tộc. Mọi cán bộ công chức, viên chức của
Đảng, Nhà nước và các đoàn thể đều lấy mục tiêu tận tụy phục vụ nhân dân, tôn
17

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011, tr.29.



×