Tải bản đầy đủ (.doc) (49 trang)

Tài liệu hướng dẫn ôn tập triết học (tư liệu tham khảo)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (379.12 KB, 49 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC HUẾ
KHOA MÁC-LÊNIN
BỘ MÔN TRIẾT HỌC

HƯỚNG DẪN ÔN TẬP
TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN
(TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ)

HUẾ, 1998
Lời nói đầu
- Căn cứ vào thông báo số 7785/CTCT ngày 12.9.1998 của Bộ giáo dục và Đào tạo về việc dạy
và học các môn khoa học Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh năm học 1998-1999.
- Căn cứ vào nhu cầu về tài liệu học tập của sinh viên và học viên Cao học, nghiên cứu sinh
không chuyên ngành Mác-Lênin, Bộ môn Triết học Trường Đại học Khoa học Huế biên soạn cuốn:
“Hướng dẫn ôn tập Triết học Mác – Lênin”.
Đây là tài liệu giúp cho người học nắm được một cách có hệ thống những nguyên lý cơ bản của
Triết học Mác-Lênin và những quan điểm của Đảng ta vận dụng vào cách mạng Việt Nam.
Tập thể tác giả xin được đón nhận sự hợp tác và những ý kiến trao đổi, xây dựng của bạn sinh
viên, học viên cao học, nghiên cứu sinh và đồng nghiệp.
Bộ môn Triết học
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC HUẾ

1


Phần A
CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG VỀ THẾ GIỚI
Câu 1: Triết học là gì? Phân tích vấn đề cơ bản của triết học?
1. Khái niệm triết học:
“Triết” theo nguyên chữ Hán có nghĩa là trí (bao gồm sự hiểu biết sâu rộng về vũ trụ và nhân
sinh), theo chữ Hy Lạp là “yêu mến sự thông thái”. Khái niệm “triết học” có những biến đổi nhất định


trong lịch sử, nhưng lúc nào cũng bao hàm: yếu tố nhận thức (sự hiểu biết về vũ trụ, về con người và sự
giải thích bằng hệ thống tư duy) và yếu tố nhận định (đánh giá về đạo lý để con người có thái độ và hành
động).
Theo quan điểm mácxít, triết học là một trong những hình thái ý thức xã hội; là học thuyết về
những nguyên tắc chung nhất của tồn tại, của nhận thức và của thái độ con người đối với thế giới; là khoa
học về những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Đặc điểm nổi bật của triết học là cách nhìn chung về thế giới, là sự nghiên cứu thế giới xét như
một chỉnh thể, cho nên tri thức triết học trước hết là những tri thức phổ quát. Từ cách xem xét đó, triết
học có vai trò giải thích bản chất, nguyên nhân và những quy luật phát triển của thế giới; vừa có vai trò
vạch ra con đường, những phương tiện để nhận thức và cải tạo thế giới.
Triết học chỉ xuất hiện khi có hai điều kiện: Về mặt nhận thức, triết học xuất hiện khi năng lực tư
duy trừu tượng của con người đạt đến trình độ nhất định, cho phép họ tổng kết và khái quát những tri thức
riêng lẻ thành hệ thống quan niệm, quan điểm chung. Về mặt xã hội, triết học xuất hiện khi sản xuất vật
chất của loài người phát triển đến trình độ làm nảy sinh quá trình phân công lao động trí óc và lao động
chân tay; nhưng quá trình phân công lao động này trong thực tế chỉ diễn ra khi lịch sử nhân loại bước vào
giai đoạn có phân chia giai cấp.
2. Vấn đề cơ bản của triết học
Theo Ăngghen, vấn đề cơ bản của triết học là vấn đề về mối quan hệ giữa tồn tại và tư duy, hay là
vấn đề về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Vấn đề này có hai mặt:
- Mặt thứ nhất, đó là vấn đề giữa ý thức và vật chất, cái nào có trước? cái nào quyết định cái nào?
Tùy theo cách giải quyết vấn đề này mà triết học chia thành hai trào lưu chính: chủ nghĩa duy vật và chủ
nghĩa duy tâm.
Chủ nghĩa duy vật cho rằng bản chất của thế giới là vật chất, nên vật chất có trước, tồn tại độc lập
với ý thức và quyết định ý thức; còn ý thức là thuộc tính, là sự phản ánh vật chất. Chủ nghĩa duy vật trải
qua nhiều giai đoạn phát triển với năm hình thức lịch sử cơ bản: duy vật cổ đại (mộc mạc, chất phác), duy
vật tầm thường thế kỷ V-XV, duy vật cơ học máy móc thế kỷ XVII-XVIII, duy vật siêu hình thế kỷ XIX
và duy vật mác-xít (biện chứng).
Chủ nghĩa duy tâm cho rằng ý thức (tinh thần) là bản chất của thế giới, nên ý thức là cái có trước
và quyết định vật chất; còn vật chất là cái có sau, là sự “biểu hiện” của ý thức. Chủ nghĩa duy tâm có hai
hình thức cơ bản: duy tâm chủ quan (coi ý thức là bản chất của thế giới, nhưng đó là ý thức của con người

nằm trong con người) và duy tâm khách quan (cũng coi ý thức là bản chất của thế giới, nhưng đó là một
thực thể tinh thần tồn tại bên ngoài con người và độc lập với con người).
Nguồn gốc của chủ nghĩa duy vật: là sự phát triển của tri thức, của khoa học; là lợi ích và cuộc
đấu tranh của các giai cấp, các lực lượng xã hội tiến bộ, cách mạng ở mỗi giai đoạn phát triển của lich sử.
Nguồn gốc của chủ nghĩa duy tâm: là sự tuyệt đối hóa một hình thức hay một giai đoạn của quá trình
nhận thức dẫn đến tách nhận thức và ý thức khỏi thế giới hiện thực khách quan; thông thường là lợi ích và
sự phản kháng của các giai cấp, các lực lượng bảo thủ trước tiến bộ xã hội.
- Mặt thứ hai, là vấn đề về khả năng nhận thức của con người.
Toàn bộ các nhà triết học duy vật và đa số những nhà triết học duy tâm đều thừa nhận rằng thế
giới có thể nhận thức được. Nhưng các nhà duy vật cho rằng, nhận thức là sự phản ánh thế giới vật chất
khách quan trong bộ óc con người. Còn các nhà duy tâm thì cho rằng, nhận thức chỉ là sự ý thức về bản
chất ý thức.

2


Trả lời vấn đề này còn có những nhà triết học theo nguyên tắc bất khả tri (không thể biết). Những
người này xuất phát từ việc tuyệt đối hóa tính tương đối của tri thức dẫn đến phủ nhận khả năng nhận
thức của con người.
- Bên cạnh những nhà triết học nhất nguyên (duy vật và duy tâm) giải thích thế giới từ một bản
nguyên, hoặc vật chất hoặc tinh thần, còn có những nhà triết học nhị nguyên luận. Nhị nguyên luận cho
rằng thế giới được sinh ra từ hai bản nguyên độc lập với nhau, bản nguyên vật chất sinh ra các hiện tượng
vật chất, bản nguyên tinh thần sinh ra các hiện tượng tinh thần. Nhị nguyên luận thể hiện lập trường dung
hòa giữa duy vật và duy tâm, đó chỉ là khuynh hướng nhỏ trong lịch sử triết học và trong cuộc đấu tranh
triết học nó càng trở nên gần với chủ nghĩa duy tâm.
Câu 2: Phân tích sự đối lập giữa phương pháp siêu hình và phương pháp biện chứng
- Phương pháp triết học là phương pháp nhận thức thế giới nói chung, là hệ thống những nguyên
tắc dùng để nghiên cứu thế giới xét như một chỉnh thể. Trong lịch sử triết học có hai phương pháp cơ bản
đối lập nhau: phương pháp siêu hình và phương pháp biện chứng.
Thuật ngữ “siêu hình” (metaphysics), đầu tiên được Aristote dùng để chỉ bộ phận quan trọng nhất

trong hệ thống triết học của mình. Theo đó, nó được hiểu là học thuyết về những gì vượt ra ngoài giới hạn
của “kinh nghiệm”, về những đối tượng đằng sau các sự vật hữu hình. Vì vậy, cho đến thời Phục hưng
người ta vẫn coi siêu hình học đồng nghĩa với triết học. Đến thế kỷ XVII-XVIII, sự phát triển của khoa
học tự nhiên đòi hỏi phải phân chia giới tự nhiên thành những lĩnh vực riêng biệt để nghiên cứu. Chính
cách nghiên cứu ấy đã đem lại cho các nhà khoa học một thói quen, xét sự vật và quá trình trong trạng
thái cô lập ở ngoài mối liên hệ, vận động và phát triển của chúng. Khi cách xem xét này được các nhà duy
vật đưa vào triết học thì nó đã tạo ra phương pháp siêu hình. Như vậy, thuật ngữ “phương pháp siêu hình”
được dùng để chỉ phương pháp triết học đặc trưng cho chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII-XVIII. Phương
pháp siêu hình là cách xem xét thế giới trong sự cô lập tác biệt lẫn nhau hoặc không vận động, hoặc
không phát triển, hoặc vận động và phát triển theo chu kỳ khép kín.
Thuật ngữ “biện chứng” (dialectics), đầu tiên được Platon dùng để chỉ một nghệ thuật trong tranh
luận, theo đó nó được hiểu là những thủ đoạn biện bác chủ quan. Tuy vậy ở thời cổ đại đã có những tư
tưởng biện chứng khách quan (triết học Hêraclít), nhưng vẫn còn mang tính tự phát và chưa trở thành hệ
thống. Đến thế kỷ XVIII, những tư tưởng biện chứng được phục hồi và được xây dựng thành hệ thống,
đặc biệt là ở trong các học thuyết của những nhà triết học duy tâm cổ điển Đức. Từ lúc này những tư
tưởng biện chứng mới hợp thành một phương pháp triết học đối lập với phương pháp siêu hình. Đến giữa
thế kỷ XIX, khái quát hiện thực xã hội, tổng kết những thành quả lý luận và khoa học, Mác và Ăngghen
xây dựng lại phương pháp biện chứng trên lập trường duy vật đã sáng tạo ra phương pháp biện chứng
mácxít. Phương pháp biện chứng là cách xem xét thế giới trong mối liên hệ phổ biến quy định ràng buộc
nhau và luôn vận động và luôn phát triển.
- Sự đối lập giữa phương pháp siêu hình và phương pháp biện chứng diễn ra trong cách giải quyết
mọi vấn đề triết học, song có thể khái quát ở những nội dung chính sau đây:
Thứ nhất: Phương pháp siêu hình xem xét thế giới trong trạng thái cô lập của các sự vật hiện
tượng; cái này được xét tách rời cái kia mà không thừa nhận rằng giữa chúng có sự ràng buộc lẫn nhau. Vì
vậy phương pháp siêu hình chỉ nhìn thấy tính cá biệt mà không nắm được mối liên hệ, thấy được sự khác
biệt mà không nắm được sự thống nhất giữa các sự vật hiện tượng; chỉ thấy cái bộ phận, cái đơn nhất, cái
riêng mà không nắm được cái toàn thể, cái phổ biến, cái chung. Trái lại, phương pháp biện chứng xem xét
thế giới trong mối liên hệ, ràng buộc giữa các yếu tố của nó và với cái khác. Vì vậy, phương pháp biện
chứng nhìn nhận sự vật toàn diện hơn, thấy được cả sự khác biệt và sự thống nhất giữa các sự vật, hiện
tượng, nắm được cả cải bộ phận và cái toàn thể, cái đơn nhất và cái phổ biến, cái riêng và cái chung.

Thứ hai: Phương pháp siêu hình xem xét thế giới trong trạng thái tĩnh; sự vật hiện tượng chỉ được
xét như cái gì ổn định nằm ngoài sự vận động và phát triển của chúng. Cách xem xét này cho phép
phương pháp siêu hình nắm được tính xác định và ổn định của sự vật, hiện tượng, nhưng mặt khác cũng
dẫn đến những sai lầm nghiêm trọng: đó là quan điểm phủ nhận sự vận động, phát triển của thế giới; là
quan điểm cho rằng thế giới có sự tăng giảm về lượng, sự lặp lại, mà không có sự chuyển hóa về chất,
không có sự xuất hiện cái mới thay thế cái cũ, cái lạc hậu. Vì vậy phương pháp siêu hình không thể vạch
ra được bản chất thật sự của mọi sự vật, hiện tượng; không vạch ra được nguồn gốc, động lực, quy luật và
xu hướng vận động phát triển của chúng. Trái lại, phương pháp biện chứng xem xét thế giới trong trạng
thái vận động, chuyển hóa không ngừng; sự vật, hiện tượng nào cũng được xét như một quá trình, trong
sự tự vận động, tự phát triển của nó. Thừa nhận sự phát triển, phương pháp biện chứng cho rằng: không
chỉ có sự tăng giảm về lượng mà còn có sự phát triển về chất; có sự ra đời của cái mới thông qua phủ định
cái cũ; nguồn gốc, động lực của mọi sự phát triển là cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập của sự vật, hiện

3


tượng. Nhờ cách xem xét ấy, phương pháp biện chứng, vạch ra được bản chất đích thực của sự vật, hiện
tượng; nắm bắt được nguồn gốc và động lực bên trong của mọi sự vận động, phát triển.
Vì vậy, Lênin nhận xét rằng chỉ có quan điểm biện chứng về sự phát triển là sâu sắc, sinh động và
chỉ có phép biện chứng mới là chìa khóa để nghiên cứu sự phát triển.
Tuy nhiên, không được tuyệt đối hóa phép biện chứng mà phủ nhận vai trò của phép siêu hình.
Trong thực tế, có những mối liên hệ, có những mặt, có những lúc đặc biệt lại rất cần đến phép siêu hình.
Câu 3: Trình bày những tiền đề ra đời của triết học Mác-Lênin
* Tiền đề kinh tế-xã hội
Triết học Mác ra đời vào những năm 40 của thế kỷ XIX, thời kỳ mà chủ nghĩa tư bản đã trở thành
hệ thống kinh tế thống trị ở các nước Tây Âu và giai cấp vô sản đã bước lên vũ đài lịch sử như một lực
lượng chính trị độc lập.
Mác nhận xét rằng, đến thế kỷ XIX chủ nghĩa tư bản đã trở thành một cơ thể hoàn chỉnh, làm bộc
lộ đầy đủ các mâu thuẫn trong bản chất của nó. Trước hết là mâu thuẫn gay gắt giữa lực lượng sản xuất có
tính chất xã hội với quan hệ sản xuất có tính chất tư hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, mâu thuẫn này biểu

hiện về mặt xã hội là mâu thuẫn xung đột giữa lao động với tư bản, giữa giai cấp vô sản với giai cấp tư
sản. Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản cùng với các mâu thuẫn của nó, đã tạo ra một cơ sở hiện thực cho
những phân tích và khái quát lý luận trong học thuyết của Mác và Ăngghen.
Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản cùng với các mâu thuẫn của nó kéo theo sự phát triển của
phong trào công nhân. Đến cuối thế kỷ XVIII và nửa đầu thế kỷ XIX, phong trào công nhân ở các nước
Tây Âu đã có bước phát triển mới về số lượng và chất lượng. Sự tập trung tư bản cùng với sự hình thành
những trung tâm công nghiệp lớn thu hút công nhân thành lực lượng đông đảo, mâu thuẫn giữa lao động
và tư bản trở nên gay gắt làm xuất hiện những cuộc đấu tranh chính trị ngày càng có tổ chức và tự giác.
Các cuộc khởi nghĩa của công nhân ở Xilêdi (Đức), ở Liông và Pari (Pháp), phong trào Hiến chương
(Anh) vào những năm 30-40 chứng minh rằng: giai cấp công nhân trở thành lực lượng quyết định các quá
trình kinh tế-xã hội-chính trị của thời đại và bước lên vũ đài lịch sử như một lực lượng chính trị độc lập.
Phong trào công nhân thời kỳ này làm bộc lộ sai lầm của quan niệm tư sản về sự hân hoan chung giữa lao
động và tư sản, tạo nên những thay đổi căn bản trong quan niệm về lịch sử của Mác và Ăngghen; mặt
khác, nó đề ra nhu cầu giải thích về những thực tế của cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản về sứ mệnh lịch
sử của giai cấp vô sản về tổ chức, con đường và phương tiện cách mạng của giai cấp vô sản. Chủ nghĩa
Mác ra đời đã đáp ứng những đòi hỏi này.
Những phân tích và khái quát lý luận về sự phát triển của chủ nghĩa tư bản và phong trào công
nhân vào nửa đầu thế kỷ XIX là một bộ phận quan trọng trong học thuyết của Mác và Ăngghen. Vì vậy,
sự phát triển của chủ nghĩa tư bản và phong trào công nhân thời kỳ đó là những điều kiện kinh tế-xã hội
cho sự ra đời của triết học.
* Tiền đề lý luận
- Sự ra đời của triết học Mác trước hết có kế thừa những thành quả của triết học cổ điển Đức.
Mác và Ăngghen luôn thừa nhận rằng trong sự phát triển trí tuệ của mình, hai ông đã chịu ơn nhiều nhà
triết học Đức, trong đó nổi bật là Hêghen và Phoiơbắc.
Công lao to lớn của Hêghen là ở chỗ: Ông đã phê phán những hạn chế cơ bản của phương pháp
siêu hình, đã xây dựng phép biện chứng thành hệ thống và xem nó là phương pháp luận đúng đắn của mọi
nhận thức khoa học. Nhưng Mác và Ăngghen cũng chỉ ra rằng, triết học Hêghen có những hạn chế lớn, đó
là sự giải thích duy tâm về hiện thực; là sự biện hộ cho những thực tế lịch sử lỗi thời, cho tôn giáo; là triết
học tự biện, trừu tượng, xa rời hiện thực và thực tiễn. Cho nên khi sáng lập triết học của mình Mác và
Ăngghen đã không kế thừa toàn bộ triết học Hê-ghen mà chỉ kế thừa hạt nhân hợp lý, đó là phép biện

chứng, đồng thời cải tạo và xây dựng lại phép biện chứng trên lập trường duy vật.
Đánh giá về Phoiơbắc, Mác và Ăngghen cho rằng chính nhờ đọc được các tác phẩm của ông mà
họ đã cương quyết đoạn tuyệt với triết học Hêghen. Công lao của Phoiơbắc là ở sự phê phán quyết liệt
chủ nghĩa duy tâm-tôn giáo (nhất là phê phán Hê-ghen), là sự khẳng định cương quyết tính đúng đắn của
các nguyên lý duy vật, là việc giải thích trên lập trường duy vật bản chất con người, bản chất tôn giáo và
đề cao chủ nghĩa nhân đạo. Nhưng Phoiơbắc cũng có những hạn chế lớn, đó là phương pháp tư duy siêu
hình, (khi phê phán Hêghen, ông đã không thấy được phép biện chứng là hạt nhân hợp lý nên đã bác bỏ
và chuyển sang quan điểm siêu hình); quan điểm trực quan, trừu tượng, phi lịch sử về bản chất con người,
duy tâm trong lĩnh vực xã hội. Vì vậy khi sáng lập ra triết học của mình, Mác và Ăngghen cũng không kế

4


thừa toàn bộ triết học Phoiơbắc mà chỉ kế thừa hạt nhân cơ bản đúng đắn đó là nguyên lý duy vật, đồng
thời cải tạo và xây dựng lại chủ nghĩa duy vật dựa trên quan điểm biện chứng.
- Sự ra đời triết học Mác không chỉ do ảnh hưởng của triết học Hêghen và triết học Phoiơbắc.
Mác và Ăngghen khi tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản đã rút ra những tài liệu
thực tiễn phong phú cho những kết luận duy vật-biện chứng của mình. Ngoài ra, việc hai ông đi sâu
nghiên cứu kinh tế-chính trị học cổ điển và chủ nghĩa xã hội không tưởng phê phán, đã góp phần không
nhỏ cho sự hình thành và hoàn thiện thế giới quan triết học của mình.
* Tiền đề khoa học tự nhiên
Sự ra đời triết học Mác còn được chuẩn bị bởi những thành quả của khoa học tự nhiên. Những
thành quả của khoa học tự nhiên từ cuối thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XIX làm bộc lộ những hạn chế của
phương pháp tư duy siêu hình, ngày càng chứng minh tính đúng đắn của các nguyên lý duy vật và biện
chứng.
Phát hiện bằng thực nghiệm của Maye (được Lômônôxốp công bố) về sự bảo toàn vật chất và vận
động, lý luận của Cantơ về sự hình thành thái dương hệ đã góp phần khẳng định quan điểm biện chứng về
lịch sử vũ trụ và giới tự nhiên: mặt khác đả phá quan niệm duy tâm, tôn giáo siêu hình về thế giới.
Từ những năm 30 đến 50 của thế kỷ XIX, khoa học tự nhiên đã có những thành tựu to lớn. Thời
kỳ này có ba phát minh vĩ đại đóng vai trò quan trọng trong cuộc đấu tranh chống quan điểm siêu hình và

chuẩn bị cho sự ra đời của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Vào những năm 40 của thế kỷ XIX phát minh ra quy luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng.
Quy luật này chứng minh rằng: lực cơ học, nhiệt, ánh sáng, điện, từ các quá trình hóa học, nghĩa là các
hình thức khác nhau của vận động vật chất không tách rời nhau, mà liên hệ và chuyển hóa lẫn nhau nên
không hề mất đi. Nó chứng minh rằng không có sự sinh ra và mất đi của năng lượng, mà chỉ có sự chuyển
hóa năng lượng từ dạng này sang dạng khác. Như vậy quy luật này là cơ sở khoa học tự nhiên cho quan
điểm biện chứng về thế giới.
Vào những năm 30 của thế kỷ XIX, khoa học tự nhiên đã phát minh ra học thuyết cấu tạo tế bào
của cơ thể sống. Học thuyết này bác bỏ quan niệm siêu hình về sự khác biệt tuyệt đối giữa thực vật và
động vật. Ngược lại, nó khẳng định sự thống nhất về nguồn gốc và hình thái giữa thực vật và động vật,
giải thích quá trình phát triển của chúng, đặt cơ sở cho quan điểm duy vật biện chứng về sự phát triển của
toàn hệ sinh học.
Phát minh lớn thứ ba là học thuyết tiến hóa của sinh giới ra đời vào những năm 50 của thế kỷ
XIX. Học thuyết tiến hóa chứng minh rằng sinh giới không phải là bất biến mà thường xuyên biến đổi,
nằm trong quá trình tiến hóa không ngừng của giới tự nhiên. Nó khẳng định sự tiến hóa của sinh giới diễn
ra theo con đường chọn lọc tự nhiên và chọn lọc nhân tạo. Lênin đánh giá rằng thuyết tiến hóa đánh dấu
sự cáo chung của quan niệm siêu hình về tính bất biến của các loài và quan niệm về nguồn gốc thần thánh
của sinh giới đem lại cơ sở thật sự khoa học cho sinh học. Mác và Ăngghen xác nhận rằng thuyết tiến hóa
đem lại cái cơ sở lịch sử tự nhiên cho học thuyết của hai ông, đã đập tan thần học trong học thuyết về sự
phát triển của thực vật và động vật; rằng trước đó chưa hề có một sự chứng minh nào thành công to lớn
như thế về sự phát triển lịch sử trong giới tự nhiên.
Như vậy, những thành tựu của khoa học tự nhiên nửa đầu thế kỷ XIX cũng là tiền đề cho các
quan điểm duy vật và biện chứng về thế giới của Mác và Ăngghen.
Câu 4: Vì sao nói sự ra đời của triết học Mác là bước ngoặt cách mạng trong lịch sử triết học?
Khái quát hiện thực xã hội, kinh nghiệm của phong trào công nhân và những thành tựu của khoa
học tự nhiên, nghiên cứu có phê phán những tư tưởng triết học trước đó, Mác và Ăngghen đã sáng tạo ra
triết học của mình, thực hiện một bước ngoặt cách mạng trong lịch sử triết học. Điều đó thể hiện ở những
nội dung sau đây:
- Triết học Mác ra đời lần đầu tiên đem lại cho giai cấp vô sản một hệ tư tưởng; một lý luận dẫn
đường thực hiện bước giải phóng giai cấp vô sản về mặt tinh thần. Mác cho rằng, nếu trái tim của sự giải

phóng nhân loại là giai cấp vô sản, thì khối óc sự giải phóng đó là triết học của giai cấp vô sản, là thế giới
quan của nó. Triết học Mác là vũ khí lý luận chung cấp cho giai cấp vô sản những công cụ nhận thức và
cải tạo thế giới, cho nên Mác viết: “giống như triết học tìm thấy ở giai cấp vô sản là một vũ khí vật chất,
giai cấp vô sản tìm thấy ở triết học là một vũ khí tinh thần”. Như vậy, với sự ra đời ở triết học Mác, phong
trào vô sản đã có một bước ngoặt, từ chỗ là một phong trào tự phát, chưa có lý luận, bị lệ thuộc vào tư
tưởng, nó trở thành một phong trào tự giác, có lý luận và độc lập về tư tưởng.

5


- Với sự ra đời của triết học Mác, lần đầu tiên thực tiễn trở thành phạm trù trung tâm của triết
học. Điều đó làm biến đổi tận gốc vai trò xã hội của triết học và khắc phục được những thiếu sót căn bản
của triết học trước kia. Trung tâm chú ý của triết học Mác không chỉ là giải thích, mà còn và chủ yếu là
vạch ra con đường, những phương tiện cải tạo thế giới bằng thực tiễn cách mạng. Đối với triết học Mác
thì thực tiễn có vai trò quyết định mọi sự phát triển xã hội, khoa học và cả triết học. Không một nhà triết
học nào trước Mác hiểu được vai trò quyết định của thực tiễn đối với lý luận và đối với toàn bộ lịch sử
nhân loại. Vì hạn chế đó, các nhà duy vật trước Mác đã rơi vào quan điểm duy tâm siêu hình khi đề cập
đến những vấn đề xã hội. Chủ nghĩa duy tâm phản ánh lợi ích của giai cấp thống trị bảo thủ, cho nên nó
xa rời thực tiễn, tách khỏi hiện thực, làm cho quần chúng không thấy được những cơ sở vật chất của các
quan hệ bóc lột.
Chỉ ra vai trò quyết định của thực tiễn, Mác và Ăngghen cũng luôn nhấn mạng vai trò to lớn của
hoạt động tinh thần, của lý luận. Vì vậy hai ông đã phát triển học thuyết cân đối về mối liên hệ giữa lý
luận cách mạng và thực tiễn cách mạng. Lý luận cách mạng có vai trò chỉ đạo thực tiễn, làm cho thực tiễn
từ tự phát thành thực tiễn cách mạng, tự giác. Khi lý luận cách mạng thâm nhập vào quần chúng sẽ đem
lại cho họ những hiểu biết quy luật của đời sống xã hội, hướng dẫn họ thực hiện một cách tự giác những
nhiệm vụ của cuộc đấu tranh thực tiễn, lúc đó trở thành sức mạnh vật chất.
Là thế giới quan và phương pháp luận của giai cấp vô sản, triết học Mác có sự thống nhất sâu sắc
giữa tính Đảng, tính cách mạng và tính khoa học. Triết học Mác là sự phản ánh lợi ích của giai cấp vô sản
và nhân dân lao động; đồng thời nó là lý luận cho cuộc đấu tranh của họ nhằm xóa bỏ mọi chế độ người
bóc lột người, đưa nhân loại lên chủ nghĩa cộng sản. Đó là tính Đảng, tính cách mạng của triết học Mác

không đối lập với tính khoa học của nó. Khi phản ánh lợi ích của giai cấp vô sản và phục vụ cho cuộc đấu
tranh vì chủ nghĩa cộng sản, triết học Mác phản ánh đúng yêu cầu và những quy luật khách quan của lịch
sử.
Sự ra đời của triết học Mác cũng là sự sáng lập chủ nghĩa duy vật biện chứng và phép biện chứng
duy vật. Đây là những hình thức cao của chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng, khắc phục những thiếu
sót căn bản của triết học trước kia. Trước Mác chủ nghĩa duy vật thì siêu hình, còn phép biện chứng thì lại
gắn với lập trường duy tâm, như vậy chúng tách rời, thậm chí đối lập nhau, chỉ khi triết học Mác ra đời
mới có sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng, tạo ra một triết học phát triển cao hơn
về chất so với trước đó.
- Sự ra đời triết học Mác cũng là sự sáng lập ra chủ nghĩa duy vật lịch sử. Đây là biểu hiện rõ rệt
nhất của cuộc cách mạng triết học do Mác và Ăngghen thực hiện. Chỉ khi chủ nghĩa duy vật lịch sử xuất
hiện thì chủ nghĩa duy vật nói chung mới trở thành triệt để. Nó không chỉ khắc phục lập trường duy tâm
về xã hội trong triết học trước đó, mà còn là cơ sở lý luận về phương pháp luận khoa học cho toàn bộ xã
hội học, cho hoạt động thực tiễn cách mạng của giai cấp công nhân và đảng của nó.
- Sự ra đời triết học Mác làm thay đổi căn bản tính chất của triết học, đối tượng và mối quan hệ
của nó với các khoa học khác. Truyền thống trước đó, triết học được coi là khoa học của mọi khoa học,
hòa lẫn hoặc tách rời với các khoa học cụ thể khác. Triết học Mác không hòa lẫn vào các khoa học cụ thể
mà cũng không tách rời chúng. Trong sự hình thành và phát triển của mình, triết học Mác không chỉ dựa
trên sự khái quát thực tiễn xã hội, mà còn dựa trên sự khái quát của những thành tựu khoa học cụ thể (cả
tự nhiên và xã hội). Khoa học cụ thể cung cấp những tài liệu hết sức phong phú cho triết học Mác nghiên
cứu các quy luật chung nhất của hiện thực khách quan. Đồng thời triết học Mác cung cấp những hiểu biết
về các quy luật chung nhất của hiện thực khách quan sẽ giúp cho các khoa học cụ thể nghiên cứu có hiệu
quả các quy luật đặc thù.
Câu 5: Phân tích định nghĩa vật chất của V.I.Lênin và ý nghĩa khoa học của định nghĩa này.
Tiếp thu tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, trên cơ sở khái quát những thành tựu mới nhất của
khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, về mặt triết học trên cơ sở phê phán những quan
điểm duy tâm và siêu hình về vật chất, Lênin đã đưa ra định nghĩa về vật chất như sau:
* Nội dung định nghĩa vật chất của V.I.Lênin:
“Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người
trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào

cảm giác” (V.I.Lênin toàn tập, T.18, NXB Tiến bộ, Matxcơva, 1980, tr.151).
* Phân tích định nghĩa vật chất của V.I.Lênin:
Trong định nghĩa trên, chúng ta cần phân tích những nội dung chủ yếu sau đây:
a. “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan…”

6


- “Vật chất” là một phạm trù khái quát nhất, rộng nhất của lý luận nhận thức.
+ Phạm trù vật chất phải được xem xét dưới góc độ của triết học, chứ không phải dưới góc độ của
các khoa học cụ thể. Điều này sẽ giúp chúng ta tránh được sai lầm khi đồng nhất phạm trù vật chất trong
triết học với các khái niệm vật chất thường dùng trong các khoa học cụ thể hoặc đời sống hằng ngày.
+ Không thể định nghĩa phạm trù vật chất theo phương pháp thông thường. Về mặt nhận thức
luận, Lênin chỉ có thể định nghĩa phạm trù vật chất trong quan hệ với phạm trù đối lập của nó, đó là phạm
trù ý thức (phương pháp định nghĩa thông qua cái đối lập với nó). (Xem thêm chương khái niệm ở giáo
trình Lôgic hình thức)
Khi định nghĩa vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan, Lênin đã bỏ
qua những thuộc tính riêng lẻ, cụ thể, nhiều màu, nhiều vẻ của các sự vật, hiện tượng, mà nêu bật đặc tính
cơ bản nhất, phổ biến nhất có ở tất cả các sự vật, hiện tượng trong thế giới hiện thực khách quan. Đó là
đặc tính “tồn tại với tư cách là thực tại khách quan”, tồn tại ở ngoài ý thức con người và độc lập với ý
thức. Đặc tính này là dấu hiệu cơ bản để phân biệt vật chất với cái không phải là vật chất.
- Tính trừu tượng của phạm trù vật chất: Phạm trù vật chất khái quát đặc tính chung nhất của mọi
khách thể vật chất xét trong quan hệ với ý thức nên về hình thức nó là cái trừu tượng. Vì thế, không được
đồng nhất vật chất với các dạng cụ thể của nó giống như quan niệm của các nhà duy vật trước Mác.
b. Thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác.
Trong phần này, Lênin đã giải quyết được những điều sau đây:
- Thứ nhất, Lênin đã giải quyết được mối quan hệ giữa tính trừu tượng và tính hiện thực cụ thể
cảm tính của phạm trù vật chất. Vật chất không phải tồn tại vô hình, thần bí mà tồn tại một cách hiện
thực, được biểu hiện cụ thể dưới dạng các sự vật, hiện tượng cụ thể mà các giác quan của chúng ta có thể
nhận biết một cách trực tiếp hay gián tiếp.

- Thứ hai, Lênin đã giải quyết được mặt thứ nhất của vấn đề cơ bản triết học trên lập trường của
chủ nghĩa duy vật biện chứng. Thực tại khách quan đưa lại cảm giác cho con người, chứ không phải cảm
giác (ý thức) sinh ra thực tại khách quan. Điều đó có nghĩa là, vật chất là cái có trước và đóng vai trò
quyết định, nội dung khách quan của ý thức.
c. Thực tại khách quan được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không
lệ thuộc vào cảm giác.
Đến đây, Lênin đã khẳng định rằng con người có khả năng nhận thức được thế giới hiện thực
khách quan. Tức là Lênin đã giải quyết được mặt thứ hai của vấn đề cơ bản triết học trên lập trường của
chủ nghĩa duy vật biện chứng.
* Ý nghĩa của định nghĩa vật chất của V.I.Lênin:
- Giải quyết một cách đúng đắn vấn đề cơ bản của triết học trên lập trường chủ nghĩa duy vật và
biện chứng.
- Khắc phục được những quan niệm trực quan, siêu hình, máy móc về vật chất của chủ nghĩa duy
vật trước Mác và những biến tướng của nó trong trào lưu triết học tư sản hiện đại.
- Chống lại tất cả các quan điểm duy tâm và tạo ra căn cứ vững chắc để nghiên cứu xã hội.
- Khẳng định thế giới vật chất là khách quan và vô cùng, vô tận, luôn luôn vận động và phát triển
không ngừng nên nó đã có tác dụng định hướng, cổ vũ các nhà khoa học khi sâu vào nghiên cứu thế giới
vật chất, để ngày càng làm phong phú thêm kho tàng tri thức của nhân loại.
Câu 6: Phân tích nguồn gốc và bản chất của ý thức?
Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, ý thức của con người là sản phẩm của quá trình phát triển tự
nhiên và lịch sử-xã hội. Do đó, muốn hiểu được nguồn gốc và bản chất của ý thức, cần phải xem xét trên
cả mặt tự nhiên và xã hội.
I. Nguồn gốc ý thức:
1. Nguồn gốc tự nhiên:
a. Ý thức là thuộc tính phản ánh của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ não người.
- Phản ánh là thuộc tính chung của vật chất. Phản ánh đó là năng lực giữ lại, tái hiện lại của hệ
thống vật chất này những đặc điểm của hệ thống vật chất khác và ngược lại. Nó được thực hiện trong sự
tác động qua lại giữa các hệ thống vật chất.

7



- Thuộc tính phản ánh của vật chất có quá trình phát triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức
tạp, từ chưa hoàn chỉnh đến ngày càng hoàn thiện hơn.
+ Phản ánh của giới vô sinh. Phản ánh này đơn giản, thụ động, không có chọn lọc.
+ Trên cơ sở phản ánh của thế giới vô sinh xuất hiện một hình thức phản ánh mới cao hơn về
chất, đó là phản ánh của giới hữu sinh. Hình thức phản ánh này gắn liền với quá trình chuyển hóa từ giới
vô sinh qua giới hữu sinh. Hình thức này có quá trình phát triển lâu dài từ thấp đến cao: kích thích, cảm
ứng, tâm lý sơ cấp của động vật và cùng với quá trình vượn biến thành người, phản ánh của động vật cấp
cao chuyển hóa thành phản ánh ý thức của con người.
Như vậy, ta thấy rằng các dạng vật chất có trình độ tiến hóa càng cao thì sự phản ánh càng cao; ý
thức chỉ xuất hiện cùng với sự xuất hiện dạng vật chất có tổ chức cao là bộ não của con người, chứ không
phải với mọi dạng vật chất; ý thức chỉ là thuộc tính phản ánh của vật chất, do đó, không được đồng nhất
vật chất với ý thức và cũng không được tách ý thức ra khỏi vật chất.
b. Khách thể vật chất bên ngoài
Bộ não con người với tư cách là hệ thống phản ánh. Vì vậy, muốn có ý thức thì phải có sự tác
động của khách thể vật chất bên ngoài vào bộ não của con người.
Thế nhưng, tại sao con vật cũng có sự tác động của khách thể vật chất bên ngoài lên bộ não của
nó mà lại không có ý thức? Sở dĩ như vậy là vì khác với tâm lý động vật, ý thức con người ngoài nguồn
gốc tự nhiên còn có nguồn gốc xã hội.
2. Nguồn gốc xã hội.
Sự ra đời của ý thức gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của bộ não con người dưới
ảnh hưởng của lao động và ngôn ngữ.
a. Lao động:
- Lao động là phương thức tồn tại cơ bản đầu tiên của con người, là hoạt động đặc thù của con
người, làm cho con người khác với tất cả các động vật khác.
+ Trong lao động, con người đã biết chế tạo ra các công cụ lao động và sử dụng các công cụ đó
để tạo ra của cải vật chất.
+ Lao động là hành động có mục đích, tác động vào thế giới khách quan nhằm thỏa mãn nhu cầu
của con người. Do đó, ý thức con người phản ánh một cách tích cực, chủ động và sáng tạo.

- Trong quá trình lao động, bộ não con người phát triển và ngày càng hoàn thiện, làm cho khả
năng tư duy trừu tượng của con người cũng ngày càng phát triển.
- Lao động ngay từ đầu đã liên kết mọi thành viên trong xã hội với nhau, làm nảy sinh ở họ nhu
cầu giao tiếp. Vì vậy, ngôn ngữ ra đời và không ngừng phát triển cùng với lao động.
b. Ngôn ngữ:
- Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu thứ hai, là “vỏ vật chất” của tư duy, là phương tiện, là công cụ để
con người giao tiếp trong xã hội, phản ánh khái quát sự vật, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và trao đổi
chúng giữa các thế hệ.
- Ý thức là một hiện tượng xã hội, do đó, nếu không có ngôn ngữ thì ý thức không thể hình thành
và phát triển được.
- Chính vì vậy, Ph.Ăngghen đã khẳng định rằng: “Sau lao động, đồng thời với lao động là ngôn
ngữ,.. đó là hai sức kích thích chủ yếu của sự chuyển biến bộ não của loài vật thành bộ não của con
người, tâm lý động vật thành ý thức” (Ph.Ăngghen: Biện chứng của tự nhiên, NXB Sự thật, Hà Nội,1974,
tr. 257)
II. Bản chất của ý thức:
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào
bộ não người thông qua hoạt động thực tiễn, nên bản chất của ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới
khách quan, là sự phản ánh sáng tạo, tích cực và chủ động về thế giới khách quan. Đó chính là sự khác
biệt rất cơ bản của ý thức con người so với tâm lý động vật và sự “suy nghĩ” của máy móc.
Phản ánh của ý thức là sáng tạo, vì nó bao giờ cũng do nhu cầu thực tiễn quy định. Song, sự sáng
tạo của ý thức là sự sáng tạo của sự phản ánh, trong khuôn khổ và theo tính chất của quy luật phản ánh.

8


Con người khác với động vật là thông qua hoạt động thực tiễn có mục đích, có định hướng, tác
động vào sự vật, hiện tượng trong thế giới, buộc chúng phải bộc lộ đặc tính, kết cấu, quy luật lao động để
phản ánh và nhận thức. Khi con người nhận thức được quy luật, thì con người vận dụng tri thức đó vào
việc cải biến thế giới khách quan nhằm phục vụ cho cuộc sống của mình.
Câu 7: Phân tích quan điểm của triết học Mác-Lênin về vận động của vật chất.

a. Vận động là gì?
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, vận động là mọi sự biến đổi nói chung.
b. Vận động là phương thức tồn tại của vật chất.
Vật chất chỉ có thể tồn tại bằng cách vận động và thông qua vận động mà nó biểu hiện sự tồn tại
của mình. Nói cách khác, không thể có vật chất mà không có vận động.
Vận động của vật chất là tự thân vận động. Vật chất không do ai sáng tạo ra và nó không thể bị
tiêu diệt, mà vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất, nên vận động cũng không do ai sáng tạo ra và
không thể bị tiêu diệt. Nếu một hình thức vận động nào đó của một sự vật nhất định mất đi thì tất yếu sẽ
nảy sinh một hình thức vận động khác thay thế, nghĩa là các hình thức vận động của vật chất chỉ chuyển
hóa lẫn nhau mà thôi, chứ vận động của vật chất thì vĩnh viễn tồn tại cùng với sự tồn tại vĩnh viễn của vật
chất.
c. Các hình thức vận động cơ bản của vật chất:
Dựa trên những thành tựu khoa học của thời đại mình, Ph.Ăngghen đã phân chia vận động thành
năm hình thức cơ bản: vận động cơ học, vận động lý học, vận động hóa học, vận động sinh học và vận
động xã hội. Vận động xã hội là hình thức có trình độ cao nhất.
Mỗi hình thức vận động nói trên, có trình độ cao thấp khác nhau. Do đó, chúng ta sẽ phạm sai
lầm nếu quy hình thức vận động cao vào hình thức vận động thấp và ngược lại.
Tuy có sự khác nhau về chất, nhưng giữa các hình thức vận động có sự liên hệ, tác động chuyển
hóa qua lại. Thông qua sự liên hệ, chuyển hóa phổ biến của mọi hình thức vận động trong vũ trụ mà vận
động vật chất được bảo toàn.
Những dạng vật chất phức tạp như cơ thể sống, xã hội loài người bao hàm nhiều hình thức vận
động trong sự liên hệ tác động qua lại, nhưng bao giờ cũng được đặc trưng bởi một hình thức vận động cơ
bản xác định. Ví dụ, trong cơ thể sống bao gồm các hình thức vận động cơ học, lý học, hóa học, sinh học,
song hình thức vận động sinh học là hình thức đặc trưng cơ bản quy định sự khác nhau giữa cơ thể sống
với những dạng vật chất khác.
d. Vận động và đứng im.
Trong khi coi vận động là thuộc tính bên trong vốn có của vật chất, chủ nghĩa duy vật không phủ
nhận sự đứng im, mà coi đứng im như một trường hợp riêng của vận động. Không có đứng im tương đối
thì không thể hình thành các sự vật, hiện tượng riêng lẻ, cụ thể.
Vận động là tuyệt đối, đứng im là tương đối. Đứng im là tương đối bởi vì:

- Hiện tượng đứng im chỉ xảy ra trong một quan hệ nhất định chứ không phải trong mọi quan hệ
cùng một lúc.
- Đứng im chỉ xảy ra đối với một hình thức vận động trong một lúc nào đó, chứ không phải đối
với tất cả mọi hình thức vận động trong cùng một lúc.
- Đứng im chỉ là biểu hiện của một trạng thái vận động: vận động trong thăng bằng, trong sự ổn
định tương đối, khi nó còn là nó mà chưa chuyển thành cái khác.
- Vận động tuyệt đối. Do đó, nó làm cho sự vật, hiện tượng không ngừng biến đổi, làm cho sự
đứng im tương đối luôn luôn bị phá vỡ. Đứng im chỉ là tạm thời vì: vận động cá biệt có xu hướng trở
thành cân bằng, vận động toàn bộ lại có xu hướng phá vỡ sự cân bằng riêng biệt đó.
Tóm lại, vận động là tuyệt đối, vĩnh viễn, đứng im là tương đối, tạm thời, vật chất không thể nào
tồn tại như thế nào khác ngoài cách vận động và vật chất đang vận động đó không thể vận động như thế
nào khác ngoài vận động trong không gian và thời gian, vật chất vận động là vô tận nên không gian và
thời gian vật chất cũng vô tận.

9


Câu 8: Phân tích quan điểm của triết học Mác-Lênin mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, từ đó rút
ra ý nghĩa phương pháp luận.
Khi bàn đến vấn đề này, chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định:
1. Vật chất có trước ý thức, sinh ra ý thức và quyết định ý thức:
- Vật chất tồn tại khách quan và không phụ thuộc vào ý thức, còn ý thức là thuộc tính phản ánh
của một dạng vật chất có tổ chức cao (bộ óc người).
- Vật chất là nguồn gốc, động lực và mục đích của ý thức.
- Trong đời sống xã hội thì tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội.
Khi khẳng định vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức, chủ nghĩa duy vật biện chứng đồng
thời cũng vạch rõ sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất.
2. Ý thức có tính độc lập tương đối, tác động trở lại đối với vật chất.
- Sự phản ánh của ý thức là sự phản ánh tích cực, chủ động và sáng tạo.
- Sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động thực tiễn.

- Sự tác động của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai khuynh hướng:
+ Khi ý thức phản ánh đúng quy luật khách quan thì nó đóng vai trò thúc đẩy sự vận động và phát
triển của thế giới hiện thực khách quan. Trong trường hợp này ý thức giúp cho con người xác định đúng
đắn mục tiêu, phương hướng, biện pháp tổ chức hoạt động thực tiễn một cách có hiệu quả.
+ Khi ý thức phản ánh không đúng quy luật khách quan thì lúc này nó sẽ làm kìm hãm sự vận
động và phát triển của những điều kiện vật chất nhất định.
Hiệu quả của sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất thuộc vào các điều kiện sau:
+ Những điều kiện vật chất cần thiết cho ý thức đó thực hiện.
+ Trình độ phản ánh của ý thức đó đối với vật chất, nếu ý thức phản ánh càng đầy đủ, càng chính
xác bao nhiêu thì hiệu quả tác động của nó càng cao bấy nhiêu.
+ Mức độ xâm nhập của ý thức đó vào trong quần chúng nhân dân, mức độ xâm nhập của ý thức
càng lớn thì hiệu quả tác động của nó càng cao.
3. Ý nghĩa phương pháp luận:
- Nếu vật chất là nguồn gốc khách quan, là cơ sở sản sinh ra ý thức; còn ý thức là sản phẩm, là sự
phản ánh thế giới khách quan thì trong nhận thức và hành động, con người phải xuất phát từ hiện thực
khách quan, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan, chống lại chủ nghĩa chủ quan duy ý chí.
- Ý thức có tính độc lập tương đối, tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn. Do đó,
cần phải phát huy tính tích cực của ý thức đối với vật chất bằng cách nâng cao năng lực nhận thức các
quy luật khách quan và vận động chúng vào trong hoạt động thực tiễn của con người. Sức mạnh ý thức
của con người không phải ở chỗ tách rời điều kiện vật chất mà là biết dựa vào đó, phản ánh đúng quy luật
khách quan để cải tạo thế giới khách quan.
- Chúng ta phải chống lại bệnh chủ quan duy ý chí cũng như thái độ tiêu cực, thụ động.
Xuất phát từ ý nghĩa đó, Đảng ta đã chỉ rõ một trong những điều kiện cơ bản để đảm bảo sự lãnh
đạo đúng đắn của mình là phải “luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật
khách quan”, (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà
Nội. 1986, tr.30)
Câu 9: Phân tích nội dung của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và rút ra ý nghĩa phương pháp
luận
- Phép siêu hình không thừa nhận mối liên hệ phổ biến của thế giới. Theo quan điểm này, sự vật
hiện tượng trong thế giới về cơ bản không có sự liên hệ, ràng buộc, quy định lẫn nhau. Cho nên đối với

phép siêu hình, thế giới chỉ là một tập hợp rời rạc các sự vật cô lập nhau. Cách nhìn ấy không cho phép
chúng ta vạch ra cái chung, cái bản chất và quy luật của các sự vật hiện tượng.
- Trái với quan điểm siêu hình, phép biện chứng duy vật thừa nhận mối liên hệ phổ biến của các
sự vật, hiện tượng trong thế giới và coi đó là nguyên lý cơ bản của nó. Khái niệm liên hệ nói lên sự quy
định, ảnh hưởng, ràng buộc, tác động và chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng và quá trình.
Phép biện chứng duy vật phát biểu rằng: mọi sự vật, hiện tượng quá trình muôn vẻ trong thế giới đều tồn

10


tại trong mối liên hệ phổ biến với nhau, không có cái gì tồn tại biệt lập với cái khác. Điều đó là dễ hiểu, vì
vật chất tồn tại thông qua vận động, mà vận động cũng là liên hệ. Ăngghen viết: “tất cả thế giới mà chúng
ta có thể nghiên cứu được, là một hệ thống, một tập hợp các vật thể khăng khít với nhau… Việc các vật
thể có liên hệ qua lại với nhau đã có ý nghĩa là các vật thể này tác động lẫn nhau và sự tác động qua lại ấy
chính là sự vận động”.
Như vậy phép biện chứng duy vật thừa nhận liên hệ diễn ra trong mọi lĩnh vực, mọi sự vật và quá
trình của hiện thực, nó có tính khách quan, xuất phát từ tính thống nhất vật chất của thế giới. Phép biện
chứng duy vật cũng chỉ ra rằng, liên hệ của thế giới rất đa dạng, bởi thế giới bao gồm vô số sự vật hiện
tượng muôn vẻ khác nhau. Tùy theo tính chất, vai trò, phạm vi của liên hệ mà người ta phân thành nhiều
loại: liên hệ bên trong và liên hệ bên ngoài, liên hệ cơ bản và không cơ bản, liên hệ không gian và thời
gian, liên hệ trực tiếp và gián tiếp… Sự phân loại các liên hệ này chỉ có ý nghĩa tương đối, bởi vì mỗi loại
liên hệ chỉ là một hình thức, một bộ phận, một mắt khâu của mối liên hệ phổ biến của thế giới xét như
một chỉnh thể. Tuy nhiên, sự phân loại các liên hệ là cần thiết, vì rằng vị trí của từng mối liên hệ trong
việc quy định sự vận động, phát triển của sự vật và hiện tượng không như nhau.
Sự phân loại các liên hệ còn là cơ sở để xác định phạm vi nghiên cứu của phép biện chứng duy
vật và của các ngành khoa học cụ thể. Những hình thức riêng biệt, cụ thể của từng mối liên hệ thuộc
phạm vi nghiên cứu của từng ngành khoa học cụ thể, còn phép biện chứng duy vật nghiên cứu những mối
liên hệ chung nhất, phổ biến nhất của thế giới. Vì thế, Ăngghen viết: “phép biện chứng là khoa học về
mối liên hệ phổ biến”.
- Nghiên cứu nguyên lý về mối liên hệ phổ biến có ý nghĩa phương pháp luận to lớn đối với hoạt

động nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Nếu các sự vật, hiện tượng trong thế giới đều tồn tại trong mối liên hệ phổ biến và nhiều vẻ, thì
muốn nhận thức và tác động vào chúng, phải có quan điểm toàn diện, khắc phục quan điểm phiến diện,
một chiều. Quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta khi phân tích sự vật phải đặt nó trong mối liên hệ với sự
vật hiện tượng khác; phải xem xét tất cả các mặt, các yếu tố, kể cả khâu trung gian, gián tiếp của chúng.
Chỉ có như vậy, chúng ta mới nắm bắt được một cách đầy đủ bản chất của sự vật, tránh được những kết
luận phiến diện chủ quan, vội vàng.
Tuy nhiên quan điểm toàn diện không có nghĩa là cách xem xét cào bằng, tràn lan mà phải thấy
được tính chất, vị trí của từng mối liên hệ, từng mặt, từng yếu tố trong tổng thể của chúng. Như vậy, quan
điểm toàn diện bao hàm quan điểm lịch sử cụ thể. Quan điểm này đòi hỏi, phải xét sự vật trong từng liên
hệ cụ thể của nó, gắn với những tính chất, vị trí cụ thể của mối liên hệ cụ thể đó; phải biết phân loại các
liên hệ của sự vật để nắm lấy cái cơ bản, cái có tính quy luật của nó; đồng thời phải xét cả những điều
kiện cụ thể của sự vật trong đó xuất hiện từng liên hệ quy định từng tính chất và xu hướng cụ thể của nó.
Từ đó mà tìm ra những phương thức cụ thể để tác động đến sự vật.
Câu 10: Phân tích nội dung của nguyên lý về sự phát triển và rút ra ý nghĩa phương pháp luận
- Trong phép biện chứng duy vật, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến thống nhất hữu cơ với
nguyên lý về sự phát triển, bởi vì liên hệ tức là vận động, mà không có vận động thì không có sự phát
triển. Nhưng “vận động” và “phát triển” là hai khái niệm khác nhau. Khái niệm “vận động” khái quát mọi
sự biến đổi nói chung, không tính đến xu hướng và kết quả của những biến đổi ấy như thế nào. Sự vận
động diễn ra không ngừng trong thế giới và có nhiều xu hướng.
Khái niệm “phát triển” không khái quát mọi sự biến đổi nói chung; nó chỉ là khái quát những vận
động đi lên, cái mới ra đời thay thế cho cái cũ. Tiêu chuẩn để xác định sự phát triển là có xuất hiện “cái
mới” trong những biến đổi của sự vật hiện tượng. Sự phát triển trong thế giới theo các chiều hướng cơ
bản sau: phát triển về trình độ (từ thấp đến cao), phát triển về cấu trúc (từ đơn giản đến phức tạp), phát
triển về bản chất (từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn). Sự phân biệt đó về các chiều hướng chỉ là
tương đối, một sự phát triển thường bao hàm cả các chiều hướng này.
- Phép biện chứng duy vật khẳng định rằng sự phát triển, đổi mới là hiện tượng diễn ra không
ngừng trong tự nhiên, trong xã hội và trong tư duy, mà nguồn gốc của nó là cuộc đấu tranh giữa các mặt
đối lập trong bản thân sự vật và hiện tượng. Nhưng không nên hiểu sự phát triển bao giờ cũng diễn ra một
cách đơn giản, theo đường thẳng. Xét từng trường hợp cá biệt, thì có những vận động đi lên, tuần hoàn,

thậm chí đi xuống, nhưng xét cả quá trình, trong phạm vi rộng lớn thì vận động đi lên là khuynh hướng
thống trị. Khái quát tình hình trên đây, phép biện chứng duy vật khẳng định rằng, phát triển là khuynh
hướng chung của sự vận động của sự vật và hiện tượng.
- Quan điểm biện chứng xác định nguồn gốc bên trong của mọi sự phát triển. Cho nên thế giới
phát triển là tự thân phát triển, là quá trình bao hàm mâu thuẫn và thường xuyên giải quyết mâu thuẫn,

11


vừa liên tục vừa có gián đoạn; là quá trình bao hàm sự phủ định cái cũ và ra đời cái mới. Sự phát triển
như là vận động đi lên ra đời cái mới, nhưng cái mới không đoạn tuyệt với cái cũ mà kế thừa tất cả những
gì tích cực của cái cũ. Tất cả những điều đó nói lên tính chất phức tạp của sự phát triển, nhưng bao giờ
cũng theo khuynh hướng đi lên.
- Đối lập với quan điểm trên đây của phép biện chứng; phép siêu hình nói chung phủ nhận sự
phát triển, tuyệt đối hóa tính ổn định của các sự vật hiện tượng. Nếu có thừa nhận sự phát triển, thì phép
siêu hình cho rằng đó chỉ là sự tăng giảm về lượng, sự lặp lại mà không có chuyển hóa về chất, không có
sự ra đời cái mới thay thế cho cái cũ. Lênin nhận xét rằng, quan niệm siêu hình là cứng nhắc, nghèo nàn,
khô khan, chỉ có quan niệm biện chứng là sinh động, mới cho ta chìa khóa của “sự tự vận động” của tất
thảy mọi cái đang tồn tại, của những “bước nhảy vọt” và “sự gián đoạn của tính tiệm tiến”, của sự
“chuyển hóa thành mặt đối lập”, của “sự tiêu diệt cái cũ và sự nảy sinh ra cái mới”. Cũng vì vậy mà ông
nhấn mạnh rằng, phép biện chứng là học thuyết “hoàn bị nhất, sâu sắc nhất và không phiến diện về sự
phát triển”.
- Nghiên cứu nguyên lý về sự phát triển, giúp cho chúng ta nhận thức rằng, muốn thực sự nắm
được bản chất của sự vật hiện tượng, nắm được quy luật và xu hướng của chúng phải có quan điểm phát
triển, khắc phục tư tưởng bảo thủ trì trệ.
Quan điểm này yêu cầu khi phân tích sự vật phải xét nó như một quá trình; đặt nó trong sự vận
động, sự phát triển mới nắm được quy luật và những xu hướng của nó. Quan điểm phát triển còn bao hàm
yêu cầu xét sự vật trong từng giai đoạn cụ thể của nó nhưng không được tách rời với các giai đoạn khác
mà phải liên hệ chúng với nhau mới có thể nắm được logic của toàn bộ tiến trình vận động sự vật. Quan
điểm phát triển cũng đòi hỏi tinh thần lạc quan tích cực trong thực tiễn, khắc phục mọi sụ trì trệ bảo thủ.

Câu 11: Phân tích nội dung quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập - ý nghĩa phương
pháp luận của việc nghiên cứu quy luật này trong hoạt động thực tiễn.
I. Nội dung quy luật:
- Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập (còn gọi là quy luật mâu thuẫn) là quy luật
quan trọng nhất của phép biện chứng duy vật, là “hạt nhân của phép biện chứng”. Bởi vì nó vạch ra nguồn
gốc, động lực bên trong của sự vận động và phát triển.
- Khái quát nội dung quy luật:
Mọi sự vật, hiện tượng đều bao hàm mâu thuẫn bên trong. Mỗi sự vật, hiện tượng đều là thống
nhất của các mặt, các thuộc tính, các khuynh hướng đối lập nhau. Chính sự đấu tranh của các mặt đối lập
đó làm cho sự vật, hiện tượng vận động, phát triển.
- Phân tích nội dung quy luật:
1. Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan và phổ biến.
- “Mặt đối lập”?
Mặt đối lập là những mặt có khuynh hướng thay đổi, phát triển chống đối nhau, trái ngược nhau
trong một chỉnh thể làm nên sự vật hiện tượng.
Mỗi sự vật, hiện tượng có thể có nhiều yếu tố, nhiều mặt,.. cấu thành, nhưng có hai mặt đối lập cơ
bản thống nhất với nhau quyết định kết cấu tạo thành sự vật, hiện tượng.
-“Mâu thuẫn”?
“Mâu thuẫn” là khái niệm để chỉ sự liện hệ và tác động lẫn nhau của các mặt đối lập trong một sự
vật, hiện tượng nhất định.
Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan, vì mâu thuẫn tồn tại trong bản thân sự vật, hiện tượng.
Mâu thuẫn tồn tại phổ biến trong tự nhiên, xã hội và tư duy (mâu thuẫn trong tư duy là sự phản
ánh mâu thuẫn của hiện thực khách quan).
2. Mâu thuẫn là một chỉnh thể, trong đó hai mặt đối lập vừa thống nhất vừa đấu tranh với
nhau.
- Trong một mâu thuẫn, hai mặt đối lập vừa có quan hệ thống nhất với nhau, vừa đấu tranh lẫn
nhau.
- Khái niệm “thống nhất” trong quy luật biểu hiện: Các mặt đối lập liên hệ ràng buộc với nhau,
quy định lẫn nhau và làm tiền đề tồn tại của nhau.


12


Khái niệm “thống nhất” trong quy luật này còn được hiểu là sự “đồng nhất”, nghĩa là cũng thừa
nhận trạng thái ổn định của mối liên hệ của các mặt đối lập. Đồng thời cũng thừa nhận sự chuyển hóa lẫn
nhau của các mặt đối lập.
- Khái niệm “đấu tranh” của các mặt đối lập có nghĩa là các mặt đối lập bài trừ lẫn nhau, phủ định
lẫn nhau. Sự đấu tranh của các mặt đối lập là một quá trình phức tạp. Quá trình đó có thể chia ra nhiều
giai đoạn. Mỗi giai đoạn lại có những đặc điểm riêng của nó. (Xem S.1)

Hệ thống sự vật,
hiện tượng mới

Chuyến hóa

Khuynh
hướng
phát
triển

Đối lập

Các
giai
đoạn
phát
triển

Sự khác nhau
căn bản

Sự vật, hiệ
n tượ
(hệ thống cũ)
Sự
kháncgnhau

S.1 Quá trình phát triển của một mâu thuẫn.
- Về mối quan hệ giữa thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, Lênin viết: “Sự thống nhất
(phù hợp, đồng nhất, tác dụng ngang nhau) của các mặt đối lập là có điều kiện, tạm thời, thoáng qua,
tương đối. Sự đấu tranh của các mặt đối lập bài trừ lẫn nhau là tuyệt đối, cũng như sự phát triển sự vận
động là tuyệt đối” (V.I.Lênin toàn tập, T.29, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1981, tr.379 - 380). Sự thống nhất
của các mặt đối lập có tính chất tạm thời, thoáng qua, tương đối, cũng như trạng thái đứng im của sự vật,
bởi vì mọi sự vật, hiện tượng cụ thể đều có quá trình phát sinh, phát triển và tiêu vong để nhường chỗ cho
các sự vật, hiện tượng khác cao hơn, hoàn thiện hơn, mới hơn về chất ra đời.
Đấu tranh của các mặt đối lập là tuyệt đối vì: trong mọi sự vật hiện tượng đều có mâu thuẫn và
mâu thuẫn quán xuyến từ đầu đến cuối quá trình phát triển của sự vật. Tính tuyệt đối của sự đấu tranh của
các mặt đối lập nói lên sự vận động, sự biến đổi liên tục của sự vật, hiện tượng. Đấu tranh của các mặt đối
lập là điều kiện quan trọng nhất, có tính quyết định đối với sự chuyển hóa của các mặt đối lập.
- Đấu tranh của các mặt đối lập là nguồn gốc, động lực bên trong của sự vận động và phát triển
của sự vật, hiện tượng.
3. Sự chuyển hóa của các mặt đối lập.
- Sự chuyển hóa của các mặt đối lập là kết quả của quá trình đấu tranh của các mặt đối lập.
- Sự chuyển hóa của các mặt đối lập được thực hiện ở giai đoạn chín muồi của mâu thuẫn. Sự
chuyển hóa diễn ra dưới nhiều hình thức và tùy thuộc vào những điều kiện cụ thể.

13


Hai hình thức khái quát nhất của sự chuyển hóa là:
+ Các mặt đối lập chuyển sang mặt đối lập của chính mình.

+ Các mặt đối lập cũ bị xóa bỏ và hình thành các mặt đối lập mới trong sự vật mới.
4. Phân loại mâu thuẫn
Thế giới phong phú, đa dạng và phức tạp, nhưng nhìn chung có 4 loại mâu thuẫn cơ bản:
Mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài: Mâu thuẫn bên trong là mâu thuẫn giữa các mặt,
các yếu tố, các thuộc tính, các quá trình cấu thành nên sự vật, hiện tượng. Mâu thuẫn này giữ vai trò quyết
định sự vận động, phát triển của sự vật hiện tượng. Mâu thuẫn bên ngoài là mâu thuẫn giữa các sự vật
hiện tượng, hoặc giữa các mặt, các yếu tố, các thuộc tính, các quá trình giữa sự vật, hiện tượng với nhau.
Mâu thuẫn này không giữ vai trò quyết định sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Nó chỉ có tác
dụng ảnh hưởng khi liên hệ được với mâu thuẫn bên trong.
Mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản: Mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn phát sinh, hình
thành, tồn tại cùng sự phát sinh, hình thành, tồn tại của vật, hiện tượng và giữ vai trò quyết định sự vận
động, phát triển của sự vật hiện tượng. Mâu thuẫn không cơ bản là mâu thuẫn phát sinh, hình thành, tồn
tại cùng sự phát sinh, hình thành, tồn tại của vật, hiện tượng và không giữ vai trò quyết định mà chỉ ảnh
hưởng nhất định đến sự vận động, phát triển của sự vật hiện tượng.
Mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn không chủ yếu: Mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn nổi lên hàng
đầu và giữ vai trò quyết định sự vận động, phát triển của sự vật hiện tượng ở mỗi giai đoạn phát triển.
Mâu thuẫn không chủ yếu là mâu thuẫn phát sinh và không giữ vai trò quyết định nhưng gây ảnh hưởng
nhất định đến sự vận động, phát triển của sự vật hiện tượng ở mỗi giai đoạn phát triển.
Mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng (loại mâu thuẫn này chỉ có trong lĩnh vực
đời sống xã hội): Mâu thuẫn đối kháng là mâu thuẫn giữa các giai cấp có lợi ích cơ bản đối lập nhau. Mâu
thuẫn này chỉ được giải quyết thông qua cách mạng xã hội. Mâu thuẫn không đối kháng là mâu thuẫn
giữa các giai tầng có lợi ích cơ bản không đối lập nhau. Mâu thuẫn này được giải quyết bằng phương
pháp hòa bình thông qua giáo dục và đổi mới xã hội.
II. Ý nghĩa phương pháp luận:
- Quy luật mâu thuẫn đem lại phương pháp khoa học cho việc xem xét và giải quyết các vấn đề:
phương pháp phân tích và giải quyết mâu thuẫn.
- Phải thừa nhận tính khách quan của mâu thuẫn. Yêu cầu này đòi hỏi chúng ta, muốn nắm được
bản chất của sự vật, hiện tượng cần phải biết phân tích các mặt đối lập của mâu thuẫn.
- Phải biết phân tích cụ thể một mâu thuẫn cụ thể và phải có biện pháp cụ thể để giải quyết đối
với từng loại mâu thuẫn.

- Phải nắm vững nguyên tắc giải quyết mâu thuẫn: Bất kỳ mâu thuẫn nào, bất kỳ giai đoạn nào
của mâu thuẫn, cũng chỉ được giải quyết bằng con đường đấu tranh giữa các mặt đối lập, chứ không phải
bằng con đường điều hòa giữa chúng.
Câu 12: Phân tích nội dung quy luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và
ngược lại. Ý nghĩa phương pháp luận của việc nghiên cứu quy luật này trong hoạt động thực tiễn.
I. Nội dung quy luật:
Mỗi sự vật, hiện tượng là sự thống nhất giữa hai mặt: chất lượng (chất) và số lượng (lượng). Từ
những thay đổi dần dần về lượng dẫn sẽ đến những thay đổi về chất và ngược lại; là cách thức của sự vận
động và phát triển.
1. Khái niệm chất và lượng
a. Khái niệm chất:
- Chất là tính quy định vốn có của các sự vật và hiện tượng, là sự thống nhất hữu cơ của những
thuộc tính, những yếu tố cấu thành sự vật, nói lên sự vật đó là gì, phân biệt nó với các sự vật và hiện
tượng khác.
- Phân biệt chất với tính cách là phạm trù triết học với chất hiểu theo khái niệm thường dùng hàng
ngày hoặc với khái niệm chất liệu.
- Phân biệt chất với thuộc tính. Mỗi chất gồm nhiều thuộc tính.
- Mỗi sự vật, hiện tượng có thể có một hoặc nhiều chất tuy theo những mối quan hệ xác định

14


- Chất tồn tại khách quan.
- Chất biểu hiện tình trạng tương đối ổn định của sự vật, hiện tượng.
- Trong những trường hợp đặc biệt, chất là cái trừu tượng và dường như nằm ngoài sự vật, hiện
tượng.
b. Khái niệm lượng
- Lượng là tính quy định của sự vật, hiện tượng về mặt qui mô, trình độ, tốc độ phát triển của nó,
biểu thị bằng các con số, các thuộc tính, các yếu tố,.. cấu thành nó.
- Lượng không chỉ biểu hiện bằng các con số, các đại lượng xác định cụ thể, mà lượng còn được

nhận thức bằng khả năng trừu tượng hóa.
- Lượng là nhân tố quy định bên trong, nhưng đồng thời cũng có những lượng chỉ nói lên nhân tố
dường như bên ngoài sự vật.
- Lượng tồn tại khách quan.
- So với chất, lượng là cái thường xuyên biến đổi.
* Sự phân biệt giữa chất và lượng chỉ có ý nghĩa tương đối.
2. Tính thống nhất và mối quan hệ phổ biến của lượng và chất.
a. Khái niệm “Độ”
Mỗi sự vật là một thể thống nhất của hai mặt chất và lượng. Hai mặt đó không tách rời nhau, mà
tác động lẫn nhau một cách biện chứng.
- “Độ” là khái niệm nói lên mối quan hệ quy định lẫn nhau của chất và lượng. Nó là giới hạn mà
trong đó sự vật, hiện tượng vẫn còn là nó mà chưa biến thành cái khác. Trong giới hạn “độ” lượng biến
đổi nhưng chưa dẫn đến chuyển hóa về chất.
- Độ cũng biến đổi khi những điều kiện tồn tại của sự vật, hiện tượng biến đổi.
b. Những hình thức biến đổi từ lượng dẫn đến sự biến đổi về chất.
Ranh giới của lượng do chất quy định, nhưng sự chuyển hóa thì bao giờ cũng bắt đầu từ sự thay
đổi về lượng. Các hình thức cơ bản của sự chuyển hóa:
+ Tăng lên hoặc giảm đi đơn thuần về mặt số lượng
+ Sự dung hợp của nhiều lực lượng thành một hợp lực về căn bản khác với tổng số những lực
lượng cá biệt.
+ Thay đổi về kết cấu, tổ chức, qui mô của sự vật, hiện tượng.
- Khi lượng thay đổi vượt quá giới hạn của độ thì dẫn đến thay đổi về chất. Sự thay đổi về chất
được gọi là bước nhảy (có 4 loại bước nhảy cơ bản: bước nhảy toàn phần, bước nhảy cục bộ, bước nhảy
dần dần, bước nhảy đột biến), đó là bước ngoặt căn bản trong sự biến đổi dần dần về lượng.
- Giới hạn mà ở đó xảy ra bước nhảy được gọi là điểm nút.
- Sự chuyển hóa đòi hỏi phải có điều kiện.
c. Ảnh hưởng của chất mới đối với sự biến đổi của lượng
Khi chất mới ra đời nó tạo ra một lượng mới phù hợp với nó để có một sự thống nhất mới giữa
chất và lượng. Sự quy định này được biểu hiện ở qui mô và nhịp điệu phát triển mới của lượng.
Tóm lại, quy luật lượng-chất chỉ ra cách thức biến đổi sự vật, hiện tượng. Đó là quá trình tác động

lẫn nhau giữa hai mặt: chất và lượng. Lượng biến đổi mâu thuẫn với chất cũ, chất mới ra đời với lượng
mới. Lượng mới lại tiếp tục biến đổi đến giới hạn nào đó lại phá vỡ chất đang kìm hãm nó, tạo nên chất
mới với lượng mới. Như vậy phát triển là quá trình vô hạn, vừa mang tính liên tục (biểu hiện ở sự biến
đổi của lượng) vừa có tính gián đoạn (biểu hiện ở sự thay đổi về chất).
II. Ý nghĩa phương pháp luận:
- Sự vận động và phát triển là kết quả của quá trình tích lũy về lượng. Trong hoạt động thực tiễn
cần chống lại hai khuynh hướng:

15


+ Tư tưởng chủ quan, duy ý chí, nôn nóng, chưa có sự tích lũy đầy đủ về lượng đã muốn thực
hiện bước nhảy về chất. Hoặc chỉ nhấn mạnh đến bước nhảy, xem nhẹ tích lũy về lượng, dẫn đến các hành
động phiêu lưu mạo hiểm.
+ Tư tưởng bảo thủ, trì trệ, ngại khó không dám thực hiện bước nhảy về chất. Hoặc chỉ nhấn
mạnh đến sự biến đổi dần dần về lượng, từ đó rơi vào chủ nghĩa cải lương và tiến hóa luận.
- Cần có thái độ khách quan, khoa học và có quyết tâm thực hiện bước nhảy khi điều kiện thực
hiện bước nhảy đã chín muồi.
+ Cần phân biệt các bước nhảy trong tự nhiên và trong xã hội.
+ Phải nhận thức đúng đắn các bước nhảy khác nhau về qui mô, nhịp độ.
+ Chống chủ nghĩa giáo điều
Câu 13: Phân tích nội dung quy luật phủ định của phủ định. Ý nghĩa phương pháp luận của việc
nghiên cứu quy luật này trong hoạt động thực tiễn.
Quy luật phủ định của phủ định vạch rõ xu hướng đi lên của sự vật, hiện tượng trong quá trình
vận động, phát triển.
1. Phủ định biện chứng:
- “Phủ định”: là khái niệm nói lên quá trình vận động của sự vật, hiện tượng. Trong đó sự vật,
hiện tượng này thay thế cho sự vật, hiện tượng khác.
- “Phủ định biện chứng”: là phủ định mà trong đó cái mới ra đời thay thế cho cái cũ. Cái mới làm
tiền đề, tạo điều kiện cho sự phát triển của sự vật, hiện tượng. Phép biện chứng duy vật cho rằng: sự diệt

vong của cái cũ và sự ra đời của cái mới, sự thoái hóa và sự phát triển có liên hệ nội tại với nhau. Không
có mặt này cũng không có mặt kia.
“Phủ định trong phép biện chứng không chỉ có ý nghĩa đơn giản là nói không hoặc giả là tuyên bố
rằng một sự vật không tồn tại, hay phá hủy sự vật ấy theo một cách nào đó… Cho nên phải thiết lập sự
phủ định thứ nhất như thế nào cho sự phủ định lần thứ hai vẫn có khả năng thực hiện được hay trở thành
có khả năng thực hiện được” (Ăngghen “Chống Đuy-rinh”, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1976, tr. 230-321).
- Đặc trưng của phủ định biện chứng:
Thứ nhất: Tính khách quan
Thứ hai: Tính kế thừa
Phủ định biện chứng là kết quả của sự tự thân phát triển trên cơ sở những mâu thuẫn vốn có của
sự vật và hiện tượng nên nó không thể là một sự phủ định tuyệt đối, một sự phủ định sạch trơn.
Phép biện chứng duy vật coi sự kế thừa là nội dung cơ bản của phủ định biện chứng.
2. Nội dung quy luật:
Tất cả mọi sự vật, hiện tượng đều luôn luôn vận động, phát triển, quá trình đó cũng là quá trình
phủ định lẫn nhau của các mặt đối lập. Khuynh hướng tất yếu của sự vận động là: cái mới thay thế cho cái
cũ, cái mới làm tiền đề tạo điều kiện cho sự phát triển của sự vật, hiện tượng. Nhưng sự phát triển có tính
chu kỳ.
a. Tính chu kỳ của sự phát triển:
Từ một điểm xuất phát (A) qua một số lần phủ định biện chứng (B(n)) sự vật dường như lặp lại
điểm xuất phát (A’) nhưng trên cơ sở cao hơn.
┤A

→ B(n) →A’├ →

- Sự phủ định biện chứng lần thứ nhất (B) là bước trung gian trong sự phát triển. Trình độ mới
của (A) phải qua (B) mà được thực hiện chứ không phải (B) là giai đoạn cao hơn (A).
- Sự phủ định biện chứng lần thứ hai (A’) là phủ định của phủ định.
- (A’) là giai đoạn kết thúc của một chu kỳ phát triển đồng thời lại là điểm xuất phát của một chu
kỳ phát triển mới.
- Để hoàn thành một chu kỳ phát triển, sự vật hiện tượng phải trải qua ít nhất hai lần phủ định

biện chứng.
b. Hình thức và khuynh hướng của sự phát triển:

16


Quy luật phủ định của phủ định khái quát tính tất yếu tiến lên của sự vận động của sự vật và hiện
tượng. Sự phát triển đi lên đó không diễn ra theo con đường thẳng mà theo đường “xoáy ốc”.
Lênin viết: “Một sự phát triển hình như diễn lại những giai đoạn đã qua nhưng dưới một hình
thức khác ở một trình độ cao hơn (phủ định của phủ định), một sự phát triển có thể nói là theo đường
xoáy ốc chứ không theo đường thẳng (Lênin toàn tập, T.26, Nxb Tiến bộ, Maatsxcơva, 1981, tr.65).
- “Đường xoáy ốc” biểu hiện các mặt của quá trình phát triển biện chứng: tính kế thừa, tính lặp
lại, tính tiến lên của sự vận động.
- “Đường xoáy ốc” thể hiện tính phức tạp trong quá trình biến đổi, phủ định của sự vật. Mỗi vòng
mới của đường xoáy ốc thể hiện tính vô tận của sự phát triển từ thấp đến cao.
3. Ý nghĩa phương pháp luận:
- Quy luật phủ định của phủ định giúp ta hiểu rằng quá trình phát triển không diễn ra theo đường
thẳng mà rất quanh co, phức tạp, phải trải qua nhiều lần phủ định biện chứng, nhiều khâu trung gian.
- Là cơ sở lý luận để hiểu về sự ra đời của cái mới: trong thực tiễn xã hội, các quá trình diễn ra
phức tạp, nhưng cái cũ nhất định sẽ mất đi, cái mới nhất định sẽ xuất hiện. Cái mới ra đời trên cơ sở kế
thừa những yếu tố tích cực của cái cũ. Phải biết phát hiện cái mới, duy trì và phát triển cái mới.
- Phải có cách nhìn biện chứng khi phê phán cái cũ, kế thừa những yếu tố hợp lý của cái cũ.
Tránh nhìn đơn giản trong việc nhận thức các sự vật, hiện tượng, đặc biệt là các hiện tượng xã hội. Cần
chống lại hai khuynh hướng: kế thừa không chọn lọc hoặc phủ định sạch trơn.
Câu 14: Phân tích nội dung cặp phạm trù cái chung và cái riêng, từ đó rút ra ý nghĩa phương pháp
luận
1. Khái niệm cái chung, cái riêng, cái đơn nhất.
Cái chung là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ
giống nhau ở nhiều sự vật, hiện tượng hay quá trình riêng lẻ.
Cái riêng là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá trình riêng lẻ nhất

định.
Cái đơn nhất là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính chỉ có ở một kết cấu
vật chất nhất định, mà không lặp lại ở kết cấu khác.
2. Mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng:
Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng cả cái riêng và cái chung đều tồn tại khách quan và quan
hệ biện chứng với nhau.
- Cái chung thì tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng. Điều đó có nghĩa là cái chung thực sự
tồn tại, nhưng chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng. Không có cái chung thuần túy, trừu tượng
tồn tại bên ngoài cái riêng.
- Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ đưa đến cái chung, bao hàm cái chung. Điều đó cho thấy
là cái riêng tồn tại độc lập nhưng sự tồn tại độc lập đó không có nghĩa là cái riêng hoàn toàn cô lập với cái
khác mà bất cứ cái riêng nào cũng nằm trong mối liên hệ đưa tới cái chung. Cái riêng không những chỉ
tồn tại trong mối liên hệ dẫn tới cái chung mà thông qua hàng nghìn sự chuyển hóa, nó còn liên hệ với cái
riêng loại khác.
- Cái chung là bộ phận của cái riêng, còn cái riêng không gia nhập hết vào cái chung vì vậy cái
riêng phong phú hơn cái chung. Bởi ngoài những đặc điểm gia nhập vào cái chung, cái riêng còn giữ lại
những đặc điểm riêng biệt mà chỉ nó mới có. Trong khi đó, cái chung phải là cái sâu sắc hơn vì nó phản
ánh những mối liên hệ ở bên trong, phổ biến tồn tại trong cái riêng cùng loại, nó gắn liến với các cái
riêng, quy định sự tồn tại và phát triển của sự vật.
- Trong quá trình phát triển khách quan của sự vật, trong những điều kiện nhất định cái đơn nhất
có thể biến thành cái chung và ngược lại cái chung có thể biến thành cái đơn nhất. Sỡ dĩ có tình trạng này
là do trong hiện thực cái mới không bao giờ xuất hiện đầy đủ ngay trong một lúc mà lúc đầu xuất hiện
dưới dạng đơn nhất cá biệt. Nhưng theo quy luật, cái mới nhất định sẽ phát triển mạnh lên, ngày càng trở
nên hoàn thiện tiến tới trở thành cái chung. Ngược lại, cái cũ ngày càng mất dần đi từ chỗ là cái chung
biến dần thành cái đơn nhất.
- Trong phạm vi khái quát của con người, cái được xem là cái chung trong quan hệ này lại có thể
được xem là cái riêng, cái đơn nhất trong quan hệ khác.

17



3. Ý nghĩa phương pháp luận:
- Không được tuyệt đối hóa cái chung hay cái riêng mà phải thấy được mối quan hệ biện chứng
giữa chúng. Nếu tuyệt đối hóa cái chung thì sẽ dẫn đến giáo điều chủ nghĩa, rập khuôn một cách máy
móc. Ngược lại nếu tuyệt đối hóa cái riêng thì sẽ dẫn đến chủ nghĩa kinh nghiệm, chủ nghĩa cá nhân, chủ
nghĩa tập thể phường hội, địa phương chủ nghĩa và chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi.
- Trong nhận thức và thực tiễn để phát hiện cái chung cần phải xuất phát từ những cái riêng, từ
những sự vật, hiện tượng quá trình riêng lẻ cụ thể chứ không được xuất phát từ ý muốn chủ quan của chủ
thể, và để giải quyết những vấn đề riêng một cách có hiệu quả thì không lảng tránh việc giải quyết những
vấn đề chung, để tránh tình trạng sa vào mò mẫm tùy tiện.
- Trong hoạt động thực tiễn cần tạo mọi điều kiện thuận lợi cho cái đơn nhất chuyển hóa thành cái
chung nếu cái đơn nhất đó có lợi, và cũng phải tạo điều kiện để cái chung chuyển hóa thành cái đơn nhất
nếu cái chung đó là lạc hậu.
Câu 15: phân tích nội dung cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả, từ đó rút ra ý nghĩa phương
pháp luận.
1. Khái niệm nguyên nhân và kết quả:
- Nguyên nhân là phạm trù triết học chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật hoặc
giữa các sự vật với nhau gây ra một sự biến đổi nhất định.
- Kết quả là phạm trù triết học chỉ là những biến đổi xuất hiện do sự tác động lẫn nhau trong một
sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau.
- Phân biệt nguyên nhân và nguyên cớ, nguyên nhân và điều kiện:
+ Nguyên cớ là một sự kiện nào đó trực tiếp xảy ra trước kết quả, có liên hệ với kết quả nhưng
chỉ là liên hệ bên ngoài không bản chất.
+ Điều kiện: Đó là tổng hợp những hiện tượng không phụ thuộc vào nguyên nhân nhưng lại có
tác dụng biến khả năng chứa đựng trong nguyên nhân thành kết quả, thành hiện thực. Vì vậy, điều kiện là
cái không thể thiếu được cho sự xuất hiện kết quả.
2. Tính khách quan và phổ biến của mối quan hệ nhân quả:
- Tính khách quan:
Thế giới thống nhất ở tính vật chất. Điều đó cho thấy vật chất đang vận động quy đến cùng là
nguyên nhân duy nhất, là nguồn gốc của mọi sự vật, hiện tượng, quá trình. Và mỗi sự vật, hiện tượng, quá

trình đều có căn cứ của nó trong những sự vật, hiện tượng, quá trình khác. Cho nên không có sự vật hiện
tượng nào không có nguyên nhân mà chỉ có chúng ta chưa tìm ra nguyên nhân của hiện tượng đó, và cũng
không có một hiện tượng nào không sinh ra kết quả mà chỉ có chúng ta chưa tìm ra được kết quả của nó.
- Tính phổ biến:
Tính phổ biến của quan hệ nhân quả thể hiện ở chỗ mọi sự vật và hiện tượng đều nảy sinh từ
những sự vật hiện tượng khác. Trong đó cái sản sinh ra cái khác được gọi là nguyên nhân và cái được sinh
ra gọi là kết quả.
3. Mối quan hệ giữa nguyên nhân và kết quả
- Nguyên nhân sinh ra kết quả vì vậy nguyên nhân bao giờ cũng có trước kết quả, còn kết quả bao
giờ cũng xuất hiện sau nguyên nhân, khi nguyên nhân đã xuất hiện, đã bắt đầu tác động.
Tuy nhiên không phải mọi sự nối tiếp nhau về mặt thời gian của các sự vật hiện tượng cũng là
biểu hiện của mối liên hệ nhân quả. Cái để phân biệt quan hệ nhân quả với quan hệ nối tiếp nhau về mặt
thời gian là ở chỗ quan hệ nhân quả bao giờ cũng là quan hệ sản sinh, trong đó nguyên nhân phải sản sinh
ra kết quả.
- Trong hiện thực, mối quan hệ nhân quả biểu hiện hết sức phức tạp. Một kết quả thường không
phải do một nguyên nhân mà do nhiều nguyên nhân gây ra; đồng thời một nguyên nhân cũng có thể sản
sinh ra nhiều kết quả. Vì sự phối hợp tác động của nhiều nguyên nhân đòi hỏi phải phân tích tính chất, vai
trò của mỗi loại nguyên nhân đối với kết quả cũng như sự liên hệ ảnh hưởng lẫn nhau giữa các nguyên
nhân và phân loại các nguyên nhân.

18


+ Nếu các nguyên nhân tác động cùng chiều thì có xu hướng dẫn đến kết quả nhanh hơn. Nếu các
nguyên nhân tác động ngược chiều thì làm cho tiến trình hình thành kết quả chậm lại. Thậm chí triệt tiêu
tác dụng của nhau.
+ Phân loại nguyên nhân:
* Nguyên nhân chủ yếu và nguyên nhân thứ yếu:
Nguyên nhân chủ yếu là nguyên nhân mà không có nó thì kết quả không thể xuất hiện. Nó quyết
định những đặc trưng tất yếu của sự vật, hiện tượng. Nguyên nhân thứ yếu là nguyên nhân chỉ quyết định

những mặt, những đặc điểm nhất thời, tác động có giới hạn và có mức độ vào việc sản sinh ra kết quả.
* Nguyên nhân bên trong và nguyên nhân bên ngoài: Nguyên nhân bên trong là nguyên nhân tác
dụng ngay bên trong sự vật, được chuẩn bị và xuất hiện trong tiến trình phát triển của sự vật, phù hợp với
đặc điểm về chất của nó. Nguyên nhân bên ngoài là sự tác động giữa các sự vật khác nhau đem lại sự biến
đổi nhất định giữa các sự vật đó.
- Tác động trở lại của kết quả đối với nguyên nhân và sự chuyển hóa của nguyên nhân-kết quả:
Mối liên hệ nhân quả có tính chất tác động qua lại lẫn nhau trong đó không những nguyên nhân
sinh ra kết quả mà kết quả còn tác động trở lại đối với nguyên nhân đã sinh ra nó, làm cho những nguyên
nhân cũng biến đổi bởi vì nguyên nhân sinh ra kết quả bao giờ cũng là một quá trình. Sự tác động trở lại
của kết quả đối với nguyên nhân chính là sự ảnh hưởng thường xuyên lẫn nhau giữa nguyên nhân và kết
quả, gây nên sự biến đổi giữa chúng. Nguyên nhân và kết quả thường xuyên chuyển hóa lẫn nhau, nên
“cái bây giờ ở đây là kết quả thì ở chỗ khác, lúc khác lại trở thành nguyên nhân và ngược lại”.
Trong thế giới vô tận, nguyên nhân sinh ra kết quả, đến lượt nó kết quả chuyển hóa thành nguyên
nhân mới sinh ra kết quả mới,.. là vô tận. Chính vì thế, trong thế giới ta không thể chỉ ra được đâu là
nguyên nhân đầu tiên và đâu là kết quả cuối cùng.
4. Ý nghĩa phương pháp luận:
- Mối quan hệ nhân quả đã vạch rõ nguồn gốc của các hiện tượng cụ thể, riêng biệt vì vậy là cơ sở
để đánh giá kết quả của sự nhận thức thế giới, hiểu rõ con đường phát triển của khoa học, khắc phục tính
hạn chế của các lý luận hiện có và là công cụ lý luận cho hoạt động thực tiễn để cải tạo tự nhiên và xã hội.
- Hiện tượng nào cũng có nguyên nhân, nên muốn hiểu đúng một hiện tượng thì phải tìm hiểu
nguyên nhân xuất hiện của nó hoặc muốn xóa bỏ một hiện tượng thì phải xóa bỏ nguyên nhân sản sinh ra
nó.
- Nếu nguyên nhân chỉ sinh ra kết quả trong những điều kiện nhất định thì phải nghiên cứu điều
kiện để thúc đẩy hay kìm hãm sự ra đời của kết quả. Phải có quan điểm toàn diện và cụ thể khi nghiên
cứu hiện tượng chứ không được vội vàng kết luận về nguyên nhân của hiện tượng đó.
Câu 16: Phân tích nội dung cặp phạm trù tất nhiên và ngẫu nhiên, từ đó rút ra ý nghĩa phương
pháp luận.
1. Khái niệm tất nhiên và ngẫu nhiên:
- Tất nhiên (tất yếu) là cái do bản chất, do những nguyên nhân bên trong của sự vật, hiện tượng
quyết định và trong những điều kiện nhất định, nó phải xảy ra như thế, chứ không thể khác.

- Ngẫu nhiên là cái không do mối liên hệ bản chất, bên trong quyết định mà nó là ngẫu hợp của
hoàn cảnh bên ngoài quyết định. Do đó, nó có thể xuất hiện hoặc không xuất hiện, có thể xuất hiện như
thế này hoặc như thế khác.
2. Điểm giống nhau và khác nhau giữa tất nhiên và ngẫu nhiên.
a. Khác nhau:
Tất nhiên là cái do chính bản chất của quá trình quyết định. Ngẫu nhiên là cái không do bản chất
của quá trình quy định một cách trực tiếp, không bắt buộc phải có với quá trình đó.
b. Giống nhau:
Tất nhiên và ngẫu nhiên đều phản ánh những mối liên hệ đặc biệt về chất của thế giới khách quan
mà những mối liên hệ này không nằm trong phạm trù khác. Tất nhiên và ngẫu nhiên đều do những
nguyên nhân xác định quy định.
3. Phê phán quan điểm sai lầm về tất nhiên và ngẫu nhiên:

19


- Tuyệt đối hóa tất nhiên, phủ định ngẫu nhiên: Đây là quan điểm sai lầm vì rơi vào “thuyết định
mệnh”, xem con người chỉ là trò chơi của số phận và đã hạ thấp trình độ của tất nhiên xuống trình độ của
ngẫu nhiên.
- Tuyệt đối hóa ngẫu nhiên, phủ nhận tất nhiên: Quan điểm này đã xuyên tạc nhiệm vụ của khoa
học, hướng khoa học đi vào con đường thần bí, khoa học chỉ là kết quả của ngẫu nhiên, phục tùng ngẫu
nhiên, là chỗ dựa cho tôn giáo. Đây cũng là điểm tựa của chủ nghĩa bi quan bất lực trước cuộc sống, xa
lánh việc làm cách mạng cải tạo tự nhiên và xã hội.
4. Mối quan hệ biện chứng giữa tất nhiên và ngẫu nhiên.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng thừa nhận tất nhiên và ngẫu nhiên đều tồn tại bên ngoài, độc lập
với ý thức của loài người và có quan hệ biện chứng với nhau.
- Tất nhiên và ngẫu nhiên là biểu hiện sự thống nhất của hai mặt đối lập.
- Tất nhiên và ngẫu nhiên không phải tồn tại cô lập mà tồn tại trong sự thống nhất hữu cơ với
nhau. Không có ngẫu nhiên thuần túy, hay tất nhiên thuần túy. Bất cứ hiện tượng quá trình nào cũng đều
là sự thống nhất giữa tất nhiên và ngẫu nhiên. Tất nhiên bao giờ cũng vạch đường cho mình đi xuyên qua

vô số ngẫu nhiên, còn ngẫu nhiên bao giờ cũng là hình thức biểu hiện nội dung của cái tất nhiên, làm cho
cái tất nhiên đa dạng nhiều vẻ hơn.
- Sự phân biệt giữa tất nhiên và ngẫu nhiên chỉ là tương đối. Trong những điều kiện cụ thể, tất
nhiên có thể trở thành ngẫu nhiên và ngược lại.
5. Ý nghĩa phương pháp luận:
- Nếu tất nhiên là cái nhất định phải xuất hiện theo quy luật nội tại của nó, còn ngẫu nhiên có thể
xuất hiện hay không xuất hiện thì trong hoạt động thực tiễn phải dựa trên cơ sở những mối liên hệ tất
nhiên, phải căn cứ vào tất nhiên để đề ra phương hướng hoạt động chứ không phải dựa vào ngẫu nhiên và
dừng lại ở ngẫu nhiên.
- Con người có thể tạo ra những điều kiện để biến ngẫu nhiên thành tất nhiên cần thiết cho hoạt
động thực tiễn. Và trong hoạt động thực tiễn phải xem xét sự chuyển hóa giữa tất nhiên và ngẫu nhiên để
không rơi vào tình trạng chủ quan nóng vội, duy ý chí.
- Nhiệm vụ của khoa học là phải vạch ra cái tất nhiên ẩn dấu đằng sau cái ngẫu nhiên, đồng thời
giúp con người ngăn ngừa sự tác động của ngẫu nhiên không có lợi và sử dụng ngẫu nhiên có lợi.
Câu 17: Phân tích nội dung cặp phạm trù nội dung và hình thức, từ đó rút ra ý nghĩa phương pháp
luận.
1. Khái niệm nội dung và hình thức.
- Nội dung là phạm trù triết học chỉ toàn bộ những yếu tố, những mặt, những mối liên hệ và
những quá trình tạo nên sự vật.
- Hình thức là phạm trù triết học chỉ phương thức tồn tại và phát triển của sự vật, phản ánh về kết
cấu, trình độ, tốc độ của nội dung và là hệ thống các mối liên hệ tương đối ổn định giữa các yếu tố của nó.
Bất cứ sự vật nào cũng có hình thức bên ngoài, hình thức được nói đến trong cặp phạm trù này là
hình thức bên trong của sự vật, tức là cơ cấu bên trong của nội dung. Nội dung cũng không phải là bản
thân sự vật, đó là trạng thái nội tại của sự vật, giữa các yếu tố, các quá trình ở bên trong sự vật có sự tác
động lẫn nhau để tạo thành sự vật. Bởi vậy, nội dung của sự vật là một quá trình chứ không phải là một
cái gì bất biến.
2. Mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức.
- Nội dung và hình thức bao giờ cũng là một thể thống nhất. Nội dung và hình thức gắn bó hết
sức chặt chẽ với nhau, không tách rời nhau. Không có một hình thức nào lại không phản ánh nội dung,
cũng như không có nội dung nào lại không biểu hiện qua hình thức. Sở dĩ có tình trạng này là do nội dung

bao gồm những mặt, những yếu tố, những quá trình tạo nên sự vật mà hình thức lại chính là hệ thống các
yếu tố vừa góp phần tạo nên nội dung, vừa tham gia vào các mối liên hệ tạo nên hình thức. Vì lẽ đó nội
dung và hình thức không thể tách rời nhau.
- So với hình thức thì nội dung là cái quyết định. Thực chất ở đây là nói đến mối quan hệ giữa cái
có tính ổn định và cái thường xuyên biến đổi.
Sự biến đổi và phát triển của sự vật bao giờ cũng bắt đầu sự biến đổi từ nội dung. Khi nội dung đã
biến đổi thì hình thức cũng phải biến đổi theo, vì nội dung là cái cơ sở của sự vật. Nhưng hình thức không

20


phải chỉ có vai trò thụ động đi theo nội dung mà còn có tác động tích cực đến nội dung, ảnh hưởng của nó
thường diễn ra theo hai hướng. Khi hình thức phù hợp với nội dung thì hình thức trở thành động lực tích
cực thúc đẩy nội dung phát triển, ngược lại nếu nó không phù hợp thì nó sẽ cản trở sự phát triển đó.
- Tính độc lập tương đối của hình thức:
Mặc dù nội dung quy định sự biến đổi của hình thức nhưng trong tính bị quy định đó hình thức
cũng có tính độc lập tương đối của nó. Trong quá trình phát triển, hình thức có thể lạc hậu so với nội dung
vì không phải bất kỳ sự biến đổi nào của nội dung cũng ngay lập tức dẫn đến sự biến đổi của hình thức.
Hình thức chỉ có thể bị phá vỡ căn bản khi nội dung biến đổi tới giới hạn nhất định dẫn tới xung đột gay
gắt với hình thức hiện có. Cùng một nội dung có thể được phản ánh qua một số kiểu hình thức khác nhau,
hoặc cùng một hình thức có thể là sự biểu hiện một số nội dung khác nhau.
- Sự chuyến hóa giữa nội dung và hình thức:
Hình thức và nội dung là hai mặt đối lập cũng giống như bất kỳ hai mặt đối lập nào, nội dung và
hình thức có sự thống nhất với nhau và chuyển hóa cho nhau. Cái là nội dung trong quan hệ này có thể trở
thành hình thức trong quan hệ khác.
3. Ý nghĩa phương pháp luận:
- Trong hoạt động thực tiễn cần chống khuynh hướng tách rời nội dung và hình thức. Nội dung
quyết định hính thức cho nên khi xem xét sự vật phải căn cứ vào nội dung, đồng thời phải thấy sự tác
động của hình thức đối với nội dung.
- Cùng một nội dung trong quá trình phát triển khác nhau có thể có nhiều hình thức và ngược lại

cùng một hình thức có thể thể hiện những nội dung khác nhau, cho nên phải linh hoạt trong việc sử dụng
mọi hình thức có thể có tùy theo yêu cầu của hoạt động thực tiễn. Cần chống lại hai thái cực sai lầm là cố
bám giữ vào hình thức cũ hoặc hoàn toàn phủ nhận vai trò của nó trong hoàn cảnh mới mà chủ quan nóng
vội thay đổi một cách tùy tiện.
Câu 18: Phân tích nội dung cặp phạm trù bản chất và hiện tượng, từ đó rút ra ý nghĩa phương
pháp luận.
1. Khái niệm bản chất và hiện tượng:
- Bản chất là phạm trù triết học chỉ sự tổng hợp tất cả những mặt, những mối liên hệ tất nhiên tạo
thành một thể thống nhất hữu cơ bên trong, quy định sự vận động và phát triển của sự vật.
- Hiện tượng là phạm trù triết học dùng để chỉ sự biểu hiện ra bên ngoài những mặt, những mối
liên hệ đó.
- So sánh bản chất với cái chung và quy luật:
+ Bản chất là cái chung tất yếu quyết định sự tồn tại và phát triển của sự vật chứ không phải bất
kỳ là cái chung nào.
+ Bản chất và quy luật là những phạm trù cùng loại, cùng trình độ. Tuy vậy bản chất và quy luật
không bao giờ đồng nhất với nhau. Bản chất rộng hơn quy luật, bản chất bao gồm nhiều quy luật, là tổng
hợp của nhiều quy luật. Bản chất là cái toàn bộ, quy luật là cái bộ phận. Một quy luật không nói hết được
bản chất của sự vật mà chỉ phản ánh một mặt nào đó của bản chất.
2. Mối quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng:
- Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng.
+ Bản chất bao giờ cũng bộc lộ thông qua hiện tượng, còn hiện tượng bao giờ cũng là sự biểu
hiện của bản chất. “Bản chất hiện ra, hiện tượng có tính bản chất”. Điều này cho thấy không có bản chất
thuần túy nằm ở bên ngoài sự vật, hoặc là bản chất không phải là cái gì thần bí nằm ở bên trong sự vật mà
bản chất nhất thiết phải bộc lộ ra thông qua hiện tượng và bất cứ hiện tượng nào cũng là biểu hiện của bản
chất, biểu hiện một mức độ, một mặt nào đó, một vòng khâu nào đó của bản chất. Hiện tượng không tồn
tại nếu không có bản chất.
+ Bản chất như thế nào thì hiện tượng tương ứng như thế ấy. Bản chất bị tiêu diệt thì hiện tượng
do nó sinh ra sớm muộn cũng bị mất theo và nếu một bản chất mới xuất hiện thì sẽ xuất hiện những hiện
tượng mới.
- Tính chất mâu thuẫn của sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng:

+ Sự đối lập giữa cái bên trong và bên ngoài:

21


Bản chất là cái bên trong được biểu hiện thông qua các hiện tượng, hiện tượng là cái thể hiện ra
bên ngoài. Tất cả các hiện tượng đều biểu hiện bản chất nhưng biểu hiện một cách khác nhau, có hiện
tượng biểu hiện bản chất một cách trực tiếp đúng đắn, thậm chí có hiện tượng biểu hiện sai lệch bản chất.
Vì vậy muốn nhận thức đúng đắn, khoa học về sự vật thì không thể dừng lại ở một vài hiện tượng
riêng lẻ mà cần phải phân tích tổng hợp các hiện tượng, đi sâu để tìm ra bản chất thực sự của nó.
+ Sự đối lập giữa cái tương đối ổn định và cái thường xuyên biến đổi:
Bản chất là cái bên trong, cái tương đối ổn định. Hiện tượng là cái thể hiện ra bên ngoài, cái
thường xuyên biến đổi.
+ Sự đối lập giữa cái sâu sắc hơn và cái phong phú hơn:
Bản chất sâu sắc hơn hiện tượng vì bản chất là những mối liên hệ tất nhiên bên trong, ổn định, là
cái quyết định sự tồn tại và phát triển của sự vật, được lập đi lập lại trong nhiều hiện tượng khác. Nó biểu
hiện quy luật phát triển chung của các hiện tượng đó.
Hiện tượng phong phú hơn bản chất vì ngoài bản chất chung mà các hiện tượng đều có nó còn
chứa đựng các nhân tố cá biệt mà chỉ riêng nó có.
4. Ý nghĩa phương pháp luận:
Nếu bản chất biểu hiện thông qua hiện tượng và hiện tượng biểu hiện bản chất dưới hình thức cải
biến, có khi dưới dạng xuyên tạc thì nhận thức không được dừng lại ở hiện tượng của sự vật, mà phải xem
xét những mối liên hệ bên trong của sự vật để làm sáng tỏ bản chất ẩn dấu đằng sau hiện tượng. Trong
hoạt động thực tiễn không dựa vào biểu hiện bên ngoài mà phải dựa vào sự hiểu biết những quy luật của
sự vật, bản chất của sự vật. Vì lẽ đó cần phải hết sức thận trọng khi kết luận về bản chất của sự vật.
Câu 19: Phân tích nội dung cặp phạm trù khả năng và hiện thực, từ đó rút ra ý nghĩa phương pháp
luận.
1. Khái niệm khả năng và hiện thực.
- Khả năng là phạm trù triết học dùng để chỉ cái hiện chưa có, chưa tới, nhưng sẽ tới, sẽ xuất hiện
khi có điều kiện thích hợp.

- Hiện thực là phạm trù triết học dùng để chỉ cái hiện có, hiện đang tồn tại thật sự.
Như vậy khả năng là cái “chưa có” nhưng không phải bất kỳ cái chưa có nào mà phải hiểu là cái
chưa có ở thời điểm đang xét, là cái sẽ có trong tương lai, khi có điều kiện thích hợp. Theo nghĩa đó, khả
năng là tiền đề của cái mới.
Tuy khả năng là cái chưa có nhưng điều đó không có nghĩa là nó không tồn tại. Các sự vật mà
khả năng đó biểu hiện chưa tồn tại như một hiện thực nhưng bản thân khả năng thì tồn tại. Vì vậy, khả
năng cũng là một trạng thái đặc biệt của hiện thực, trạng thái mà hiện thực mới tồn tại trước khi trở thành
chính bản thân mình.
- Phân loại khả năng:
Mọi khả năng đều là khả năng thực tế (đều tồn tại thực sự, do hiện thực sinh ra). Có những khả
năng được hình thành một cách tất nhiên do quy luật vận động nội tại của sự vật (khả năng tất nhiên), có
những khả năng được hình thành một cách ngẫu nhiên (khả năng ngẫu nhiên). Khả năng tất nhiên bao
gồm khả năng gần (đã có đủ hoặc gần đủ những điều kiện cần thiết để biến thành hiện thực), khả năng xa
(còn phải trải qua nhiều giai đoạn phát triển quá độ mới đủ điều kiện biến thành hiện thực)…
2. Mối quan hệ biện chứng giữa khả năng và hiện thực.
- Khả năng và hiện thực ở trong mối quan hệ chặt chẽ với nhau, không thể tách rời nhau, luôn
luôn chuyển hóa lẫn nhau, vì hiện thực được chuẩn bị bởi khả năng, còn khả năng sẽ biến thành hiện thực.
Đó là một quá trình vô tận. Do đó, sẽ mắc sai lầm nếu tách cái nọ khỏi cái kia. Kết quả là trong hoạt động
thực tiễn sẽ không nhìn thấy khả năng tiềm tàng trong sự vật, do đó không xác định được tương lai phát
triển của nó, hoặc không tạo ra những điều kiện cần thiết để thúc đẩy sự chuyển biến tích cực và không
ngăn chặn kịp thời những biến chuyển tiêu cực.
- Cũng trong những điều kiện nhất định ở cùng một sự vật có thể tồn tại một số khả năng vốn đã
có ở sự vật, trong những điều kiện nhất định, khi có thêm điều kiện mới bổ sung thì ở sự vật sẽ xuất hiện
thêm những khả năng mới. Ngay trong bản thân mỗi khả năng cũng không phải là không thay đổi, nó có
thể tăng lên giảm đi là tùy thuộc vào sự biến đổi của sự vật trong những điều kiện cụ thể.

22


- Quá trình khả năng biến thành hiện thực diễn ra trong tự nhiên không giống như trong xã hội. Ở

trong tự nhiên là một quá trình khách quan, diễn ra tự phát. Trong xã hội, sự chuyển hóa đó phải thông
qua hoạt động có ý thức của con người.
- Trong những điều kiện nhất định, có khả năng tất yếu trở thành hiện thực, nhưng cũng có khả
năng có thể không trở thành hiện thực.
3. Ý nghĩa phương pháp luận:
Phải thấy rõ mối quan hệ biện chứng giữa khả năng và hiện thực.
- Nếu chỉ thấy hiện thực mà không thấy khả năng thì sẽ không dự đoán được tương lai. Nếu thấy
khả năng mà không thấy hiện thực sẽ dẫn đến bi quan. Nếu đồng nhất khả năng với hiện thực thì sẽ ảo
tưởng.
- Trong hoạt động thực tiễn phải căn cứ vào hiện thực để đánh giá tình hình và phải phán đoán
đúng tính chất và xu hướng của khả năng để phát huy tối đa tính năng động chủ quan, ứng xử kịp thời
tránh tư tưởng chờ đợi thụ động.
Câu 20: Nhận thức là gì? Thực tiễn là gì? Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức lý luận.
- Nhận thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào trong bộ não người. Đó là sự phản ánh năng
động, sáng tạo dựa trên hoạt động tích cực của chủ thể trong quan hệ với khách thể.
+ Chủ thể nhận thức: theo nghĩa rộng là xã hội loài người nói chung. Hiểu một cách cụ thể, chủ
thể là nhóm người như giai cấp, dân tộc, tập thể, cá nhân… Tuy nhiên không phải bất kỳ con người nào
cũng trở thành chủ thể nhận thức, con người chỉ trở thành chủ thể khi nó tham gia vào hoạt động xã hội
nhằm nhận thức và biến đổi khách thể.
+ Khách thể nhận thức: không phải toàn bộ hiện thực khách quan, mà chỉ là bộ phận, là lĩnh vực
nào đó của nó ở trong miền hoạt động thực tiễn và hoạt động nhận thức của chủ thể.
- Thực tiễn là một phạm trù triết học dùng để chỉ toàn bộ hoạt động vật chất có tính chất lịch sửxã hội của con người nhằm làm biến đổi tự nhiên và xã hội.
+ Bản chất của hoạt động thực tiễn là sự tác động qua lại giữa chủ thể và khách thể, trong đó chủ
thể với tính năng động của mình tác động làm biến đổi khách thể.
+ Hoạt động thực tiễn đa dạng, song chúng ta có thể chia làm ba hình thức cơ bản:
* Hoạt động sản xuất vật chất: Đây là hình thức cơ bản của hoạt động thực tiễn có vai trò quyết
định và là cơ sở cho các hoạt động khác của thực tiễn.
* Hoạt động làm biến đổi các quan hệ xã hội (đấu tranh giai cấp, đấu tranh giải phóng dân tộc,
đấu tranh vì hòa bình…), đây là hình thức cao nhất của hoạt động thực tiễn.
* Thực nghiệm khoa học: đây là hình thức đặc biệt của hoạt động thực tiễn, được tiến hành trong

những điều kiện nhân tạo để tạo ra cơ sở nhận thức, làm biến đổi tự nhiên và xã hội.
- Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức:
+ Thực tiễn là cơ sở và động lực của nhận thức.
Nhận thức bắt nguồn từ thực tiễn. Chính là từ trong hoạt động thực tiễn làm xuất hiện những nhu
cầu buộc con người phải nhận thức thế giới. Vì vậy mà con người nhận thức thế giới thông qua thực tiễn.
Thông qua hoạt động thực tiễn, con người làm cho sự vật, hiện tượng bộc lộ những thuộc tính,
những liên hệ, trên cơ sở đó con người nhận thức chúng. Như vậy, thực tiễn đã đem lại những tài liệu cho
quá trình nhận thức, giúp cho nhận thức nắm được bản chất, các quy luật của thế giới.
Thực tiễn còn làm hoàn thiện giác quan của con người, tạo ra những phương tiện làm tăng khả
năng nhận biết của các giác quan nhờ đó nó thúc đẩy nhận thức phát triển.
+ Thực tiễn là mục đích của nhận thức.
Tri thức do nhận thức đem lại chỉ trở thành sức mạnh vật chất khi áp dụng có hiệu quả trong hoạt
động thực tiễn. Như vậy, nhận thức không phải là để nhận thức mà có mục đích cuối cùng, đó là giúp cho
con người trong hoạt động biến đổi thế giới.
+ Thực tiễn là tiêu chuẩn của nhận thức.

23


Nhận thức phải thông qua thực tiễn mới kiểm tra được tính chân lý của nó. Chỉ trong thực tiễn,
con người mới xác định được cái đúng đắn, cái sai lầm và giới hạn của tính đúng đắn của mọi tri thức do
nhận thức đem lại.
Câu 21: Phân tích con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý.
Nhận thức là quá trình phản ánh biện chứng thế giới hiện thực khách quan vào trong bộ não
người thông qua hoạt động thực tiễn.
Quá trình đó được Lênin khái quát như sau: “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư
duy trừu tượng đến thực tiễn - đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức
hiện thực khách quan” (V.I.Lênin Toàn tập, T.29, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1981, tr.179)
- Trực quan sinh động (nhận thức cảm tính) là giai đoạn đầu của quá trình nhận thức, gắn liền với
thực tiễn thông qua các giác quan diễn ra với các hình thức cơ bản sau:

+ Cảm giác là hình thức đầu tiên của sự phản ánh hiện thực khách quan. Sự vật hiện tượng tác
động vào các giác quan, gây nên sự kích thích của các tế bào thần kinh làm xuất hiện các cảm giác. Cảm
giác là sự phản ánh các thuộc tính riêng lẻ của sự vật, hiện tượng như màu sắc, mùi vị,..
- Tri giác là hình thức kế tiếp sau cảm giác. Tri giác là sự phản ánh nhiều thuộc tính của sự vật,
hiện tượng trong sự liên hệ giữa chúng với nhau. Tri giác được hình thành từ nhiều cảm giác kết hợp lại.
Tri giác cũng là sự phản ánh trực tiếp các sự vật, hiện tượng thông qua các giác quan của con người.
+ Biểu tượng là hình thức cao nhất của trực quan sinh động. Biểu tượng xuất hiện trên cơ sở
những hiểu biết về sự vật do tri giác đem lại. Biểu tượng là hình ảnh được lưu giữ trong chủ thể, khi
không còn sự vật hiện tượng hiện diện trực tiếp trước chủ thể. Ở đây biểu tượng đã ít nhiều mang tính
gián tiếp cho nên nó là khâu trung gian giữa trực quan sinh động và tư duy trừu tượng.
- Tư duy trừu tượng (nhận thức lý tính) là giai đoạn cao của quá trình nhận thức, bao gồm các
hình thức cơ bản là: khái niệm, phán đoán và suy lý.
+ Khái niệm là hình thức cơ bản nhất của tư duy trừu tượng. Nó phản ánh, khái quát những đặc
tính cơ bản và phổ biến của một lớp sự vật, hiện tượng nhất định.
+ Phán đoán là sự liên hệ giữa các khái niệm theo một qui tắc xác định mà chúng ta có thể xác
định được trị số logic của nó.
+ Suy lý là một thao tác logic tư duy để đi đến những tri thức mới từ những tri thức đã có.
- Sự thống nhất giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính:
+ Nhận thức cảm tính khác nhận thức lý tính ở chỗ: nhận thức cảm tính là giai đoạn thấp, phản
ánh khách thể một cách trực tiếp, đem lại những tri thức cảm tính. Ngược lại nhận thức lý tính là giai
đoạn cao, phản ánh khách thể một cách gián tiếp, khái quát đem lại những tri thức về bản chất và quy luật
của khách thể.
+ Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính là các giai đoạn của một quá trình nhận thức dựa trên
cơ sở thực tiễn. Giữa chúng có sự tác động qua lại: nhận thức cảm tính cung cấp tài liệu cho nhận thức lý
tính, nhận thức lý tính tác động trở lại nhận thức cảm tính làm cho nó chính xác hơn, nhạy bén hơn.
+ Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về sự thống nhất giữa nhận thức cảm tính và nhận
thức lý tính hoàn toàn đối lập với chủ nghĩa duy cảm (đề cao vai trò của nhận thức cảm tính) và chủ nghĩa
duy lý (đề cao vai trò nhận thức lý tính).
- Thực tiễn trong quá trình nhận thức:
+ Nhận thức phải trở về thực tiễn để kiểm tra, khẳng định chân lý hay sai lầm. Ngoài ra, mục đích

của nhận thức là để định hướng cho hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới.
+ Quay trở về thực tiễn nhận thức mới hoàn thành được chu trình biện chứng của nó. Trên cơ sở
hoạt động thực tiễn, nhận thức tiếp theo lại được bắt đầu bằng chu trình khác cao hơn.
Câu 22: Trình bày quan điểm của triết học Mác-Lênin về vấn đề chân lý.
1. Khái niệm chân lý:
- Chân lý là những tri thức về thế giới khách quan được phản ánh vào bộ óc người, có nội dung
phù hợp với hiện thực do nó phản ánh và đã được thực tiễn kiểm nghiệm.
- Chân lý bao giờ cũng là chân lý khách quan. Chân lý khách quan là những tri thức mà nội dung
của nó không phụ thuộc vào ý thức của con người.

24


- Chân lý là một quá trình, vì tiêu chuẩn của chân lý là thực tiễn và còn vì nhận thức của con
người là một quá trình.
2. Chân lý tuyệt đối và chân lý tương đối.
- Chân lý tuyệt đối là những tri thức có nội dung đúng và phù hợp hoàn toàn với hiện thực mà nó
phản ánh. Có chân lý tuyệt đối vì con người hoàn toàn có khả năng nhận thức đúng đắn về thế giới khi có
đầy đủ các điều kiện.
- Chân lý tương đối là tri thức đúng nhưng chưa phù hợp hoàn toàn với hiện thực khách quan do
nó phản ánh. Sự phù hợp giữa nội dung của nó đối với khách thể được phản ánh là sự phù hợp bộ phận, ở
một số mặt nhất định.
+ Tính tương đối của chân lý biểu hiện ở chỗ nó phản ánh sự vật tồn tại trong một phạm vi có
giới hạn, trong những điều kiện xác định về không gian và thời gian, vì con người hoàn toàn có khả năng
nhận thức được thế giới nhưng không phải nhận thức diễn ra một lần là xong mà là quá trình đi từ chưa
biết đầy đủ đến biết đầy đủ hơn về sự vật và hiện tượng.
3. Quan hệ biện chứng giữa chân lý tương đối và chân lý tuyệt đối.
- Chân lý tương đối và chân lý tuyệt đối đều là chân lý khách quan.
- Chân lý tuyệt đối là tổng vô hạn các chân lý tương đối.
- Trong mỗi chân lý tương đối mặc dù là tương đối nhưng bao giờ cũng có những yếu tố của chân

lý tuyệt đối.
- Sự khác biệt giữa chân lý tương đối và chân lý tuyệt đối không thuộc về bản chất mà ở mức độ
phù hợp giữa chúng với khách thể. Sự khác biệt đó về mức độ phù hợp giữa chúng với khách thể bao giờ
cũng tồn tại, nhưng thường xuyên được xóa bỏ trong quá trình tiến lên vô hạn của nhận thức.
- Khi thừa nhận sự thống nhất giữa chân lý tuyệt đối và chân lý tương đối, điều đó cũng có nghĩa
là sự thừa nhận tính cụ thể của chân lý.
4. Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý:
- Thực tiễn là tiêu chuẩn duy nhất của chân lý. Nhờ thực tiễn, chúng ta phân biệt được chân lý và
sai lầm.
- Thực tiễn có vai trò như vậy, vì nó có ưu điểm của “tính phổ biến” và là “hiện thực trực tiếp”,
nhờ đó mà thực tiễn có thể “vật chất hóa’ được tri thức, biến các tri thức thành các khách thể vật chất có
tính xác thực cảm tính.
- Tiêu chuẩn thực tiễn vừa mang tính tuyệt đối vừa mang tính tương đối. Tuyệt đối vì nó là tiêu
chuẩn khách quan duy nhất; tương đối vì bản thân thực tiễn luôn luôn biến đổi, phát triển. Sự biến đổi này
dẫn đến chỗ tiếp tục bổ sung, phát triển những tri thức đã có trước đó.

25


×