Tải bản đầy đủ (.pdf) (161 trang)

Sinh hoạt cộng đồng tại nhà văn hóa xã nông thôn mới ở hậu giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.22 MB, 161 trang )

ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH TRÀ VINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH

NGUYỄN NGỌC TRÂN

SINH HOẠT CỘNG ĐỒNG TẠI
NHÀ VĂN HÓA XÃ NÔNG THÔN
MỚI Ở HẬU GIANG
Chuyên ngành: VĂN HÓA HỌC
Mã số: 60310640

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HÓA HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. MAI MỸ DUYÊN

TRÀ VINH, NĂM 2015


TÓM TẮT
Đề tài “Sinh hoạt cộng đồng tại Nhà văn hóa xã nông thôn mới ở Hậu Giang”
nghiên cứu sự tác động của sinh hoạt cộng đồng đến đời sống văn hóa của người
dân; đồng thời nghiên cứu các yếu tố làm ảnh hưởng đến nhận thức xã hội về vai
trò, vị trí, về phương pháp, nội dung và hình thức hoạt động nhà văn hóa. Trên cơ
sở đó đề ra những giải pháp phù hợp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động
của nhà văn hóa xã nông thôn mới, đáp ứng ngày càng cao nhu cầu sinh hoạt của
cộng đồng trong bối cảnh mới.
Tìm hiểu những dạng thức của sinh hoạt cộng đồng gắn với những điều kiện
nhà văn hóa xã từ khi có chủ trương xây dựng nông thôn mới đến nay ở xã Vị
Thanh huyện Vị Thủy tỉnh Hậu Giang. Qua đó, đánh giá thực trạng hoạt động sinh
hoạt cộng đồng của người dân tại nhà văn hóa xã, những vấn đề đặt ra cần đổi mới
để phù hợp với quá trình phát triển. Thấy được nhu cầu cấp thiết của việc giáo dục,
giao lưu, sáng tạo và vui chơi giải trí của người dân ở nông thôn. Trên cơ sở đó đề


ra những giải pháp và khuyến nghị để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động sinh
hoạt cộng đồng tại nhà văn hóa xã.
Luận văn tập trung nghiên cứu về sinh hoạt cộng đồng tại nhà văn hóa ở tỉnh
Hậu Giang. Do điều kiện khách quan là tất cả nhà văn hóa đều chịu sự điều chỉnh
chung của quy chế hoạt động được nhà nước ban hành và sự chi phối của 19 tiêu chí
xây dựng xã nông thôn mới phổ biến trên phạm vi toàn tỉnh, do đó người viết đã
chọn xã Vị Thanh, huyện Vị Thủy, tỉnh Hậu Giang làm trường hợp nghiên cứu cụ
thể.
Luận văn nghiên cứu về sinh hoạt cộng đồng tại nhà văn hóa xã nông thôn
mới Vị Thanh, kết hợp phân tích, so sánh về sinh hoạt cộng đồng của người dân
thông qua các hoạt động vui chơi, giải trí, văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao ở các
nhóm, các câu lạc bộ đang sinh hoạt tại nhà văn hóa xã, để thấy được hiệu quả của
Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới đối với đời sống cộng

-iii-


đồng của người dân, nhưng chủ yếu nghiên cứu thực tiễn diễn ra tại nhà văn hóa xã
Vị Thanh
Thời gian nghiên cứu: từ năm 2010 đến nay (từ khi có chương trình mục tiêu
Quốc gia về xây dựng nông thôn mới đến nay).
Những phương pháp nghiên cứu như: phương pháp nghiên cứu tổng hợp và
phân tích; khảo sát, điền dã thực địa; phỏng vấn sâu; nghiên cứu trực tiếp qua khảo
sát thực tế, phỏng vấn các nhà nghiên cứu, những người quản lý văn hóa của huyện,
xã, người dân và cán bộ, công nhân viên tại xã.
Tóm lại, đề tài của luận văn này có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo, cung
cấp thông tin cho công tác nghiên cứu và giúp các nhà quản lý văn hóa - xã hội
hoạch định các chính sách văn hóa, đề ra định hướng và chỉ đạo hiệu quả đối với
nhà văn hóa xã. Điểm mới của đề tài là góp phần cho thấy được chương trình mục
tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới rất quan trọng đối với nhà văn hóa xã

trong lĩnh vực hoạt động văn hóa, chuyên môn, tìm ra những phương pháp hoạt
động thích hợp để nâng cao vai trò, vị trí của nhà văn hóa xã trong tình hình đổi mới
hiện nay.
Luận văn sẽ góp phần ứng dụng vào việc nâng cao chất lượng, hiệu quả sinh
hoạt cộng đồng tại nhà văn hóa xã nông thôn mới ở Hậu Giang và có thể ứng dụng
vào thực tiễn của các nhà văn hóa xã trong phạm vi khu vực đồng bằng sông Cửu
Long và cả nước.

-iv-


ASTRACT
The thesis “Community events at the House of Culture’s new countryside
communes in Hau Giang province”, research about the affects of community
activity to the people’s cultural life; besides, research the factors that affect the
social recognition about the role, position, methods, content and operation form’s
House of Culture. From then, suggest the suitable solutions to improve the quality,
the effectiveness of performance’ House of Culture at new countryside communes,
to respond the daily needs of community in new context better.
It is to find out the forms of community events that link the conditions of
House of Culture commune when there were the guidelines in building the new
countryside for now in Vi Thanh commune, Vi Thuy district, Hau Giang province.
Thereby, it maybe assess the reality of people’s community events activity at House
of Culture commune, there are some issues that we have to change so that it is
suitable with the developing progress. The people’s education, exchange, creation
and entertainments in rural areas are necessary. Basing on these, the solutions and
recommendations to improve the quality, effectiveness of community events
activity at House of Culture commune are suggested.
This thesis focuses to research about community events at house of culture in
Hau Giang province. Because of some positive reasons, all houses of culture have

the general adjustment of operating regulations that the government issued and are
dominated by 19 criteria in building the new countryside communes that are been
popular in province-wide. Therefore, the writer was chosen Vi Thanh commune, Vi
Thuy district, Hau Giang province to research.
This thesis researches community events at house of culture’s Vi Thanh new
countryside commune. It is the combination of analysis, comparison about people’s
community events through entertainments, culture, art activities of the groups, clubs
which are participating at house of culture’s commune, from that it will be seen the
effectiveness of National target Program about the building for new countryside

-v-


against people’s community life, but the thesis will primarily research the practice
that is happening at house of culture in Vi Thanh commune.
The time for study is from 2010 to now (when having the National target
Program about the building for new countryside for now).
There’re some research methods such as: general research methods and
analysis; compare and contrast; fieldwork; in-depth interview; research directs
through the practical surveys, sociological investigation, interview the researchers,
Provincial cultural managers, people and staffs, employees in commune.
In brief, this thesis could be used to refer, supply the information for the
research and help social, cultural managers in planning the cultural policies, setting
the effectiveness orientation and direction at house of culture commune. The thesis
contributes to show the importance of the National target Program about the
building for new countryside against house of culture in cultural, professional
activities, support to find out the appropriate methods in advanced the role, position
of house of culture in innovation situation today and that is also the new point of the
thesis.
The thesis will contribute applications in improving the quality, effectiveness

of community events at house of culture in new countryside communes in Hau
Giang province, and it can also apply in practice of houses of culture commune in
the Mekong Delta and in the country.

-vi-


MỤC LỤC
TRANG
Trang tựa
Giấy quyết định giao đề tài
CAM ĐOAN ........................................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN ........................................................................................................ ii
TÓM TẮT ............................................................................................................. iii
ASTRACT ............................................................................................................. v
MỤC LỤC............................................................................................................ vii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT .................................................................... x
PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................. 1
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài ............................................................................ 3
2.1. Mục tiêu tổng quát ............................................................................................ 3
2.2. Mục tiêu cụ thể ................................................................................................. 3
3. Tổng quan tình hình nghiên cứu .......................................................................... 3
3.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới .................................................................... 4
3.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam ..................................................................... 6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................ 8
4.1. Đối tượng nghiên cứu ....................................................................................... 8
4.2. Phạm vi nghiên cứu .......................................................................................... 9
5. Phương pháp nghiên cứu ..................................................................................... 9
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn............................................................................ 10

6.1. Về ý nghĩa khoa học ....................................................................................... 10
6.2. Về thực tiễn .................................................................................................... 10
7. Kết cấu luận văn ................................................................................................ 10
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ............................................ 11
1.1. Cơ sở lý luận .................................................................................................. 11
1.1.1. Các khái niệm liên quan đề tài ..................................................................... 11

-vii-


1.1.1.1. Văn hóa, đời sống văn hóa, sinh hoạt cộng đồng ....................................... 11
1.1.1.2. Thiết chế văn hóa, nhà văn hóa ................................................................. 14
1.1.1.3. Nông thôn mới, văn hóa nông thôn ........................................................... 16
1.1.2. Quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về xây dựng thiết chế
văn hóa ....................................................................................................... 18
1.2. Tổng quan về hệ thống trung tâm văn hóa và phong trào xây dựng nông
thôn mới ở Hậu Giang................................................................................. 19
1.2.1. Các trung tâm văn hóa ở tỉnh Hậu Giang ..................................................... 19
1.2.1.1. Trung tâm văn hóa tỉnh Hậu Giang ........................................................... 20
1.2.1.2. Trung tâm Văn hoá - Thể thao cấp huyện .................................................. 25
1.2.1.3. Trung tâm Văn hoá-Thể thao xã (nhà văn hóa xã) ..................................... 27
1.2.1.4. Nhà văn hóa ấp ......................................................................................... 28
1.2.2. Phong trào xây dựng nông thôn mới ở tỉnh Hậu Giang................................. 29
1.3. Tổng quan về xã Vị Thanh, huyện Vị Thủy, tỉnh Hậu Giang ........................... 30
1.3.1. Lịch sử hình thành vùng đất ......................................................................... 30
1.3.2. Vị trí địa lý, môi trường tự nhiên và xã hội .................................................. 31
1.3.3. Quá trình xây dựng nông thôn mới của xã Vị Thanh .................................... 34
CHƯƠNG 2: CÁC DẠNG THỨC SINH HOẠT VĂN HÓA CỘNG
ĐỒNG TẠI NHÀ VĂN HÓA XÃ VỊ THANH ......................................... 39
2.1. Chức năng và những điều kiện hoạt động của nông thôn mới xã Vị

Thanh.......................................................................................................... 39
2.1.1. Chức năng của Nhà văn hóa xã Vị Thanh .................................................... 39
2.1.2. Cơ cấu tổ chức bộ máy và biên chế .............................................................. 42
2.1.3. Cơ sở vật chất và trang thiết bị chuyên dụng ................................................ 43
2.1.4. Nguồn kinh phí hoạt động ............................................................................ 44
2.2. Các dạng thức sinh hoạt cộng đồng ................................................................. 44
2.2.1. Hoạt động thông tin tuyên truyền, cổ động................................................... 45
2.2.2. Hoạt động câu lạc bộ, đội-nhóm .................................................................. 47
2.3. Sự đổi mới hoạt động của nhà văn hóa xã Vị Thanh ....................................... 63

-viii-


2.3.1. Mở rộng không gian, thời gian hoạt động nhà văn hóa ................................. 64
2.3.2. Phát huy tính tự nguyện, tự giác trong tổ chức sinh hoạt cộng đồng ............. 65
2.3.3. Phổ biến kiến thức và hướng dẫn cách làm ăn cho nông dân xã Vị
Thanh.......................................................................................................... 67
2.3.4. Phổ biến giáo dục và đào tạo nghề ở nông thôn............................................ 69
CHƯƠNG 3: VAI TRÒ SINH HOẠT CỘNG ĐỒNG TẠI NHÀ VĂN
HÓA VỊ THANH....................................................................................... 73
3.1. Tác động nhận thức cộng đồng ....................................................................... 73
3.1.1. Tác động nhận thức về chính trị ................................................................... 73
3.1.2. Tác động nhận thức về kinh tế ..................................................................... 75
3.1.3. Tác động nhận thức về xã hội ...................................................................... 76
3.2. Tác động đến đời sống văn hóa cộng đồng ...................................................... 78
3.2.1. Duy trì tính cố kết cộng đồng thông qua các sinh hoạt văn hóa .................... 78
3.2.2. Giữ gìn và phát huy hệ giá trị truyền thống của cộng đồng........................... 79
3.2.3. Tác động đến phong trào sáng tạo ra các giá trị mới ..................................... 84
3.3. Một số giải pháp và khuyến nghị nhằm nâng cao chất lượng sinh hoạt
cộng đồng tại nhà văn hóa xã nông thôn mới Vị Thanh ............................... 88

3.3.1. Cơ sở đề xuất giải pháp ................................................................................ 89
3.3.1.1. Cơ sở pháp lý ............................................................................................ 89
3.3.1.2. Những tồn tại, yếu kém ............................................................................. 92
3.3.2. Xác lập vị thế của nhà văn hóa xã trong xu thế phát triển ............................. 93
3.3.3. Giải pháp ..................................................................................................... 97
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 104
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................. 108
PHỤ LỤC .......................................................................................................... 111

-ix-


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CLB.ĐCTT

Câu lạc bộ Đờn ca tài tử

CLB.HVN

Câu lạc bộ Hát với nhau

CLB.CT

Câu lạc bộ Cờ tướng

CLB.T

Câu lạc bộ Thơ

CLBCQN


Câu lạc bộ cựu quân nhân

CLBXDGĐHP

Câu lạc Xây dựng gia đình hạnh phúc

CLBNKDN

Câu lạc bộ Năng khiếu dạy nghề

CLBNCBSM

Câu lạc bộ Nuôi con bằng sữa mẹ

CLBTGPL

Câu lạc bộ Trợ giúp pháp lý

CLBTNLKT

Câu lạc bộ Thanh niên làm kinh tế

CLBNDUD. Internet

Câu lạc bộ Nông dân ứng dụng Internet

CLBTTCCKCM

Câu lạc bộ Tuyên truyền các ca khúc cách mạng


CLBTGB

Câu lạc bộ Trợ giúp bạn

CLBTDTT

Câu lạc bộ Thể dục thể thao

CSVH

Văn hóa cơ sở

-x-


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” và “Chương
trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới” là những chủ trương lớn của
Đảng và Nhà nước đã và đang được chỉ đạo tổ chức thực hiện trên phạm vi cả nước.
Trong đó, nội dung xây dựng hoàn thiện các thiết chế văn hóa, như nhà văn hóa xã
có vai trò, vị trí vô cùng quan trọng, chính hiệu quả tổ chức hoạt động của nhà văn
hóa xã đã góp phần tuyên truyền cổ vũ nhân dân thực hiện tốt các chủ trương, chính
sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước, đồng thời, giáo dục nâng cao nhận thức, tạo ra
môi trường văn hoá lành mạnh, nâng cao đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân ở
địa phương.
Trong hệ thống trung tâm văn hóa từ trung ương đến cơ sở thì nhà văn hóa
xã có vai trò, vị trí đặc biệt quan trọng, nơi đây vừa tiếp nhận sự chỉ đạo, định
hướng tổ chức hoạt động chuyên ngành của cơ quan chuyên môn các cấp, vừa là nơi

cụ thể hoá những định hướng thông qua các hoạt động chuyên môn. Đồng thời, nhà
văn hóa còn chịu trách nhiệm phối hợp, hợp tác, giao lưu với các đơn vị liên quan
trong và ngoài xã để tổ chức các hoạt động trên lĩnh vực văn hoá quần chúng. Nhà
văn hóa xã còn được xác định là một trong những đơn vị sự nghiệp quan trọng của
ngành văn hóa thông tin & du lịch góp phần phát triển sự nghiệp văn hóa ở địa
phương và thực hành các nhiệm vụ nêu trên. Từ những chức năng và nhiệm vụ quan
trọng trên cho thấy nhà văn hóa xã có vai trò quan trọng trong việc tổ chức các sinh
hoạt văn hóa cộng đồng.
Từ năm 1947 tại chiến khu Hoà Mỹ đã xuất hiện bảng hiệu nhà văn hóa đầu
tiên. Đến nay, sau một quá trình dài phát triển, do nhu cầu phát triển văn hóa xã hội
trong giai đoạn mới, nên tên gọi và chức năng, nhiệm vụ của hệ thống thiết chế này
đã có sự thay đổi, đó chính là lý do ra đời của nhà văn hóa. Nhà văn hóa được thành
lập, từ sự kế thừa và phát triển trên những cơ sở lý luận cơ bản bắt nguồn từ chủ
trương xây dựng hệ thống thiết chế câu lạc bộ-nhà văn hóa của trung ương phổ biến

-1-


từ những thập niên 80. Và trong những năm qua cũng đã có nhiều đề tài nghiên cứu
về tổ chức hoạt động của các thiết chế văn hóa với qui mô lớn, nhưng chủ yếu phân
tích chức năng, nhiệm vụ của trung tâm văn hóa từ cấp huyện, quận và tỉnh thành.
Tuy nhiên, hiện nay chưa có đề tài nào nghiên cứu chuyên sâu về cơ sở lý luận khoa
học và thực tiễn tổ chức hoạt động của nhà văn hóa xã nông thôn mới ở tỉnh Hậu
Giang, đặc biệt là nghiên cứu các tổ chức sinh hoạt cộng đồng tại nhà văn hóa xã.
Vì vậy, việc nghiên cứu thực tiễn hiệu quả hoạt động của nhà văn hóa xã nông thôn
mới là rất cần thiết, vì đây chính là địa điểm thu hút người dân đến tham gia các
hoạt động chính trị, văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao và vui chơi giải trí. Trong
số đó, các sinh hoạt cộng đồng dưới hình thức câu lạc bộ, hội ... đã hoạt động tích
cực và đem lại hiệu quả xã hội cao, như: câu lạc bộ đờn ca tài tử; câu lạc bộ hát với
nhau; câu lạc bộ xây dựng gia đình hạnh phúc; câu lạc bộ trợ giúp pháp lý….,qua

đó, thấy được tầm quan trọng của sinh hoạt cộng đồng trong nhà văn hóa xã.
Mặt khác, trong những năm qua nhà văn hóa xã luôn giữ vai trò quan trọng
trong việc tổ chức thực hiện các chức năng, nhiệm vụ được giao hàng năm, góp
phần phục vụ tốt các nhiệm vụ chính trị và phát triển sự nghiệp văn hoá ở địa
phương. Tuy nhiên, thực tế đã cho thấy, nhà văn hóa xã hoạt động có hiệu quả, thu
hút được người dân đến đây sinh hoạt chủ yếu ở những nhà văn hóa xã nông thôn
mới. Vì ở đây được các cấp quan tâm hỗ trợ vật chất lẫn tinh thần, còn các nhà văn
hóa khác đang ngày càng bộc lộ rõ nhiều vấn đề hạn chế và bất cập. Cho nên, việc
nghiên cứu thực tiễn để bổ sung lý luận làm cơ sở đổi mới hoạt động của nhà văn
hóa xã là vấn đề cấp thiết.
Thực tế cho thấy, qua một thời gian áp dụng mô hình "xã đạt chuẩn văn hóa
nông thôn mới” ở tỉnh Hậu Giang, nhiều nhà văn hóa xã hoạt động có hiệu quả, là
nơi tổ chức sinh hoạt cộng đồng, các tổ chức hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục,
thể thao ngày càng phát triển. Đặc biệt, trong đó có nhà văn hóa xã nông thôn mới
Vị Thanh, huyện Vị Thủy, tỉnh Hậu Giang. Từ một nhà văn hóa của xã nghèo, lạc
hậu, hoạt động chưa được thường xuyên, chỉ thể hiện mỗi khi có các hoạt động
mang tính chất “kỳ”, “cuộc”, “trọng điểm” và chưa thu hút được người dân đến

-2-


tham gia sinh hoạt cộng đồng. Nhưng từ khi có chủ trương xây dựng nông thôn
mới, xã Vị Thanh được sự quan tâm và đầu tư trang bị cơ sở vật chất, từ đó góp
phần phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị, đáp ứng được nhu cầu sinh hoạt cộng đồng của
người dân địa phương.
Xuất phát từ những lý do có cơ sở lý luận khoa học và thực tiễn nêu trên,
người viết chọn đề tài nghiên cứu: “Sinh hoạt cộng đồng tại nhà văn hóa xã nông
thôn mới ở Hậu Giang” để làm luận văn tốt nghiệp cao học chuyên ngành văn hóa
học.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài

2.1. Mục tiêu tổng quát
Nghiên cứu sự tác động của sinh hoạt cộng đồng đến đời sống văn hóa của
người dân; đồng thời nghiên cứu các yếu tố làm ảnh hưởng đến nhận thức xã hội về
vai trò, vị trí, về phương pháp, nội dung và hình thức hoạt động nhà văn hóa. Trên
cơ sở đó đề ra những giải pháp phù hợp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt
động của nhà văn hóa xã nông thôn mới, đáp ứng ngày càng cao nhu cầu sinh hoạt
của cộng đồng trong bối cảnh mới.
2.2. Mục tiêu cụ thể
Tìm hiểu những dạng thức của sinh hoạt cộng đồng gắn với những điều kiện
nhà văn hóa xã từ khi có chủ trương xây dựng nông thôn mới đến nay ở xã Vị
Thanh huyện Vị Thủy tỉnh Hậu Giang.
Đánh giá thực trạng hoạt động sinh hoạt cộng đồng của người dân tại nhà
văn hóa xã, những vấn đề đặt ra cần đổi mới để phù hợp với quá trình phát triển.
Thấy được nhu cầu cấp thiết của việc giáo dục, giao lưu, sáng tạo và vui chơi giải
trí của người dân ở nông thôn. Trên cơ sở đó đề ra những giải pháp để nâng cao
chất lượng, hiệu quả hoạt động sinh hoạt cộng đồng tại nhà văn hóa xã.
3. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Hiện nay có rất nhiều tài liệu bao gồm sách chuyên khảo, giáo trình, những
kỷ yếu, báo cáo, các văn bản pháp quy có liên quan đến đề tài như:

-3-


3.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Đầu tiên, cần phải kể đến quyển “Giáo trình môn học câu lạc bộ, nhà văn hóa
của Liên Xô” do GS Viện sĩ Ikônhicôva chủ biên (bản dịch), Tài liệu dịch của đề tài
quốc gia KX năm 1993. Nội dung của quyển giáo trình tập trung phân tích các hình
thức câu lạc bộ, nhà văn hóa trước và sau thời kì Liên Xô tan rã (1991), (hiện nay là
Liên Bang Nga) bao gồm các hình thức như đội, nhóm (groupe), các câu lạc bộ
(clubs), các hội tình nguyện, hội đoàn xã hội (asociations bénévolé, organisations

sociales). Giáo trình này cũng đã đề cập đến các hình thức nhà văn hóa ở từng cấp
địa phương, các hình thức nhà văn hóa mới đã và đang được hình thành trong thời
buổi hiện đại. Đây là quyển tài liệu quan trọng nghiên cứu về một loại hình của thiết
chế văn hóa, đó là nhà văn hóa, song, đây là một công trình nghiên cứu ở một đất
nước rộng lớn, lãnh thổ trải dài trên cả hai châu lục, chính vì thế, việc nghiên cứu
chi tiết, cụ thể có thể gặp nhiều thiếu sót.
Trong các công trình nghiên cứu văn hóa ở phương Đông thì cần phải đề cập
đến hai quyển “Chính sách văn hóa của Nhật” (bản dịch), Tài liệu dịch của đề tài
quốc gia KX, năm 1993 và quyển “Pháp quy và cơ cấu văn hóa Trung Quốc”, Nhà
xuất bản thế giới, 2002. Cả hai tài liệu đều cho ta thấy rõ diện mạo nền văn hóa đặc
trưng phương Đông, đặc biệt là trong việc tổ chức cơ cấu các cơ quan quản lý và
hoạt động văn hóa. Những quyển này cũng có đề cập đến loại hình thiết chế văn hóa
là nhà văn hóa, cơ quan có nhiệm vụ quản lý hoạt động văn hóa, chính sách quy
hoạch phát triển những trung tâm văn hóa ở những thành phố lớn, chú trọng phát
triển nhà văn hóa ở cơ sở như ở huyện, xã, khu dân cư cộng đồng địa phương,…Hai
tài liệu này là nguồn tư liệu quý giá cho những ai có sở thích và nhu cầu nghiên cứu
về các hoạt động, chính sách văn hóa để so sánh với chính sách, hoạt động văn hóa
ở quốc gia mình. Tuy nhiên, cũng như những quyển sách trên, cả hai quyển này
cũng có phạm vi nghiên cứu chỉ trên đất nước của họ, còn việc tập trung nghiên cứu
để so sánh thấy rõ vấn đề tổ chức hoạt động đối với thiết chế văn hóa cơ sở ở Việt
Nam hiện nay lại là một vấn đề cần thiết.

-4-


Trong cuốn Sự hợp tác và cộng đồng ở nông thôn Thái Lan của tác giả Shin
Ichi Shigetomi (2007), Nxb, Đại học Kinh tế quốc dân đã nhắc đến rất nhiều kinh
nghiệp về doanh nghiệp hóa, trong đó nói đến tổ chức theo công thức “4 nhà” gồm:
Nhà nước, nhà doanh nghiệp, nhà ngân hàng, nhà nông. Công thức này nhằm vào
việc lập ra các doanh nghiệp kinh doanh nông sản xuất khẩu theo hướng cả 4 nhà đi

từ đầu đến cuối của quá trình sản xuất. Hình thức kết hợp thì linh động thay đổi
theo từng loại công việc và sản phẩm, nhưng về nguyên tắc, thì cả 4 nhân vật này
đều là chủ thể của quá trình sản xuất.
Công nghiệp hóa nông nghiệp nghĩa là nông nghiệp trở thành một khâu gắn
chặt với công nghiệp làm hàng xuất khẩu, do đó phải phát triển các doanh nghiệp
trong công nghiệp đảm nhận liên hiệp với nông dân tạo ra sản phẩm để chế biến có
hiệu quả xuất khẩu cao. Kết quả cuối cùng là Thái Lan có được một hệ thống các
doanh nghiệp chuyên kinh doanh nông nghiệp. Lúc đầu, Thái Lan làm mô hình này
trong chăn nuôi, sau phát triển sang các mặt hàng khác như gạo, thủy sản, và đặc biệt
là hoa quả nhiệt đới, hiện đứng đầu thế giới. Đến năm 1989, Thái Lan có đủ 14 loại
nông sản xuất khẩu trên thế giới được thực hiện chủ yếu vào sự liên kết này. Quyển
sách này giúp người đọc có cái nhìn mới về nông thôn và nông dân ở Hậu Giang
trong giai đoạn hiện nay.
Trong Báo cáo số 4390/BC-BNN-CB, ngày 31 tháng 12 năm 2010 của Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về kết quả hội thảo quốc tế “Mỗi làng một sản
phẩm” có nêu lên những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. Phong trào “Mỗi làng
một sản phẩm” chú trọng phát huy vai trò của người nông dân. Phong trào này là
một hoạt động phát triển nông thôn nội sinh nên người dân nông thôn đóng luôn vai
trò chủ đạo trong mọi hoạt động. Chính họ là người phát hiện ra tiềm năng của quê
hương mình, lập kế hoạch để phát triển các sản phẩm mang đặc thù của vùng quê
mình. Cũng chính họ là người đứng ra tổ chức, trang trải kinh phí, đồng thời chịu
mọi rủi ro cho các dự án phát triển nông thôn của mình. Phong trào “Mỗi làng, một
sản phẩm” không chỉ đơn thuần là một phong trào phát triển sản phẩm. Mục đích
cao nhất của phong trào này là tạo cho cư dân địa phương niềm tự hào về quê

-5-


hương của họ, từ đó sẵn sàng đón nhận mọi thời cơ cũng như thách thức của quá
trình hội nhập toàn cầu.

3.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam
Một tài liệu có liên quan đến đề tài nghiên cứu của luận văn này, đó là Giáo
trình “Cơ sở văn hóa Việt Nam” của tác giả Trần Ngọc Thêm, Nhà xuất bản Giáo
dục năm 1997. Quyển sách này là cơ sở quan trọng, là nguồn gốc xuất phát cho việc
nghiên cứu các đề tài có liên quan đến văn hóa Việt Nam. Tuy nhiên, chính vì chỉ
mang tính chất cơ sở, cái thuộc về cơ bản, khái quát nên quyển sách chủ yếu chỉ
trình bày một cách gọi là chung nhất về văn hóa Việt Nam, còn liên quan đến thiết
chế văn hóa cơ sở thì chỉ có thể tìm thấy rải rác trong một số chương. Chẳng hạn
như trong phần phân tích về “Tổ chức nông thôn” thì tác giả chỉ đề cập đến các thiết
chế xã hội, như: gia đình Việt Nam, xóm, làng, thôn, xã. …Như vậy, quyển giáo
trình này chỉ là cơ sở đầu tiên cho việc nghiên cứu, đưa ra những cơ sở lý luận,
nguồn gốc hình thành thiết chế văn hóa, còn việc quản lý Nhà nước và tổ chức hoạt
động đối với các thiết chế văn hóa như thế nào thì vẫn chưa hề đề cập đến.
Một trong những quyển sách có giá trị rất quan trọng có liên quan khá mật
thiết đến đề tài này là quyển “Quản lý hoạt động văn hóa” của nhóm Tác giả
Nguyễn Văn Hy, TS.Phan Văn Tú, Hoàng Sơn Cường, Lê Thị Hiền, Trần Thị Diên,
Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, Trường Đại học văn hóa Hà Nội năm 1998. Trong
quyển sách này, các tác giả đã nghiên cứu và đưa bốn vấn đề lớn: Một là, đại cương
về quản lý hoạt động văn hóa, trong đó đưa ra khái niệm hoạt động văn hóa, quan
niệm về quản lý và quản lý hoạt động văn hóa, đặc biệt có nội dung quản lý các
hoạt động đối với các thiết chế văn hóa và quản lý các hoạt động giao lưu văn hóa
của con người trong xã hội. Hai là, chính sách quản lý hoạt động văn hóa, trong đó
quan trọng là việc hoạch định thực hiện các chính sách văn hóa trong tương lai,
những thể chế cơ bản của chính sách văn hóa. Ba là, nội dung quản lý hoạt động
văn hóa hiện nay. Bốn là, quản lý xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở hiện nay. Như
vậy, quyển sách này đã đề cập một cách khá toàn diện về việc quản lý nhà nước đối
với các hoạt động văn hóa, tuy nhiên, việc nghiên cứu chỉ dừng lại ở việc quản lý

-6-



các hoạt động văn hóa nói chung, có phạm vi khá rộng bao gồm những hoạt động
văn hóa của cá nhân, những giá trị văn hóa tinh thần và bao gồm cả các cơ sở vật
chất văn hóa,… còn việc nghiên cứu sâu đi vào các thiết chế văn hóa cơ sở và quản
lý nhà nước đối với hoạt động của các thiết chế văn hóa cơ sở thì chưa được đề cập
một cách cụ thể.
Quyển sách có giá trị rất quan trọng có liên quan khá mật thiết đến đề tài này
là quyển: “Đại cương công tác nhà văn hóa”, của nhóm tác giả Trần Văn Ánh,
Nguyễn Xuân Hồng, Nguyễn Văn Hy, Nhà xuất bản Văn hoá Thông tin, Hà Nội
năm 2002. Trong sách này, các tác giả đã nghiên cứu và đưa bốn vấn đề lớn: quản
lý hoạt động văn hóa, trong đó đưa ra khái niệm hoạt động văn hóa, quan niệm về
quản lý và quản lý hoạt động văn hóa, đặc biệt có nội dung quản lý các hoạt động
đối với các thiết chế văn hóa và quản lý các hoạt động giao lưu văn hóa của con
người trong xã hội. Hai là, chính sách quản lý hoạt động văn hóa, trong đó quan
trọng là việc hoạch định thực hiện các chính sách văn hóa trong tương lai, những
thể chế cơ bản của chính sách văn hóa. Ba là, nội dung quản lý hoạt động văn hóa
hiện nay. Bốn là, quản lý xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở, trong đó; đã đề cập
sâu về các phương pháp hoạt động của các loại hình hoạt động của nhà văn hóa.
Những cơ sở lý luận thực tiễn về tổ chức hoạt động của nhà văn hóa chính là những
vấn đề liên quan trực tiếp đến đề tài, giúp cho người viết trong việc nghiên cứu; kế
thừa, bổ sung và phát triển để vận dụng vào việc xây dựng những cơ sở lý thuyết và
thực tiễn của sinh hoạt cộng đồng tại nhà văn hóa xã trong luận văn này.
Các đề tài nghiên cứu được đăng trong “Kỷ yếu hội nghị, hội thảo nâng cao
chất lượng, hiệu quả hoạt động hoạt động của hệ thống thiết chế văn hóa cơ sở” của
Cục Văn hóa Cơ sở-Bộ VH, TT&DL tháng 10 năm 2011. Kỷ yếu này đã đề cập trực
tiếp đến thiết chế văn hóa cơ sở mà không như những tài liệu trên, đơn thuần chỉ
nghiên cứu về các hoạt động văn hóa. Kỷ yếu đã xác định khái niệm thiết chế văn
hóa cơ sở, phân cấp thiết chế văn hóa cơ sở gồm 4 cấp: Trung ương, tỉnh thành,
quận huyện và cơ sở. Nội dung chính của kỷ yếu là đưa ra giải pháp để nâng cao
chất lượng, hiệu quả hoạt động của hệ thống thiết chế văn hóa cơ sở, theo đó thì


-7-


gồm có 3 giải pháp chính: nâng cao nhân lực, đảm bảo phát triển cơ sở vật chất và
đẩy mạnh công tác phối hợp giữa các đơn vị trong và ngoài ngành. Kỷ yếu là một
tài liệu có giá trị cao trong việc xác định các biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động
của các thiết chế văn hóa cơ sở. Tuy nhiên, kỷ yếu chỉ mới trình bày lên được một
vấn đề, đó là thiết chế văn hóa cơ sở còn giải pháp đổi mới hoạt động đối với các
thiết chế này thì vẫn chưa sát hợp với từng cấp cụ thể. Do đó, việc nghiên cứu thêm
đổi mới sinh hoạt cộng đồng tại nhà văn hóa xã là một công việc hết sức cần thiết
trong tình hình hiện nay.
Trên đây là một số tài liệu bao gồm giáo trình, sách chuyên khảo, những kỷ
yếu, báo cáo, tài liệu có liên quan đối với các thiết chế văn hóa cơ sở. Bên cạnh đó,
một trong những nguồn tài liệu cũng có giá trị tham khảo và nghiên cứu sâu đề tài
này chính là các bài viết cá nhân đăng trên một số báo, tạp chí chuyên ngành. Đây
chính là những ý kiến nhận xét riêng của mỗi cá nhân tác giả, là cơ sở quan trọng
cho việc đề xuất ra chính kiến của người viết.
Nhưng các tài liệu trên chỉ trình bày theo từng khía cạnh, từng lĩnh vực
chuyên môn, chưa có đề tài khoa học nào đi sâu vào lý thuyết một cách có hệ thống
hoặc nghiên cứu từng trường hợp cụ thể mang tính đặc thù địa phương nhất là về
sinh hoạt cộng đồng của người dân tại nhà văn hóa xã nông thôn mới. Các nguồn tài
liệu trên là những cơ sở lý luận khoa học quý báu, quan trọng giúp cho người viết
nghiên cứu thực hiện đề tài, nhằm góp phần hệ thống lại cơ sở lý luận và thực tiển
về sinh hoạt cộng đồng của người dân, thông qua nghiên cứu cụ thể trường hợp tại
nhà văn hóa xã nông thôn mới Vị Thanh, huyện Vị Thủy, tỉnh Hậu Giang.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu sinh hoạt cộng đồng tại nhà văn hóa ở tỉnh
Hậu Giang. Do điều kiện khách quan là tất cả nhà văn hóa đều chịu sự điều chỉnh

chung của quy chế hoạt động được nhà nước ban hành và sự chi phối của 19 tiêu chí
xây dựng xã nông thôn mới phổ biến trên phạm vi toàn tỉnh. Do đó, người viết đã

-8-


chọn xã Vị Thanh, huyện Vị Thủy, tỉnh Hậu Giang làm trường hợp nghiên cứu cụ
thể.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Không gian: Luận văn nghiên cứu về sinh hoạt cộng đồng tại nhà văn hóa
xã nông thôn mới Vị Thanh, huyện Vị Thủy, tỉnh Hậu Giang. Tuy nhiên, quá trình
thực hiện đề tài này chỉ kết hợp phân tích, phỏng vấn sâu về sinh hoạt cộng đồng
của người dân thông qua các hoạt động vui chơi, giải trí, văn hóa, văn nghệ, thể dục
thể thao ở các nhóm, các câu lạc bộ đang sinh hoạt tại nhà văn hóa xã, để thấy được
hiệu quả của Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới đối với
đời sống cộng đồng của người dân, nhưng chủ yếu nghiên cứu thực tiễn diễn ra tại
nhà văn hóa xã Vị Thanh
- Thời gian nghiên cứu: Từ năm 2010 đến nay (từ khi có chủ trương chỉ đạo
toàn quốc thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nhà văn hóa xã
nông thôn mới).
5. Phương pháp nghiên cứu
Đây là đề tài thuộc ngành văn hóa học song nghiêng về hướng ứng dụng, do
vậy, người viết đã áp dụng cách tiếp cận liên ngành khoa học: sử học, xã hội học
văn hóa và nhân học văn hóa trong nghiên cứu đối tượng và phạm vi của đề tài.
Bên cạnh đó, người viết tiến hành phương pháp thao tác sau đây:
Phương pháp nghiên cứu tổng hợp và phân tích: các tư liệu, tài liệu đã
nghiên cứu liên quan đến đề tài.
Phương pháp khảo sát, điền dã thực địa: tìm hiểu thực trạng hoạt động nhà
văn hóa trong việc tổ chức sinh hoạt cộng đồng tại xã nông thôn mới Vị Thanh,
huyện Vị Thủy, tỉnh Hậu Giang.

Phương pháp phỏng vấn sâu: tìm hiểu nhận thức của những người có trọng
trách liên quan đến nhà văn hóa và các đối tượng thụ hưởng hoạt động từ nhà văn
hóa.

-9-


Phương pháp nghiên cứu trực tiếp qua khảo sát thực tế, phỏng vấn các nhà
nghiên cứu, những người quản lý văn hóa của huyện, xã, người dân và cán bộ, công
nhân viên tại xã.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
6.1. Về ý nghĩa khoa học
Đề tài có thể làm tài liệu tham khảo, cung cấp thông tin cho công tác nghiên
cứu và giúp các nhà quản lý văn hóa-xã hội hoạch định các chính sách văn hóa, đề
ra định hướng và chỉ đạo hiệu quả đối với nhà văn hóa xã. Điểm mới của đề tài là
góp phần cho thấy được Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn
mới rất quan trọng đối với nhà văn hóa xã trong lĩnh vực hoạt động văn hóa, chuyên
môn, tìm ra những phương pháp hoạt động thích hợp để nâng cao vai trò, vị trí của
nhà văn hóa xã trong tình hình đổi mới hiện nay.
6.2. Về thực tiễn
Luận văn sẽ góp phần ứng dụng vào việc nâng cao chất lượng, hiệu quả sinh
hoạt cộng đồng tại nhà văn hóa xã nông thôn mới ở Hậu Giang và có thể ứng dụng
vào thực tiển của các nhà văn hóa xã trong phạm vi khu vực đồng bằng sông Cửu
Long và cả nước.
7. Kết cấu luận văn
Để thực hiện các mục tiêu nghiên cứu nêu trên, học viên dự kiến sẽ cấu trúc
nội dung của luận văn như sau:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục luận văn được bố
cục gồm 3 chương:
- Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn.

- Chương 2: Các dạng thức sinh hoạt văn hóa cộng đồng tại nhà văn hóa xã
Vị Thanh.
- Chương 3: Vai trò sinh hoạt cộng đồng tại nhà văn hóa Vị Thanh.

-10-


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lý luận
Nghiên cứu về sinh hoạt cộng đồng ở nhà văn hóa là đề tài còn rất mới mẻ.
Quá trình nghiên cứu người viết phải mở rộng các khái niệm liên quan đến đề tài để
có thể tìm ra được nội hàm của thuật ngữ “sinh hoạt cộng đồng” trong ngữ cảnh nhà
văn hóa. Nhà văn hóa là một thiết chế văn hóa quan trọng trong công tác quản lý và
tổ chức hoạt động văn hóa hiện nay theo quan điểm của Đảng và sự quản lý của nhà
nước. Do vậy, cũng trong chương 1 này, ngoài những định nghĩa của các nhà
nghiên cứu, người viết còn sử dụng một số định nghĩa được trích ra từ những văn
bản được ban hành chính thức từ công tác quản lý văn hóa-xã hội.
1.1.1. Các khái niệm liên quan đề tài
1.1.1.1. Văn hóa, đời sống văn hóa, sinh hoạt cộng đồng
Văn hóa: trên thế giới có rất nhiều khái niệm về văn hóa khác nhau, trong
giới hạn nghiên cứu này xin trình bày một vài quan niệm về văn hóa mạng tính chất
phổ biến. Đầu tiên xin kể đến định nghĩa văn hóa đầu tiên do Edward Burnett
Taylor - nhà nhân loại học phương Tây đưa ra vào năm 1871, ông định nghĩa: “Văn
hóa, hiểu theo nghĩa rộng nhất của nó, là toàn bộ phức thể bao gồm hiểu biết, tín
ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, pháp luật, phong tục và những khả năng, tập quán
khác mà con người có được với tư cách là một thành viên của xã hội” [31].
Năm 2002, UNESCO đã đưa ra định nghĩa: “Văn hóa nên được đề cập đến
như là một tập hợp của những đặc trưng về tâm hồn, vật chất, tri thức và xúc cảm
của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội và nó chứa đựng, ngoài văn học

và nghệ thuật, cả cách sống, phương thức chung sống, hệ thống giá trị, truyền thống
và đức tin” [31].
Theo quan niệm của UNESCO, “văn hóa” trước hết là một phức thể - tổng
thể có đặc trưng diện mạo về “tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm”… khắc hoạ

-11-


nên bản chất của một cộng đồng gia đình, xóm, làng, vùng miền, quốc gia, xã hội…
Văn hóa không chỉ “bao gồm nghệ thuật và văn chương” mà cả “những lối sống,
những quyền cơ bản của con người, những hệ thống giá trị, những truyền thống, tín
ngưỡng”. UNESCO cũng quan niệm di sản văn hóa gồm hai dạng: văn hóa hữu thể,
vật chất, hữu hình (đình, đền, chùa, miếu, lăng mộ, nhà sàn…) và văn hóa vô thể,
phi vật thể, vô hình (âm thanh, múa, truyền thống, truyền miệng, ngôn ngữ, huyền
thoại, nghi thức, phong tục tập quán, y dược cổ truyền, việc nấu ăn và các món ăn,
lễ hội, bí quyết và quy trình công nghệ của các nghề truyền thống…), nhờ có văn
hóa, con người có khả năng suy xét về bản thân.
Ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu văn hóa, từ các hướng tiếp cận khác nhau,
với những mục đích nghiên cứu cụ thể đã đưa ra hàng chục quan niệm về văn hóa
khác nhau. Không trực tiếp bàn về khái niệm “văn hóa” nhưng Hồ Chí Minh cũng
đã đưa ra định nghĩa: Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người
mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn
giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và
các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa
[18, tr. 431].
Hoàng Vinh: Văn hóa là sản phẩm của hoạt động người, nó không phải là một
cái gì tồn tại tự nó, bên ngoài cộng đồng nhân loại, mà toàn bộ những sản phẩm, hành
động chứa đựng vốn kinh nghiệm xã hội, tạo thành môi trường văn hóa, nuôi dưỡng
đời sống tinh thần của con người [28, tr. 103].
Trần Ngọc Thêm định nghĩa: “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật

chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn
trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và môi trường xã hội của
mình” [20, tr. 13].
Với nhận thức mới về văn hóa, văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp
hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (khóa VIII) khẳng định: “Văn hóa Việt
Nam là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần do cộng đồng các dân tộc Việt
Nam sáng tạo ra trong quá trình dựng nước và giữ nước” [7, tr. 6].

-12-


Đời sống văn hóa: là một bộ phận của đời sống xã hội; là một phức thể
những hoạt động sống của con người, nhằm đáp ứng nhu cầu sinh học và xã hội của
nó. Tháng 3 năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết sách Đời sống mới. “Đời sống
mới bao gồm: đạo đức mới, lối sống mới và nếp sống mới. Ba nội dung có quan hệ
mật thiết với nhau, trong đó đạo đức đóng vai trò chủ yếu. Đạo đức gắn liền với lối
sống và nếp sống”.
Cộng đồng: là tầng cấu trúc sơ đẳng của xã hội, trong đó các thành viên liên
kết với nhau bằng mối quan hệ xã hội nhất định như gia đình, xóm giềng, nhóm
bạn, nhóm lứa tuổi, nhóm kinh tế...
Sinh hoạt cộng đồng: là những hoạt động thuộc về đời sống hằng ngày của
một người hay một cộng đồng người, bao gồm sinh hoạt vật chất và sinh hoạt tinh
thần, như sinh hoạt gia đình; sinh hoạt tập thể của một tổ chức; sinh hoạt câu lạc bộ;
sinh hoạt đoàn thanh niên …
Từ sinh hoạt còn dùng để chỉ những hoạt động có tính chất liên kết giữa cá
thể (thành viên) và tập thể (cộng đồng) trong xã hội người. Trong đời sống con
người, nội hàm khái niệm sinh hoạt còn có nghĩa là sự thiết lập các mối quan hệ để
tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần. Những giá trị đó được sàng lọc, tích hợp
qua nhiều năm tháng và trở thành tài sản văn hóa chung của một cộng đồng. Ngoài
ra, từ sinh hoạt cũng gợi cho con người những ý nghĩ về sự lao động và sáng tạo

trên 2 phương diện vật chất và tinh thần. Chính vì vậy mà Đào Duy Anh trong Việt
Nam văn hóa sử cương đã định nghĩa: “Văn hóa tức là sinh hoạt” [1]. Từ khái niệm
“sinh hoạt” đã nảy ra khái niệm “sinh hoạt cộng đồng” trong các hoạt động sáng
tạo, giao lưu và giải trí văn hóa.
Như vậy, sinh hoạt cộng đồng là những hoạt động sống của con người trên
cả 2 phương diện vật chất và tinh thần. Những hoạt động này trong khuôn khổ của
nhà văn hóa ở cơ sở là những hoạt động nhằm hướng đến sự liên kết của một nhóm
người có cùng mục đích, nhu cầu; họ hoạt động để thỏa mãn nhu cầu giáo dục, giao
lưu, sáng tạo và thưởng thức những sản phẩm văn hóa do chính họ làm ra hay
những sản phẩm văn hóa từ những cộng đồng khác.

-13-


Từ khái niệm “sinh hoạt cộng đồng” dẫn đến một thuật ngữ liên quan ở góc
độ quản lý đó là “công tác tổ chức sinh hoạt cộng đồng”. Đây là loại hoạt động đòi
hỏi rất nhiều thiện chí và sự kiên nhẫn, bởi vì một khi đã gọi là "việc chùa" thì mọi
hoạt động đều được dựa trên sự tình nguyện và tự giác của mỗi người, và chính vì
trong những công việc này, những người tham gia thực hiện thường không nhận
được một thù lao vật chất nào nên việc theo dõi, đôn đốc nếu không chuẩn bị trước
và có sự khéo léo trong việc điều động sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Một số các kỹ
năng sinh hoạt mà chúng ta cần rèn luyện là kỹ năng về tổ chức, vận động, thuyết
phục, lề lối làm việc khoa học và hữu hiệu và một tinh thần làm việc tập thể theo
nguyên tắc sinh hoạt dân chủ.
1.1.1.2. Thiết chế văn hóa, nhà văn hóa
Theo Đại từ điển tiếng Việt, từ thiết chế và thể chế đồng nghĩa về nội dung
và được hiểu là “Những quy định, luật lệ của một chế độ xã hội” [30, tr. 6].
Nhưng theo quan niệm thông dụng, “thể chế chỉ luật lệ, quy định của một
dạng hoạt động nào đó của con người; còn thiết chế chỉ một tổ chức, cơ sở vật chất
với thể chế vận hành cụ thể của nó” [2, tr. 156].

Thiết chế văn hóa là thuật ngữ được sử dụng rộng rãi trong ngành văn hóa
Việt Nam từ thập niên 70 thế kỷ XX. Nhưng đến thời kỳ đổi mới, quan niệm thiết
chế văn hóa cơ sở mới được sử dụng rộng rãi trong các văn bản của Đảng và Nhà
nước và cả chuyên ngành văn hóa. Khi đề cập về văn hóa cơ sở, ở thời kỳ nền kinh
kế bao cấp, thiết chế văn hóa là phương tiện hữu hiệu để chuyển tải sáu mặt hoạt
động của văn hóa cơ sở đó là: thông tin cổ động, văn nghệ quần chúng, thư viện,
nhà văn hóa, giáo dục truyền thống và nếp sống văn hoá làm nội dung hoạt động
với phương châm là lấy xã, phường, thị trấn là đơn vị cơ sở để hoạt động. Tuy
nhiên, từ khi thực hiện công cuộc đổi mới, thiết chế văn hóa dần điều chỉnh nội
dung hoạt động cho phù hợp và lấy địa bàn từ tỉnh đến xã, phường, thị trấn làm đơn
vị cơ sở để hoạt động. Như vậy, hệ thống thiết chế văn hóa cơ sở hiện nay gồm: cấp
tỉnh, cấp huyện, cấp xã. Tuy nhiên, thiết chế văn hóa cơ sở còn hình thành ở ấp,
bản, buôn, khu vực (ấp).

-14-


Thiết chế văn hóa là một thuật ngữ chuyên ngành, chúng ta thường nghe rất
quen thuộc các thuật ngữ như: thiết chế văn hóa, thiết chế giáo dục, thiết chế y tế
v.v… Mỗi thiết chế đều được cấu thành từ bốn yếu tố cơ bản bắt buộc, đó là: bộ
máy tổ chức, cơ sở vật chất, nội dung và kinh phí đảm bảo cho hoạt động thường
xuyên. Như vậy, thiết chế văn hóa là chỉnh thể văn hóa hội tụ đầy đủ bốn yếu tố để
nhận biết bao gồm: cơ sở vật chất; bộ máy tổ chức, nhân sự; quy chế hoạt động;
nguồn kinh phí, chỉ riêng ngôi nhà hoặc công trình văn hóa chưa đủ để gọi là thiết
chế văn hóa.
Với những quan niệm nêu trên và tiếp cận ở lĩnh vực chuyên ngành văn hóa
thì thiết chế văn hóa được hiểu như sau: “Thiết chế văn hóa là tổ chức hoạt động
nghiệp vụ văn hóa, bao gồm: cơ sở vật chất, phương tiện hoạt động; tổ chức bộ máy
cán bộ và các nội dung công tác để xây dựng đời sống văn hóa cơ sở; đáp ứng nhu
cầu của nhân dân về sinh hoạt, hưởng thụ, sáng tạo và bảo tồn bản sắc văn hóa các

dân tộc Việt Nam” [5, tr. 8]. Phạm vi được đề cập trong luận văn này là thiết chế
văn hóa công lập chuyên ngành tức các trung tâm văn hóa, có hệ thống tổ chức hoạt
động từ trung ương đến các cấp cơ sở tỉnh, huyện, xã, ấp do ngành VHTT&DL
quản lý.
Nhà văn hóa xã: còn được gọi là TTVH-TT xã từ khi có Thông tư số:
12/2010/TT-BVHTTDL ngày 22 tháng 12 năm 2010 của Bộ Văn hóa, Thể thao và
Du lịch quy định mẫu về tổ chức, hoạt động và tiêu chí của TTVH-TT xã. Thông tư
đã qui định rõ về chức năng, nhiệm vụ của trung tâm văn hóa xã:
TTVH-TT xã là nơi tổ chức các hoạt động văn hóa-thông tin và học tập của
cộng đồng xã, bao gồm; nhà văn hóa đa năng (hội trường, phòng chức năng, phòng
tập, các công trình phụ trợ và các dụng cụ, trang thiết bị tương ứng theo quy định)
và sân thể thao phổ thông (sân bóng đá, sân bóng chuyền, các sân nhảy cao, nhảy
xa, đẩy tạ và tổ chức các môn thể thao dân tộc của địa phương [24, tr.26].
TTVH-TT xã chịu sự quản lý lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Ủy ban nhân
dân xã và sự chỉ đạo, hướng dẫn về nghiệp vụ chuyên môn của trung tâm văn hóa
cấp huyện. Trung tâm văn hóa huyện vừa tổ chức các hoạt động chuyên môn phục

-15-


vụ các nhiệm vụ chính trị địa phương vừa chỉ đạo, hướng dẫn trực tiếp về hoạt động
nghiệp vụ cho các nhà văn hóa ấp. Trung tâm văn hóa xã được xác định là đơn vị cơ
sở (theo 4 cấp hành chính) có nhiệm vụ chuyển tải các hoạt động chuyên môn trong
hệ thống trung tâm văn hóa đến quần chúng nhân dân.
1.1.1.3. Nông thôn mới, văn hóa nông thôn
Nông thôn: Nông thôn là phần lãnh thổ không thuộc nội thành, nội thị các
thành phố, thị xã, thị trấn; được quản lý bởi cấp hành chính cơ sở là Ủy ban nhân
dân xã [24, tr. 18].
Đến nay ở Việt Nam, khái niệm nông thôn được thống nhất với quy định tại
Thông tư số 54/2009/TT-BNNPTNT ngày 21-8-2009 của Bộ Nông nghiệp và Phát

triển nông thôn về việc hướng dẫn thực hiện Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới.
cụ thể là: "nông thôn là phần lãnh thổ không thuộc nội thành, nội thị các thành phố,
thị xã, thị trấn được quản lý bởi cấp hành chính cơ sở là Ủy ban nhân dân xã”.
Văn hóa nông thôn: được xác định như một phạm trù của văn hóa truyền
thống và mang ý nghĩa của văn hóa truyền thống. Bởi vì văn hóa truyền thống được
hun đúc từ những thành quả lao động của cha ông trong quá trình xây dựng, phát
triển đất nước từ nền tảng làng xã nông thôn. Đây còn là nền văn hóa được hình
thành trên nền tảng của nông nghiệp cổ truyền mà dấu ấn của nó vẫn còn thể hiện
trong phương thức sản xuất, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong xã hội
hiện đại. Văn hóa truyền thống là những biểu hiện của các mối quan hệ, các phong
tục, các luật lệ, hương ước… được xây dựng từ bao đời trong cuộc sống nông thôn.
Nói đến văn hóa truyền thống hay văn hóa nông thôn là nói đến truyền thống ứng
xử xã hội của dân tộc. Truyền thống này được thể hiện qua triết lý sống của cộng
đồng và trở thành quan niệm sống, quan niệm lý giải cuộc sống và cũng trở thành
lối sống, nếp sống, lối hành xử của cộng đồng thông qua các mối quan hệ giữa con
người với con người và giữa con người với môi trường tự nhiên. Trong cách ứng xử
về cuộc sống xã hội đó, văn hóa nông thôn cũng chứa đựng các tính chất cơ bản của
cuộc sống người nông dân.

-16-


×