Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

TIỂU LUẬN LỊCH sử ĐẢNG VAI TRÒ của NGUYỄN ái QUỐC đối với sự RA đời của ĐẢNG CỘNG sản VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (118.23 KB, 11 trang )

1
VAI TRÒ CỦA LÃNH TỤ NGUYỄN ÁI QUỐC
ĐỐI VỚI SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
(Tiểu luận thu hoạch môn Lịc sử Đảng )
Mùa xuân năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Đây là sự
kiện có tính bước ngoặt trong con đường cách mạng Việt Nam, chấm dứt
thời kỳ khủng hoảng về đường lối của phong trào yêu nước Việt Nam, mở
ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc Việt Nam - kỷ nguyên có Đảng lãnh
đạo, có lý luận khoa học, chân chính soi đường. Đảng Cộng sản Việt Nam
ra đời cũng là sự kiện có ý nghĩa quan trọng của phong trào vô sản thế giới.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là kết quả của sự chín muồi về thời
cơ, nhu cầu khách quan tất yếu của cách mạng Việt Nam, đó cũng là kết
quả của sự vận dụng sáng tạo quy luật, lý luận về xây dựng Đảng kiểu mới
của giai cấp công nhân vào điều kiện, hoàn cảnh Việt Nam.
Sau bao năm bôn ba, học hỏi và hoạt động trong phong trào công
nhân khắp thế giới, anh thanh niên yêu nước Nguyễn Ái Quốc đã nhận ra
rằng, nhân dân Việt Nam đã nhiều lần nổi dậy đấu tranh anh dũng chống đế
quốc Pháp, nhưng đều bị thất bại, vì chưa có lý luận chủ nghĩa Mác Lênin, chưa có đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn, không hiểu
tình hình thế giới, không biết so sánh lực lượng ta và lực lượng địch, không
có "mưu chước" không hiểu "sách lược", không biết nắm thời cơ, "chưa
nên làm đã làm, khi nên làm lại không làm". Vì vậy, những người cách
mạng phải giảng giải cho nhân dân hiểu lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin,
tình hình và kinh nghiệm cách mạng thế giới.
Nắm vững tính chất và đặc điểm xã hội Việt Nam, đứng vững trên
lập trường của giai cấp công nhân, thấm nhuần học thuyết của Lênin về vấn
đề dân tộc và thuộc địa, vận dụng một cách sáng tạo kinh nghiệm Cách
mạng tháng Mười Nga vào điều kiện cụ thể của nước ta, Nguyễn Ái Quốc
khẳng định: muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào
khác con đường cách mạng vô sản; chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa
cộng sản mới giải phóng các dân tộc bị áp bức và những người lao động
trên thế giới thoát khỏi ách nô lệ. Nhiệm vụ trước mắt của Cách mạng Việt




2
Nam là giải phóng dân tộc, đánh đổ đế quốc Pháp và phong kiến tay sai.
Người nhấn mạnh: công nhân và nông dân là lực lượng chủ yếu của cách
mạng vì công nông bị áp bức, bóc lột nặng nề nhất và họ là lực lượng đông
nhất. Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, theo
đường lối của Quốc tế cộng sản, quan hệ mật thiết với cách mạng Pháp và
phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa khác.
Theo quan điểm của Nguyễn Ái Quốc, cách mạng là việc chung
của quần chúng nhân dân, cho nên muốn làm cách mạng, trước hết chúng
ta phải giác ngộ, tổ chức, đoàn kết và lãnh đạo các tầng lớp nhân dân đấu
tranh. Những người cách mạng phải tổ chức các hội quần chúng như công
hội nông hội, phụ nữ, thanh niên…Muốn tổ chức và đoàn kết được các lực
lượng cách mạng, muốn có đường lối và phương pháp cách mạng đúng
đắn, trước hết phải có đảng cách mạng, để trong thì vận động và tổ chức
nhân dân, ngoài thì liên lạc với các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản các
nước, Đảng có vững, cách mạng mới thành công, cũng như người cầm lái
có vững, thuyền mời chạy. Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa Mác Lênin làm cốt. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí
khôn, tàu không có kim chỉ nam. "Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa
nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là
chủ nghĩa Lênin". Và một trong những công việc được Nguyễn Ái Quốc
tập trung chỉ đạo là chuẩn bị cho việc thành lập Đảng của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động Việt Nam.
Sau một thời gian ở trên đất Liên Xô để nghiên cứu chế độ Xô Viết
và kinh nghiệm xây dựng đảng theo nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin,
đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã về gần Việt Nam để xúc tiến việc chuẩn bị
thành lập Đảng. Ngày 11/11/1924, Người đến Quảng Châu (Trung Quốc).
Tại Quảng Châu. Nguyễn Ái Quốc lấy tên là Lý Thụy, làm cán bộ
phiên dịch cho phải đoàn cố vấn của Chính phủ Liên Xô đến giúp Chính

phủ Quốc dân đảng Trung Quốc. Việc đầu tiên của Người là bắt mối liên
lạc với Tâm tâm xã và tổ chức yêu nước của cụ Phan Bội Châu đang hoạt
động ở Quảng Châu.


3
Lúc này cụ Phan bội Châu đã cải tổ Việt Nam quang phục Hội
thành Việt Nam quốc dân đảng. Nguyễn Ái Quốc viết thư góp ý kiến với cụ
Phan Bội Châu về đường lối và phương pháp cách mạng. Cụ tiếp thu
những ý kiến đó, nhưng chưa kịp sửa chữa sai lầm của mình thì cụ đã bị đế
quốc Pháp bắt đưa về nước (1925).
Đồng chí Nguyễn Ái Quốc chọn số thanh niên yêu nước trong các
tổ chức cách mạng ở trong nước ra, mở Trường huấn luyện chính trị để đào
tạo họ trở thành những cán bộ cách mạng và đưa họ trở về nước hoạt động
trong giai cấp công nhân và nhân dân. Trường mở được 10 khóa, mỗi khóa
từ một tháng rưỡi đến ba tháng, tổng số học viên có khoảng 200 người. Đó
là đội ngũ cán bộ nòng cốt đầu tiên cho cách mạng Việt Nam, với những
người tiêu biểu như: Trần Phú, Lê Hồng Phong, Ngô Gia Tự...
Nguyễn Ái Quốc là người phụ trách trường, vừa là giảng viên
chính, có khi kiêm cả cán bộ phiên dịch. Ngoài học tập lý luận và chính trị,
các học viên còn được học thêm vǎn hóa và ngoại ngữ. Người còn lựa chọn
một số cán bộ gửi sang Moscow học tập lý luận ở Trường đại học Phương
Đông và một số khác vào học Trường quân sự Hoàng Phố có cố vấn Liên
Xô giảng dạy ở Quảng Châu.
Trên cơ sở giác ngộ về tinh thần yêu nước, các học viên nhận rõ
đường lối và phương pháp đúng đắn của cách mạng Việt Nam và có xu
hướng cộng sản chủ nghĩa. Họ lần lượt cử về nước xây dựng cơ sở, tuyên
truyền, tổ chức và lãnh đạo quần chúng đấu tranh cách mạng.
Để làm tài liệu giảng dạy tại Trường huấn luyện chính trị, đầu nǎm
1925, Nguyễn Ái Quốc biên soạn tập đề cương bài giảng mà đầu nǎm 1927

được xuất bản thành cuốn sách “Đường kách mệnh”. Trong đó, Người nêu
lên tư tưởng cách mạng triệt để, chỉ rõ rằng: muốn sống thì phải làm cách
mạng. Làm cách mạng phải có quyết tâm, hy sinh, bền gan, đoàn kết nhau
lại. Muốn được như vậy thì trước hết mọi người phải hiểu rõ vì sao phải
làm cách mạng. Trong cuốn Đường cách mệnh Người nói về tư cách người
cách mạng, tức là đạo đức cách mạng: tự mình phải cần kiệm, chí công vô
tư, quả quyết sửa lỗi mình, không hiếu danh, không kiêu ngạo; nói thì phải


4
làm, phải giữ chủ nghĩa cho vững, hy sinh, ít lòng ham muốn về vật chất…
Người coi việc giác ngộ cách mạng và giáo dục đạo đức cách mạng cho cán
bộ là một trong những yêu cầu hàng đầu để chuẩn bị về tư tưởng và chính
trị, tiến tới xây dựng một đảng chân chính của giai cấp công nhân Việt
Nam. Cuốn Đường kách mệnh chẳng những có giá trị lý luận và thực tiễn
to lớn trong thời kỳ đã qua, mà còn soi sáng con đường cho Đảng ta, nhân
dân ta tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn trong giai đoạn mới.
Để làm cơ sở cho việc thành lập Đảng cộng sản Việt Nam, tháng 6
nǎm 1925, tại Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc đã sáng lập Việt Nam thanh
niên cách mạng đồng chí Hội, một tổ chức tiền thân của Đảng. Tôn chỉ và
mục đích của Hội được thể hiện trong cuốn “Đường cách mệnh”.
Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội là một tổ chức rất
chặt chẽ, gần như một đảng cộng sản, theo nguyên tắc tập trung dân chủ,
dùng tự phê bình và phê bình để xây dựng Hội.
Dưới sự lãnh đạo của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí
Hội, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và phong trào yêu nước
của nhân dân ta đã kết hợp chặt chẽ với nhau, tạo thành một làn sóng dân
tộc và dân chủ mạnh mẽ khắp cả nước. Việt Nam thanh niên cách mạng
đồng chí Hội là tổ chức cách mạng đầu tiên ở nước ta có xu hướng chủ
nghĩa cộng sản, đi vào quần chúng vận động công nhân và nông dân theo

quan điểm, tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Để tuyên truyền tôn chỉ và
mục đích của Hội, Nguyễn Ái Quốc đã xuất bản tuần báo Thanh niên. Báo
này vạch trần những tội ác dã man của đế quốc Pháp, khơi sâu lòng cǎm
thù đối với chúng; đồng thời giải thích rõ đường lối chiến lược và sách lược
của cách mạng Việt Nam là đánh đổ đế quốc Pháp và bọn vua quan phong
kiến tay sai, giành độc lập và tự do, tiến lên cách mạng vô sản, xây dựng
chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam.
Một sáng tạo rất lớn của Nguyễn Ái Quốc là Người đã vận dụng
sáng tạo công thức của V.I. Lê-nin về sự ra đời của một đảng vô sản vào
một nước nông nghiệp như nước ta. Người không chỉ truyền bá chủ nghĩa
Mác - Lê-nin vào phong trào công nhân mà đồng thời truyền bá vào phong


5
trào yêu nước Việt Nam - một yếu tố phổ quát, trường tồn và có sức mạnh
to lớn trong lịch sử phát triển của dân tộc. Nguyễn Ái Quốc đã kết hợp một
cách sinh động yếu tố dân tộc và giai cấp, tạo ra cơ sở xã hội - chính trị
rộng lớn chuẩn bị cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, Người xác
định: Đảng ta là Đảng của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và
của dân tộc Việt Nam; Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng
thời cũng là đội tiên phong cách mạng của dân tộc. Trong Tuyên ngôn của
Đảng Cộng sản viết năm 1848, Mác – Anghen đã khẳng định rằng, trong
cuộc đấu tranh giành lấy chính quyền thì giai cấp vô sản "phải tự vươn lên
thành giai cấp, phải tự mình trở thành dân tộc". Nguyễn Ái Quốc đã cụ thể
hóa quan điểm của chủ nghĩa Mác vào thực tiễn sinh động của phong trào
công nhân và cách mạng Việt Nam. Vì vậy, trong quá trình chuẩn bị cho sự
ra đời của Đảng, không phải chỉ có giai cấp công nhân mà cả nhân dân lao
động và toàn dân tộc đều tham gia, và thực tiễn cách mạng Việt Nam đã
cho thấy: Đảng Cộng sản Việt Nam xứng đáng là đội tiên phong, là bộ
tham mưu của giai cấp vô sản, của nhân dân lao động và của cả dân tộc.

Cả dân tộc thừa nhận Đảng là của mình, cả dân tộc tin tưởng ở Đảng, quyết
tâm thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, tích cực bảo vệ và tham gia
xây dựng Đảng. Điều này thực sự là niềm tự hào của Đảng ta, không phải
đảng nào cũng có được.
Trong quá trình chuẩn bị cho Đảng ra đời, Nguyễn Ái Quốc đã chú
ý chỉ đạo tiến hành một cách có hệ thống, cơ bản, toàn diện và thiết thực: từ
tư tưởng, chính trị, tổ chức, đạo đức đến phương thức lãnh đạo và phong
cách công tác của Đảng.
Về tư tưởng: Ngay trong quá trình truyền bá lý luận, xây dựng
nguyên tắc hoạt động của Đảng, Người luôn khẳng định: Đảng muốn lãnh
đạo cách mạng đến thắng lợi thì Đảng phải vững; Đảng muốn vững thì phải
có chủ nghĩa làm cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu và làm theo chủ nghĩa
ấy; Đảng Cộng sản Việt Nam muốn vững mạnh, trong sạch thì Đảng phải
được xây dựng trên nền tảng tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, lấy chủ


6
nghĩa Mác - Lê-nin là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của
Đảng. Đảng phải thường xuyên nâng cao trình độ nhận thức chủ nghĩa Mác
- Lê-nin cho cán bộ, đảng viên; phải làm cho cán bộ, đảng viên biết dùng
lập trường, quan điểm, phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lê-nin để giải
quyết những vấn đề của cách mạng đặt ra; đồng thời phải thường xuyên
tổng kết thực tiễn để góp phần bồi bổ lý luận Mác - Lê-nin; đoàn kết, thống
nhất đấu tranh chống những luận điệu xuyên tạc, xét lại để bảo vệ sự trong
sáng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Xây dựng Đảng trên nền tảng chủ nghĩa
Mác - Lê-nin là yếu tố cơ bản nhất, quyết định sự bảo đảm bản chất giai
cấp công nhân của Đảng, bảo đảm tính cách mạng, trình độ trí tuệ, đạo đức
và tính quần chúng của Đảng. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng từ
khi ra đời cho đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn giữ vững và nêu cao
tính cách mạng của giai cấp công nhân, tính kiên cường bất khuất của

phong trào yêu nước Việt Nam; luôn bảo đảm tính khoa học của chủ nghĩa
Mác - Lê-nin về lý luận và trong giải quyết thực tiễn, đặc biệt là khả năng
độc lập, sáng tạo để đi tới mục tiêu của cách mạng, Đảng luôn coi việc trau
dồi những phẩm chất đạo đức theo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ
Chí Minh trên cơ sở truyền thống của dân tộc cho cán bộ, đảng viên làm
"gốc" để có lối sống lành mạnh, vững vàng trong mọi thử thách, mọi hoàn
cảnh - đó là cơ sở nguồn cội dẫn đến những thắng lợi to lớn trong sự
nghiệp lãnh đạo giai cấp và nhân dân ta làm cách mạng gần một thế kỷ qua.
Về chính trị: Nguyễn Ái Quốc rất chú trọng xây dựng, rèn luyện
bản lĩnh chính trị của Đảng. Người khẳng định, muốn xây dựng Đảng về
chính trị đúng đắn, trước hết phải đứng vững trên một nền tảng tư tưởng
vững chắc. Dưới ánh sáng của nền tảng tư tưởng mà hoạch định đường lối
của Đảng, tổ chức đưa đường lối của Đảng vào cuộc sống, biến đường lối
của Đảng thành kế hoạch, thành luật pháp của Nhà nước, thành hành động
cách mạng của quần chúng đông đảo. Đảng phải tổ chức tổng kết thực tiễn,
rút ra những kết luận mới để bổ sung, hoàn thiện đường lối của Đảng, đồng


7
thời bổ sung và hoàn thiện lý luận của Đảng. Nguyễn Ái Quốc chỉ rõ: Lý
luận không phải là một cái gì cứng nhắc, nó đầy tính sáng tạo; lý luận luôn
luôn cần được bổ sung bằng những kết luận mới rút ra từ trong thực tiễn
sinh động. Người thường nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải nâng cao sự tu
dưỡng về chủ nghĩa Mác - Lê-nin để dùng lập trường, quan điểm và
phương pháp của nó mà tổng kết những kinh nghiệm của Đảng ta, phân
tích một cách đúng đắn những đặc điểm của nước ta. Có như thế, chúng ta
mới dần dần hiểu được quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, định
ra được những đường lối, phương châm, bước đi cụ thể của cách mạng xã
hội chủ nghĩa thích hợp với tình hình nước ta.
Về tổ chức: Nguyễn Ái Quốc chủ trương phải thường xuyên kiện

toàn bộ máy của Đảng trên cơ sở yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng. Khi kiện
toàn, phải chú ý mặt tổ chức bộ máy, đồng thời xác định cơ chế hoạt động
của bộ máy Đảng từ trung ương đến cơ sở nhằm phát huy cao nhất vai trò
nền tảng của tổ chức cơ sở đảng và vai trò quyết định của tổ chức lãnh đạo
cao nhất trong xây dựng, rèn luyện Đảng về tổ chức. Mặt khác, Người rất
chú ý tới mối quan hệ giữa bộ máy và con người trong kiện toàn tổ chức,
đặc biệt là đội ngũ cán bộ chủ chốt và người đứng đầu các bộ máy.
Về đạo đức: Nguyễn Ái Quốc cho rằng, đạo đức cách mạng là cái
"gốc", cái nền của người cán bộ, đảng viên. Trong xây dựng, rèn luyện
Đảng, không thể thiếu việc xây dựng, rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng
viên. Trên cơ sở chỉ ra những chuẩn mực đạo đức chung, Nguyễn Ái Quốc
đã cụ thể hoá những yêu cầu đạo đức trong từng giai đoạn, từng thời kỳ
cách mạng. Người chỉ rõ mối quan hệ giữa đạo đức của Đảng, đạo đức
cộng sản với đạo đức xã hội, đạo đức công dân; đạo đức của đảng viên với
đạo đức của người lãnh đạo. Theo Nguyễn Ái Quốc, để có thể xây dựng
được một Đảng “là đạo đức, là văn minh” thì khái niệm và trách nhiệm đạo
đức của cán bộ, đảng viên phải là cụ thể, không chung chung, trừu tượng.


8
Người đòi hỏi đảng viên phải "đi trước, làng nước theo sau", nói và làm
phải đi liền, phải thống nhất với nhau. Bởi vậy, trong xây dựng, rèn luyện
đạo đức cho cán bộ, đảng viên, phải kiên quyết đấu tranh chống thói đạo
đức giả, phi đạo đức. Có coi trọng đạo đức thì mới có thể xây dựng được
đội ngũ cán bộ tốt, cán bộ tốt thì việc gì cũng xong.
Về phương thức lãnh đạo và phong cách công tác: Nguyễn Ái
Quốc khẳng định: phương thức lãnh đạo và phong cách công tác là lĩnh vực
phương pháp cách mạng và phong cách hoạt động của Đảng, của cán bộ,
đảng viên, có quan hệ trực tiếp đến việc thực hiện đường lối, chủ trương
của Đảng, đến sự thành công hay không thành công của cách mạng, đến

sức mạnh và sự tồn vong của Đảng. Về nguyên tắc, đường lối quyết định
phương thức lãnh đạo và phong cách công tác. Nhưng trên thực tế, khi đã
có đường lối đúng, cũng phải trải qua nhiều thử nghiệm trong thực tiễn
lãnh đạo và công tác, mới có thể dần dần xây dựng được phương thức lãnh
đạo và phong cách công tác đúng đắn, phù hợp. Bởi vậy, ngay từ những
ngày đầu chuẩn bị cho sự ra đời của Đảng, Nguyễn Ái Quốc đã luôn lưu ý
cán bộ, đảng viên: đối với bất kỳ vấn đề gì đều phải đặt câu hỏi "vì sao",
đều phải suy nghĩ kỹ càng xem nó có hợp với thực tế không, tuyệt đối
không nên nhắm mắt tuân theo sách vở một cách xuôi chiều. Có như vậy,
mới xây dựng, hình thành được phương thức lãnh đạo và phong cách công
tác phù hợp với quy luật của cách mạng, với mỗi đối tượng, mỗi cấp lãnh
đạo và phong cách công tác của cán bộ, đảng viên.
Từ cuối nǎm 1924 đến đầu nǎm 1930, đồng chí Nguyễn Ái Quốc
vừa đào tạo cán bộ cho cách mạng Việt Nam, xúc tiến việc chuẩn bị và
thành lập Đảng cộng sản Việt Nam, vừa góp phần rất quan trọng vào việc
đào tạo cán bộ và xây dựng phong trào cách mạng ở một số nước châu Á.
Dưới sự chỉ đạo của Ban phương Đông trực thuộc Ban chấp hành Quốc tế
cộng sản, Người đã truyền bá chủ nghĩa cộng sản vào châu Á nói chung và
Đông Dương nói riêng.


9
Tháng 4 nǎm 1927, sau vụ phản biến của bọn Tưởng Giới Thạch ở
Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc đi Hồng Kông, Thượng Hải, rồi rời Trung
Quốc đi Liên Xô. Người làm việc ở Quốc tế cộng sản góp phần tổng kết
kinh nghiệm của phong trào cách mạng châu Á.
Được sự giúp đỡ của Ban chấp hành Quốc tế cộng sản, cuối nǎm
1927, Nguyễn Ái Quốc bí mật trở lại nước Pháp để gặp gỡ và trao đổi ý
kiến với ban lãnh đạo Đảng cộng sản Pháp về tình hình hoạt động của Ban
nghiên cứu thuộc địa của Đảng. Sau đó, Người trở lại Đức và đi dự Hội

nghị Quốc tế chống chiến tranh đế quốc họp ở thủ đô nước Bỉ.
Mùa hè nǎm 1928, Nguyễn Ái Quốc bí mật rời khỏi Đức đi Thụy
Sĩ, Italia rồi từ đó đáp tàu biển đi Thái Lan vào mùa thu nǎm 1928. Thời
gian này Người chú trọng giáo dục Việt kiều tinh thần đoàn kết và yêu
nước.
Trong những nǎm 1928 - 1929, phong trào cách mạng ở nước ta
dâng lên mạnh mẽ. Thực hiện chủ trương "vô sản hóa", một số cán bộ của
Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội đã vào nhà máy, hầm mỏ,
đồn điền để tuyên truyền và tổ chức công nhân. Phong trào công nhân dần
dần đã vượt qua giai đoạn tự phát, cục bộ, lẻ tẻ tiến đến giai đoạn tự giác,
có tổ chức, có lãnh đạo, có sự phối hợp giữa các ngành và các địa phương.
Từ cuối nǎm 1929, phong trào công nhân Việt Nam đã có tính chất độc lập
rõ rệt, trở thành lực lượng nòng cốt của phong trào giải phóng dân tộc ở
nước ta.
Phong trào công nhân và phong trào yêu nước của nhân dân ta
đang đòi hỏi sự lãnh đạo của một đảng của giai cấp công nhân. Những điều
kiện để thành lập một đảng như thế đã chín muồi. Nhưng khi vấn đề ấy
được đặt ra, thì trong nội bộ Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí
Hội, nhất là ở cơ quan lãnh đạo của nó không nhất trí. Đó là cuộc đấu tranh
giữa quan điểm vô sản và quan điểm tiểu tư sản trong Thanh niên cách
mạng đồng chí Hội để thành lập đảng kiểu mới của giai cấp công nhân Việt
Nam. Cuộc đấu tranh ấy đã dẫn đến thắng lợi của tư tưởng vô sản và sự ra
đời của Đông Dương cộng sản đảng và An Nam cộng sản đảng. Trong tình


10
hình ấy Tân Việt cách mạng Đảng cũng không thể duy trì tổ chức cũ, cho
nên đã được cải tổ thành Đông Dương cộng sản liên đoàn.
Trong vòng nửa nǎm, ba tổ chức cộng sản đã liên tiếp ra đời.
Nhưng lợi ích của cách mạng, và nguyên tắc tổ chức của chính đảng Mác Lênin không cho phép trong một nước mà có ba tổ chức cộng sản. Như thế

chỉ làm yếu sự thống nhất về tư tưởng, chính trị, tổ chức, làm giảm sức
mạnh của phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Thành lập một
đảng cộng sản duy nhất ở Việt Nam là yêu cầu bức thiết của phong trào
công nhân và phong trào yêu nước lúc bấy giờ.
Lịch sử đòi hỏi phải có một lãnh tụ có đầy đủ uy tín và nǎng lực để
thống nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam. Đồng chí Nguyễn Ái Quốc là
người đã đáp ứng yêu cầu đó.
Vào cuối mùa thu nǎm 1929, đang hoạt động ở Thái Lan, được
nghe báo cáo về tình hình mâu thuẫn giữa các tổ chức cộng sản ở Việt
Nam, được sự ủy nhiệm của Quốc tế cộng sản, Người đã trở lại Hồng
Kông, triệu tập Hội nghị đại biểu các tổ chức cộng sản để thống nhất tổ
chức, thành lập Đảng cộng sản Việt Nam.
Dưới sự chủ tọa của Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị đã họp từ ngày 3
đến ngày 7 tháng 2 nǎm 1930, trong cǎn phòng nhỏ của một người công
nhân ở Cửu Long, gần Hồng Kông. Sau nǎm ngày làm việc khẩn trương
trong hoàn cảnh bí mật, Hội nghị đã quyết định thống nhất các tổ chức
cộng sản, thành lập một đảng cộng sản chân chính duy nhất ở Việt Nam lấy
tên là Đảng cộng sản Việt Nam, Với mục đích của Đảng đựoc xác định đó
là : "Đảng cộng sản Việt Nam tổ chức ra để lãnh đạo cho quân chúng lao
khổ làm giai cấp tranh đấu, để tiêu diệt tư bản đế quốc chủ nghĩa, làm cho
thực hiện xã hội cộng sản".
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là một trong những dấu
mốc quan trọng trong tiến trình phát triển của dân tộc Việt Nam. Từ khi ra
đời đến nay, Đảng đã lãnh đạo, đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi
này đến thắng lợi khác, Đảng trở thành niềm tự hào của cả dân tộc và
phong trào công nhân toàn thế giới, có được những thành công to lớn trên


11
con đường thực hiện sứ mệnh vinh quang và gian khổ của mình là do Đảng

ta đã được chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện. Những nguyên lý,
nguyên tắc cùng với những định hướng khoa học, sáng tạo và chính xác
của Người đã bảo đảm cho Đảng ta luôn có được đường lối, chủ trương
đúng đắn, có được bản lĩnh chính trị kiên định, vững vàng, có được tầm cao
trí tuệ thật sự khoa học và khả năng vận dụng linh hoạt, sáng tạo trong mọi
điều kiện, một đội ngũ cán bộ, đảng viên thực sự tiền phong gương mẫu có
khả năng vận động, thuyết phục và tổ chức quần chúng nhân dân thực hiện
thắng lợi những đường lối, chủ trương, biện pháp mà Đảng đã vạch ra.
Ngày nay sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa
đang đặt ra những yêu cầu mới về vai trò, phẩm chất, năng lực lãnh đạo của
Đảng. Công tác xây dựng Đảng đang đặt ra một cách cấp thiết đối với tất
cả các ngành, các cấp nhằm gìn giữ và tiếp tục xây dựng Đảng Cộng sản
Việt Nam thực sự là trí tuệ, là đạo đức, là văn minh như ý nguyện của chủ
tịch Hồ Chí Minh hằng mong muốn. Nhiệm vụ xây dựng và chỉnh đốn
Đảng ngang tầm nhiệm vụ là một công việc khó khăn, lâu dài và không
kém phần gian khổ, tuy nhiên, với truyền thống gần một thế kỷ xây dựng
và trưởng thành, chúng ta có cơ sở để tin tưởng rằng Đảng Cộng sản Việt
Nam sẽ vững bước đi lên, mãi xứng đáng là đội tiền phong của giai cấp và
dân tộc.



×