Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

TIỂU LUẬN QUAN điểm độc lập tự CHỦ SÁNG tạo của ĐẢNG CỘNG sản VIỆT NAM ý NGHĨA LỊCH sử và HIỆN THỰC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (184.8 KB, 18 trang )

1

QUAN ĐIỂM ĐỘC LẬP, TỰ CHỦ, SÁNG TẠO CỦA ĐẢNG
Ý NGHĨA LỊCH SỬ VÀ HIỆN THỰC
================
Trong suốt chiều dài lịch sử lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta
luôn nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo trong việc hoạch định đường
lối chiến lược cũng như trong tổ chức tổ chức thực hiện đường lối đó. Độc lập
tự chủ, sáng tạo không chỉ là truyền thống, mà còn là nét nổi bật thuộc về bản
lĩnh chính trị của Đảng. Bản lĩnh chính trị độc lập, tự chủ, sáng tạo biểu hiện
rõ nhất ở những lúc cách mạng gặp khó khăn, trước những bước ngoặt của
lịch sử. Từ đó tạo ra cao trào cách mạng rộng khắp để đưa cách mạng Việt
Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, hoàn thành cuộc đấu tranh giành
độc lập dân tộc, đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt trong công cuộc
đổi mới, nhờ có tư duy độc lập tự chủ, sáng tạo, Đảng đã có đường lối cách
mạng đúng đắn, luôn chủ động, sáng tạo để đề ra những quyết sách đúng đắn,
phù hợp, đưa sự nghiệp đổi mới vượt qua những khó khăn thử thách, đi đến
thắng lợi. Tinh thần độc lập tự chủ, sáng tạo của Đảng được xuất phát từ lý
luận chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, từ yêu cầu khách quan
của tình hình thế giới cũng như thực tiễn cách mạng nước ta. Nhưng một điều
không thể phủ nhận, đó chính là bản lĩnh chính trị, năng lực thiên tài của
Đảng ta khi đứng trước những khó khăn thử thách, trước những bước quanh
của lịch sử.
Quan điểm độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng chính là thứ vũ khí giúp
Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi như ngày hôm nay.
Nhưng đó không có nghĩa là Đảng đưa ra đường lối cách mạng một cách
phiêu lưu, áp đặt chủ quan, mà Đảng luôn quán triệt trung thành và vận dụng
sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Các nhà sáng
lập chủ nghĩa xã hội khoa học luôn yêu cầu những người cách mạng phải



2

mạnh dạn đổi mới để tiến lên, phải có dũng khí nhìn vào sự thật, phải có gan
vứt bỏ những nhận thức của ngày hôm qua, khi mà nó không còn phù hợp với
thực tế của ngày hôm nay. Chính Lênin đã từng chỉ rõ: Một trong những nghệ
thuật của cách mạng là sự mềm dẻo, linh hoạt, khi điều kiện khách quan đã
thay đổi thì người cách mạng phải nhanh chóng thay đổi sách lược. Lênin
còn nhấn mạnh, chúng ta phải: “Chọn một con đường khác để đi tới đích...nếu
con đường cũ, trong một thời gian nhất định nào đó, xem ra không thích hợp
nữa, không đi theo được nữa”.1
Trung thành với lý luận chủ nghĩa Mác- Lênin, trong suốt quá trình
cùng Đảng ta lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh
luôn thể hiện sâu sắc tư tưởng đổi mới, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách
nhiệm. Đồng thời Người cũng nêu cao tư tưởng độc lập tự chủ, với phương
châm:“ Đem sức ta mà giải phóng cho ta”; “ Muốn người giúp mình thì
trước hết mình phải tự giúp mình đã”. Người cũng hết sức phê phán tư tưởng
trông chờ, ỷ lại vào bên ngoài, tư tưởng không dám nghĩ, dám làm, dám chịu
trách nhiệm. Người nói: “ Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ
dân tộc khác giúp đỡ, thì không xứng đáng được hưởng độc lập”.2
Đảng ta, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, luôn quán
triệt, vận dụng sáng tạo quan điểm độc lập, tự chủ, sáng tạo của chủ nghĩa
Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, luôn xuất phát từ thực tiễn cách mạng.
Trên cơ sở đó, Đảng luôn nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo trong
hoạch định đường lối lãnh đạo, trong phát động phong trào cách mạng, để từ
đó tạo nên sức mạnh của toàn dân tộc, bất chấp những khó khăn thử thách, bất
chấp sự can thiệp, chi phối từ bên ngoài, đem lại thắng lợi cho cách mạng.
Thực tiễn cách mạng cho thấy, hoàn cảnh luôn thay đổi, nếu Đảng ta không
biết sáng tạo, không đổi mới kịp thời, khi đó sẽ không theo kịp với thời cuộc,
1
2


. V.I- Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ Mát-xcơva, 1978, Tập 44, Tr.198.
. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb CTQG, H.2000, Tập 6, Tr.522.


3

cách mạng sẽ dậm chân tại chỗ, nhưng sáng tạo mà không có cơ sở khoa học
sẽ dẫn đến đi chệch quĩ đạo. Do vậy, tính sáng tạo ở đây đòi hỏi phải đúng
đắn, khoa học, có vậy mới đưa cách mạng phát triển đúng hướng. Đồng thời
phải nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, chúng ta độc lập trong tư duy, độc lập
trong lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng, không bị lệ thuộc vào bất cứ thế lực nào,
sự can thiệp nào từ bên ngoài, có vậy những quyết sách đưa ra mới đúng đắn,
kịp thời.
Thực tiễn quá trình đấu tranh cách mạng của Đảng cho thấy, trong
suốt 76 năm qua, Đảng ta luôn nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, sáng tạo, để
có đường lối cách mạng đúng đắn, đưa cách mạng đi đến thắng lợi. Sự sáng
tạo của Đảng được thể hiện ngay trong qui luật ra đời của Đảng, đó là sự kết
hợp không chỉ có chủ nghĩa Mác- Lênin với phong trào công nhân ( qui luật
ra đời chung cho các Đảng Cộng sản) mà còn thêm một yếu tố là phong trào
yêu nước. Trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, nhờ có đường lối độc
lập, tự chủ, sáng tạo, mà Đảng ta ngay từ khi mới ra đời đã có Cương lĩnh,
đường lối cách mạng đúng đắn, đưa cách mạng phát triển vào trào lưu tiến bộ
nhất của nhân loại, để cách mạng phát triển đúng hướng từ đó về sau. Khi đó,
nếu không có tính độc lập tự chủ, sáng tạo, thì Đảng ta sẽ chấp nhận sự chỉ
đạo của Quốc tế Cộng sản một cách thụ động. Nhưng nhờ có tính độc lập, tự
chủ, sáng tạo, Đảng đã đưa ra Cương lĩnh, đường lối phù hợp với thực tiễn
cách mạng Việt Nam. Đó chính là việc Đảng xác định con đường tiến lên của
cách mạng, phải trải qua hai giai đoạn, trước hết là cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân, sau đó đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát

triển tư bản chủ nghĩa. Từ đó Đảng phát động được cao trào rộng khắp, thu
hút, tập hợp được lực lượng cách mạng to lớn, mặc dù phải đương đầu với
không ít khó khăn thử thách, song với niềm tin mãnh liệt vào phương hướng
mục tiêu đã định, Đảng đã lãnh đạo, xác định mục tiêu đấu tranh phù hợp cho


4

từng giai đoạn, xác định đúng đắn kẻ thù của giai cấp và của dân tộc, đó là đặt
nhiệm vụ đánh đế quốc, giải phóng dân tộc lên hàng đầu, từ đó đoàn kết, tập
hợp được lực lượng cách mạng to lớn, giành thắng lợi qua các cao trào 19301931; 1936- 1939 đặc biệt cao trào 1939- 1945, để đưa cách mạng Tháng
Tám đến thành công. Nghệ thuật khởi nghĩa tháng Tám là một điển hình về
tính chủ động, sáng tạo của Đảng. Nhiều nơi chưa nhận được lệnh khởi nghĩa
của Trung ương, nhưng nhận thấy những chuyển biến mau lẹ của thời cuộc,
căn cứ vào Chỉ thị “ Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” của
Đảng để kịp thời phát động quần chúng nhân dân khởi nghĩa, giành chính
quyền.
Sau cách mạng Tháng Tám thành công, chính quyền cách mạng trong
tình thế “ ngàn cân treo sợi tóc”. Các thế lực đế quốc kấu kết với nhau, định
thủ tiêu chính quyền non trẻ, tiêu diệt Đảng Cộng sản. Đảng hết sức sáng tạo
trong chính sách hoà hoãn, nhân nhượng kẻ thù, khi thì hoà Tưởng để chống
Pháp như Đảng tuyên bố tự giải tán ( thực chất là Đảng rút vào hoạt động bí
mật), chấp nhận nhường 70 ghế đại biểu Quốc hội không qua bầu cử cho bọn
Việt quốc, Việt cách...khi thì hoà với Pháp để gạt Tưởng, tránh cho nhân dân
ta cùng một lúc phải đương đầu với nhiều kẻ thù. Đó là những biện pháp cực
kỳ sáng suốt, nhưng Đảng vẫn giữ vững nguyên tắc đó là độc lập, thống nhất
tổ quốc.
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ cũng vậy, nhờ đường
lối độc lập, tự chủ, sáng tạo, Đảng đưa ra đường lối đấu tranh đúng đắn, vừa
tranh thủ được sự giúp đỡ của quốc tế, nhưng không phụ thuộc vào sự chỉ đạo

của họ, để đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi. Nhìn lại cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước của dân tộc, chúng ta hoàn toàn có quyền tự hào về
Đảng. Mặc dù khi đó bạn bè quốc tế đều khuyên ta không nên đánh Mỹ, trong
đó vừa có ý kiến lo lắng cho cuộc chiến không cân sức giữa ta và Mỹ, vừa có


5

ý kiến vì lợi ích cá nhân họ khuyên ta không nên đánh Mỹ “sợ một đám lửa
làm cháy cả một cánh rừng”, nhưng Đảng ta vẫn quyết tâm đánh Mỹ và thắng
Mỹ. Khi đó Liên Xô, Trung Quốc giúp đỡ ta rất lớn về vật chất, tinh thần,
nhưng chúng ta không vì thế mà phụ thuộc vào họ, điều đó vừa chứng tỏ bản
lĩnh kiên định, vừa thể hiện tư duy độc lập tự chủ, sáng tạo của Đảng ta.
Trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, một lần nữa, tính độc lập, tự chủ,
sáng tạo của Đảng được phát huy. Mặc dù đất nước mới cơ bản hoàn thành
cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Bắc, miền Nam tiếp tục
cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà. Nhưng Đảng đã độc lập, sáng tạo trong
việc đề ra đường lối đúng đắn, đưa miền Bắc đi lên chủ nghĩa xã hội, miền
Nam tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Chính sự đúng đắn,
sáng tạo đó đã giúp cho cách mạng Việt Nam phát triển đúng quĩ đạo, đi đến
thắng lợi. Miền Bắc đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội nhanh chóng đạt được
những thành tựu to lớn trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đồng thời là hậu
phương lớn chi viện sức người, sức của cho cách mạng miền Nam, để hoàn
thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, cả nước thống nhất
đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Từ khi cả nước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, trong những năm
đầu, Đảng ta do còn những bỡ ngỡ, lúng túng, do đó không tránh khỏi những
vấp váp. Đặc biệt cơ chế quản lý không phù hợp, cộng với tư tưởng chủ quan
duy ý chí, từ đó làm cho đất nước rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng. Trong
thời kỳ này nền kinh tế của ta chủ yếu là sản xuất nhỏ, lại chịu ảnh hưởng

nặng nề của chiến tranh. Đội ngũ cán bộ của Đảng trong chiến tranh cơ bản có
tinh thần yêu nước, dám hy sinh vì nền độc lập của dân tộc, có phẩm chất đạo
đức trong sáng, nhưng trình độ văn hoá, khoa học kỹ thuật, chuyên môn
nghiệp vụ còn nhiều hạn chế, không còn phù hợp với cơ chế sản xuất mới,
chưa đáp ứng kịp thời với sự phát triển của đất nước. Mặt khác cơ chế tập


6

trung quan liêu bao cấp chỉ phù hợp điều kiện đất nước có chiến tranh, đến
nay không còn phù hợp nữa, trở thành lực cản đối với sự phát triển của đất
nước. Trước tình hình đó, một lần nữa bản lĩnh chính trị của Đảng được thể
hiện. Đảng đã kịp thời nhận rõ khuyết điểm là đã kéo dài quá lâu cơ chế tập
trung quan liêu bao cấp, từng bước tìm tòi những biện pháp khắc phục những
khuyết điểm ấy. Trước hết Đảng chủ trương xoá bỏ bao cấp, tạo cho quá trình
sản xuất bung ra đúng hướng, phát triển một cách hợp lý, đó chính là quá
trình Đảng tiến hành đổi mới từng phần, từng lĩnh vực riêng lẻ. Tuy đó chỉ là
những khám phá ban đầu, nhưng nó có ý nghĩa hết sức quan trọng, mở ra
hướng đi cụ thể, đúng đắn cho cách mạng Việt Nam. Trên cơ sở thành công
của quá trình đổi mới từng phần, tình hình kinh tế- xã hội đã có bước chuyển
biến quan trọng, kinh tế có sự tăng trưởng đáng kể. Tuy nhiên, đời sống nhân
dân còn gặp nhiều khó khăn, đất nước chưa ra khỏi khủng hoảng kinh tế- xã
hội, thực tế nảy sinh nhiều khó khăn mới tưởng chừng khó có thể vượt qua,
đặc biệt sau Nghị quyết Trung ương 8 khoá V (năm 1985) chúng ta tổ chức
thực hiện, mắc phải những khuyết điểm, làm cho giá cả tăng nhanh, lạm phát
ở mức độ phi mã, khó kiểm soát. Hàng loạt nhà máy không có việc làm, công
nhân không có lương, quần chúng một số nơi tỏ ra hoang mang, dao động về
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, niềm tin của nhân dân đối với Đảng bị mai
một. Đứng trước tình hình đó, Đảng đã kịp thời đề ra đường lối đổi mới toàn
diện, trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhưng có trọng tâm, trọng

điểm để từng bước tháo gỡ khó khăn, đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng,
vững bước trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Tại Đại hội VI, Đảng ta đã dũng cảm nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự
thật, đánh giá đúng sự thật, để từ đó đưa ra đường lối đổi mới. Trong bối cảnh
đó các nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới cũng đang đứng trước khó khăn
trên con đường cải tổ, cải cách. Những năm đầu của thập kỷ 80, đặc biệt từ


7

năm 1985, làn sóng cải tổ, cải cách của các nước xã hội chủ nghĩa phát triển
mạnh mẽ. Trung quốc đã khởi xướng công cuộc cải cách từ Hội nghị Trung
ương 3 (tháng 12 năm 1978) đến Đại hội XIII được phát triển lên một bước
mới. Với đường lối mở cửa, Trung Quốc đã giữ vững ổn định và từng bước
phát triển, tuy không tránh khỏi những khó khăn nhất định.
Từ năm 1985 Liên Xô và hàng loạt các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông
Âu bước vào công cuộc cải tổ, song do mắc phải những sai lầm nghiêm trọng
về đường lối chính trị, tư tưởng, tổ chức và công tác cán bộ...từ đó làm cho
đất nước ngày càng lâm vào khủng hoảng, dẫn đến sụp đổ nhanh chóng.
Đảng ta phát huy tính độc lập, sáng tạo, không dập khuôn, bắt trước
các nước về cách thức tiến hành đường lối đổi mới, đồng thời từ kinh nghiệm
cải tổ, cải cách của các nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới cho thấy, nếu xa
rời nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa xã hội khoa học, phủ định những thành
tựu của chủ nghĩa xã hội, phủ định chủ nghĩa Mác- Lênin, hạ thấp đi đến vô
hiệu hoá vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, buông lỏng quản lý các phương
tện thông tin đại chúng, để kẻ địch lợi dụng, tự do truyền bá các quan điểm sai
trái, thì công cuộc đổi mới sẽ mất phương hướng, lâm vào khủng hoảng kinh
tế xã hội. Chính vì thế, khi các nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới lâm vào
khủng hoảng dẫn đến đổ vỡ do sai lầm về đường lối cải tổ, cải cách, nhưng
công cuộc đổi mới của đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng vẫn phát triển một

cách vững chắc. Đường lối đổi mới do Đại hội VI ( tháng 12 năm 1986 ) khởi
xướng, được Nghị quyết Đại hội Đảng VII, các nghị quyết Trung ương, nghị
quyết Hội nghị giữa nhiệm kỳ khoá VII của Đảng bổ xung, phát triển. Đảng
đã độc lập, sáng tạo trong hoạch định đường lối đổi mới, đó chính là việc
Đảng ta xuất phát từ thực tiễn, nắm vững qui luật khách quan. Từ đó, đường
lối của Đảng nhanh chóng đi vào cuộc sống, được thực tiễn cuộc sống kiểm
nghiệm, khẳng định là đúng đắn. Đường lối đó là kết quả của quá trình Đảng


8

tìm tòi, khảo nghiệm, tổng kết từ thực tiễn cách mạng, đồng thời tiếp thu có
chọn lọc kinh nghiệm của cách mạng thế giới. Trong thời kỳ đổi mới, Đảng
xác định hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng là: xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đồng
thời Đảng đề ra đường lối đổi mới đất nước một cách toàn diện, đồng bộ, triệt
để trên tất cả các lĩnh vực. Tuy nhiên giai đoạn đầu tập trung vào đổi mới trên
lĩnh vực kinh tế, trước hết là tư duy kinh tế. Sau hai năm tiến hành đổi mới,
Đảng ta xác định: “ Trong mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính
trị, chúng ta tập trung sức làm đổi mới kinh tế, đồng thời từng bước đổi mới
tổ chức và phương thức hoạt động của các tổ chức chính trị”. 3 Tổng kết thực
tiễn công cuộc đổi mới, Đại hội lần thứ VII đã nhấn mạnh: Trong những năm
đầu của công cuộc đổi mới, phải lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, phải tập
trung mọi lỗ lực giải quyết các vấn đề cấp bách về kinh tế. Trên lĩnh vực kinh
tế, Đảng chủ trương đổi mới tư duy kinh tế, nhận thức đúng về các thành phần
kinh tế, khuyến khích phát triển kinh tế hành hoá nhiều thành phần; giải quyết
đúng đắn mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất để thúc
đẩy nền kinh tế phát triển. Đường lối đổi mới đất nước do Đảng khởi xướng,
lãnh đạo đã đáp ứng nhu cầu khách quan của cách mạng nước ta, do đó, nó
như một luồng sinh khí mới thổi vào, tạo ra một sự chuyển biến mau chóng

cho đất nước. Chúng ta mau chóng giải quyết được những yêu cầu bức thiết
của cuộc sống, vừa ổn định cuộc sống cho nhân dân, vừa tích luỹ để xây dựng
chủ nghĩa xã hội, củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh.
Tính độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng trong hoạch định đường lối
đổi mới còn được thể hiện Đảng luôn bám sát thực tế, tôn trọng qui luật
khách quan, vừa tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm cải cách, cải tổ của các
nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới, nhưng không chịu sức ép, sự áp đặt,
3

. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị Trung ương 7 ( khoá VI), Nxb CTQG, H.1989, tr.18.


9

không dập khuôn máy móc, không giáo điều bảo thủ. Điều đó được thể hiện
trong những năm cuối của thế kỷ XX, tình hình thế giới có những chuyển
biến mau lẹ. Xu hướng đối đầu đã được thay thế bằng đối thoại, hoà bình hợp
tác đã trở thành xu thế khá phổ biến trong quan hệ quốc tế. Những thành tựu
trong lĩnh vực khoa học công nghệ đã thúc đẩy nền kinh tế thế giới phát triển,
đồng thời đặt ra cho các nước, các dân tộc muốn phát triển phải biết tranh thủ
thời cơ, vận dụng thành tựu khoa học. Trong bối cảnh đó, tình hình cải cách,
cải tổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu lâm vào khủng
hoảng, thế giới mất đi lực lượng đối trọng với Mỹ. Chủ nghĩa đế quốc điên
cuồng chống phá cách mạng thế giới, trong đó có Việt Nam, bằng chiến lược
diễn biến hoà bình, nhằm làm chuyển hoá dần dần đi đến xoá bỏ hoàn toàn
chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Trước tình hình đó, Đảng ta đã có sự
điều chỉnh kịp thời, bằng những chủ trương đúng đắn, phù hợp, từ đó đưa sự
nghiệp đổi mới đạt được những thành tựu to lớn, trên tất cả các lĩnh vực của
đời sống xã hội.
Tính độc lập tự chủ, sáng tạo của Đảng ta còn được thể hiện, trong quá

trình đổi mới Đảng đã thực sự lột xác, kể cả trong tư duy cũng như trong hành
động. Tuy nhiên, Đảng luôn quán triệt quan điểm biện chứng, đó chính là
phát triển nhưng có kế thừa, Đảng không phủ nhận sạch trơn, mà biết kế thừa
những thành tựu, những yếu tố tích cực mà nhân dân ta đã đạt được trong thời
gian trước đó. Đồng thời Đảng cũng không phủ nhận lý luận chủ nghĩa MácLênin, không phủ nhận những qui luật phổ biến, trái lại, Đảng luôn quán triệt
và vận dụng sâu sắc các nguyên lý, qui luật của chủ nghĩa Mác vào thực tiễn
quá trình đổi mới, từ đó đem lại thành tựu to lớn cho công cuộc đổi mới...
Quá trình đổi mới, Đảng chủ trương phải toàn diện, triệt để, đồng bộ
trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhưng phải có hình thức, bước đi
thích hợp. Đây chính là bí quyết riêng đi đến thành công của Đảng ta trong


10

công cuộc đổi mới. Sau đường lối đổi mới mà Đại hội VI của Đảng đề ra,
chúng ta đã tiến hành đổi mới trên mọi mặt của đời sống xã hội. Đây là cuộc
cách mạng, là quá trình cải biến sâu sắc, toàn diện trên mọi mặt của đời sống
xã hội. Nhiều vấn đề mới mẻ đặt ra kể cả về lý luận cũng như thực tiễn cần
được giải quyết, chúng ta vừa đổi mới, vừa tổng kết, rút kinh nghiệm, từng
bước tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, từng bước hoàn thiện đường lối đổi mới,
sao cho đi đúng qui luật khách quan, phát triển vững chắc cho cách mạng.
Chính từ tính chất, qui mô công cuộc đổi mới qui định, để bảo đảm
cho mọi hoạt động của công cuộc đổi mới đi đúng hướng, Đảng đã xác định
được nguyên tắc cơ bản chỉ đạo công cuộc đổi mới tại Hội nghị Trung ương 6
khoá VI ( tháng 6 năm 1989). Để giữ vững những nguyên tắc đó, trong quá
trình đổi mới, đòi hỏi Đảng phải luôn đứng vững trên lập trường của giai cấp
công nhân, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa lợi ích dân tộc và lợi ích
giai cấp, lợi ích quốc gia và lợi ích quốc tế. Trên nguyên tắc giữ vững độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội, nhưng trong hoạt động đối ngoại phải mềm dẻo,
linh hoạt, phù hợp điều kiện khách quan, đẩy mạnh đa phương hoá, đa dạng

hoá các mối quan hệ, tranh thủ mọi thời cơ, vận hội, đẩy lùi nguy cơ, thách
thức, đưa sự nghiệp đổi mới đi đến thắng lợi.
Đổi mới là công việc hệ trọng, mang tính sống còn đối với mỗi quốc
gia, là công việc hết sức nhạy cảm, đụng chạm đến tất cả các mối quan hệ xã
hội, như mối quan hệ giữa người với người, giữa con người với tổ chức... Nếu
tiến hành không thận trọng, không có hình thức, bước đi vững chắc, sẽ dẫn
đến đổ vỡ. Một bài học tiền nhãn, đắt giá cho các nước xã hội chủ nghĩa ở
Đông Âu và Liên Xô mà Đảng ta cần rút ra trong quá trình đổi mới. Chính vì
thế, trong công cuộc đổi mới, Đảng ta đã biết tập trung đột phá đổi mới vào
hai lĩnh vực then chốt, trọng yếu nhất, đó là kinh tế và chính trị, đồng thời giải
quyết đúng đắn mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị. Đảng


11

xác định kinh tế và chính trị là hai lĩnh vực lớn, quyết định sự thay đổi bộ mặt
đất nước, quyết định đến nhiệm vụ giữ vững chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an
ninh chính trị quốc gia, trật tự an toàn xã hội. Ngay từ đầu, Đảng ta đã xác
định đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị phải được tiến hành đồng thời,
nhưng giai đoạn đầu tập trung sức cho đổi mới kinh tế, đồng thời từng bước,
thận trọng đổi mới chính trị. Bởi chỉ có như thế chúng ta mới giải quyết được
mắt khâu quan trọng nhất của công cuộc đổi mới, xét đến cùng cơ sở kinh tế
là nhân tố quyết định sự ra đời và tồn tại của một chế độ xã hội. Kinh tế phát
triển sẽ bảo đảm chính trị ổn định, văn hoá, giáo dục phát triển, quốc phòng,
an ninh được giữ vững, đời sống nhân dân được cải thiện. Trong đổi mới kinh
tế, trước hết tập trung vào lĩnh vực tư duy kinh tế, sau đến thay đổi cơ chế
quản lý kinh tế, làm thay đổi toàn bộ những suy nghĩ, những nhận thức trước
kia chưa đúng, chưa đầy đủ. Thay đổi cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao
cấp, bằng cơ chế kế hoạch hoá, từ đó khuyến khích các thành phần kinh tế
phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Chính quá trình đổi mới kinh tế thành công, đã có tác động tích cực
đối với việc đổi mới chính trị, đó là sự giữ vững định hướng chính trị trong
quá trình đổi mới kinh tế. Đổi mới kinh tế là mặt trận đấu tranh giai cấp gay
go quyết liệt, phức tạp nhất, nếu đổi mới kinh tế đạt kết quả sẽ tạo điều kiện
cho đổi mới chính trị thắng lợi. Đồng thời kết hợp với đổi mới kinh tế, đổi
mới chính trị sẽ tạo tiền đề thuận lợi cho nền kinh tế phát triển đúng hướng,
có hiệu quả. Trong đổi mới chính trị, thể chế chính trị, vai trò của nhà nước có
tác động đến năng lực hiện thực hoá đường lối phát triển kinh tế đất nước.
Trong đổi mới chính trị, Đảng chủ trương tập trung vào việc xây dựng và phát
huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, đổi mới tổ chức, phương thức hoạt động của hệ
thống chính trị. Chính việc giải quyết hài hoà mối quan hệ đổi mới kinh tế với
đổi mới chính trị đã giúp cho nền kinh tế đất nước ta tăng trưởng khá, đời


12

sống nhân dân không ngừng được cải thiện, chính trị ổn định, quốc phòng và
an ninh được giữ vững.
Đường lối đổi mới độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng, là sản phẩm
của sự kế thừa lịch sử, truyền thống tốt đẹp của dân tộc qua hàng ngàn năm
dựng nước, giữ nước. Đồng thời còn là sự kế thừa giá trị tinh hoa nhân loại,
biết vận dụng cụ thể vào thực tiễn, yêu cầu đòi hỏi của cách mạng. Đảng ta,
trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, luôn nêu cao tinh thần độc lập
tự chủ, tự lực, tự cường, trên cơ sở đó đề ra những quyết sách đúng đắn đưa
cách mạng đi đến thắng lợi. Chúng ta không trông chờ, ỷ lại vào bên ngoài,
chúng ta không bị ép buộc bởi bất cứ một thế lực nào. Đồng thời, Đảng cũng
không dập khuôn bất cứ một mô hình nào vào đường lối đổi mới, mà luôn
sáng tạo trong đổi mới tư duy, cách nghĩ, cách làm, để công cuộc đổi mới
thành công.
Đường lối độc lập tự chủ, sáng tạo luôn là tư tưởng nhất quán, xuyên

suốt, là nguyên tắc sống còn đối với cách mạng Việt Nam, chính vì thế Đảng
ta mới thể hiện được bản lĩnh chính trị vững vàng của một Đảng Mác xít chân
chính, trước những bước quanh của lịch sử, Đảng mới thể hiện được trách
nhiệm cao cả trước dân tộc. Có được thành công đó, chính nhờ Đảng luôn có
đường lối đúng đắn, luôn nắm vững qui luật khách quan, biết dựa vào dân,
phát huy sức mạnh của dân. Đường lối đổi mới nảy sinh, phát triển từ thực
tiễn, trở thành xu hướng rõ rệt của quần chúng nhân dân “từ bên dưới”, bắt
gặp tư duy sáng tạo của Đảng “từ bên trên”, đi từ đổi mới từng phần, từng
lĩnh vực riêng lẻ, tiến lên đổi mới toàn diên, đồng bộ, triệt để. Qua 20 năm đổi
mới (1986- 2006), cách mạng nước ta đã giành được những thành tựu to lớn,
rất quan trọng: “ Nền kinh tế đã vượt qua thời kỳ suy giảm, đạt tốc độ tăng
trưởng khá cao, năm sau cao hơn năm trước, bình quân 5 năm ( 2001- 2005)
là 7,51% và phát triển tương đối toàn diện. Văn hoá và xã hội có tiến bộ trên


13

nhiều mặt; việc gắn phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội có
chuyển biến tốt, nhất là trong công cuộc xoá đói giảm nghèo; đời sống các
tầng lớp nhân dân được cải thiện. Chính trị- xã hội ổn định, quốc phòng và an
ninh được tăng cường; quan hệ đối ngoại có bước phát triển mới. Việc xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có tiến bộ trên cả ba lĩnh
vực...sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc được phát huy...”. 4 Đồng thời
qua quá trình đổi mới, Đảng đã tổng kết, rút ra được những bài học quý giá.
Điều đó càng thấy rõ trong quá trình đổi mới, Đảng luôn tìm tòi, sáng tạo tìm
ra hướng đi thích hợp nhất cho dân tộc, không lúc nào Đảng bằng lòng với
thành quả đã đạt được trong thời gian qua, mà mong muốn đạt kết quả cao
hơn nữa trong các giai đoạn tiếp theo. Trong các kỳ Đại hội, Đảng luôn đưa ra
các bài học kinh nghiệm, các bài học đó đều được đúc rút từ thực tiễn công
cuộc đổi mới. Đặc biệt tại Đại hội X, Đảng ta đã đưa ra 5 bài học lớn là:

Một là, trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh.
Hai là, đổi mới toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức
và cách làm thích hợp.
Ba là, đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào dân, phát huy vai
trò chủ động, sáng tạo của nhân dân, xuất phát từ thực tiễn, nhạy bén với cái
mới.
Bốn là, phát huy cao độ nội lực, đồng thời ra sức tranh thủ ngoại lực,
kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới.
Năm là, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, không
ngừng đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân.
4

. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H.2006, tr.14.


14

Trên cơ sở kết quả đã đạt được trong công cuộc đổi mới, bằng những
bài học rút ra, đồng thời, Đảng không ngừng phấn đấu vì mục tiêu “ Dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Chính vì thế từ khi
khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới đất nước đến nay, Đảng lãnh đạo
làm cho đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện, kinh tế tăng trưởng
năm sau cao hơn năm trước, chính trị ổn định, quốc phòng và an ninh được
giữ vững, quan hệ đối ngoại được rộng mở... bởi Đảng luôn có đường lối,
phương pháp lãnh đạo đúng đắn, phù hợp qui luật khách quan, hợp lòng dân.
Phương hướng, mục tiêu Đảng đưa ra luôn phù hợp thực tiễn, được nhân dân
phấn đấu hết mình, do đó đạt được kết quả như Nghị quyết đề ra. Ngay trong

chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng X đưa ra đó là: “ ...phát triển văn hoá; thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội; tăng cường quốc phòng và an ninh, mở rộng
quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế; giữ vững ổn
định chính trị- xã hội; sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; tạo
nền tảng đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo
hướng hiện đại.
Phấn đấu tăng trưởng kinh tế với nhịp độ nhanh, chất lượng cao và
bền vững, gắn với phát triển con người. Đến năm 2010, tổng sản phẩm trong
nước ( GĐP) gấp hơn hai lần so với năm 2000. Trong 5 năm 2006- 2010, mức
tăng trưởng GĐP bình quân đạt 7,5- 8%/ năm, phấn đấu đạt trên 8%/ năm”.5
Tóm lại, tính độc lập tự chủ, sáng tạo của Đảng luôn được phát huy
cao độ trong suốt quá trình Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Từ ngày
thành lập đến nay, trải qua 76 năm, Đảng luôn nêu cao tinh thần độc lập, tự
chủ, sáng tạo trong việc hoạch định đường lối lãnh đạo, cũng như trong quá
trình lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng. Chính nhờ tính độc lập, tự chủ, sáng tạo
của Đảng mà cách mạng Việt Nam đã đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
5

. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H.2006, tr.76.


15

Trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, Đảng đã độc lập chủ động, sáng
tạo để đưa ra đường lối chung là “Chủ trương làm tư sản dân quyền cách
mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Đường lối chung là
như vậy, nhưng trong chỉ đạo thực tiễn đấu tranh, Đảng lại hết sức chủ động,
sáng tạo.Trong mỗi thời kỳ lịch sử khác nhau, Đảng đưa ra mục tiêu, phương
pháp đấu tranh khác nhau, trên cơ sở đó đoàn kết, tập hợp lực lượng to lớn
cho cách mạng. Để cuối cùng đạt được mục tiêu là giành độc lập cho dân tộc,

bằng thắng lợi của cuộc tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945.
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ cũng vậy, nhờ có
đường lối độc lập tự chủ, Đảng đã đề ra đường lối lãnh đạo đúng đắn. Đồng
thời, Đảng luôn chỉ đạo cuộc kháng chiến một cách sát sao, kịp thời đưa ra
những quyết định sáng tạo để giành thắng lợi. Đảng luôn dám nghĩ, dám làm,
dám chịu trách nhiệm trước dân về các quyết định của mình, do vậy, trong
mọi hoàn cảnh khác nhau, kể cả những bước thăng trầm của lịch sử, nhân dân
luôn lạc quan, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng. Như trong thời
kỳ đấu tranh giữ vững chính quyền cách mạng ( 1945- 1946), trong tình thế
thù trong, giặc ngoài chống phá, Đảng phải tuyên bố tự giải tán ( thực tế là rút
vào hoạt động bí mật), tiếp tục lãnh đạo cách mạng. Trong điều kiện khó khăn
như vậy, nhân dân vẫn một lòng theo Đảng, bảo vệ Đảng, bảo vệ Chính quyền
cách mạng.
Trước khi Đảng đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, tình hình
kinh tế xã hội mất ổn định, đời sống nhân dân đứng trước muôn vàn khó
khăn, cách mạng tưởng như khó có thể vượt qua khó khăn thử thách. Trong
điều kiện đó, nhân dân vẫn tuyệt đối tin tưởng vào bản lĩnh, kinh nghiệm lãnh
đạo, vào sự sáng tạo của Đảng để đưa đất nước vượt qua khó khăn thử thách.
Sự nhìn nhận của nhân dân không lầm, đồng thời Đảng cũng kgông phụ lòng
tin của dân, bằng tính độc lập, tự chủ, sáng tạo của mình, Đảng đã đề ra


16

đường lối đổi mới đất nước một cách toàn diện, từng bước tháo gỡ khó khăn.
Quá trình vừa đổi mới, vừa tìm tòi khảo nghiệm, tìm ra bước đi thích hợp, kịp
thời tổng kết, rút kinh nghiệm qua mỗi chặng đường, để tìm ra con đường đi
đúng cho riêng mình. Đồng thời, Đảng không giáo điều sách vở, không dập
khuôn máy móc các mô hình cải cách, cải tổ của các nước xã hội chủ nghĩa
khác trên thế giới, mà trên cơ sở vận dụng sáng tạo lý luận chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện cụ thể của cách mạng, đưa sự

nghiệp đổi mới đi đến thắng lợi.
Ngày nay, trong bối cảnh tình hình thế giới và trong nước diễn biến
phức tạp, khó lường, luôn chứa đựng những nhân tố gây mất ổn định chính
trị- xã hội. Cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc đang diễn ra với nội
dung, hình thức mới. Kẻ địch chống phá cách mạng thế giới, trong đó có Việt
Nam ngày càng tinh vi, thủ đoạn hơn, nhằm xoá bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa
mà nhân dân ta đã phấn đấu,xây dựng. Điều đó đặt ra cho Đảng phải luôn
phát huy cao độ bản lĩnh của mình để chiến thắng kẻ thù, muốn vậy vấn đề
đặt lên hàng đầu là Đảng phải nêu cao tính độc lập, tự chủ, sáng tạo trong
hoạch định đường lối đổi mới giai đoạn tiếp theo. Trên cơ sở kế thừa những
thành tựu đã đạt được trong công cuộc đổi mới vừa qua, đồng thời từ những
bài học rút ra trong quá trình đổi mới, để Đảng đưa ra đường lối đổi mới
những năm tiếp theo, với mục tiêu: “ Đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế,
đạt được bước chuyển biến quan trọng về nâng cao hiệu quả và tính bền vững
của sự phát triển, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. Cải thiện
rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá và tinh thần của nhân dân. Đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển kinh tế tri thức, tạo nền tảng để đưa
nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm
2020. Giữ vững ổn định chính trị và trật tự, an toàn xã hội. Bảo vệ vững chắc
độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia. Nâng cao vị thế


17

của Việt Nam trong khu vực và trên trường quốc tế ”. 6 Với mục tiêu đó, đòi
hỏi Đảng phải nêu cao tính năng động, sáng tạo trong chính sách đối ngoại,
với phương châm mà Đại hội X đã đề ra:“ Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy
của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp
tác quốc tế và khu vực”. Nhằm tranh thủ mọi thời cơ như: nguồn vốn, công
nghệ, đầu tư từ bên ngoài, đồng thời đẩy lùi các nguy cơ như: chiến tranh,

xung đột, cô lập, cấm vận, khủng bố... để phát triển đất nước. Trong chính
sách đối nội, Đảng phải luôn có chính sách đúng đắn, phù hợp, khuyến khích
các thành phần kinh tế phát triển, để từ đó tranh thủ mọi nguồn lực trong
nước, thúc đẩy nền kinh tế phát triển, tuy nhiên phải giữ vững định hướng xã
hội chủ nghĩa, tạo sự ổn định về chính trị- xã hội, quốc phòng và an ninh
vững chắc. Để đạt được mục tiêu cuối cùng là xây dựng thành công chủ nghĩa
xã hội, đòi hỏi Đảng phải thường xuyên nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, tự
lực, tự cường, sáng tạo, có như vậy đất nước ta mới thoát khỏi khủng hoảng,
thoát khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển, để phát triển vững chắc, tạo
ra thế và lực mới trong khu vực và trên trường quốc tế.
Tuy nhiên, không một lúc nào Đảng được phép thoả mãn về những
thành quả đã đạt được trong công cuộc đổi mới vừa qua, mặc dù những thành
tựu trong công cuộc đổi mới đất nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng, là không
thể phủ nhận, bộ mặt đất nước thay đổi mạnh mẽ, từng ngày, từng giờ, là điều
không rễ có được. Điều đó không chỉ chúng ta ghi nhận, mà bạn bè quốc tế
cũng rất đánh giá cao thành tựu của công cuộc đổi mới ở Việt Nam. Nhưng
không khi nào Đảng xa rời nguyên tắc, mục tiêu đã được xác định, dù đó là
miếng mồi kinh tế béo bở mà các đối tác đưa ra, dù đó là sức ép lớn từ cộng
đồng quốc tế. Đảng luôn kiên định với mục tiêu, con đường đã lựa chọn, con
đường đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, không vì những khó khăn trước mắt
. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H.2006, tr.185186.
6


18

mà dao động, mà từ bỏ Cương lĩnh, đường lối đã được xác định. Trong quá
trình đổi mới tiếp theo, để đạt được thành tựu to lớn, đưa sự nghiệp đổi mới
đạt được những kết quả to lớn hơn nữa Đảng phải thường xuyên nêu cao nữa
tính độc lập, tự chủ, sáng tạo của mình. Muốn vậy, Đảng phải thường xuyên

phát huy trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân, không độc đoán chuyên quyền,
không bao biện làm thay, thường xuyên đổi mới tư duy, cách làm, sao cho
theo kịp với tình hình phát triển của đất nước, khu vực và trên thế giới.
Để công cuộc đổi mới đi đúng hướng, đạt được thành tựu to lớn hơn
nữa, Đảng phải thường xuyên nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, nhạy
bén trước tình hình, không để mắc mưu kẻ địch, đặc biệt trong lĩnh vực kinh
tế. Đồng thời kiên quyết đấu tranh với các luận điệu sai trái, phản động, đòi
đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, đòi từ bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng
Cộng sản, từ bỏ con đường đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội...
Một bài học thành công trong suốt 76 năm lãnh đạo cách mạng Việt
Nam của Đảng, đó chính là việc Đảng luôn nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ,
tự lực, tự cường, sáng tạo trong hoạch định đường lối. Trong công cuộc đổi
mới giai đoạn tiếp theo, tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, sáng tạo
càng được Đảng phát huy cao hơn nữa, nhằm dự báo chính xác tình hình, đề
ra đường lối đổi mới, chủ trương, biện pháp lãnh đạo phù hợp với tình hình
thực tiễn cách mạng, xu thế phát triển của quốc tế. Đồng thời biết kế thừa,
phát huy kinh nghiệm, kết quả đã đạt được trong công cuộc đổi mới vừa qua,
đưa sự nghiệp đổi mới đi đến thắng lợi, phấn đấu vì mục tiêu mà Đại hội X
của Đảng đã đề ra:“ Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh”, vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội, sánh vai cùng các nước tiên tiến
trên thế giới”7.

7

.Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H.2006, tr.10.



×