Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT học NHẬN THỨC của ĐẢNG về QUAN hệ sản XUẤT PHÙ hợp với TÍNH CHẤT và TRÌNH độ PHÁT TRIỂN của lực LƯỢNG sản XUẤT QUA các THỜI kỳ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.45 KB, 13 trang )

NHẬN THỨC CỦA ĐẢNG VỀ QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN
XUẤT PHÙ HỢP VỚI TÍNH CHẤT VÀ TRÌNH ĐỘ PHÁT
TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT QUA CÁC THỜI KỲ

Quy luật về quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất
và quan hệ sản xuất là quy luật cơ bản nhất của học thuyết hình
thái kinh tế - xã hội mà Mác và Ăng Ghen đã phát hiện ra. Bởi
đó là quy luật phản ánh đúng đắn, khoa học quá trình vận động
phát triển của xã hội loài người, xác định một cách chính xác vị
trí vai trị của từng thành tố trong nền sản xuất vật chất xã hội,
là cơ sở thế giới quan, phương pháp luận chỉ đạo cho hoạt động
nhận thức và cải tạo thực tiễn của các đảng cộng sản nói chung
cũng như Đảng cộng sản Việt Nam nói riêng trong việc xác định
đường lối đổi mới đất nước theo định hướng xẫ hội chủ nghĩa
hiện nay. Việc nghiên cứu nắm vững, bảo vệ và vận dụng sáng
tạo nội dung của quy luật trong điều kiện rất phức tạp của cuộc
đấu tranh tư tưởng, lý luận hiện nay khơng chỉ là vấn đề cơ bản,
quan trọng mà cịn là một nhiệm vụ lý luận, chính trị cấp bách
hiện nay.
II. KHÁI QUÁT NỘI DUNG CỦA QUY LUẬT
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của một
phương thức sản xuất có quan hệ, tác động biện chứng với nhau,
trong đó lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, quan hệ
sản xuất có tác động trở lại mạnh mẽ đối với lực lượng sản xuất.
1


Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất thì thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển; ngược
lại, nếu không phù hợp sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng
sản xuất. Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình


độ của lực lượng sản xuất ở đây được hiểu là một trạng thái mà
trong các yếu tố cấu thành quan hệ xản xuất phải là hành lang
thuận lợi “ tạo địa bàn đầy đủ cho lực lượng sản xuất phát
triển”1. Như vậy trạng thái phù hợp ở đây phải được thể hiện trên
cả ba mặt của quan hệ sản xuất thích ứng với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất, tạo điều kiện tối ưu cho việc sử dụng và
kết hợp giưa lao động và tư liệu sản xuất. Với trạng tháI phù hợp
như vậy, lực lượng sản xuất sẽ có cơ sở để phát triển hết khả
năng của nó.
Lực lượng sản xuất là phương thức kết hợp giữa người lao
động có kinh nghiệm, kỹ năng và tri thức nhất định với tư liệu
sản xuất, trước hết là công cụ lao động, tạo ra sức sản xuất và
năng lực chinh phục tự nhiên của con người. Lực lượng sản xuất
là phương thức kết hợp giữa lao động sống với lao động vật hóa.
Lực lượng sản xuất được xem xét trên cả hai mặt, đó là mặt
kinh tế- kỹ thuật( công cụ lao động) và mặt kinh tế - xã hội
(người lao động). Trong đó, người lao động là chủ thể sáng tạo,
và xử lý mọi của cải vật chất xã hội, là nguồn lực cơ bản, vô tận
và đặc biệt của sản xuất; Công cụ lao động là những phương
tiện mà con người sử dụng để tác động vào tự nhiên. Đây chính
là "khí quan" của bộ óc, là tri thức được vật thể hóa do con
người sáng tạo ra và được con người sử dụng làm phương tiện
1

C.Mác và Ph. Ăngghen toàn tập, Nxb CTQG, Hạ Nội, 1993, T13, Tr 15

2


vật chất của q trình sản xuất. Cơng cụ lao động là yếu tố động

nhất, cách mạng nhất trong lực lượng sản xuất, là nguyên nhân
sâu xa của mọi biến đổi kinh tế; là thước đo trình độ chinh phục
tự nhiên của con người và tiêu chuẩn để phân biệt các thời đại
kinh tế khác nhau. Trong lực lượng sản xuất, người lao động là
nhân tố hàng đầu quyết định, cịn cơng cụ lao động là thành tố
cơ bản quan trọng không thể thiếu được.
Quan hệ sản xuất là tổng hợp các quan hệ kinh tế vật chất
giữa người với người trong quá trình sản xuất vật chất. Quan hệ sản
xuất là sự thống nhất giữa ba mặt cơ bản, quan hệ sở hữu về tư liệu
sản xuất; quan hệ về tổ chức và quản lý sản xuất; quan hệ về phân
phối sản phẩm lao động. Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là
quan hệ giữa các tập đoàn người trong việc chiếm hữu, sử dụng
các tư liệu sản xuất xã hội. Quan hệ về tổ chức quản lý sản xuất
là quan hệ giữa các tập đoàn người trong việc tổ chức sản xuất
và phân công lao động. Quan hệ về phân phối sản phẩm lao
động là quan hệ giữa các tập đoàn người trong việc phân phối
sản phẩm lao động xã hội, nói lên cách thức và quy mơ của cải
vật chất mà các tập đồn người được hưởng. Các mặt trong
quan hệ sản xuất có quan hệ hữu cơ, tác động qua lại, chi phối
ảnh hưởng lẫn nhau. Trong đó quan hệ về sở hữu tư liệu sản
xuất giữ vai trò quyết định đến bản chất và tính chất của quan
hệ sản xuất.
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất là quy luật cơ bản nhất của sự vận động,
phát triển lịch sử xã hội. Thực chất của quy luật là phản ánh hoạt
động thực tiễn sản xuất vật chất của con người, chỉ ra mối quan hệ
3


biện chứng giữa con người với tự nhiên cũng như giữa con người

với con người trong quá trình sản xuất. Khẳng định tính tất yếu
khách quan của q trình vận động phát triển của xã hội loài người.
Sự vận động và phát triển đó được thơng qua mối quan hệ biện
chứng tác động qua lại lẫn nhau giữa lực lượng sản xuất và quan
hệ sản xuất mà điểm khởi đầu là từ sự biến đổi của lực lượng sản
xuất. Trong sự tác động qua lại đó lực lượng sản xuất là nội dung,
cịn quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của quá trình sản xuất.
Lực lượng sản xuất là yếu tố năng động, cách mạng, thường xuyên
biến đổi, là yếu tố suy đến cùng quyết định sự phát triển của lịch
sử. cịn quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của quá trình sản
xuất, là yếu tố tương đối ổn định, ít biến đổi và chịu sự quy định
của lực lượng sản xuất cả về nội dung, tính chât và sự vận động.
Tuy nhiên trong mối quan hệ đó, mặc dù chịu sự quy định của lực
lượng sản xuất song quan hệ sản xuất cũng không phải thụ động
hồn tồn mà nó cịn có tính độc lập tương đối và có tác động nhất
định ảnh hưởng tới sự phát triển của lực lượng sản xuất. Nói về
vấn đề này, trong thư giửi G. Bơ-Lô-Sơ Ăng Ghen đã viết “"Theo
quan điểm duy vật về lịch sử, nhân tố quyết định trong lịch sử xét
đến cùng là sự sản xuất và tái sản xuất ra đời sống hiện thực. Cả
Mác và tơi chưa bao giờ khẳng định gì hơn. Nếu như cã ai xuyên tạc
câu đó khiến cho nó có nghĩa là chỉ có nhân tố kinh tế là nhân tố duy
nhất quyết định, thì họ đã biến câu đó thành một câu trống rỗng, vơ
nghĩa”2.
Như vậy, sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất là đòi hỏi khách quan của nền sản xuất.
2

C. Mac và Ăng ghen toàn tập Nxb CTQG, H, 1979 tập 37, tr 641

4



Đó là sự phù hợp biện chứng bao hàm mâu thuẫn và luôn luôn nảy
sinh mâu thuẫn Con người bằng năng lực nhận thức và thực tiễn, phát
hiện và giải quyết mâu thuẫn, thiết lập sự phù hợp mới làm cho quá
trình sản xuất phát triển đạt tới một nấc thang cao hơn. Sự tác động
biện chứng giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất làm cho lịch
sử xã hội loài người là lịch sử kế tiếp nhau của các phương thức sản
xuất. Đồng thời cũng đòi hỏi trong quá trình hoạt động thực tiễn ,
muốn phát triển đất nước phải bắt đầu từ phát triển lực lượng sản
xuất, mà trước hết là phát triển người lao động bởi theo Lênin “lực
lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là
người lao động”3 và công cụ lao động Mác đã khẳng định “ Những
thời đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất ra
cái gì mà là ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào, với những tư
liệu lao động nào”4.. Muốn xoá bỏ một quan hệ sản xuất cũ, thiết
lập một quan hệ sản xuất mới phải căn cứ từ tính chất và trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất, tuyệt đối không được tùy tiện
thiết lập quan hệ sản xuất một cách bừa bãi không tuân theo quy
luật, không căn cứ vào cơ sở kinh tế, tùy tiện, chủ quan, duy ý chí.
III. SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TA TRONG Q
TRÌNH LÃNH ĐẠO CÁCH MẠNG.
Thực tiễn q trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, quy luật
về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất ln được Đảng ta đặc biệt quan tâm.
Tuy mức độ vận dụng và hiệu quả đạt được ở từng giai đoạn lịch sử
có khác nhau, song xem xét trong cả q trình chúng ta xây dựng
3

4


V.I. Lênin, toàn tập, tập 38, Nxb Tiến Bộ, Mat-Xcơ-Va 1977, tr. 430
C. Mac và Ăng ghen toàn tập, Nxb CTQG, H. 1993, t 23, tr.269

5


đất nước tiến lên theo con đường xã hội chủ nghĩa thì nội dung về
mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản
xuất của quy luật luôn được Đảng vận dụng ngày càng đầy đủ, phù
hợp và sáng tạo hơn. Điều đó được thể hiện rõ trong các giai đoạn
lịch sử cụ thể sau:
Thời kỳ trước những năm đổi mới:
Như đã đặt vấn đề ở trên, do điều kiện hoàn cảnh lịch sử của
đất nước quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội từ một điểm xuất phát thấp,
nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề.
Cùng với bệnh chủ quan, đơn giản, giáo điều trong nhận thức muốn
“có ngay chủ nghĩa xã hội” trong khi điều kiện cơ sở vật chất kỹ
thuật cho chủ nghĩa xã hôi chưa có gì, nên chúng ta đã mắc phải căn
bệnh “may áo rỗng cho trẻ nhanh lớn”. Trong suốt một thời gian dài,
ta đã vận dụng chưa phù hợp, thiếu cơ sở khoa học về nội dung của
quy luật, các mối quan hệ trong quan hệ sản xuất được thiết lập
không trên cơ sở sự phát triển đồng bộ của lực lượng sản xuất. Nên
khơng kích thích được sự phát triển của sản xuất, đời sống nhân dân
ít được cả thiện, nền kinh tế của đất nước “ì ạch” kéo dài. Những sai
lầm này đã được Đảng ta thẳng thắn nhận rõ khuyết điểm. Tại đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI Đảng đã khẳng định: “..Trong
nhận thức cũng như hành động chúng ta…chưa nắm vững và vận
dụng đúng quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính
chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất” 5. Hay như cương

lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
Đảng ta cũng đã khẳng định “…Đảng đã phạm sai lầm, chủ quan
duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan: nóng vội trong cải tạo xã
5

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ VI, Nxb ST, H.1987.tr 23

6


hội chủ nghĩa, xóa bỏ ngay nền kinh tế nhiều thành phần; có lúc đẩy
mạnh quá mức việc xây dựng cơng nghiệp nặng; duy trì khá lâu cơ
chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp…” 6. Chúng ta đã áp
đặt một quan hệ sản xuất vừa không đồng bộ lại “ có những yếu tố
vượt quá xa so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất” 7, chưa
quan tâm đúng mức đến lợi ích người lao động, cùng với việc thiếu
chú trọng kết hợp một cách hợp lý giữa các yếu tố cấu thành lực
lượng sản xuất, nhất là sự tương xứng về trình độ giữa người lao
động và công cụ sản xuất là nguyên nhân chủ yếu làm cho đất nước
rơi vào tình trạng khủng hoảng kinh tế kéo dài.
Bước sang thời ký đổi mới cho đến nay:
Sau 20 năm thực hiện đường lối đổi mới do Đảng khởi xướng
và lãnh đạo, đánh giá tổng quát thành tựu đã đạt được, đảng đã
khẳng định: “với sự nỗ lực phấn đấu của toàn đảng, toàn dân, tồn
qn, cơng cuộc đổi mới ở nước ta đã đạt được những thành tựu
to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Đất nước đã ra khỏi khủng khoảng
kinh tế – xã hội, có sự thay đổi cơ bản và tồn diện. Kinh tế tăng
trưởng khá nhanh: sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang được đâỷ
mạnh .Đời sống nhân đan được cải thiện rõ rệt”8.

Có được kết quả trên , trước hết là nhờ sự nhậy bén trong xác
định mơ hình xã hội chủ nghĩa mà chúng ta xây dựng là “…có một
nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và
chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu…”9. Tức là đổi mới
phải bắt đầu từ đổi mới tư duy về kinh tế và Đảng ta đã chủ trương
6

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội , Nxb ST, H1991, tr 4.
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ VI, Sdd, tr. 57
8
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG Tr 17
9
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội , Nxb ST, H1991, tr 8
7

7


chuyển đổi nền kinh tế từ kế hoạch hoá tập trung, quan liêu bao cấp
sang phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa( Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa).
Đây là bước phát triển có tính đột phá trong tư duy lý luận của Đảng
ta, trong đó vấn đề cốt lõi là nhận thức và vận dụng đúng đắn, sáng
tạo quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Đảng ta khẳng định phải
tìm“ những hình thức và bước đi thích hợp, làm cho quan hệ sản
xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất ln có tác dụng thúc đẩy sự phát triên của lực lượng sản
xuất”10. Đồng thời cũng đã chỉ ra các phương hướng lớn trong nhận

thức và vận dụng qui luật, đó là: Phát triển lực lượng sản xuất, cơng
nghiệp hố đất nước theo hướng hiện đại… là nhiệm vụ trung tâm
nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã
hội, không ngừng nâng cao năng suất lao động và cải thiện đời sống
nhân dân; phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, thiết lập
từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao với sự
đa dạng về hình thức sở hữu; phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế
thị trường có sự quản lý của nhà nước.
Về vấn đề đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa và xây dựng quan hệ sản xuất
từng bước phù hợp với sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
Đảng ta xác định: “Nếu cơng nghiệp hố, hiện đại hố tạo nên lực
lượng sản xuất cần thiết cho chế độ xã hội mới, thì việc phát triển
10

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ VI, Sdd, tr. 58

8


nền kinh tế nhiều thành phần chính là để xây dựng hệ thống quan hệ
sản xuất phù hợp”.11 Và ““Ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất,
đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã
hội chủ nghĩa”12
Về phương hướng cụ thể, Văn kiện Đại hội IX chỉ rõ: "Phát
triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn với xây dựng quan hệ sản xuất
mới phù hợp trên cả 3 mặt sở hữu, quản lý và phân phối”, tiếp tục
thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần với 3 hình thức sở hữu cơ bản: sở hữu toàn dân, tập thể và sở

hữu tư nhân; với 6 thành phần kinh tế cơ bản: Kinh tế nhà nước;
kinh tế tập thể; kinh tế cá thể, tiểu chủ; kinh tế tư bản tư nhân; kinh
tế tư bản nhà nước; kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi. Trong đó xác
định: “kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng
với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền
kinh tế quốc dân”13. Đại hội IX xác định, mục đích kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất,
phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ
nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân và khẳng định: “Chủ
trương xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa thể hiện tư duy, quan niệm của Đảng ta về sự phù hợp
giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản
xuất. Đó là mơ hình kinh tế tổng qt của nước ta trong thời kỳ quá
độ đi lên chủ nghĩa xã hội”14.
Kế thừa những tư tưởng trên về đường lối phát triển kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, từng bước xây dựng quan
11

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, NxbCTQG, H. 1996 , tr. 24
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NxbCTQG, H, 2001 , tr. 89.
13
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NxbCTQG, H, 2001 , tr. 96.
14
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NxbCTQG, H, 2001 , tr .88.
12

9


hệ xản xuất phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế, Đại hội Đảng

toàn quốc lần thứ X khẳng định, Xây dựng đất nước “có nền kinh tế
phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ
sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất”15.
Sự kế thừa, khẳng định và phát triển trên của Đảng là hoàn
toàn đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với điều kiện mới của cách mạng
Việt Nam. Đây là bước phát triển mới so với cách diễn đạt trong
cương lĩnh xây dựng đất nước tại Đại hội VII “có một nền kinh tế
phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ
công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu”2. Vẫn nội dung cơ bản là
thiết lập một quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất , trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất. Song cách diễn đạt ở các nghị quyết
trước đây khi nói đến chế độ XHCN thường nhấn mạnh chế độ sở
hữu công cộng về tư liệu sản xuất chủ yếu, coi đó là một trong
những tiêu chí quan trọng. Nghị quyết Đại hội X chủ yếu nhấn mạnh
sự phù hợp của QHSX với LLSX trình độ hiện đại là cơ sở cho một
nền kinh tế phát triển cao, chứ khơng nhấn mạnh tiêu chí quan hệ sở
hữu cơng cộng. Như vậy, khơng có nghĩa là khơng tính đến chế độ
cơng hữu về TLSX. Bởi vì, khi LLSX đạt trình độ hiện đại thì theo
quy luật sớm hay muộn sẽ đòi hỏi QHSX dựa trên chế độ công hữu
về TLSX. Mặt khác, chủ trương của Đảng ta trong văn kiện Đại hội
X vẫn là “Phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều
thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo;
kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền
tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân” 16. Cách diễn đạt của
15
16

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, NxbCTQG, H, 2006 , tr. 68
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H.2006 , tr.77.


10


Đại hội X là mềm dẻo, linh hoạt, tránh được giáo điều, cứng nhắc
quá nhấn việc thiết lập QHSX dựa trên chế độ công hữu trong
xây dựng nền kinh tế mới, nhưng cũng khơng có nghĩa là chủ
trương phát triển LLSX một cách tự phát bằng mọi giá. Mà bản
chất của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa dựa trên sự phát triển
của tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất vẫn được giữ
vững. Đó là, một mặt coi trọng phát triển mạnh mẽ lực lượng sản
xuất, gắn với đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố và phát triển
kinh tế tri thức.Với tinh thần “giải phóng mạnh mẽ và không ngừng
phát triển sức sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân” 17. Đồng thời,
“tranh thủ cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng,
lợi thế của nước ta để rút ngắn q trình cơng nghiệp hố, hiện đại
hố đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với phát triển
kinh tế tri thức, coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh
tế và cơng nghiệp hố, hiện đại hoá” 18. Luận điểm trên đã bắt nhịp
kịp thời xu hướng phát triển khách quan của thời đại, đồng thời đáp
ứng địi hỏi của chính cơng cuộc đổi mới trong giai đoạn cách mạng
hiện nay. Mặt khác, nhất quán lâu dài với phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa với “nhiều hình thức sở hữu,
nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò
chủ đạo”. Xuất phát từ thực trạng trình độ LLSX hiện có và tiềm
năng của nó, Đại hội X xác định nền kinh tế nước ta có ba chế độ
sở hữu. Trên cơ sở đó “hình thành nhiều hình thức sở hữu và
nhiều thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh
tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà
17

18

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, NxbCTQG, H, 2006 , tr.77.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Sdd , tr.87.

11


nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi” 19. Thực hiện chủ trương
này cũng chính là nhằm phát triển mạnh mẽ LLSX. Đây cũng là
định hướng lớn trong xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong xu thế toàn cầu
hố. Bởi vì, khi LLSX đạt trình độ nhất định thì tất yếu địi hỏi
QHSX dựa trên chế độ cơng hữu về TLSX .
Như vậy một lần nữa có thể khẳng định, dù ở đâu và trong bất
cứ hoàn cảnh nào, Đảng ta vẫn trung thành với quy luật khách quan
của sự phát triển xã hội mà các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác
Lênin đã chỉ ra. Đó là muốn phát triển đất nước phải bắt đầu từ nền
sản xuất vật chất mà trực tiếp là lực lượng sản xuất- Với người lao
động và công cụ lao động là yếu tố quyết định. Trên cơ sở đó từng
bước thiết lập quan hệ sản xuất cho phù hợp với từng bước đi và tạo
hành lang pháp lý thuận tiện mở đường cho sự phát triển của lực
lượng sản xuất. Tuy mức độ vận dụng ở từng thời điểm lịch sử có
khác nhau thậm chí có lúc phải trả giá. Bởi đó là một q trình tìm
tịi, khảo nghiệm. Song kết quả cuối cùng là Đảng đã vận dụng đúng
đắn, sáng tạo quy luật phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của đất nước
và đã thu được thành tựu “to lớn và có ý nghĩa lịch sử”. Qua đây,
một lần nữa khẳng định đường lối đổi mới của Đảng là hoàn toàn
đúng đắn phù hợp với thực tiễn khách quan và xu thế của thời đại.
Đồng thời đây cũng là cơ sở lý luận quan trọng để chúng ta đấu

tranh với những luận điệu sai trái, của các thế lực thù địch hòng
chống phá đảng, xuyên tạc đường lối đổi mới của Đảng và cuối
cùng là chúng phủ nhận con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng
và nhân dan ta đã lựa chọn.
19

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Sdd , tr.83

12


Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất có ý nghĩa phương pháp luận rất quan
trọng trong hoạt động quân sự và xây dựng quân đội. Quân đội
nhân dân Việt Nam là một bộ phận thuộc kiến trúc thượng tầng
xã hội, là công cụ bạo lực vũ trang để bảo vệ chế độ kinh tế. Bởi
vậy, cần thực hiện tốt chức năng là đội quân lao động sản xuất,
tham gia phát triển kinh tế để góp phần tích cực vào sự nghiệp
đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
hiện nay.

13



×