A. LỜI NÓI ĐẦU
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất là quy luật hết sức phổ biến trong công cuộc xây dựng
đất nước của các quốc gia.Sự mâu thuẫn hay phù hợp giữa quan hệ sản xuất
và lực lượng sản xuất đều có ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế.Xã hội loài
người tồn tại và phát triển được là nhờ có lao động và sản xuất.Trong quá
trình sản xuất,một mặt con người tác động vào tự nhiên để tìm ra những đặc
tính của nó nhằm phục vụ cho lợi ích của con người,mặt khác trong mơi
trường xã hội hình thành mối quan hệ phức tạp đặc biệt từ khi xã hội có
phân chia giai cấp mà lợi ích căn bản của họ đối kháng nhau hình thành nên
mâu thuẫn xã hội.Mâu thuẫn xã hội dẫn đến đấu tranh giai cấp,chính các
cuộc đấu tranh là động lực thúc đẩy xã hội phát triển từ chế độ này sang chế
độ khác tiến bộ hơn,con người cũng có nhu cầu tìm hiểu sự hoạt động các
quy luật và vận dụng nó trong mọi mặt của đời sống xã hội.Trong sự phát
triển kinh tế có rất nhiều vấn đề phải giải quyết, ‘‘Quy luật quan hệ sản xuất
phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất’’ đóng vai
trị quan trọng,nó phản ánh sự phát triển của các hình thái kinh tế xã hội từ
trước tới nay.Trong đó lực lượng sản xuất là nội dung của quan hệ sản xuất
nó ln vận động phát triển,địi hỏi quan hệ sản xuất phải phù hợp với
nó.Nhưng quan hệ sản xuất cũng tác động trở lại đối với lực lượng sản
xuất,nếu quan hệ sản xuất cũng phù hợp với nó thì thúc đẩy lực lượng sản
xuất phát triển,ngược lại nếu khơng phù hợp thì nó sẽ trở thành lực lượng
kìm hãm sự phát triển.Nói cách khác,quy luật QHSX phù hợp với tính chất
và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là điều kiện tất yếu để phát triển
nền kinh tế.Do vậy ngihên cứu về quy luật này sẽ giúp cho sinh viên đặc
biệt là sinh viên khối kinh tế chúng em có thêm những hiểu biết ban đầu và
1
sâu sắc hơn về sự phát triển của nước ta cũng như trên thế giới,hiểu được
những quy luật vận động của nền kinh tế từ đó có thể góp một phần nhỏ bé
vào sự nghiệp xây dựng nước nhà sau này.
Trong quá trình xây dựng XHCN ở nước ta,Đảng và nhà nước đưa ra
những chính sách,đường lối và chủ trương đúng đắn,nắm bắt tốt những quy
luật của này.Đảng và nhà nước chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài
chính sách nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị
trườngcó sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN đưa nước ta từ
một nước nông nghiệp lạc hậu trở thành một nước nông nghiệp tiên tiến,góp
phần đây nhanh nền kinh tế nước nhà đi sang một hướng khác,sánh vai cùng
các nước trong khu vực và trên thế giới.
PHÂN TÍCH NỘI DUNG QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚI
TRèNH ĐỘ CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT. ĐẢNG TA ĐÃ NHẬN
THỨC VÀ VẬN DỤNG QUY LUẬT NÀY NHƯ THẾ NÀO TRONG
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
B. NỘI DUNG
2
CHƯƠNG I : KHÁI NIỆM VỀ LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT QUAN HỆ SẢN
XUẤT VÀ QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚI TÍNH CHẤT
VÀ TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT
A/ KHÁI NIỆM VỀ LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ SẢN XUẤT:
1/ Lực lượng sản xuất:
Để tiến hành sản xuất thì con người phải dùng các yếu tố vật chất và
kỹ thuật nhất định. Tổng thể các nhân tố đó là lực lượng sản xuất. Lực lượng
sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên. Nghĩa là trong
quá trình thực hiện sản xuất xã hội con người trinh phục tự nhiên bằng các
sức mạnh hiện thực của mình suức mạnh đó được chủ nghĩa duy vật lịch sử
khái quát trong khái niệm lực lượng sản xuất. Trình độ lực lượng sản xuất
biểu hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người. Lực lượng sản xuất
nói lên năng lực thực tế của con người trong quá trình sản xuất tạo nên của
cải cho xã hội đảm bảo sự phát triển của con người.
Lực lượng sản xuất bao gồm người lao động và kỹ năng lao động và
tư liệu sản xuất. Trong quá trình sản xuất cơng cụ lao động tác động vào đối
tượng lao động để tạo ra của cải vật chất thì tư liệu lao động được hồn thiện
nhằm đạt được năng suất lao động cao. Còn trong tư liệu lao động tức là tất
cả các yếu tố vật chất mà con người sử dụng để tác động vào đối tượng lao
động thì cơng cụ lao động là yếu tố quan trọng nhất linh hoạt nhất. Bởi vậy
khi công cụ lao động đã đạt đến trình độ tin học hố được tự động hố thì
vai trị của nó lại càng quan trọng. Trong mọi thời đại công cụ sản xuất luôn
là yếu tố đơng nhất của lực lượng sản xuất. Chính sự chuyển đổi cải tiến và
hồn thiện khơng ngừng của nó đã gây lên những biến đổi sâu sắc trong tồn
bộ tư liệu sản xuất. Trình độ phát triển cơng cụ lao động là thước đo trình độ
chinh phục tự nhiên của con người. Tuy nhiên LêNin viết: “Lực lượng sản
3
xuất hàng đầu của tồn thể nhân loại là cơng nhân, người lao động” có thể
cói yếu tố quan trọng nhất trong lực lượng sản xuất chính là con người.
Trong thời đại ngày nay khoa học đã phát triển tới mức trở thành nguyên
nhân trực tiếp của nhiều biến đổi to lớn trong sản xuất và đời sống nó đã trở
thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Nó vừa là ngành sản xuất riêng vừa thâm
nhập vào các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất đem lại thay đổi về chất
cho lực lượng sản xuất.
Khoa học và công nghệ hiện đại chính là đặc điểm thời đại của sản
xuất nó hồn tồn có thể coi là đặc trưng cho lực lượng sản xuất hiện đại.
2/ Khái niệm về quan hệ sản xuất:
Để tiến hành quá trình sản xuất nhất định con người phải có mối quan
hệ với nhau. Tổng thể những mối quan hệ này gọi là quan hệ sản xuất. Nói
cách khác quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong sản xuất.
Trong sự sản xuất ra đời sống xã hội của mình con người dù muốn
hay khơng cũng buộc phải duy trì những quan hệ nhất định với nhau để trao
đổi hoạt động sản xuất cũng như kết quả lao động những quan hệ sản xuất
này mang tính tất yếu. Như vậy quan hệ sản xuất do con người tạo ra song
nó được hình thành một cách khách quan không phụ thuộc vào ý muốn của
bất kỳ ai. Việc phải thiết lập các mối quan hệ trong sản xuất tự nó đã là vấn
đề có tính quy luật tất yếu, khách quan của sự vận động xã hội.
Với tính chất là những quan hệ kinh tế khách quan không phụ thuộc
vào ý muốn của con người, quan hệ sản xuất là những quan hệ mang tính vật
chất của đời sống xã hội. Quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của lực lượng
sản xuất và là cơ sở của đời sống xã hội.
Quan hệ sản xuất gồm 3 mặt:
4
- Quan hệ sở hữu về tư liêu sản xuất tức là quan hệ giữa người với tư
liệu sản xuất. Tính chất của quan hệ sản xuất trước hết được quy định bởi
quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất – Biểu hiện thành chế độ sở hữu.
trong hệ thống các quan hệ sản xuất thì quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất có
vai trị quyết định đối với các quan hệ xã hội khác.
Trong các hình thái kinh tế xã hội mà lồi người đã từng trải qua, lịch
sử đã được chứng kiến sự tồn tại của 2 loại hình sở hữu cơ bản đối với tư
liệu sản xuất: sở hữu tư nhân và sở hữu cơng cộng. Sở hữu cơng cộng là loại
hình mà trong đó tư liệu sản xuất thuộc về mọi thành viên của cộng đồng.
Do tư liệu sản xuất là tài sản chung của cả cộng đồng nên các quan hệ xã hội
trong sản xuất và trong đời sống xã hội nói chung trở thành quan hệ hợp tác
giúp đỡ nhau. Ngược lại trong các chế độ tư hữu do tư liệu sản xuất chỉ nằm
trong tay một số người nên của cải xã hội không thuộc về số đông mà thuộc
về một số ít người các quan hệ xã hội do vậy bất bình đẳng.
- Quan hệ tổ chức và quản lý kinh doanh sản xuất: Tức là quan hệ
giưuã người với người trong sản xuất và trong trao đổi vật chất của cải.
Trong hệ thống các quan hệ sản xuất các quan hệ về mặt tổ chức quản lý sản
xuất là các quan hệ có khả năng quyết định một cách quy mô tốc độ hiệu quả
và xu hướng mỗi nền sản xuất cụ thể đi ngược lại các quan hệ quản lý và tổ
chức có thể làm biến dạng quan hệ sở hữu ảnh hưởng tiêu cực đến kinh tế xã
hội.
Quan hệ phân phối sản xuất sản phẩm tức là quan hệ chặt trẽ với nhau
cùng mục tiêu chung là sử dụng hợp lý và có hiệu qủa tư liệu sản xuất để
làm cho chúng không ngừng được tăng trưởng, thúc đẩy tái sản xuất mở
rộng nâng cao phúc lợi cho người lao động. Bên cạnh các quan hệ về mặt tổ
chức quản lý,trong hệ thống quan hệ sản xuất, các quan hệ về mặt phân phối
5
sản phẩm lao động cũng là những nhân tố có ý nghĩa hết sức to lớn đối với
sự vận động của toàn bộ nền kinh tế. Quan hệ phân phối có thể thúc đẩy tốc
độ và nhịp điệu của sản xuất nhưng ngược lại nó có khả năng kìm hãm sản
xuất kìm hãn sự phát triển của xã hội
Nêu xét riêng trong phạm vi một quan hệ sản xuất nhất định thì tính
chất sở hữu quyết định tính chất của quản lý và phân phối. Mặt khác trong
mỗi hình thái kinh tế xã hội nhất định quan hệ sản xuất thống trị bao giờ
cũng giữ vai trò chi phối các quan hệ sản xuất khác, ít nhiều cải biến chúng
để chẳng những chung không đối lập mà phục vụ đắc lực cho sự tồn tại và
phát triển của kinh tế xã hội mới.
B/ QUY LUẬT VỀ QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚI TÍNH CHẤT VÀ
TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT:
1/ Tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất:
a/ Tính chất:
Tính chất của lực lượng sản xuất là tính chất của tu liệu sản xuất và
lao động. Khi nền sản xuất được thực hiện với những cơng cụ ở trình độ phổ
thơng, lực lượng sản xuất chủ yếu mang tính chất cá nhân. Khi trình độ sản
xuất đạt tới trình độ cơ khí hố, lực lượng sản xuất đòi hỏi phải được vận
động cho sự hợp tác xã hội rộng rãi trên cơ sở chuyên mơn hố. Tính chất tự
cấp tự túc cơ lập của nền sản xuất nhỏ lúc đó phải được thay thế bởi tính
chất xã hội hố.
b/ Trình độ của lực lượng sản xuất:
Lực lượng sản xuất là yếu tố có tác dụng quyết định đối với sự phát
triển của phương thức sản xuất: Trình độ của lực lượng sản xuất trong từng
giai đoạn của lịch sử lồi người thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của
loài người trong giai đoạn đó. Khái niệm trình độ của lực lượng sản xuất nói
6
lên khả năng của con người thông qua việc sử dụng cơng cụ lao động thực
hiện q trình cải biến tự nhiên nhằm đảm bảo cho sự sinh tồn và phát triển
của mình. Trình độ lực lượng sản xuất thể hiện ở: Trình độ cơng cụ lao
động, trình độ quản lý xã hội trình độ ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản
xuất, kinh nghiệm và kỹ năng của con người và trình độ phân cơng lao động.
Trên thực tế tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất không tách
biệt nhau
C/ Quy luật về quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất:
Quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất là hai mặt của phương thức
sản xuất, sự tác động lẫn nhau giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
biểu hiên mối quan hệ mang tính chất biện chứng. Chính sự thống nhất và
tác động giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất đã hình thành nên quy
luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trìng độ phát triển
của lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất là nhân tố thường xuyên biến đổi và phát triển.
Ngược lại quan hệ sản xuất thường có tính ổn định trong một thời gian dài.
Sự biến đội của lực lượng sản xuất có nhiều ngun nhân:
- Bản thân người lao động thì những kỹ năng và kinh nghiệm khơng
ngừng tích luỹ và tăng lên.
- Bản thân tri thức khoa học trí thức công nghệ trở thành lực lượng
sản xuất trực tiếp.
- Sự ổn định của quan hệ sản xuất là nhu cầu khách quan để có thể sản
xuất được.
Chính vì vậy mà sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một giới hạn
nhất định sẽ đặt ra nhu cầu xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ và hiện có. Việc xố
7
bỏ quan hệ sản xuất cũ thay nó bằng một quan hệ sản xuất mới cũng có
nghĩa là diệt vong cả một phương thức sản xuất lỗi thời và sự ra đời của một
phương thức sản xuất mới. Sự xoá bỏ các hình thức quan hệ sản xuất hiện có
khơng phải là tự thân mà phải thông qua một phương thức chính trị và pháp
quyền mà phương thức pháp quyền là trực tiếp. Những quan hệ sản xuất cũ
và hiện có từ chỗ là hình thức kinh tế cần thiết để đảm bảo duy trì khai thác,
phát triển của lực lượng sản xuất giờ đây trở thành những hình thức kìm hãm
sự phát triển đó như CácMác đã nhận định “Từ một giai đoạn phát triển nào
đó của chúng các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn với
những quan hệ sản xuất hiện có trong đó từ trước đến nay các lực lượng sản
xuất vẫn tiếp tục phát triển. Từ chỗ là những hình thức phát triển của lực
lượng sản xuất những quan hệ ấy trở thàng những xiềng xích của các lực
lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc Cách mạng xã hội”Đó
cũng chính là nội dung quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình
độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất.
Thực tiễn cho thấy rằng lực lượng sản xuất chỉ có thể phát triển khi có
một quan hệ sản xuất hợp lý đồng bộ phù hợp với nó. quan hệ sản xuất lạc
hậu hơn hoặc tiên tiến hơn một cách giả tạo cũng sẽ kìm hãm sự phát triển
của lực lượng sản xuất. Khi mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất đã bộc lộ gay gắt đòi hỏi phải giải quyết nhưng cịn lực lượng sản
xuất người khơng phát hiện được cũng như mâu thuẫn được phát hiện mà
không giải quyết được hoặc giải quyết một cách sai lầm thì tác dụng kìm
hãm của quan hệ sản xuất sẽ trở thành nhân tố phá hoại đối với lực lượng
sản xuất.
Tuy nhiên bên cạnh đó, chúng ta khơng nên tuyệt đối hố vai trị của
lực lượng sản xuất mà bỏ qua sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối
với nó khi giữa chúng có sự phù hợp. Đơi khi sự phát triển chệch hướng của
8
quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất là do yếu tố chủ quan, chứ không phải do tính chất đặc thù
của quy luật đó.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử đã chứng minh vai trò quyết định của lực
lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất song nó cũng chỉ rõ rằng quan hệ
sản xuất bao giờ cũng thể hiện tính độc lập tương đối với lực lượng sản
xuất. Quan hệ sản xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất , nó là yếu tố
quyết định là tiền đề cho lực lượng sản xuất phát triển khi nó phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Nó làm nhiệm vụ chỉ ra mục tiêu
bước đi và tạo quy mơ thích hợp cho lực lượng sản xuất hoạt động, cũng như
đảm bảo lợi ích chính đáng cho người lao động phát huy tính tích cực sáng
tạo cho con người là nhân tố quan trọng và quyết định trong lực lượng sản
xuất.
Sở dĩ quan hệ sản xuất có thể tác động mạnh mẽ trở lại đối với lực
lượng sản xuất vì nó quyết định mục đích sản xuất, quy định hệ thống quản
lý sản xuất và quản lý xã hội quy định phân phối và phần của cải ít hay
nhiều mà người lao động được hưởng. Do đó nó tạo ra những điều kiện hoặc
kích thích hoặc hạn chế sự phát triển của cơng cụ sản xuất áp dụng thành tựu
khoa học và sản xuất hợp tác phân công lao động.
9
ChươngII: Nhận thức và vận dụng quy luật ở
nước ta
Sự nghiệp đã đổi mới của Việt Nam được bắt đầu ngay từ giữa những
năm 80 và được triển khai mạnh mẽ trên tất cả các lĩnh vực từ đó đến nay.
Quá trình đổi mới đã đưa lại nhiều thành tựu to lớn, nhưng đồng thời cũng
đặt ra nhiều lý luận quan trọng mà việc áp dụng quy luật quan hệ sản xuất
phụ thuộc vào tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất vào
việc giải quyết chúng một cách đúng đắn sẽ là cơ sở hết sức cần thiết cho
việc tiếp tục hoạch định và đẩy nhanh sự nghiệp đổi mới, cũng như sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Việt Nam đã xây dựng chủ nghĩa xã hội được hơn 30 năm ở miền Bắc
và hơn 10 năm trên phạm vi toàn quốc nếu tính đến thời điểm bắt đầu đổi
mới. Ngơi nhà xã hội chủ nghĩa mà chúng ta muốn xây dựng có thể có nhiều
đặc trưng, nhưng có hai đặc trưng chất lượng quan trọng nhất mà dứt khoát
chúng ta phải đặt đến, đó là vừa giàu có hơn, vừa cơng bằng hơn so với
trong chủ nghĩa tư bản. Tuy nhiên trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội thì
nền kinh tế sản xuất của nước ta lại chậm phát triển, đời sống nhân dân cịn
gặp nhiều khó khăn. Sự khó khăn này có thể có nhiều nguyên nhân, nhưng
có lẽ một trong những nguyên nhân quan trọng nhất là: không nắm vững quy
luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực
10
lượng sản xuất.Đảng ta chủ trương:Đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa,đưa
quan hệ sản xuất đi trước mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển thiết
lập chế độ cơng hữu thuần nhất dưới hai hình thức:sở hữư tồn dân với sở
hữu tập thể,tập thể hơn cá thể,cá thể hơn quy mơ nhỏ...bỏ qua các quy luật
kinh tế,trong đó có quy luật quan hệgiữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản
xuất.Trên thực tế chúng ta xây dựng một quan hệ sản xuấttiến bộ giả tạo với
lực lượng sản xuất cịn thấp kém.Chính nhận định sai lầm này đã đẩy nền
kinh tế nước ta bị ngừng trệ,dẫn đến khủng hoảng kinh tế,khiến cho cuộc
sống người dân sau chiến tranh càng thêm vất vả và khó khăn.
Nghị quyết Đại hội VIII đã chỉ rõ những yếu kém, khuyết điểm:
Nền kinh tế phát triển chưa vững chắc, hiệu quả và sức mạnh tranh
chấp. Nhịp độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) nhịp độ tăng
giá trị sản xuất nông nghiệp, dịch vụ, kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu…
không đạt chỉ tiêu đề ra. Nhìn chung, năng xuất lao động thấp, chất lượng
sản phẩm chưa tốt, giá thành cao. Nhiều sản phẩm nông nghiệp, công
nghiệp, thủ công nghiệp thiếu thị trường tiêu thụ trong cả nước và nước
ngoài. Hệ thống tài chính-ngân hàng cịn yếi kém và thiếu lành mạnh. Cơ
cấu kinh tế chuyển dịch chậm. Cơ cấu đầu tư chưa hợp lý, đầu tư cịn phân
tán, lãng phí và thất thoát nhiều. Nhịp độ thu hút đầu tư trực tiếp của nước
ngồi giảm, cơng tác quản lý, điều hành cơng tác này cịn nhiều vướng mắc
và thiếu sót. Quan hệ một số mặt chưa phù hợp. Kinh tế nhà nước chưa được
củng cố tương xứng với vai trò chỉ đạo, chưa có chuyển biến đáng kể trong
việc sắp xếp, đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nước.
Một số vấn đề văn hoá-xã hội bức xúc và gay gắt chậm được giải
quyết. Tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và nơng thơn cịn ở mức cao. Các hoạt
11
động khoa học và công nghệ chưa được đáp ứng tốt u cầu của sự nghiệp
cơng nghiệp hố, hiện đại hố, xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Cơ chế chính sách không đồng bộ và chưa tạo động lực mạnh để phát
triển. Một số cơ chế, chính sách cịn thiếu, chưa nhất quán, chưa sát với cuộc
sống, thiếu tính khả thi. Nhiều cấp, ngành chưa thay thế, sửa đổi những quy
định về quản lý nhà nước khơng cịn phù hợp, chưa bổ sung những cơ chế,
chính sách mới có tác dụng giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất. Trong
thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội từ một xã hội tiền tư bản chủ nghĩa,
nhà nước ta đã khơng thấy rõ bước đi có tính quy luật trên con đường tiến
lên chủ nghĩa xã hội nên đã tiến hành ngay cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối
với nền kinh tế quốc dân và xét về thực chất là theo đường lốiđẩy mạnh cải
tạo xã hội chủ nghĩa, đưa quan hệ sản xuất đi trước mở đường cho lực lượng
sản xuất phát triển. điều đó có nghĩa là đưa quan hệ sản xuất đi trước để tạo
địa bàn rộng rãi, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Điều đó là hồn tồn
mâu thuẫn với quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất. để khắc phục những mâu thuẫn có thể phát sinh địi hỏi
phải thiết lập quan hệ sản xuất mới với những hình thức và bước đi phù hợp
và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.Những chính sách mới của
đảng và nhà nước đã thúc đẩy nền kinh tế nước ta phát triển một cách mạnh
mẽ.Đảng đã có sự nhận định đúng đắn hơn về mối quan hệ giữa lực lượng
sản xuất và quan hệ sản xuất.Đảng ta khẳng định :Quy luật quan hệ giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất luôn là cơ sở phương pháp luận cho tư
duy đường lối,chính sách kinh tế của Đảng và nhà nước.Bất cứ một sự phiến
diện nào,coi nhẹ mặt này hay mặt khác đều dẫn đến hậu quả tiêu cực đối với
nền kinh tế quốc dân.Từ nhận định trên,áp dụng vào nền kinh tế nước ta là
tiến lên CNXH từ chế độ phong kiến,bỏ qua chế độ tư bản,Đảng và nhà
nước đã khẳng định :thời gian này là thời gian nước ta quá độ lên CNXH
12
thực hiện xây dựng lực lượng sản xuất tiến bộ,cơ sở vật chất kĩ thuật...nhằm
chuẩn bị đầy đủ mọi điều kiện để nước ta tiến lên CNXH.Sự thúc đẩy nền
kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã đưa nền kinh
tế nước ta sang một bước đi mới. Mọi người được tự do kinh doanh buôn
bán, các doanh nghiệp kinh doanh hợp tác và cạnh tranh với nhau một cách
bình đẳng trước pháp luật…Tất cả đều nhằm vào mục tiêu duy nhất là thúc
đẩy nền kinh tế nước nhà.Với những sự thay đổi tong đường lối và nhận
thức,kinh tế nước ta trong thời gian qua đã có những sự biến đổi rõ rệt.Sự
tăng trưởng kinh tế đã tác động tích cực đến tiêu dùng của người dân về cả
số lượng lẫn chất lượng và quy mô.Tiêu biểu là năm 2005-năm được đánh
giá là thành công của Đảng và nhà nước,đạt được các mục tiêu đã đề ra.Tốc
độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước cả năm khoảng 8,4%,trong đó
nơng lâm ngư nghiệplà 4,1%,cơng nhiệp và xây dựng chiếm10,7%.Tỉ trọng
dịch vụ tăng 38,4% năm 2004 lên 38,5% năm 2005.Tỉ trọng công nghiệp
dịch vụ tăng,tỉ trọng khai thác mỏ thì giảm.Từ những số liệu trên ta thấy,sự
phát triển kinh tế của Việt Nam trong những năm qua là phù hợp với sự phát
triển chungvới sự phát triển của thế giới.Kinh tế tăng kéo theo đời sống của
nhân dân tăng lên.Nhờ đó mà nhu cầu của người dân dần dần được thỏa
mãn.Việt Nam đã nâng chỉ số phát triển con người(HDI) từ vị trí 120/174
năm 1994 lên vị trí 108/177 năm 2005,tăng tuổi thọ trung bình từ 50 tuổi
năm 1960 lên 70 tuổi năm 2005,giảm tỉ lệ đói nghèo từ trên 70% đầu những
năm 80 xuống dưới 7% năm 2005.Số lượng doanh nghiệp tư nhân,doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi đã tăng lên nhanh chóng,có 73000 doanh
nghiệp tư nhân đăng kí mới vào năm 2005 tăng 3,75 lần so với giai đoạn
1991-1999.Năm 2003,tỉ trọng của khu vực kinh tế tư nhân trong GDP tăng
từ 3,1% lên 4,1% kinh tế vốn đầu tư nước ngoài tăng 6,4% lên 14%.Bên
cạnh sự phát triển của các thành phần kinh tế thì kinh tế nhà nước vẫn giữ
13
vai trò chủ đạo.Các doanh nghiệp nhà nước đầu tư vốn vào một số ngành
then chốt và ở một số địa bàn quan trọng.
Để làm rõ hơn về nền kinh tế nước ta trong thời kỳ quá độ, chúng ta
sẽ đi phân tích nền sản xuất nơng nghiệp trong thời gian này. tại đại hội lần
thứ VI, Đảng ta đã nhận định:"…Lực lượng sản xuất bị kìm hãm khơng chỉ
trong trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu, mà cả khi quan hệ sản xuất phát
triển khơng đồng bộ, có những yếu tố đi quá xa so với trình độ của lực lượng
sản xuất ( Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VI. Nxb sự thật, HN, 1987, tr.57)Trong quá trình tiến lên chủ nghĩa xã
hội phải kể đến yếu tố chủ quan của việc đảng lãnh đạo, Nhà nước phát động
tính tích cực xã hội của quần chúng bằng những lợi ích vật chất và tinh thần
yêu nước vốn có của họ. Tuy nhiên, theo nhận định trên của đảng, ta thấy
rằng, không thể cho rằng những yếu tố tiên tiến của quan hệ sản xuất mãi là
tiền đề sự thúc đẩy phù hợp giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Chúng chỉ tác động tích cực trong một thời gian ngắn và cuối cùng, vẫn phải
tuân thủ quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất.
Thực trạng nền sản xuất nông nghiệp của nước ta trong thời gian
chuẩn bị vào những năm đầu bước vào q trình cơng nghiệp hố, hiện đại
hố nơng nghiệp, nơng thơn đã làm rõ nhận định trên của đảng. Tại thời
điểm đó nền sản xuất nông nghiệp không ổn định, nhiều nơi, nhiều vùng
nơng thơn bị đói kém. Khi đó có người cho rằng, nguyên nhân sản xuất
chậm phát triển là do giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất có mâu
thuẫn. Mâu thuẫn đó thể hiện giữa một bên là yêu cầu phát triển hơn nữa của
lực lượng sản xuất theo hướng tất yếu chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất
lớn với một bên là chế độ sở hữu phân tán. Theo một số nhà nhận định, đây
là mâu thuẫn vốn có và mâu thuẫn là phổ biến trong các nền sản xuất. Khi
14
nền sản xuất xã hội phát triển đến trình độ cao thì tự bản thân chế độ tư hữu
nhỏ khơng thể nào tồn tại như cũ, nó buộc phải thay đổi. Nhìn lại q trình
chỉ đạo sản xuất nơng nghiệp ở nước ta trước đây Đảng ta đã rút ra được sự
cần thiết của quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất.
Tại Đại hội IX Đảng ta nhận định: "Cần phải nhân rộng mơ hình hợp
tác, liên kết Công nghiệp và nông nghiệp, doanh nghiệp nhà nước và kinh tế
hộ nơng thơn, phát triển các loại hình trang trại quy mô phù hợp trên từng
địa bàn" (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ IX, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội 2001, tr. 32). Trong sản xuất
nông nghiệp, sự đa dạng của các thành phần kinh tế đã tạo ra cơ chế quản lý
với nhiều hình thức sản xuất nơng nghiệp mới phù hợp với những quan điểm
đổi mới không ngừng của Đảng và nhờ đó, tạo ra sự biến đổi mới trong các
Hợp tác xã nông nghiệp trên cả ba mặt của quan hệ sản xuất. Điều đó càng
khẳng định ý nghĩa to lớn của quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính
chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Nhưng dựa vào tiêu chuẩn nào để khẳng định rằng quan hệ sản xuất
phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Trước hết sự phù hợp
đó thể hiện ở chỗ, hiệu quả sản xuất ngày càng cao (năm sau cao hơn năm
trước), mặc dù đất bị thiên tai nhiều bề và ít nhiều chịu ảnh hưởng của tình
trạng suy thối kinh tế trong khu vực và trên thế giới. Điều quan trọng nữa,
khi nói quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất khơng thể khơng
nhìn vào đời sống của nông dân, thực tế cho thế qua 15 năm thực hiện
đường lối đổi mới do Đảng đề ra, đời sống của nông dân từng bước được
nâng cao, điều kiện nhà ở và học tập của con em nông dân cũng khá hơn
trước.
15
Như vậy thực trạng nền kinh tế có phát triển khơng? Lực lượng sản
xuất có phát triển khơng đó chính là tiêu thức để đánh giá sự phù hợp của
quan hệ sản xuất vào tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Một quy
luật có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế của mỗi
quốc gia.
III/ KẾT LUẬN
Quy luật của quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất là quy luật hết sức phổ biến. Tuy nhiên không
phải bất cứ lúc nào cũng có sự phù hợp đó. Do vậy, phải nắm bắt tốt quy
chúng ta có thể áp dụng vào từng trường hợp cụ thể. Quy luật quan hệ sản
xuất phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất cịn là quy luật phổ biến trong
tồn bộ tiến trình lịch sử nhân loại. Sự thay thế phát triển đi lên của lịch sử
lồi người từ chế độ cơng xã ngun thuỷ qua chế độ chiếm hữu nô lệ, chế
độ phong kiến, chế độ tư bản chủ nghĩa và đến xã hội cộng sản tương lai là
do sự tác động của hệ thống các quy luật xã hội, trong đó quy luật quan hệ
sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật cơ
bản nhất. Lực lượng sản xuất là nhân tố thường xuyên biến đổi, ngược lại
quan hệ sản xuất lại thường có tính ổn định song sự ổn định đó chỉ là tạm
16
thời và cũng cần có sự thay đổi cho phù hợp. Nếu quan hệ sản xuất khơng có
những sự thay đổi cho phù hợp thì nó sẽ kìm hãm sự phát triển của sản xuất.
Như vậy, trong việc xác lập hoàn thiện, thay đổi quan hệ sản xuất cần
phải căn cứ vào thực trạng của các lực lượng sản xuất hiện có về mặt tính
chất và trình độ của chúng (đây là cơ sở lý luận trực tiếp của việc xác định
cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay của quá trình cải cách
của các doanh nghiệp nhà nước hiện nay).
Với kiến thức của một sinh viên em chỉ phần nào đề cập được một số
khía cạnh của vấn đề. Em mong có sự góp ý của thầy cô nhằm giúp em hiểu
rõ hơn về vấn đề này. Cuối cùng em xin cam kết tất cả những gì em viết trên
đây là những hiểu biết của em. Những phần tham khảo đều được chú thích ở
dưới.
DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Giáo trình triết học Mác-LêNin (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia).
- Tạp trí triết học (2002).
- Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần VI.
- Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần VIII.
- Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần IX.
17
18