Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Câu hỏi tổng quan về quản trị Ngân hàng thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (306.42 KB, 12 trang )

NỘI DUNG ÔN TẬP
MÔN: QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
(Sơ lược)
CHƯƠNG 1:
Những nét đặc thù trong hoạt động kinh doanh ngân hàng
Đặc điểm về sản phẩm
Ngân hàng là một tổ chức kinh doanh tiền tệ, một loại hàng hoá đặc biệt. Sản phẩm của ngân hàng chính
là những dịch vụ liên quan đến tiền tệ mà ngân hàng cung cấp cho khách hàng nhằm đáp ứng nhu cầu của
họ. Do vậy, sản phẩm của ngân hàng mang đầy đủ tính chất của sản phẩm dịch vụ và có những đặc điểm
chính sau:
Sản phẩm mang hình thái phi vật chất
Quá trình sản xuất và tiêu dùng dịch vụ diễn ra đồng thời
Sản phẩm của ngân hàng khó được phân biệt, nhận biết ngay về lợi ích, công dụng của chúng.
Mức độ đồng nhất của sản phẩm là cao
Sản phẩm của ngân hàng ngày càng được đa dạng hoá, hàng loại các dịch vụ mới mới ra đời.
Đặc điểm về khách hàng
Khách hàng của ngân hàng rất đa dạng và phong phú, nó bao gồm các tầng lớp dân cư, các tổ chức kinh
tế, chính trị và đặc biệt các ngân hàng cũng trở thành khách hàng của nhau... Ngày nay các ngân hàng
đang tiến hành đa dạng hoá dịch vụ của mình nên số lượng khách hàng của ngân hàng ngày càng tăng lên
một cách nhanh chóng. Tuy nhiên khách hàng của ngân hàng là một tổng thể khá phức tạp và chứa nhiều
tiêu thức phân đoạn khác nhau. Bên cạnh đó nhu cầu của khách hàng về các dịch vụ ngân hàng là không
đồng nhất và có nhiều biến động.
Đặc điểm về cạnh tranh
Cùng với xu hướng chung của nền kinh tế, kinh doanh ngân hàng đang diễn ra trong một môi trường hết
sức gay gắt, với cường độ cạnh tranh cao và chứa đựng không ít rủi ro. Ngày nay, xu hướng cạnh tranh
của các ngân hàng thể hiện dưới ba hình thức:
Cạnh tranh về các hoạt động Marketing
Cạnh tranh về tự động
Cạnh tranh theo quy mô (dùng sáp nhập, hợp nhất, liên kết với nhau nhằm tăng sức cạnh tranh)
Đặc trưng của ngân hàng thương mại
Về cấu trúc tài chính và tài sản: là doanh nghiệp có quy mô lớn, hệ số nợ rất cao và cấu trúc tài sản đặc


biệt
Ngân hàng thương mại là doanh nghiệp có quy mô lớn trên cả giác độ vốn chủ sở hữu và tổng tài sản. Ở
Việt Nam, vốn chủ sở hữu của các Ngân hàng thương mại là hàng nghìn tỷ đồng. đối với các Ngân hàng
thương mại trên thế giới, vốn chủ sở hữu lên tới nhiều tỷ đô la Mỹ. Mạng lưới các chi nhánh Ngân hàng
thường rất lớn và phân tán rộng về địa lý. Trong khi quy mô về vốn chủ sở hữu đã rất lớn, nguồn vốn của
Ngân hàng thương mại lại chủ yếu là nợ được huy động từ bên ngoài Ngân hàng. Cấu trúc tài sản của


Ngân hàng thương mại đặc biệt hơn so với các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh khác là ở tỷ trọng tài
sản tài chính. Phần lớn tài sản của Ngân hàng thương mại là tài sản tài chính, mang đặc trưng trừu tượng,
hình thái vật chất giản đơn chỉ là giấy tờ hoặc thậm chí chỉ là dữ liệu điện tử được lưu giữ trong một thiết
bị nhất định. Bên cạnh đó, Ngân hàng thương mại thường có xu hướng liên tục phát triển các sản phẩm,
công cụ tài chính mới.
Hoạt động của Ngân hàng thương mại luôn chứa đựng nhiều rủi ro và chịu sự kiểm soát, giám sát chặt
chẽ của hệ thống luật pháp
Trên giác độ tài chính doanh nghiệp, doanh nghiệp có hệ số nợ cao sẽ dẫn đến rủi ro trong hoạt động cũng
cao. Bên cạnh đó, nguồn vốn nợ chủ yếu của Ngân hàng thương mại lại là tiền gửi với đặc trưng có thể bị
rút ra trước hạn với khối lượng khó xác định. Sản phẩm, dịch vụ Ngân hàng không được hưởng quy chế
bảo hộ độc quyền và mang tính phức tạp, trực tiếp. Hơn nữa, Ngân hàng thương mại tham gia vào nhiều
cam kết trong khi chưa chuyển giao vốn thực sự, tức là hoạt động ngoại bảng phong phú và đa dạng. điểm
này là một đặc trưng khác biệt với các loại hình doanh nghiệp khác. Vì những lý do này, hoạt động của
Ngân hàng thương mại chứa đựng nhiều rủi ro hơn các ngành kinh doanh khác. Rủi ro trong hoạt động
của Ngân hàng thương mại đa dạng, ở mức độ cao, tích luỹ nhanh và dễ lây lan. Rủi ro trong hoạt động
của Ngân hàng thương mại bao gồm các loại rủi ro đặc thù như rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro
lãi suất, rủi ro ngoại hối, rủi ro vốn khả dụng, rủi ro đạo đức,…

Là doanh nghiệp có quy mô lớn, mạng lưới rộng khắp, hoạt động chịu nhiều rủi ro, ảnh hưởng đáng kể
đến nhiều hoạt động kinh tế xã hội, Ngân hàng thương mại chịu sự kiểm soát, giám sát chặt chẽ của hệ
thống phát luật. Các quy định pháp lý đối với Ngân hàng thương mại được phổ rộng trên nhiều mặt của
hoạt động kinh doanh như: điều kiện kinh doanh, tiêu chuẩn của người lãnh đạo NH, dự trữ bắt buộc, bảo

hiểm tiền gửi, an toàn trong hoạt động, phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro, sử dụng vốn tự có đầu tư
cho tài sản cố định,…
Tính liên kết và ổn định của hệ thống Ngân hàng
Hệ thống Ngân hàng có tính phụ thuộc lẫn nhau rất lớn. Hơn bất cứ ngành kinh doanh nào trong nền kinh
tế, rủi ro trong hoạt động Ngân hàng có tính lan toả rất nhanh. Hoạt động như một hệ thống các mắt xích
liên kết chặt chẽ, chỉ cần một ngân hàng thương mại, dù yếu và nhỏ nhất, gặp khó khăn trong hoạt động,
đặc biệt là khó khăn về thanh khoản, là có thể dẫn đến nguy cơ phá sập hệ thống. Thực tiễn đã cho thấy,
thanh khoản được ví như hơi thở của sự sống của hoạt động ngân hàng thương mại. Mọi rủi ro, tổn thất
trong hoạt động của ngân hàng thương mại đều có thể dẫn đến hậu quả cuối cùng là Ngân hàng mất khả
năng thanh toán rồi phá sản.
Hệ thống Ngân hàng – tài chính trong nền kinh tế rất nhạy cảm với mọi biến động về kinh tế, kỹ thuật,
chính trị và xã hội. Những biến động này thường có tác động gần như tức thời đến hoạt động của thị
trường tài chính, điển hình là thị trường chứng khoán, theo đó, nó gây ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động
của hệ thống Ngân hàng. đối với công tác quản lý vĩ mô nền kinh tế, việc nắm bắt được cơ chế hoạt động,
ảnh hưởng lẫn nhau của các phần tử trong hệ thống tài chính là một trong những vấn đề cốt yếu, quyết
định thành bại.


Đặc điểm kinh doanh của ngân hàng thương mại
NHTM là một doanh nghiệp đặc biệt. Nét đặc biệt của doanh nghiệp ngân hàng được thể hiện ở các nội
dung sau:
- Lĩnh vực kinh doanh của ngân hàng là tiền tệ, tín dụng và dịch vụ ngân hàng. Đây là lĩnh vực “đặc biệt”
vì trước hết nó liên quan trực tiếp đến tất cả các ngành, liên quan đến mọi mặt của đời sống kinh tế - xã
hội. Mặt khác, lĩnh vực tiền tệ - ngân hàng là lĩnh vực rất “nhạy cảm”, nó đòi hỏi một sự thận trọng trong
điều hành hoạt động ngân hàng để tránh những thiệt hại cho nền kinh tế - xã hội. Chất liệu kinh doanh của
ngân hàng là tiền tệ, mà tiền tệ là công cụ được nhà nước sử dụng để quản lý vĩ mô nền kinh tế, nó quyết
định đến sự phát triển hoặc suy thoái của cả một nền kinh tế, do đó chất liệu này được nhà nước kiểm soát
rất chặt chẽ.
- Là một doanh nghiệp, nhưng nguồn vốn chủ yếu mà ngân hàng sử dụng trong kinh doanh là vốn huy
động từ bên ngoài, trong khi đó vốn riêng của ngân hàng lại chiếm tỷ trọng rất thấp trong tổng nguồn vốn

kinh doanh.
- Trong tổng tài sản của ngân hàng, tài sản hữu hình chiểm tỷ trọng rất thấp, mà chủ yếu là tài sản vô
hình. Nó tồn tại dưới hình thức các tài sản tài chính, chẳng hạn như các loại kỳ phiếu, cổ phiếu, hợp đồng
tín dụng, khế ước nhận nợ và các loại giấy tờ có giá trị khác.
- Hoạt động kinh doanh của NHTM chịu sự chi phối rất lớn bởi chính sách tiền tệ của ngân hàng trung
ương. Một NHTM không thể mở rộng hoạt động kinh doanh khi ngân hàng trung ương đang áp dụng
chính sách đóng băng tiền tệ, hạn chế lạm phát và ngược lại. Do đó, việc ngân hàng mở rộng hay thu hẹp
hoạt động kinh doanh của mình đều phải chịu sự chi phối bởi chính sách tiền tệ của ngân hàng trung
ương.
- NHTM là một trung gian tín dụng, đóng vai trò một tổ chức trung gian đứng ra tập trung, huy động các
nguồn vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế, biến nó thành nguồn vốn tín dụng để cho vay đáp
ứng nhu cầu vốn kinh doanh và vốn đầu tư cho các ngành kinh tế, nhu cầu vốn tiêu dùng của toàn xã hội.
Như vậy, có thể nói NHTM là nhịp cầu nối liền những chủ thể thừa vốn (các cá nhân có thu nhập nhưng
chưa có nhu cầu sử dụng, các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế vừa tiêu thụ được sản phẩm nhưng chưa có
nhu cầu nhập vật tư, hàng hóa) với các chủ thể thiếu vốn (những cá nhân phát sinh nhu cầu nhưng thu
nhập lại chưa có, hay các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế đang cần nhập vật tư, nguyên liệu nhưng
chưa tiêu thụ được sản phẩm).
Trong các hoạt động kinh doanh ngân hàng có những rủi ro gì, rủi ro nào quan trọng?
Theo Basel II, rủi ro mà ngân hàng đối mặt: rủi ro thị trường, rủi ro tín dụng và rủi ro vận hành.
- Khái quát về rủi ro tín dụng: Rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng là khả năng xảy ra tổn thất trong
hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực
hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết.
- Rủi ro tín dụng được xem là rủi ro quan trọng nhất, vì trong các ngân hàng thương mại hiện nay hoạt
động tín dụng là chủ yếu và đem lại nguồn thu lớn nhất cho các ngân hàng thương mại. Rủi ro tín dụng
thường gây tác hại lớn nhất đến ngân hàng cũng như đối với nền kinh tế.
> Có nhiều nguyên nhân gây nên rủi ro tín dụng, nhưng nguyên nhân chủ yếu là từ phía khách hàng
- Các yếu tố từ phía khách hàng có thể ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng:


1. Năng lực chuyên môn và uy tín của người lãnh đạo:Lãnh đạo là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng trực

tiếp đến tình hình tài chính của một công ty. Nếu người lãnh đạo không có uy tín và nhân cách, năng lực
quản lí yếu kém, trình độ học vấn chưa cao và không có nhiều kinh nghiệm quản lí thì dễ dẫn đến tình
trạng công ty bị thua lỗ, không có khả năng trả nợ cho ngân hàng. Điều này làm ảnh hưởng đến việc thu
lãi và nợ của ngân hàng, cũng như gây ra rủi ro tín dụng cho ngân hàng.
2. Khách hàng cung cấp số liệu không trung thực: Thực tế hiện nay các doanh nghiệp vay vốn luôn đối
phó với ngân hàng thông qua việc cung cấp các số liệu không trung thực, mặc dù các số liệu này được các
cơ quan chức năng kiểm duyệt. Chế độ kế toán thống kê đã được ban hành nhưng phần lớn các doanh
nghiệp thực hiện không nghiêm túc điều này gây khó khăn cho ngân hàng trong việc kiểm soát tình hình
hoạt động kinh doanh, quản lí vốn vay của doanh nghiệp để có thể hỗ trợ việc sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp nhằm thu hồi vốn cho ngân hàng.
3. Ngành nghề sản xuất kinh doanh của khách hàng: Ngành nghề sản xuất kinh doanh của khách hàng
cũng là một trong những yếu tố gây nên rủi ro tín dụng cho ngân hàng. Thực tế, có một số ngành kinh
doanh có thể ổn định trong một khoảng thời gian trong quá khứ, nhưng trong tương lai, do ảnh hưởng của
các yếu tố khác như nhu cầu thị trường thay đổi, các quy định của nhà nước …doanh thu của ngành đó sẽ
có xu hướng giảm đi đáng kể.
5. Doanh nghiệp sử dụng vốn vay sai mục đích, không có thiện chí trong việc trả nợ: Đa số các doanh
nghiệp khi vay vốn đều có phương án sản xuất kinh doanh hiệu quả, khả thi. Tuy nhiên vẫn có những
trường hợp doanh nghiệp làm đẹp báo cáo tài chính, các phương án, số liệu của công ty để cố ý chiếm
dụng vốn của ngân hàng dùng vào những việc khác. Nếu cán bộ ngân hàng không có đủ trình độ chuyên
môn để thẩm định thì khả năng gây ra rủi ro tín dụng cho ngân hàng là rất cao, làm ảnh hưởng đến uy tín
của ngân hàng.
- Các giải pháp giảm thiểu rủi ro tín dung do các yếu tố từ phía khách hàng:
1. Phân tích tín dụng một cách kĩ càng: Đầu tiên, việc thu thập thông tin rất quan trọng khi phân tích tín
dụng. Cán bộ tín dụng phải xác định khách hàng vay thuộc đối tượng nào, uy tín của họ đối với ngân
hàng ra sao, họ có thiện chí trả nợ cho ngân hàng không. Ngoài ra còn phải xem xét phương án vay vốn
có mang lại hiệu quả kinh tế hay không, khách hàng có thể trả nợ cho ngân hàng từ những nguồn nào, …
Việc phân tích tín dụng đòi hỏi cán bộ tín dụng phải có trình độ chuyên môn cao, có kinh nghiệm trong
lĩnh vực ngân hàng và có khả năng dự đoán được rủi ro có thể xảy ra để từ đó có những cách xử lí phù
hợp.
2. Nâng cao năng lực cán bộ ngân hàng: Ngân hàng phải luôn coi trọng công tác tín dụng và phẩm chất

cán bộ tín dụng. Bản than cán bộ liên quan đến cho vay phải luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm và đạo
đức nghề nghiệp.
Ngân hàng còn phải có chính sách tín dụng rõ ràng, quy định rõ chức năng nhiệm vụ cho từng bộ phận
liên quan đến việc vay, thu nợ, thậm chí là xử lí nợ.
Ngân hàng phải coi trọng công tác đào tạo cán bộ từ nghiệp vụ chuyên môn đén phẩm chất đạo đức của
người cán bộ.
3. Thiết kế các sản phẩm tín dụng phù hợp với nhu cầu vay vốn của ngân hàng: Ngân hàng phải tạo ra các
sản phẩm dịch vụ phù hợp với nhu cầu của khách hàng. Việc thiết kế các sản phẩm tín dụng phù hợp sẽ
giúp ngân hàng tập trung vào đối tượng khách hàng của mình, cũng như giảm thiểu những rủi ro.


4. Giám sát tín dụng: Giám sát tín dụng giúp ngân hàng đảm bảo được việc vốn vay được sử dụng đúng
mục đích. Ngoài ra, còn giúp ngân hàng nắm rõ được hoàn cảnh, vị thế tài chính của khách hàng cũng
như năng lực hoàn trả để có thể đưa ra những biện pháp xử lí kịp thời.
-----------a. Khái quát về rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng, theo khái niệm cơ bản nhất, là khả năng khách hàng nhận khoản vốn vay không thực
hiện, thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ đối với NH, gây tổn thất cho NH, đó là khả năng khách hàng
không trả, không trả đầy đủ, đúng hạn cả gốc và lãi cho NH.
Từ đó, có nhiều tiêu chí phản ảnh rủi ro tín dụng của NHTM như:
- Nợ xấu và tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ.
- Tỷ lệ nợ xấu trên vốn chủ sở hữu.
- Tỷ lệ nợ xấu trên quĩ dự phòng tổn thất.
- Nợ đáng nghi ngờ (nợ có vấn đề) - có khả năng chuyển thành nợ xấu cao.
- Nợ không có tài sản đảm bảo.
Hiện nay, công tác quản trị rủi ro tín dụng có vai trò cực kỳ quan trọng đối với các ngân hàng nói
riêng và cả hệ thống tài chính nói chung. Việc đánh giá, thẩm định và quản lý tốt các khoản cho vay, các
khoản dự định giải ngân sẽ hạn chế những rủi ro tín dụng mà ngân hàng sẽ gặp phải, và tất yếu sẽ giảm
bớt nợ xấu cho Ngân hàng
Do đặc thù mà hoạt động cho vay trong các ngân hàng vẫn là chủ yếu, chiếm từ 70% đến 90% tổng tài
sản có và một tỷ lệ tương đương trong tổng thu nhập của hệ thống ngân hàng. Đồng thời, tỷ lệ nợ xấu mặc

dù đã được cải thiện song vẫn ở mức cao và đang có xu hướng tăng lên. Theo Ngân hàng Nhà nước, tỉ lệ
nợ xấu của các ngân hàng Việt Nam là 2,16% vào cuối 2010 và tăng lên 3,21% vào cuối tháng 8.2011.
Những ngân hàng có truyền thống kiểm soát tốt nợ xấu “bật mí” cho đến tháng 8-2011 nợ xấu của họ đã
tăng khoảng 0,5% so với mức cuối năm ngoái. Một số ngân hàng thừa nhận mức tăng là 1%, thậm chí 1,5
-2%.
VD: tháng 8/2011: tỉ lệ nợ xấu của Agribank 6,67%, Vietcombank 3,92%. của Viettinbank đến hết
30/6/2011 là 1,71% nhưng con số này đã giảm xuống còn 1.2% tại thời điểm tháng 8/2011
Trong tổng số nợ xấu trên 76 nghìn tỷ đồng tính đến hết tháng 8/2011, nợ nhóm 3 chiếm 30,18%, nhóm 4
chiếm 20,53% và nhóm 5 chiếm trên 49%. Điều đó đồng nghĩa, các tổ chức tín dụng có nguy cơ mất
trắng khoảng 37,2 nghìn tỷ đồng.
Ghi chú:
Nhóm 3: Nợ dưới tiêu chuẩn, bao gồm nợ được đánh giá là không có khả năng thu hồi gốc và lãi khi đến
hạn.
Nhóm 4: Nợ nghi ngờ, bao gồm nợ được đánh giá là có khả năng tổn thất cao.
Nhóm 5: Nợ có khả năng mất vốn, bao gồm nợ quá hạn trên 360 ngày, nợ được đánh giá không có khả
năng thu hồi, mất vốn.
b. Nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng:
- Nguyên nhân thuộc về khách hàng :

+ Nguyên nhân chủ quan: do trình độ quản lý của khách hàng yếu kém dẫn đến sử dụng vốn
vay kém hiệu quả hoặc thất thoát ảnh hưởng đến khả năng trả nợ. cũngcó thể do khách hảng thiếu thiện
chí trả nợ trong khi các biện pháp xử lý thu hồi nợ của NH tỏ ra kém hiệu quả; Khách hàng vay


vốn tại nhiều tổ chức tín dụng dưới một danh nghĩa hay nhiều thực thể khác nhau nên thiếu
sự phân tích trên tổng thể, khó theo dõi được dòng tiền dẫn đến việc sử dụng vốn vay
chồngchéo và mất khả năng thanh toán dây chuyền. Tình hình tài chính doanh nghiệp yếu
kém, thiếu minh bạch. Quy mô tài sản, nguồn vốn nhỏ bé, tỷ lệ nợ so với vốn tự có cao là đặc điểm
chung của hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam.
Ngoài ra,thói quen ghi chép đầy đủ, chính xác, rõ ràng các sổ sách kế toán vẫn chưa được các doanh

nghiệp tuân thủ nghiêm chỉnh và trung thực. Do vậy, sổ sách kế toán mà các doanh nghiệp cung cấp
cho ngân hàng nhiều khi chỉ mang tínhchất hình thức hơn là thực chất. Do đó, khi cán bộ ngân hàng
lập các bản phân tích tài chính của doanh nghiệp dựa trên số liệu do các doanh nghiệp cung
cấp, thường thiếu tính thực tế và xác thực.
+Nguyên nhân khách quan: có thể do khách hàng gặp phải những thay đổi môi
trường kinh doanh không thể lường trước được như sự thay đổi về giá cả hay nhu cầu thị trường, do thiên
tai, hạn hán, sự thay đổi về môi trường pháp lý hay chínhsách của Chính phủ khiến doanh nghiệp
lâm vào tình trạng khó khăn tài chính không thể khắc phục được. Sự thay đổi về lãi suất, tỷ giá
hối đoái, lạm phát, chỉ số giá cả tăng, nguyên vật liệu đầu vào tăng làm ảnh hưởng đến kết quả
kinh doanh của khách hàng, khó khăn tài chính dẫn đến không có khả năng trả nợ. Từ đó doanh nghiệp
dù có thiện chí trả nợ nhưng vẫn không thể trả được nợ
-Nguyên nhân thuộc về ngân hàng
Rủi ro tín dụng có thể phát sinh do nguyên nhân chủ quan như quá trình phân tích và thẩm định tín dụng
không kỹ lưỡng dẫn đến sai lầm trong quyết địnhcho vay. Mặt khác cũng có thể quyết định cho vay đúng
đắn nhưng do thiếu kiểm tra kiểm soát sau khi cho vay dẫn đến khách hàng sử dụng vốn vay không đúng
mục đích nhưng ngân hàng vẫn không phát hiện để ngăn chặn kịp thời. Ngân hàng quá tin tưởng vào tài
sản thế chấp, bảo lãnh, bảo hiểm, coi đó là vật đảm bảo chắc chắn cho sự thu hồi cả gốc và lãi tiền vay;
chạy theo số lượng (hoặc theo kếhoạch) mà sao lãng việc coi trọng chất lượng khoản vay, quá lạc quan và
tin tưởngvào sự thành công của phương án kinh doanh của khách hàng. Ngân hàng không giải quyết hợp
lý quan hệ giữa nguồn vốn huy động và nguồn vốn sử dụng, cụ thể là: dự trữ vốn quá ít so với nhu cầu
bảo đảm thanh toán, từ đó dẫn đến mất khả năng thanh toán nếu khách hàng có nhu cầu rút vốn
nhiều; hoặc dự trữ vốn quá nhiều, gây ứ đọng vốn, lãng phí trong sử dụng vốn; hoặc lấy vốn ngắn hạn cho
vay trung dài hạn quá mức quy định. Cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng chưa thực sự lành mạnh, việc
chạy theo quy mô, bỏ qua các tiêu chuẩn, điều kiện trong cho vay, thiếu quan tâm đến chất lượng
khoản vay
b,Tác động của rủi ro tín dụng
-Đối với nền kinh tế
Hoạt động ngân hàng liên quan đến hoạt động doanh nghiệp, các ngành và các cá nhân, vì vậy khi một
ngân hàng gặp phải rủi ro tín dụng hay bị phá sản thì người gởi tiền ở các ngân hàng khác hoang mang lo
sợ và kéo nhau ồ ạt đến rút tiền ở các ngân hàng khác, làm cho toàn bộ hệ thống ngân hàng gặp khó khăn.

Ngân hàng phá sản sẽ ảnh hưởng đến tình hình sản suất kinh doanh của doanh nghiệp, không có tiền trả
lương dẫn đến đời sống công nhân gặp khó khăn. Hơn nữa, sự hoảng loạn của các ngân hàng ảnh hưởng
rất lớn đến toàn bộ nền kinh tế. Nó làm cho nền kinh tế bị suy thoái, giá cả tăng, sức mua giảm, thất
nghiệp tăng, xã hội mất ổn định. Ngoài ra, rủi ro tín dụng cũng ảnh hưởng đến nền kinh tế thế giới vì
ngày nay nền kinh tế mỗi quốc gia đều phụ thuộc vào nền kinh tế khu vực và thế giới.


-Đối với ngân hàng
Khi gặp rủi ro tín dụng, ngân hàng không thu được vốn tín dụng đã cấp và lãi cho vay, nhưng ngân hàng
phải trả vốn và lãi cho khoản tiền huy động khi đến hạn, điều này làm cho ngân hàng mất cân đối trong
việc thu chi. Khi không thu được nợ thì vòng quay vốn tín dụng giảm làm ngân hàng kinh doanh không
có hiệu quả. Khi gặp phải rủi ro tín dụng ngân hàng thường rơi vào tình trạng mất khả năng thanh khoản,
làm mất lòng tin người gửi tiền, ảnh hưởng đến uy tín của ngân hàng. Đối với cấp dưới, do gặp phải rủi ro
tín dụng nên không có tiền trả lương cho nhân viên vì thế những người có năng lực sẽ thuyên chuyển
công tác, gây khó khăn cho ngân hàng.
Chính vì vậy, đòi hỏi các nhà quản trị NH phải hết sức thận trọng và có các biện pháp thích hợp nhằm
giảm thiểu rủi ro trong cho vay
=> Để giảm thiểu rủi ro tín dụng thì NHNN cũng ban hành qui định về việc trích lập dự phòng rủi ro tín
dụng đối với các NHTM. (Quỹ dự phòng rủi ro tín dụng được sử dụng để bù đắp những rủi ro do nguyên
nhân khách quan như thiên tai, hoả hoạn, dịch bệnh, chính sách Nhà nước thay đổi hoặc biến động giá cả
thị trường... phát sinh thuộc diện đơn lẻ cục bộ sau khi sử dụng bồi thường của cơ quan bảo hiểm (nếu
có).)
Cụ thể:
Điều 9 của Quyết định 493 (về tỷ lệ dự phòng chung) có quy định:
“1. Tổ chức tín dụng thực hiện trích lập và duy trì dự phòng chung bằng 0,75% tổng giá trị các khoản nợ
từ nhóm 1 đến nhóm 4 quy định tại Điều 6 hoặc Điều 7 Quy định này.
2. Trong thời hạn tối đa năm (05) năm kể từ ngày Quy định này có hiệu lực thi hành, tổ chức tín dụng
phải thực hiện trích lập đầy đủ số tiền dự phòng chung theo quy định tại Khoản 1, Điều này”.
Với những quy định trên, Hiệp hội Ngân hàng cho rằng, trong điều kiện hoạt động của các ngân hàng
thương mại hiện nay, tỷ lệ trích lập dự phòng chung 0,75% trên là quá cao. Vì hiện nay, chênh lệch lãi

suất huy động và lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại rất thấp, khoảng 2%, thậm chí có ngân
hàng thương mại mức chênh lệch này còn 1,5% - 1,8%.
Vừa qua, Thủ tướng Chính phủ đồng ý về nguyên tắc, cho phép riêng Ngân hàng Phát triển Việt Nam sử
dụng số tăng thu về lãi tiền gửi của năm 2011 so với số thu lãi tiền gửi của năm 2010 để trích lập bổ sung
quỹ dự phòng rủi ro tín dụng
Cơ hội và thách thức đối với hệ thống NHTM Việt Nam trong bối cảnh gia nhập AEC và TPP
4.1. Cơ hội
Quá trình hội nhập quốc tế giúp các NHTM Việt Nam có cơ hội tiếp cận với vốn, công nghệ, kinh
nghiệm, trình độ quản lý của một số NHTM lớn và có uy tín trên trường quốc tế. Mặt khác, để nâng cao
chất lượng hoạt động kinh doanh và theo kịp yêu cầu phát triển của thị trường trong và ngoài nước, tự
thân các NHTM Việt Nam phải chủ động thực hiện cơ cấu lại hoạt động và tổ chức theo hướng hợp lý và
chuyên nghiệp hơn, tiệm cận các chuẩn mực chung của quốc tế. Các NHTM nước ngoài tham gia vào thị
trường tài chính ngân hàng trong nước sẽ làm tăng sức ép cạnh tranh với các ngân hàng nội, làm gia tăng
sự lành mạnh và an toàn của toàn bộ hệ thống NHTM. Có thể chỉ ra những cơ hội như sau:


Thứ nhất, hội nhập quốc tế là cơ hội tăng năng lực tài chính của các NHTM Việt Nam. Thực tế
quá trình tái cơ cấu hệ thống các TCTD theo đề án của Chính phủ thời gian qua cho thấy, vốn điều lệ của
các NHTM đã tăng lên với tốc độ tăng trưởng khá tốt. Đến tháng 8/2015, vốn điều lệ của Khối NHTM
nhà nước đạt 144.999 tỷ đồng, tăng 0,54% so với 31/12/2014; khối NHTM cổ phần đạt 186.147 tỷ đồng
tăng 2,97% so với 31/12/2014. Trong hệ thống có 10 NHTM cổ phần có vốn điều lệ từ 9.000 tỷ đồng đến
trên 40.000 tỷ đồng, trong đó Vietinbank có vốnđiều lệ cao nhất, tiếp theo là BIDV, Agribank,
Vietcombank, Sacombank, MB, Eximbank, SCB, SHB, ACB,… Giá trị tổng tài sản của các NHTM cũng
tăng mạnh từ khi các ngân hàng tham gia sâu vào quá trình hội nhập. Xem xét giai đoạn 2007 - 2014 cho
thấy, quy mô tổng tài sản của các NHTM Việt Nam đã tăng từ 1.069 nghìn tỷ đồng (2007) lên 6.515
nghìn tỷ đồng (2014), gấp 6,4 lần và đến cuối tháng 8/2015, đạt khoảng 6.753 nghìn tỷ đồng.
Cam kết hội nhập của Việt Nam cho phép các NHNNg được đầu tư mua cổ phần của các NHTM
trong nước. Đây chính là cơ hội để các NHTM trong nước tiếp cận dòng vốn quốc tế thông qua phát hành
cổ phiếu bán cho đối tác chiến lược là các NHNNg. Hiện nay, có rất nhiều NHTM cổ phần của Việt Nam
có cổ đông ngoại góp vốn với tỷ lệ sở hữu lên tới 20 - 30% như: Vietinbank có 2 cổ đông chiến lược nước

ngoài là công ty tài chính quốc tế (IFC) sở hữu 10% cổ phần (~ 173 triệu USD) và ngân hàng Tokyo
Mitsubishi UFJ sở hữu 20% cổ phần (~ 347 triệu USD); Vietcombank có cổ đông chiến lược là ngân
hàng Mizuho sở hữu 15% cổ phần (~128,1 triệu USD); VIB có cổ đông chiến lược là Commonwealth
bank of Australia sở hữu 15% cổ phần (~ 600 tỷ NVD);… Đây là một lượng vốn rất lớn làm tăng tiềm lực
tài chính của các ngân hàng nội. Tiềm lực tài chính mạnh là điều kiện tiên quyết giúp cho các NHTM
Việt Nam có thể đầu tư công nghệ hiện đại, mở rộng mạng lưới hoạt động, phát triển và nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực từ đó nâng cao năng lực quản trị điều hành đáp ứng chuẩn quốc tế.
Thứ hai, hội nhập quốc tế là cơ hội được chuyển giao công nghệ, kỹ thuật quản lý ngân hàng hiện
đại. Tại hầu hết các NHTM cổ phần có tỷ lệ sở hữu nước ngoài trên 5% đều có các chuyên gia nước ngoài
đảm trách các vị trí quan trọng trong bộ máy quản trị điều hành như Techcombank, VIB,… Được làm
việc với các chuyên gia quản lý cấp cao trong ngân hàng là cơ hội để chuyển giao công nghệ, kỹ năng,
trình độ quản lý tốt đội ngũ cán bộ quản lý Việt Nam. Mặt khác, có nhiều NHTM trong nước đã thuê các
chuyên gia nước ngoài cung cấp các gói thầu tư vấn về xây dựng chiến lược, lập kế hoạch kinh doanh,
quản trị rủi ro, quản trị nhân sự, đánh giá chất lượng dịch vụ,… Có thể khẳng định, đây là bước chủ động
của các NHTM Việt Nam trong việc đón đầu các cơ hội kinh doanh, đi tìm tiếng nói chung với các nhà
đầu tư nước ngoài, các đối tác nước ngoài trên con đường hợp tác, cạnh tranh để phát triển. Hiện nay,
hàng loạt NHTM Việt Nam đã áp dụng hệ thống phần mềm công nghệ hiện đại để quản trị ngân hàng
như: hệ thống core-banking, hệ thống quản trị khách hàng CRM, chất lượng và hiệu quả hoạt động vì vậy
được nâng lên rõ nét.
Thứ ba, hội nhập quốc tế là cơ hội để các NHTM Việt Nam nâng cao khả năng quản trị ngân hàng
theo chuẩn mực quốc tế, nâng cao tính minh bạch, công khai. Thời gian qua, dưới tác động của khủng
hoảng tài chính toàn cầu, các NHTM trong nước đứng trước áp lực phải đổi mới mạnh mẽ, toàn diện về tổ
chức và hoạt động để có thể khẳng định vị thế và đứng vững trên thị trường. Nhiều NHTM trong nước đã
chú trọng tăng cường kỹ năng quản trị rủi ro, tiệm cận các chuẩn mực quản trị ngân hàng hiện đại của
quốc tế (Basel II, III). Điển hình như Vietinbank, ngay sau khi IFC trở thành cổ đông chiến lược (2010),
đã ký kết và triển khai tích cực thỏa thuận hợp tác kỹ thuật theo 4 cấu phần, trong đó hỗ trợ về công tác
quản trị rủi ro là một cấu phần quan trọng nhằm xác lập các điều kiện để áp dụng các chuẩn mực của
Basel. Có thể khẳng định, hội nhập quốc tế đã giúp các NHTM có cơ hội tiếp cận kinh nghiệm, kiến thức
của các ngân hàng lớn, các tổ chức tài chính lớn trên thế giới trong công tác quản trị rủi ro nói riêng và
quản trị điều hành nói chung. Mặt khác, với sự tham gia của các cổ đông chiến lược nước ngoài, buộc các

NHTM cổ phần phải công khai, minh bạch hóa thông tin, các hoạt động quản trị, kế toán, tài chính phải
chuẩn hóa theo thông lệ quốc tế. Thực tế cho thấy, hàng loạt các NHTM cổ phần Việt Nam khi niêm yết
trên thị trường chứng khoán đã phải chuyển hệ thống kế toán sang chuẩn mực quốc tế (IFRS) bên cạnh hệ
thống kế toán theo chuẩn mực Việt Nam (VAS). Yêu cầu này là tất yếu khi các NHTM Việt Nam có nhu
cầu niêm yết trên thị trường quốc tế. Một số NHTM lớn đã bắt đầu thuê các tổ chức định giá, xếp hạng tín
nhiệm quốc tế để định mức tín nhiệm như BIDV, VCB, Vietinbank. Việc công khai xếp hạng bởi các tổ
chức quốc tế sẽ mở ra cơ hội cho các NHTM lớn của Việt Nam thâm nhập thị trường quốc tế.


Thứ tư, hội nhập quốc tế mở ra cơ hội cho các NHTM Việt Nam mở rộng, phát triển thị trường ra
nước ngoài. Theo nội dung đã kết thúc đàm phán trong lĩnh vực dịch vụ tài chính, một nhà cung cấp dịch
vụ của một nước TPP có thể cung cấp dịch vụ tài chính tại thị trường của một nước TPP khác nếu các
công ty trong nước hoạt động tại thị trường này được phép cung cấp dịch vụ đó. Chính vì vậy, TPP đã mở
ra cơ hội tiếp cận thị trường nước ngoài cho các NHTM Việt Nam. Thực tế cho thấy, trong giai đoạn
2010 - 2015, một số NHTM lớn đã tiên phong trong việc xuất khẩu dịch vụ tài chính ngân hàng, bảo
hiểm, chứng khoán ra thị trường nước ngoài, điển hình như BIDV, VCB, Vietinbank. Các NHTM này đã
có sự chuẩn bị, chủ động đón đầu khá tốt cơ hội này: từ việc nghiên cứu, thăm dò thị trường ở các nước
phát triển (Mỹ, Đức, Nga) đến việc thâm nhập thị trường các nước trong khu vực ASEAN như Lào,
Campuchia, Myanmar,… mở các văn phòng đại diện, chi nhánh. Đến nay, có khoảng hơn 20 chi nhánh,
văn phòng đại diện của các NHTM Việt Nam ở nước ngoài.
4.2. Thách thức
Bên cạnh những cơ hội đến từ hội nhập quốc tế, hệ thống ngân hàng Việt Nam còn phải đối mặt
với nhiều khó khăn nội tại trong nền kinh tế cũng như nội tại của từng ngân hàng, thể chế của hệ thống
ngân hàng còn nhiều bất cập, chưa phù hợp với yêu cầu cải cách và lộ trình hội nhập là những thách thức
lớn của các NHTM Việt Nam trong quá trình hội nhập.
Thứ nhất, sức ép cạnh tranh trên thị trường ngân hàng trong nước ngày càng gay gắt do sự hiện
diện của các NHNNg. Tuy hiện nay, các ngân hàng liên doanh, NHNNg mới chỉ chiếm thị phần nhỏ trên
thị trường Việt Nam (10-15% thị phần tín dụng, 5-7% thị phần huy động vốn) nhưng với hệ thống công
nghệ hiện đại và nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn cao, các NHNNg đang có lợi thế cạnh tranh cao
hơn các NHTM trong nước trên các mặt hoạt động: huy động vốn, tín dụng, dịch vụ thanh toán và các

dịch vụ ngân hàng khác. Khi các cam kết hội nhập WTO, AEC, TPP bắt đầu có hiệu lực, các NHNNg
được quyền huy động vốn từ dân cư, cung cấp dịch vụ cho vay cá nhân, tổ chức là người Việt Nam, thị
phần này là mảnh đất màu mỡ cho các NHNNg khai thác với thế mạnh về chất lượng dịch vụ vượt trội
hơn các NHTM trong nước. Một thực tế không thể phủ nhận là các NHNNg đang dần dần có “sức hấp
dẫn” cao hơn các NHTM trong nước khi người dân Việt Nam ngày càng có trình độ dân trí cao hơn, thu
nhập cao hơn, họ sẽ hướng đến các nhà cung cấp dịch vụ tốt hơn. Phân khúc thị trường khách hàng có thu
nhập cao và trung bình, khách hàng là tầng lớp trí thức sẽ dần dịch chuyển sang các NHNNg, nguy cơ bị
thua ngay trên “sân nhà” là một thách thức hiện hữu của các NHTM Việt Nam. Thách thức này đòi hỏi
các NHTM Việt Nam phải nâng cao chất lượng dịch vụ, đa dạng hóa sản phẩm, đầu tư công nghệ hiện
đại.
Thứ hai, hội nhập quốc tế tất yếu sẽ dẫn tới sự dịch chuyển nguồn nhân lực chất lượng cao từ các
NHTM trong nước sang các NHNNg tại Việt Nam và thậm chí là trong khu vực. Do đặc trưng nghề
nghiệp, đội ngũ nhân lực ngành tài chính ngân hàng phải là nguồn nhân lực chất lượng cao với trình độ
chuyên môn giỏi, kỹ năng ngoại ngữ và tin học tốt, khai thác và sử dụng được các tiến bộ khoa học kỹ
thuật, công nghệ cao, có phẩm chất đạo đức nghề nghiệp tốt. Trong số đó, các chuyên gia tài chính là
những người có tầm nhìn chiến lược, có hành động quyết đoán và nguyên tắc như một người chỉ huy, đặc
biệt là khi phải đối phó với những diễn biến phức tạp trong kinh doanh. Nguồn nhân lực chất lượng cao
được coi là yếu tố then chốt để đáp ứng yêu cầu khắt khe của hội nhập, một trong những điều kiện quan
trọng đảm bảo sự phát triển lành mạnh, hiệu quả và nâng cao khả năng cạnh tranh của các NHTM Việt
Nam. Đây là một thách thức rất lớn của các NHTM Việt Nam hiện nay, bởi thực tế cho thấy, ngành tài
chính ngân hàng của Việt Nam đang khan hiếm nghiêm trọng nguồn nhân lực chất lượng cao, đặc biệt là
các chuyên gia tài chính có bằng cấp quốc tế. Mặt khác, các NHTM Việt Nam còn phải đối mặt với vấn
đề chảy máu chất xám trong quá trình cạnh tranh thu hút nhân tài. Khu vực tài chính ngân hàng luôn diễn
ra chu trình di chuyển lao động khá khắc nghiệt và trong chu trình đó tất yếu sẽ diễn ra việc dịch chuyển
nhân lực chất lượng cao từ các NHTM trong nước sang NHNNg tại Việt Nam và sang các nước trong khu
vực nếu không có chính sách và biện pháp giữ chân nhân tài.
Thứ ba, tiềm lực tài chính khiêm tốn, chất lượng tài sản thấp và chưa hợp lý, công nghệ ngân hàng
còn có khoảng cách xa so với khu vực và thế giới. Mặc dù vốn điều lệ của các NHTM trong nước đã tăng
trưởng gấp nhiều lần so với trước khi hội nhập (hiện nay, trong khoảng 133 triệu USD đến 1,8 tỷ USD),
song, mức vốn điều lệ trung bình của các NHTM Việt Nam (kể cả các NHTM có vốn của Nhà nước) vẫn



không thể so sánh với các ngân hàng trong khu vực với số vốn điều lệ hàng tỷ USD (Ngân hàng
Mitsubishi UFJ có số vốn lên đến 1.770 tỷ USD, hay United Overseas Bank của Singapore có số vốn lên
tới 13,4 tỷ SGD). Đây là một bất lợi lớn của các NHTM Việt Nam xét về tỷ lệ an toàn vốn. Theo thống kê
của NHNN Việt Nam, tính đến hết tháng 8/2015, tỷ lệ an toàn vốn của các Ngân hàng liên doanh và
NHNNg tại Việt Nam lên đến 34,45%, trong khi tỷ lệ này ở các NHTM Nhà nước là 9,29% và ở khối các
NHTM cổ phần là 13,18%. Cơ cấu tài sản chưa hợp lý và chất lượng tài sản thấp (thể hiện ở tỷ lệ nợ xấu
cao) của các NHTM Việt Nam là một thách thức trong việc đảm bảo thanh khoản và an toàn hoạt động
ngân hàng. Giai đoạn 2011-2015, chúng ta đang quyết liệt thực hiện tái cơ cấu và xử lý nợ xấu của các
NHTM trong nước, tuy nhiên các biện pháp xử lý mới chỉ mang tính chất kỹ thuật, nợ xấu xử lý chậm và
chưa triệt để, còn tiềm ẩn nhiều rủi ro trong hoạt động ngân hàng.
Về hạ tầng công nghệ và hệ thống thanh toán, các ngân hàng của Việt Nam đang có khoảng cách
khá xa so với yêu cầu của hội nhập. Mặc dù các NHTM trong nước đang nỗ lực từng bước nâng cấp hệ
thống công nghệ thông qua các dự án hiện đại hóa, nhưng do năng lực tài chính còn hạn chế cho nên chưa
thể đáp ứng yêu cầu trong khoảng thời gian ngắn. Thời gian qua, NHNN Việt Nam đã yêu cầu các
NHTM trong nước rà soát năng lực quản trị công nghệ so với tiêu chuẩn Basel II thông qua công cụ chẩn
đoán khoảng cách dữ liệu - Data Gap. Kết quả là, các NHTM trong nước mới chỉ đáp ứng được khoảng
40-60% yêu cầu theo tiêu chuẩn Basel II. Điều đó cho thấy, quản trị công nghệ đang là một thách thức
lớn trước sức ép hội nhập quốc tế của hệ thống NHTM Việt Nam.
Thứ tư, mở cửa thị trường tài chính ngân hàng trong quá trình hội nhập tất yếu sẽ dẫn đến nguy cơ
bị thôn tính của các NHTM trong nước và hệ lụy nảy sinh từ vấn đề sở hữu chéo. Với thế mạnh về tài
chính, công nghệ và nhân lực, các ngân hàng nước ngoài thường xâm nhập và phát triển thị trường mới
bằng cách mua cổ phần của các NHTM Việt Nam và trở thành cổ đông chiến lược, tìm cách thâu tóm rồi
thôn tính các ngân hàng này, hoặc thực hiện các thương vụ M&A ngân hàng. Đây là con đường giúp các
NHNNg đặt chân vào thị trường tài chính Việt Nam một cách nhanh chóng hơn. Trong trường hợp này,
nếu các ngân hàng của Việt Nam không có “sự tỉnh táo” trong hoạt động quản trị và kiểm soát lượng vốn
thì khả năng bị thâu tóm là khó tránh khỏi. Mặt khác, hội nhập với các cam kết nới room cho nhà đầu tư
nước ngoài trên thị trường tài chính Việt Nam sẽ tạo ra động lực và cơ hội gia tăng các hoạt động đầu tư
chéo vào nhau giữa các NHTM với nhau hoặc giữa NHTM với các tập đoàn kinh tế lớn, dẫn tới vấn đề sở

hữu cổ phần chéo lẫn nhau dưới nhiều hình thức. Đây là một thách thức lớn hiện nay, là rào cản lớn nhất
thao túng và ảnh hưởng đến toàn hệ thống ngân hàng trong quá trình xử lý, tái cơ cấu.

5. Một số kiến nghị
Trước những thời cơ và thách thức mà bối cảnh hội nhập quốc tế mang lại, các NHTM Việt Nam
cần phải khắc phục những thách thức từ chính nội tại, tiếp tục tái cơ cấu, nâng cao năng lực cạnh tranh,
mở rộng phạm vi hoạt động. Để đạt mục tiêu đó, các NHTM Việt Nam cần tập trung cho một số định
hướng sau:
Thứ nhất, phải nâng cao năng lực tài chính, tăng vốn chủ sở hữu. Các NHTM Việt Nam cần phải
xây dựng lộ trình và thực hiện việc tăng quy mô vốn chủ sở hữu, cải thiện hệ số an toàn vốn theo tiêu
chuẩn Basel II. Tăng vốn điều lệ là điều kiện để đạt được sự phát triển nhờ quy mô, đáp ứng yêu cầu hội
nhập ngày càng sâu rộng và đủ tiềm lực tài chính lớn để có thể ứng phó với những bất ổn của môi trường
kinh doanh quốc tế.
Thứ hai, phải nâng cao năng lực quản trị điều hành, đặc biệt là quản trị rủi ro. Trong thời gian tới,
các NHTM Việt Nam cần tập trung xử lý căn bản nợ xấu, chú trong nâng cao chất lượng tín dụng, lành
mạnh hóa tình hình tài chính, tạo tiền đề cho giai đoạn phát triển mới. Các NHTM cần xây dựng, cập nhật
chiến lược và chính sách quản trị rủi ro phù hợp với các quy định mới của NHNN và ngày càng phù hợp
hơn với các chuẩn mực quản trị rủi ro quốc tế. Rà soát các chính sách, thực hiện áp dụng các chuẩn mực,
tiêu chuẩn quốc tế trong hoạt động kinh doanh và xây dựng lộ trình đáp ứng tiêu chuẩn chung của khu
vực.


Thứ ba, các NHTM Việt Nam cần đẩy mạnh hợp tác với các NHTM, các định chế tài chính có uy
tín trong khu vực, đồng thời có hoạt động xúc tiến mở rộng kinh doanh tại thị trường nước ngoài.
Thứ tư, các NHTM Việt Nam cần chú trọng xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển nguồn
nhân lực phù hợp với yêu cầu phát triển. Để đáp ứng tốt yêu cầu cạnh tranh trong điều kiện hội nhập, cần
phải có một đội ngũ nhân sự ổn định, đảm bảo cả về chất và lượng, nhất là nhân sự quản lý. Trong bối
cảnh cạnh tranh về nguồn nhân lực ngày càng gay gắt và đứng trước tình trạng “chảy máu chất xám”, các
NHTM Việt Nam cần chú trọng thực hiện các giải pháp sau: (1) cơ cấu lại, sắp xếp, bố trí cán bộ có năng
lực, trình độ, kinh nghiệm thực tế phù hợp với yêu cầu hoạt động kinh doanh trước mắt cũng như lâu dài,

đồng thời trẻ hóa đội ngũ lao động qua tuyển dụng; (2) nghiên cứu áp dụng công nghệ thông tin hiện đại
trong quản lý sử dụng nhân lực có hiệu quả, đánh giá nhân viên gắn liền với tiêu chuẩn đạo đức nghề
nghiệp, lấy hiệu quả công việc là thước đo chủ yếu, coi trọng sử dụng nhân tài và khuyến khích tài năng
nhằm sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực trong từng giai đoạn phát triển; (3) chú trọng công tác đào tạo
bồi dưỡng nguồn nhân lực một cách toàn diện, từng bước nâng cao chất lượng nhân lực một cách đồng
đều và vững chắc theo hướng vừa chuyên sâu, vừa tổng hợp, có khả năng cạnh tranh cao, luôn hướng tới
khách hàng; (4) có chính sách thu hút nhân tài thông qua chế độ đãi ngộ.

6. Kết luận
Như vậy, có thể khẳng định, hội nhập quốc tế là xu thế tất yếu của mọi nền kinh tế, mở ra nhiều
cơ hội cho sự phát triển của các quốc gia nói chung và của ngân hàng nói riêng, song cũng đặt ra rất nhiều
thách thức, áp lực buộc các quốc gia, tổ chức, ngân hàng phải đối mặt. Vấn đề đặt ra là, việc trang bị một
kiến thức nhất định về hội nhập, nhận diện một cách rõ nét những cơ hội và thách thức của hội nhập, sẽ
giúp các nhà quản lý ngân hàng, các cơ quan hoạch định chính sách chủ động, cẩn trọng và tự tin đối đầu
với thách thức và đón nhận cơ hội, với mục tiêu cuối cùng là nâng cao năng lực cạnh tranh của các
NHTM Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Định hướng giải pháp
Thứ nhất, QTNH - cần một bộ luật hoàn chỉnh.
Hội nhập quốc tế đã mở ra cơ hội để ngành ngân hàng trao đổi hợp tác, tiếp cận các luồng vốn và trợ giúp
kỹ thuật quốc tế cho ngân hàng Việt Nam, góp phần làm cho quản trị của hệ thống ngân hàng Việt Nam
phù hợp hơn với trình độ và chuẩn mực quốc tế. Song QTNH cần đứng trên giác độ tổng thể từ quản trị
mục tiêu - chiến lược đến tổ chức - hoạt động và đặc biệt là quản trị rủi ro mới mang lại sự an toàn cho
NHTM. Để tạo một sự thay đổi có tính chiến lược về QTNH, một bộ Luật rành rẽ thay cho Nghị định là
cần thiết.

Thứ hai, cơ cấu lại mô hình tổ chức của ngân hàng
Mô hình tổ chức của một số NHTM hiện nay thích hợp trong điều kiện hoạt động với qui mô nhỏ, mức độ
tập trung quyền lực cao. Khi một NHTM có qui mô ngày càng lớn với số lượng chi nhánh ngày càng
nhiều, khối lượng và tính chất công việc ngày một phức tạp hơn thì mô hình tổ chức như vậy sẽ bộc lộ
những hạn chế, nhất là trong việc tổ chức và bố trí các phòng nghiệp vụ cả ở cấp trung ương và chi nhánh

hiện đang phân cấp quản lý theo loại hình nghiệp vụ, chưa chú trọng quản lý theo thị trường và đối tượng
phục vụ. Rõ ràng, với áp lực cạnh tranh, yêu cầu chuẩn hoá hoạt động tổ chức theo hướng gọn nhẹ, hiệu
quả đang là đòi hỏi đối với cả các ngân hàng lớn cũng như các ngân hàng quy mô nhỏ.

Thứ ba, nâng cao năng lực quản trị nội bộ của các NHTM
Năng lực quản trị, đặc biệt là năng lực quản trị nội bộ của ngân hàng là yếu tố quyết định sự thành công
hay thất bại trong kinh doanh của ngân hàng. Vì vậy, QTNH nói chung và quản trị rủi ro nói riêng, cần
dựa trên một số nguyên tắc sau: nguyên tắc chấp nhận rủi ro; nguyên tắc điều hành rủi ro cho phép;


nguyên tắc quản lý độc lập các rủi ro riêng biệt; nguyên tắc phù hợp giữa mức độ rủi ro cho phép và khả
năng tài chính; nguyên tắc hiệu quả kinh tế, nguyên tắc hợp lý về thời gian và phù hợp với chiến lược
chung của ngân hàng v.v… Để thực hiện tốt những nguyên tắc này, ngoài việc quản lý tốt tài sản nợ - tài
sản có theo nguyên tắc của Uỷ ban Basel, xây dựng văn hoá quản trị lành mạnh, tạo môi trường thuận lợi
cho việc áp dụng các nguyên tắc và thông lệ quản trị rủi ro, các NHTM cần chú trọng nâng cao chất
lượng công tác kiểm soát nội bộ trên cơ sở áp dụng hệ thống công nghệ ngân hàng hiện đại, để phát hiện
những tiềm ẩn rủi ro, có biện pháp ngăn chặn kịp thời. Nhưng cũng không nên quá nhấn mạnh đến kiểm
tra, kiểm soát nội bộ dễ đánh mất tính sáng tạo trong công việc.

Để đáp ứng được yêu cầu hội nhập, hệ thống NHTM Việt Nam vẫn còn nhiều việc phải làm, trong đó cần
chú trọng áp dụng mô thức quản trị DN hiện đại theo thông lệ quốc tế, hướng tới sự phát triển bền vững
của cả hệ thống./.



×