Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

skkn biện pháp duy trì sĩ số cho giáo viên chủ nhiệm ở lớp có nhiều học sinh là người dân tộc thiểu số

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (440.05 KB, 28 trang )

A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Công việc của giáo viên chủ nhiệm (GVCN) là một trong những
“khâu” quan trọng góp phần vào sự nghiệp giáo dục toàn diện cho học sinh.
Giáo viên chủ nhiệm phải đề ra được kế hoạch, phương pháp giáo dục thích
hợp cho từng trường hợp đặc biệt bằng cả tấm lòng yêu thương, nhân ái của
người Thầy.
Bác Hồ đã từng nói: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu, nếu
không có kiến thức thì không có thể bình đẳng với các dân tộc khác được”.
Trước yêu cầu phát triển của đất nước trong thời kỳ hội nhập khu vực và
quốc tế, đồng thời nhằm thực hiện chính sách “Bình đẳng, đoàn kết, tôn
trọng, giúp đỡ nhau cùng phát triển giữa các dân tộc”, xóa dần khoảng cách
chênh lệch về giáo dục giữa “miền ngược và miền xuôi”, Đảng và Chính
phủ rất quan tâm và chú trọng đến công tác giáo dục cho đồng bào các dân
tộc thiểu số. Để lấp dần khoảng cách trên thì khâu duy trì sĩ số là rất quan
trọng. Công tác chủ nhiệm lớp ở trường phổ thông, việc duy trì sĩ số học
sinh là một trong những nhiệm vụ trọng yếu. Duy trì tốt sĩ số học sinh
không những nâng cao được hiệu quả giáo dục mà đặc biệt hơn là tránh
được tình trạng học sinh bỏ học giữa chừng. Những học sinh thất học là
một mối nguy hại lớn cho xã hội: Các em dễ dàng dính vào các tệ nạn xã
hội, đặc biệt dễ bị kẻ xấu lôi kéo vào các tổ chức phản động. Bên cạnh đó
duy trì tốt sĩ số học sinh còn gắn liền với chất lượng dạy học và hiệu quả
giáo dục. Đây cũng là một trong những tiêu chí quan trọng trong việc đánh
giá, nhận xét chất lượng hoạt động của mỗi giáo viên chủ nhiệm lớp và của
tập thể nhà trường. Đối với trường có nhiều con em dân tộc thiểu số muốn
có được kết quả như vấn đề nêu trên đòi hỏi phải có rất nhiều yếu tố như:
Năng lực của giáo viên trong thực hiện công tác phối kết hợp tốt giữa nhà
trường, gia đình và xã hội. Sự phối hợp nhịp nhàng và đồng thuận tốt là
tiền đề giúp cho việc duy trì và phát triển sĩ số học sinh đạt kết quả tốt.
Trang 1



Trường trung học phổ thông (THPT) Đinh Tiên Hoàng mà tôi
đang công tác là một trường có đa số con em là đồng bào dân tộc thiểu số
của huyện Krông Pa _ Gia Lai. Trường nằm tại xã IaHdreh, đa số gia đình
của học sinh đều thuộc diện “xóa đói giảm nghèo”. Đời sống của con em
đồng bào còn nhiều thiếu thốn về vật chất, tinh thần, văn hóa văn nghệ, các
loại hình giải trí lành mạnh trong khi đó tệ nạn ngoài xã hội có nguy cơ len
lỏi vào học đường, học sinh không hứng thú trong học tập làm gia tăng tỉ lệ
học sinh bỏ học giữa chừng là điều không tránh khỏi. Là người giáo viên
chủ nhiệm lớp ai cũng như tôi đều trăn trở, bức xúc trước thực trạng học
sinh vắng học, bỏ học, không ham học; để lưu và giữ con em đồng bào dân
tộc thiểu số đi học đều là việc vô cùng khó khăn. Vậy làm thế nào để công
tác duy trì sĩ số lớp mình chủ nhiệm đạt kết quả tốt trong năm học, góp
phần nâng cao chất lượng giáo dục và hiệu quả đào tạo của nhà trường nói
riêng và góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục mà Đảng và Nhà nước đã
đặt ra cho ngành Giáo dục nói chung. Với những lý do đó tôi chọn đề tài:
“Biện pháp duy trì sĩ số cho giáo viên chủ nhiệm ở lớp có nhiều học
sinh là người dân tộc thiểu số” để các đồng nghiệp tham khảo thêm trong
quá trình thực hiện công tác chủ nhiệm lớp của mình.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Tôi thực hiện đề tài này trên cơ sở những kinh nghiệm đã rút ra
được trong quá trình công tác chủ nhiệm, trình bày ra nhằm giúp bản thân
và đồng nghiệp làm tốt hơn trong công tác chủ nhiệm lớp.
III. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Trong đề tài này, tôi đã nguyên cứu nguyên nhân, tình trạng bỏ
học của học sinh dân tộc thiểu số ở trường THPT Đinh Tiên Hoàng và áp
dụng các biện pháp duy trì sĩ số lớp để có kết quả cao trong việc đảm bảo sĩ
số lớp.

Trang 2



B. PHẦN NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN
Xây dựng tập thể lớp vững mạnh là yêu cầu giáo dục bắt buộc
của tất cả các trường trung học phổ thông, đó cũng là nhiệm vụ quan trọng
của giáo viên chủ nhiệm. Một tập thể lớp vững mạnh sẽ là động lực thúc
đẩy mọi hoạt động khác nhất là hoạt động học tập của nhà trường. Bên
cạnh đó khi giáo viên làm tốt công tác chủ nhiệm và có phương pháp tốt thì
sẽ tạo điều kiện và có thời gian để bồi dưỡng và hoàn thành tốt chuyên môn
của mình.
Song song với việc đổi mới ấy, việc quản lí giáo dục học sinh
cũng rất quan trọng, đặc biệt vai trò của GVCN trong công tác giáo dục học
sinh. GVCN được coi như người mẹ, người cha thứ 2 của học sinh, người
mà luôn được học sinh gửi gắm tâm tư nguyện vọng của mình khi mà cả
cha và mẹ đều không biết đến việc học của con mình như ở địa bàn nơi tôi
đang công tác.
Đối với học sinh THPT, lứa tuổi mà ở đó đặc điểm tâm sinh lí
khá phát triển, trí tuệ biến đổi cả về chất và lượng. Các em biết quan sát
nhạy bén và cảm nhận tinh tế, tư duy trừu tượng ở mức cao. Nhưng lại rất
dễ thay đổi tính nết, dễ sa ngã và bị lôi kéo, lứa tuổi đang và muốn tự
khẳng định mình trước mọi người.
Để làm tốt công tác chủ nhiệm trước hết GVCN phải nắm rõ
nhiệm vụ của GVCN trong điều lệ trường phổ thông.
Vì GVCN có một vị trí quan trọng trong việc giáo dục tư tưởng, ý
thức đạo đức học sinh, tạo điểm nhấn góp một phần trong phong trào xây
dựng trường học thân thiện học sinh tích cực. Do đó, GVCN là một trong
những nhân tố thúc đẩy sự hình thành nhân cách của học sinh, mang lại
một phần kết quả rèn luyện đạo đức, học tập của các em.


Trang 3


Học sinh THPT không những cần được trau dồi tư tưởng vững
vàng, có nghị lực vượt khó trong học tập và đời sống mà các em còn đóng
vai trò quan trọng trong chất lượng, tỷ lệ thi tốt nghiệp THPT của nhà
trường, tỷ lệ học sinh đỗ đại học, cao đẳng. Vì vậy việc quản lí giáo dục
học sinh THPT không phải là dễ. Hơn nữa hầu hết GVCN là kiêm nhiệm
chưa qua lớp bồi dưỡng về nghiệp vụ làm GVCN, làm việc với những kinh
nghiệm sau nhiều năm làm công tác chủ nhiệm.
1. Vị trí của giáo viên chủ nhiệm lớp:
- Ở nhà trường THPT, trong mỗi lớp học đều có một giáo viên
chủ nhiệm lớp, giáo viên chủ nhiệm lớp là người được Ban giám hiệu bổ
nhiệm, chịu trách nhiệm quản lý công tác giáo dục và đào tạo học sinh ở
lớp mình phụ trách là người chịu toàn bộ trách nhiệm trước Ban giám hiệu
và nhà trường về mọi vấn đề thuộc lớp mình.
- Giáo viên chủ nhiệm là người thay mặt hiệu trưởng, hội đồng nhà
trường và cha mẹ học sinh quản lý toàn diện học sinh lớp mình phụ trách.
Điều này đòi hỏi giáo viên chủ nhiệm vừa quản lý tập thể học sinh, vừa quan
tâm đến từng cá nhân trong lớp về mọi phương diện: Tư tưởng, học tập, tu
dưỡng, lao động và sinh hoạt tập thể.
- Giáo viên chủ nhiệm lớp là người lãnh đạo, tổ chức, điều hành,
kiểm tra mọi hoạt động và các mối quan hệ ứng xử thuộc lớp mình phụ
trách theo đúng chương trình và kế hoạch của nhà trường.
- Giáo viên chủ nhiệm là nhân vật chủ đạo để hình thành nhân
cách cho từng học sinh trong tập thể lớp.
- Giáo viên chủ nhiệm lớp là cầu nối là nhân vật trung gian thiết
lập các mối quan hệ hai chiều: Nhà trường - tập thể học sinh, tập thể học
sinh - xã hội. Như vậy một mặt giáo viên chủ nhiệm lớp vừa là đại diện cho
nhà trường để giáo dục học sinh, vừa đại diện cho tập thể học sinh để liên

lạc với nhà trường. Mặt khác, giáo viên chủ nhiệm phải làm cho quan hệ
giữa tập thể học sinh với xã hội trở nên gắn bó hơn.

Trang 4


2. Chức năng của giáo viên chủ nhiệm lớp:
- Giáo viên chủ nhiệm xây dựng, tổ chức tập thể lớp mình thành
đơn vị vững mạnh.
- Giáo viên chủ nhiệm tổ chức điều khiển, lãnh đạo các hoạt động
giáo dục của tập thể lớp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện.
- Giáo viên chủ nhiệm luôn thiết lập và phát triển các mối quan
hệ với các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường để giáo dục học
sinh.
3. Những phẩm chất chủ yếu của giáo viên chủ nhiệm:
- GVCN phải có nhân cách toàn vẹn thể hiện qua việc nhận thức,
có thái độ và hành vi cá nhân phù hợp với chuẩn mực xã hội và phát huy
truyền thống đạo đức của dân tộc (hiếu học, trọng đạo, tôn sư).
- Có lòng nhân ái, nhất là đối với học sinh, người già, trẻ em,
người thiệt thòi bất hạnh,…
- Yêu nghề, say sưa với công tác giáo dục.
- Có tinh thần trách nhiệm và lòng tự trọng cao, có lương tâm
nghề nghiệp vững vàng.
- Khiêm tốn, cầu tiến, tích cực tự hoàn thiện không ngừng.
- Mẫu mực, trung thực trong cuộc sống.
4. Những năng lực sư phạm cần thiết đối với giáo viên chủ
nhiệm:
- Có tầm hiểu biết rộng về văn hoá chung.
- Có tri thức sâu sắc, hiện đại về môn học phụ trách ở lớp chủ
nhiệm.

- Có khả năng sáng tạo trong công tác giáo dục, dạy học.
- Có khả năng thu thập, tích luỹ tri thức, tự học để ngày càng
nâng cao hoặc mở rộng tầm hiểu biết của mình.
- Có khả năng kích hoạt, gây hào hứng nhằm khơi dậy sự hứng
thú và động cơ học tập và rèn luyện đạo đức ở học sinh.

Trang 5


- GVCN cần tự trang bị cho mình nhiều thủ thuật lôi cuốn đa
dạng để khi cần có thể tung ra trước học sinh nhằm tạo sự gần gũi, thân mật
giữa cô và trò, giữa trò với trò.
- Có sự thành thạo trong các kỹ năng sư phạm như:
+ Giao tiếp sư phạm trước đám đông hay đối xử cá biệt.
+ Biểu lộ và kiềm chế các cảm xúc, tình cảm khi cần thiết.
+ Diễn đạt, trình bày các vấn đề có logic, tính truyền cảm có
thuyết phục của một nhà giáo, tri thức khoa học liên môn, tri thức xã hội.
+ Ứng xử các tình huống sư phạm.
+ Lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo các hoạt động trong công tác
chủ nhiệm.
II. THỰC TRẠNG CỦA CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM
1. Thực trạng
Năm học 2009 - 2010 đến năm học 2014 - 2015, tôi được sự phân
công của Ban giám hiệu nhà trường làm công tác chủ nhiệm đa phần các
lớp cơ bản ở khối 12, về học lực của các em lớp tôi chủ nhiệm không có
học sinh giỏi, số học sinh có học lực trung bình, khá chỉ khoảng 30% lớp,
còn lại là học lực yếu, 85% hoặc 100% là học sinh thuộc diện chính sách:
hộ nghèo, cận nghèo, các em đều là con của gia đình nông dân, người dân
tộc thiểu số gồm 3 xã trong huyện (IaHdreh, IaRmok, Krông Năng) còn
một số em cha mẹ đi làm ăn xa hoặc cha, mẹ ly thân, ly dị ở với Ông bà, đa

số cha mẹ không biết tiếng phổ thông, không quan tâm đến việc học của
con em mình. Vì vậy, đối với học sinh còn thiếu sự quan tâm của các bậc
phụ huynh.
2. Thuận lợi, khó khăn
a. Thuận lợi
Một bộ phận học sinh có ý thức kỷ luật cao, ngoan, lễ phép với
thầy cô, biết vâng lời cha mẹ. Tích cực tham gia hoạt động phong trào do
Đoàn trường, lớp tổ chức.

Trang 6


Cơ sở vật chất được nhà trường và các cấp lãnh đạo ngày càng
quan tâm để tạo điều kiện thuận lợi cho việc dạy và học của giáo viên và
học sinh.
Được sự quan tâm, giúp đỡ của Ban giám hiệu, đội ngũ giáo viên
bộ môn có chuyên môn vững, nhiệt tình trong giảng dạy.
Sự phối hợp chặt chẽ giữa một số bậc phụ huynh với giáo viên
chủ nhiệm và đoàn thể.
b. Khó khăn:
IaHdreh là một xã vùng sâu, đời sống kinh tế đa số gia đình khó
khăn, việc đầu tư cho con em trong quá trình học tập còn nhiều hạn chế.
Đa số cha mẹ không biết tiếng phổ thông, không quan tâm đến
con em của mình.
Một phần học sinh cá biệt chưa có ý thức trong học tập và rèn
luyện đạo đức chủ yếu do tác động từ hoàn cảnh gia đình hoặc xã hội, bạn
bè. Một số học sinh có hoàn cảnh gia đình không thuận lợi, không ổn định,
cha mẹ ly thân, ly dị, đi làm ăn xa lo kiếm sống không có thời gian chăm
sóc con cái.
Với những thực trạng trên, để duy trì sĩ số học sinh ở lớp chủ

nhiệm, đặc biệt là học sinh ở khối THPT đang ở lứa tuổi tập làm người lớn,
đòi hỏi người giáo viên phải có bản lĩnh, tính dứt khoát, sự quan tâm đồng
đều đến lớp mình phụ trách, bên cạnh đó người giáo viên phải có tấm lòng
bao dung, nhân hậu, yêu thương học sinh như con em của chính mình. Vì
vậy việc đưa ra một số biện pháp nhằm duy trì sĩ số lớp chủ nhiệm là hết
sức quan trọng.
Từ những thuận lợi và khó khăn trên, sau khi nhận lớp chủ nhiệm
tôi mạnh dạn cải tiến nội dung, biện pháp duy trì sĩ số học sinh lớp chủ
nhiệm để định hướng kết quả tốt hơn.
III. MỘT SỐ BIỆN PHÁP DUY TRÌ SĨ SỐ LỚP CHỦ
NHIỆM
Trang 7


1. Nắm hoàn cảnh và đặc điểm gia đình từng học sinh
Sau ngày tập trung học sinh, tôi cho học sinh làm lí lịch ghi rõ họ
tên, nghề nghiệp cha mẹ, hoàn cảnh sinh sống, nơi ở của gia đình, số điện
thoại (nếu có) của gia đình: Nắm xem bao nhiêu em có hoàn cảnh gia đình
khá giả, bao nhiêu em hộ khó khăn, bao nhiêu em có sổ hộ nghèo, cận
nghèo, bao nhiêu em con gia đình chính sách, con dân tộc, công việc
thường ngày của học sinh ở nhà và là đứa con thứ mấy. Ngoài ra, tôi còn
trao đổi với giáo viên chủ nhiệm của lớp năm trước để nắm rõ hơn về hoàn
cảnh gia đình của từng học sinh. Sau đó, tôi tập hợp thành một quyển sổ
theo dõi, phân loại đối tượng học sinh, đặc biệt học sinh có hoàn cảnh khó
khăn có nguy cơ bỏ học.
Việc làm này giúp tôi nắm rõ hơn hoàn cảnh từng em để có biện
pháp giáo dục thích hợp.
2. Nắm chất lượng học tập và hạnh kiểm năm trước
Trong tuần đầu ôn tập, tôi cho các em ôn lại những bài tập bám
sát theo kiến thức cơ bản, đồng thời tôi còn xem lại học bạ của các em năm

trước kết hợp trao đổi với giáo viên để nắm sức học của từng em. Việc làm
này đã giúp tôi lựa chọn biện pháp kèm cặp, uốn nắn phù hợp không để cho
các em chán nản, bỏ học vì học yếu, phân công cho học sinh khá và học
sinh yếu kém ngồi chung bàn hoc để tạo điều kiện giúp đỡ nhau và thành
lập Đôi bạn học tập, Nhóm học tập.
3. Liên lạc với Chi hội Phụ huynh học sinh của lớp
Ở lần họp Phụ huynh học sinh đầu năm, Phụ huynh lớp đã bầu ra
Chi hội Phụ huynh học sinh của lớp. Chi hội đã giúp tôi tạo điều kiện cho
những em nghèo có đủ sách vở, quần áo, dụng cụ học tập,… Cùng tôi tìm
đến nhà gia đình những học sinh vắng không phép, vận động các em trở lại
lớp. Đây là cánh tay đắc lực, hỗ trợ cho tôi trong công tác chủ nhiệm. Chi
hội Phụ huynh học sinh của lớp phải có đủ thành phần của 3 xã để khi cần
là có người ở địa phương giúp đỡ.

Trang 8


4. Giúp đỡ học sinh có hoàn cảnh khó khăn
Nắm được một số em có hoàn cảnh nghèo đặc biệt (cha mẹ đều đi
làm thuê xa ở với ông bà nội (ngoại); mồ côi cha (mẹ)), tôi rà soát lại xem
em nào còn khó khăn trong học tập như: sách vở, đồ dùng học tập,… tôi
đăng kí cho các em được nhận dụng cụ do nhà trường hỗ trợ. Ngoài ra, tôi
còn kêu gọi sự hỗ trợ từ một số phụ huynh có khả năng để trang bị thêm
những dụng cụ còn lại cho những em này để các em được yên tâm đến
trường, không phải mặc cảm vì nhà nghèo. Qua đây, tôi cũng thấy tình cảm
giữa bạn nhà nghèo và bạn khá giả gần gũi nhau hơn.
5. Thành lập Đôi bạn học tập, Nhóm học tập
Qua nắm được sức học của từng em, tôi lưu ý nhiều đến những
em thuộc diện trung bình, yếu. Tôi phân công một em giỏi hoặc khá kèm
một em trung bình hoặc yếu và sắp xếp cho 2 em ngồi cùng một bàn. Tôi

phân công em học khá hơn làm bàn trưởng, chịu trách nhiệm của bàn mình.
Tôi hướng dẫn cho em giỏi, khá cách kèm bạn học: Nhắc nhở bạn học bài,
xem lại bài; trao đổi kinh nghiệm học tập; cách học bài dễ thuộc; cách vận
dụng kiến thức đã học vào làm bài tập; hướng dẫn bạn làm bài tập hoặc
củng cố kiến thức mà bạn chưa hiểu,…
Trong lớp, tôi phân công cho từng học sinh phụ trách mỗi bộ môn mà
mình học tốt nhất (cán sự bộ môn) để giải đáp các vấn đề mà các bạn
không hiểu mà có liên quan đến bộ môn đó, nếu học sinh phụ trách này vẫn
chưa rõ thì đại diện lớp để hỏi giáo viên bộ môn. Khi học sinh về nhà thì
tôi phân công một số học sinh ở gần nhà học theo nhóm, mỗi nhóm phải
xây dựng kế hoạch học tập của nhóm mình một cách cụ thể và nộp lại cho
GVCN xem, nhóm này cũng theo dõi và báo cáo lý do vắng học hoặc nguy
cơ bỏ học của các bạn trong nhóm của mình.
Bản thân GVCN thường xuyên lên lớp 10 phút đầu giờ, để kiểm tra
tập vở, bài làm ở nhà của những học sinh trung bình, yếu; xem cách thực hiện
của đôi bạn học tập như thế nào để có những điều chỉnh cho phù hợp hơn.

Trang 9


Qua việc làm trên, tôi thấy tình cảm giữa thầy trò đã gắn bó nhau
hơn. Những em trung bình, yếu thường hay nhút nhát, rụt rè nay không còn
nữa mà trở nên mạnh dạn, tự tin hơn, xây dựng “trường học thân thiện, học
sinh tích cực”. Từ đó các em càng ham thích đến lớp để hòa nhập với bạn
bè, việc học của các em ngày càng tiến bộ hơn.
6. Phổ biến nội quy. Gặp gỡ những gia đình học sinh tự ý bỏ học
Ở tuần đầu tiên, tôi sinh hoạt với học sinh trong lớp rất kĩ về nội
quy nhà trường, trong đó có phần quy định: Học sinh phải đi học đều và
đúng giờ, nghỉ học phải có lí do và được cha mẹ xin phép. Và ở lần họp
phụ huynh học sinh đầu năm, tôi cũng thông báo cho phụ huynh biết về

quy định này và nhờ phụ huynh hàng ngày theo dõi, nhắc nhở. Ngoài ra, tôi
còn cho từng học sinh viết bản cam kết thực hiện tốt “ Nội quy trường học”
và “ An toàn giao thông”. Bên cạnh đó, tôi cũng đã xây dựng nội quy của
lớp (Biên bản thi đua hàng tuần) như sau:

BẢNG ĐIỂM THI ĐUA HÀNG TUẦN
I. Điểm thưởng trong tuần
- Tổ không có học sinh vắng không phép trong tuần được 50 điểm/tuần.
- Tổ không có học sinh vi phạm về đồng phục (kể cả học trái buổi) được 50
điểm/tuần.
- Tổ không có học sinh vi phạm tác phong, lời nói được 50 điểm/tuần.
- Tổ ổn định tốt 15 phút ôn bài đầu giờ (như: không học sinh rời chỗ ngồi,
không mất trật tự,…) được 50 điểm/tuần.
- Học sinh có điểm kiểm tra miệng được 8; 9 điểm: +3đ/hs, được 10 điểm
được cộng: +5 đ/hs.
- Cá nhân phát biểu bài trong giờ học: +1đ/lần.
II.Điểm phạt trong tuần:
1. Chuyên cần
- Đi học trễ, vào lớp sau giáo viên, nói chuyện: - 5đ/lần.
Trang 10


- Vắng học không phép (bố, mẹ không gặp GVCN): - 5đ/buổi/hs.
- Trốn học (cúp tiết): -5đ/buổi/hs.
- Vắng có phép: - 3đ/buổi/hs.
2. Học tập
- Điểm kiểm tra miệng kém 0; 1; 2: - 10đ và điểm 3; 4: -5đ.
- Quay cóp khi làm bài kiểm tra: -10đ/lần.
- Không chép bài: -10đ.
3. Đạo đức, tác phong...

- Học sinh làm lớp bị giờ: Khá: -5điểm/tiết, Trung bình: -10điểm/tiết.
- Không áo đồng phục: -10điểm/1lần vi phạm.
- Mất trật tự trong giờ học, ngoại khóa, giờ chào cờ, bị ghi tên trong sổ ghi
đầu bài: -10điểm/1lần vi phạm.
- Không tham gia lao động, trực nhật vệ sinh lớp học, các hoạt động tập thể
của lớp: -20điểm/1lần vi phạm.
- Vi phạm an toàn giao thông: -10đ/lần
- Xả rác trong lớp, trường, mang đồ ăn nước uống vào lớp: -5đ/lần
- Viết, vẽ bậy lên tường, bàn: -5đ/lần,
- Ngồi lên bàn hoặc xô đổ bàn ghế: -5 điểm/1lần vi phạm
- Nói tục, chửi thề: - 5 điểm/1lần vi phạm
Giáo viên chủ nhiệm
Đối với những trường hợp học sinh tự ý bỏ học (vì cha mẹ đi làm
không có ở nhà), hết giờ dạy, tôi lập tức đến ngay nhà những em này gặp
phụ huynh hay điện thoại trực tiếp gặp phụ huynh để tìm hiểu nguyên nhân
và trao đổi cách khắc phục, nếu không liên lạc được thì tôi cho HS có nhà ở
gần nhà đó về thông báo lại với bố mẹ. Chính nhờ thế mà những học sinh ở
lớp tôi chủ nhiệm chỉ nghỉ học 1 ngày không phép thì đến hôm sau đi học
lại bình thường, suốt nhiều năm liền có rất ít hiện tượng học sinh bỏ học
giữa chừng, ngoài ra nó còn là cơ sở để có biện pháp xử lý học sinh quy

Trang 11


phạm, giúp các em sửa lỗi của mình để tiến bộ hơn thành con ngoan, trò
giỏi, người công dân có ích cho xã hội.
7. Tổ chức tốt tiết sinh hoạt lớp
Giáo viên chủ nhiệm giao cho tổ trưởng BẢNG ĐIỂM THI
ĐUA HÀNG TUẦN để theo dõi và tính điểm của tổ viên, các tổ theo dõi
chéo với nhau.

Trong tiết sinh hoạt cuối tuần, sau khi nghe các tổ trưởng báo cáo,
tôi cho lớp tuyên dương những tổ đạt duy trì sĩ số suốt cả tuần để làm
gương cho lớp và khen những em có tiến bộ về mặt học tập để các em thấy
nhiệm vụ học tập của mình và “mỗi ngày đến trường là một ngày vui”.
Đối với những mặt học sinh còn hạn chế, tôi nhắc nhở nhẹ nhàng
kèm theo hướng dẫn, uốn nắn cho các em để tuần sau các em thực hiện tốt
hơn, có thể phạt những em này những hình thức nhẹ nhàng như trực nhật ở
tuần sau,…
Ngoài ra tôi còn nêu gương các anh, chị học sinh những năm
trước dù đầu năm còn yếu kém nhưng nhờ sự kiên trì, cố gắng đến cuối
năm cũng đã đạt loại khá, giỏi để củng cố lòng tin nơi các em, có thể cho cả
lớp đọc báo hoặc xem phim nhưng gương mặt vượt khó học giỏi, gương
hiếu học,…
Tôi còn yêu cầu học sinh nào có ý kiến gì thì phát biểu để giáo viên
giải thích hoặc điều chỉnh.
8. Biện pháp tinh thần
Mỗi ngày bước vào lớp tôi đều quan sát cả lớp, thấy các em có
mặt đầy đủ là lòng tôi rất vui. Nhất là những hôm thời tiết khắc nghiệt như:
mưa, bão, … Những hôm ấy, tôi cho lớp hoan nghênh bằng một tràng pháo
tay để động viên khích lệ tinh thần các em. Trong giờ dạy, tôi đầu tư soạn
giảng phân hóa theo đối tượng học sinh sao cho phù hợp với trình độ mọi
học sinh trong lớp - nhất là những em trung bình, yếu nhằm kích thích học
sinh hứng thú học tập, tiếp thu bài nhanh hơn.

Trang 12


Tôi cũng thật sự hòa nhập cùng các em trong giờ dạy bộ môn của
mình hay trò chơi của lớp, của trường tổ chức, tôi luôn tìm cách đề các em
luôn đoàn kết, tạo ra một thể thống nhất để giải quyết mọi vấn đề và kết

quả là lớp đứng thứ ba của khối sáng ở học kỳ I, mặc dù lớp có học sinh có
học lực yếu, kém quá nhiều. Đôi khi, tôi đóng vai là một người bạn, người
anh, người chị để các em thoải mái hoạt động tốt không tạo áp lực. Tôi
cũng thông báo trước lớp là tôi sẽ luôn luôn lắng nghe và tâm sự với những
em có tâm sự, đặc biệt lớp tôi chủ nhiệm năm nay là lớp 12 nên tôi luôn
hướng dẫn các em chọn môn thi, ngành thi, cách làm hồ sơ,… sao cho phù
hợp nhất với từng em, luôn tìm mọi cách để các em tin tưởng mình và xem
minh như người cha thứ hai của các em. Tôi đã xây dựng một hộp thư góp
ý của lớp để học sinh nào có yêu cầu, thắc mắc gì,… thì viết thư cho vào
thùng thư để GVCN xem thư và giải quyết, hoặc trong tương lai, khi nhà
trường có mạng internet thì tôi sẽ lập một tài khoản facebook riêng của lớp
để em nào cần tâm sự và chia xẻ nội dung gì thì lên face viết tâm sự đó,
thông qua đó học sinh sẽ nhận được nhiều chia xẻ có ích, và lúc này GVCN
cũng có bài học bổ ích, đoán được suy nghĩ của học sinh để có biện pháp
xử lý thích hợp, tuy nhiên trang face đó thì GVCN yêu cầu học sinh không
được đăng tải những nội dung quy phạm pháp luật. Thành lập “Hòm thư
góp ý và tài khoản facebook riêng” để học sinh bày tỏ ý kiến là một sáng
kiến mới cũng như ứng dụng công nghệ thông tin trong viêc quản lý học
sinh, thông qua làm cho lớp học ngày càng phát triển và ngăn chặn được
học sinh bỏ học (vì khi học sinh có tâm lý bỏ học thì chúng sẽ đăng những
tâm sự liên quan đến bỏ học hoặc tâm sự với bạn bè và bạn bè sẽ đăng tin
này lên face và GVCN xẽ biết được và có biện pháp giúp đỡ để học sinh
không bỏ học).
9. Lập sơ đồ tổ chức lớp học
a. Căn cứ để lập sơ đồ lớp

Trang 13


Qua tìm hiểu sơ lược, giáo viên chủ nhiệm tiến hành sắp xếp chỗ

ngồi cho học sinh (chú ý đến các học sinh có bệnh khuyết tật về mắt, tai,
…). Sau đó chia thành 4 tổ. Lập sơ đồ chỗ ngồi thành 2 bản: tại lớp 1 bản,
giáo viên lưu lại một bản để tiện lợi cho việc theo dõi học sinh.
Căn cứ vào học lực của học sinh: học sinh yếu kém, chậm tiến
ngồi gần giáo viên hơn; học sinh khá giỏi ngồi xa giáo viên hơn, nhưng
trong một bàn nhất thiết phải có 2 loại học sinh khá/giỏi và yếu/kém.
Căn cứ vào tình trạng sức khỏe của học sinh: học sinh thấp trước,
cao sau; học sinh mắt yếu ngồi gần bảng.
Căn cứ vào nhiệm vụ của ban cán sự lớp và ban chấp hành chi
đoàn: tôi sắp xếp các em ở vị trí các góc của lớp và cuối lớp để tiện việc
theo dõi.
b. Thành lập sơ đồ tổ chức lớp học của lớp 12A1
BGH

HỘI
PHHS

LỚP
PHÓ HỌC
TẬP

Tổ
trưởng.
TỔ 1

ĐOÀN
TN

GVCN


LỚP
TRƯỞNG

Tổ
trưởng.
TỔ 2

BT ĐOÀN
LỚP

Tổ
trưởng.
TỔ 3

Tổ
trưởng.
TỔ 4

Trang 14


Tổ
1:
Lâm

Tổ
2:
Bảo

Tổ

4:
Thả

Sa
o
đỏ

c: Thành lập sơ đồ cơ cấu ban cán sự lớp

GIÁO VIÊN
CHỦ NHIỆM

LỚP
TRƯỞNG

LỚP
PHÓ
LAO
ĐỘNG

LỚP
PHÓ
VĂN
THỂ

TỔ
TRƯỞNG
TỔ 1

BÍ THƯ

CHI ĐOÀN LỚP

LỚP
PHÓ
HỌC
TẬP

TỔ
TRƯỞNG
TỔ 2

LỚP
PHÓ
TRẬT
TỰ

TỔ
TRƯỞNG
TỔ 3

THỦ
QUỸ
LỚP

GIỮ
SỔ
ĐẦU
BÀI

THƯ


LỚP

PHÓ

THƯ
CHI
ĐOÀN

TỔ
TRƯỞNG
TỔ 4

d. Giao nhiệm vụ cụ thể
- Lớp trưởng: quản lý, điều hành toàn bộ các hoạt động của lớp
dưới sự chỉ đạo của GVCN, chủ trì các cuộc họp lớp, sinh hoạt lớp cuối
tuần, báo cáo mọi hoạt động trực tiếp GVCN.
- Lớp phó học tập: lên danh sách học sinh học tốt nhất cho từng
bộ môn phân công phụ trách giúp đỡ bạn học yếu hơn, phải là học sinh học

Trang 15

ỦY
VIÊN
BAN
CHẤP
HÀNH


tốt, báo cáo việc học tập của học sinh trong lớp, duy trì truy bài 10 phút đầu

giờ.
- Lớp phó lao động: đôn đốc vệ sinh lao động của lớp, trực ban,
phân công đem ghế tiết chào cờ, phân công học sinh mang dụng cụ lao
động và quản lý lớp trong giờ lao động.
- Lớp phó phụ trách văn thể mĩ: phụ trách văn nghệ, giải trí của
lớp, ...
- Thủ quỹ: thu các khoản tiền quỹ, thăm hỏi.
- Thư ký: ghi chép các phiên họp lớp, biên bản sinh hoạt lớp.
- Học sinh giữ sổ đầu bài: quản lý, giữ gìn sổ đầu bài buổỉ sáng,
buổi chiều, ghi các mục: ngày, học sinh vắng, bỏ tiết, đi trễ, không chuẩn bị
bài, vi phạm khác.
- Bốn tổ trưởng: theo dõi mọi hoạt động tổ mình hoặc theo dõi
chéo tổ với nhau và tổng kết lại cho lớp trưởng ngày thứ sáu. Lớp trưởng
tổng hợp vào tiết sinh hoạt lớp.
- Bí thư chi đoàn: nắm bắt tiếp thu những thông báo, chỉ thị của
đoàn trường kịp thời triển khai cho chi đoàn mình thực hiện đầy đủ.
10. Lập kế hoạch chủ nhiệm
a. Kế hoạch năm
- Căn cứ kế hoạch, nhiệm vụ năm học của trường THPT ĐINH
TIÊN HOÀNG.
- Căn cứ đặc điểm tình hình lớp (thuận lợi, khó khăn).
- Căn cứ vào chủ đề các đợt thi đua của trường, đoàn thể.
- Căn cứ các nhiệm vụ công tác chủ nhiệm năm học.
Tôi đã xây dựng các chỉ tiêu về học lực, hạnh kiểm, duy trì sĩ số,
biện pháp thực hiện cho cả năm.
b. Kế hoạch hoạt động tuần, tháng
- Nêu những công việc hoạt động trong tuần, tháng.
- Có đối tượng tham gia.

Trang 16



- Biện pháp thực hiện.
- Kết quả đạt được.
- Nhận xét, rút kinh nghiệm.
11. Liên hệ với già làng, người có uy tín trong địa phương, xin
số điện thoại của đại diện phụ huynh, già làng, trưởng buôn, …
Có những học sinh đặc biệt mà GVCN đã dùng tất cả các biện
pháp trên mà không giải quyết được vấn đề thì GVCN có thể liên hệ với
già làng, người có uy tín trong địa phương, xin số điện thoại của cha mẹ,
đại diện phụ huynh, già làng, trưởng buôn, … để nhờ những người này
giúp đỡ trao đổi với em đó, gia đình em đó hiểu hơn về việc mình đang
làm. Đặc biệt là người dân tộc thiểu số, họ có lòng tự trọng rất cao và tin
tưởng vào già làng, nên GVCN phải nhờ già làng giúp đỡ. Ngoài ra, GVCN
có thể yêu cầu với trưởng buôn, trong các cuộc họp của buôn thì nêu ra vi
phạm của những HS đặc biệt này để mọi người trong buôn tìm cách giúp
đỡ (xin nhắc lại là biện pháp này nên áp dụng cuối cùng vì người dân tộc
thiểu số thì có lòng tự trọng rất cao, nếu họ không hiểu thì học sinh đó vì tự
ái mà bỏ học).
12. Kết hợp với Đoàn trường
Bí thư Đoàn trường luôn là người sát cánh cùng giáo viên chủ
nhiệm trong mọi hoạt động phong trào của lớp. Do vậy, trong công tác duy
trì sĩ số giáo viên chủ nhiệm cần phải biết và phối hợp để theo dõi, nắm bắt,
giáo dục kịp thời những hiện tượng tiêu cực trong học sinh, những tệ nạn
ngoài xã hội xâm nhập vào trường học, lớp học như: mâu thuẫn dân tộc, bè
phái, lớn bắt nạt bé, chơi game, hút thuốc, uống rượu, đầu tóc, ăn mặc
không phù hợp,… Từ đó, cùng tìm ra các biện pháp ngăn chặn giúp các em
đi học đều góp phần duy trì sĩ số từng ngày, từng tuần, từng tháng và cả
năm học.


Trang 17


13. Kết hợp với giáo viên bộ môn
Việc phối hợp với giáo viên bộ môn là hết sức quan trọng nhằm
theo dõi học sinh qua đó có kế hoạch điều chỉnh cũng như động viên các
em ngại học, giúp các em học tập tốt hơn. Mặt khác, có những em học sinh
thích học môn này, lại không thích môn kia vì những lý do khác nhau do
vậy tôi luôn tìm hiểu cặn kẽ các nguyên nhân từ các giáo viên bộ môn để
cùng với giáo viên bộ môn đề ra các biện pháp thích hợp nhằm giúp các em
để kết quả học tập tốt hơn. Các em sẽ hứng thú học tập và đi học đều đặn
hơn. Hơn nữa thông qua các giáo viên bộ môn trong trường phát hiện về
năng khiếu, sở thích cũng như những hạn chế của từng học sinh. Từ đó bồi
dưỡng kịp thời giúp các em phát triển một cách hoàn thiện hơn.
14. Kết hợp với Ban giám hiệu
Hàng tuần, hàng tháng, tôi đều báo cáo với Ban Giám Hiệu về
tình hình học sinh của lớp mình về những biểu hiện chưa tốt, không tốt,
những trường hợp có nguy cơ bỏ học cao, xin ý kiến để xử lí kịp thời.
15. Tìm hiểu phong tục, tập quán, ngôn ngữ của người dân
tộc thiểu số
Người dân tộc thiểu số có rất nhiều lễ hội hay, lễ hội là nơi để
toàn thể mọi người tập trung và chia sẽ về một vấn đề gì đó. Ví dụ: người
Jrai (dân tộc thiểu số chiếm số đông nơi tôi đang công tác) có lễ hội bỏ mã,
lễ hội lúa mới,… Nếu GVCN mà biết các lễ hội này mà đến dự chung với
người Jrai thì họ rất quý trọng GVCN và qua đó GVCN có thể tuyên truyền
cho tất cả mọi người về lợi ích của việc đi học, đồng thời cũng nhờ mọi
người nên cho con cháu của mình nên đi học đầy đủ, không được bỏ học.
Mặt khác, người dân tộc thiểu số lại có ngôn ngữ riêng của từng
dân tộc đó. Nếu GVCN mà biết được thông thạo ngôn ngữ đó thì việc giao
tiếp với họ rất thuận lợi trong việc tuyên truyền việc học, việc duy trì sĩ số

vì đa số cha mẹ của học sinh là người không biết tiếng Việt. Bản thân tôi đã
tự học tiếng Jrai bằng cách học qua từ điển, qua giao tiếp với học sinh,

Trang 18


người dân địa phương. Do năng lực có hạn nên tôi chưa hiểu hết tiếng Jrai
nên khi vận động học sinh bỏ học để đến trường lại tôi thường dẫn theo học
sinh người dân tộc thiểu số, tôi sẽ cố gắng hơn nửa để tiếp thu tốt hơn tiếng
Jrai.
Đây cũng là điểm mới mà tôi chưa thấy sáng kiến kinh nghiệm
nào đưa ra nên tôi đã tự suy nghĩ và áp dụng cho trường của tôi và kết quả
rất khả quan.
IV. BIỆN PHÁP THỰC HIÊN NHẰM GIÁO DỤC HỌC
SINH ĐẶT BIỆT. TRÁNH TÌNH TRẠNG HỌC SINH BỎ HỌC.
1. Thực trạng:
Mặc dù đã áp dụng các biện pháp trên nhưng lớp do tôi chủ
nhiệm vẫn có học sinh đặc biệt (là những học sinh chưa ngoan lắm hay bỏ
tiết, nghỉ học không phép, vi phạm nội qui nhà trường hoặc có hoàn cảnh
đặc biệt), ví dụ: Ksor Ngân, Nay H’ Tlí,... Tôi không muốn sử dụng từ học
sinh cá biệt bởi ai cũng có những ưu khuyết điểm, biết cách loại bỏ nó thì
tất yếu sẽ trở nên tốt hơn.
Thực ra những học sinh chưa ngoan thường gây không ít khó
khăn cho GVCN, ảnh hưởng lớn đến kết quả thi đua của lớp, nhiều khi
khiến cho GVCN cảm thấy mệt mỏi thậm chí buông xuôi vì nói hoài mà
các em không chuyển biến, càng phạt, càng lỳ, chống đối ngầm, cố tình
quậy hơn, vi phạm nhiều hơn…thậm chí còn tìm cách trả thù GVCN.
2. Tìm hiểu nguyên nhân:
Không phải tự nhiên bản chất sinh ra của các em có những hành
vi, hành động thiếu đi tính văn hoá, thiếu đi cái chuẩn mực của đạo đức,

hay có những hành động chưa đúng, lời nói chưa đẹp.
Là một GVCN tôi cố tìm ra những nguyên nhân. Bởi đôi khi sự
cá biệt đó lại do cha mẹ các em tạo nên, (cha mẹ không hoà thuận, chia tay,
cha mẹ không quan tâm, chỉ biết cung cấp tiền bạc cho con hàng tháng một
lần, vì bố mẹ chỉ mãi lo kiếm tiền làm ăn xa,...). Đó là kết quả của các vết

Trang 19


thương tâm lí và sự vô tình của người lớn chúng ta đã gieo vào suy nghĩ
lệch lạc dẫn đến các em mang theo nó đến trường, lớp.
Khi GVCN mời phụ huynh đến để thông báo về tình trạng học
sinh với mong muốn gia đình kết hợp cùng nhà trường để giáo dục HS cho
các em tốt hơn, có phụ huynh thì tiếp thu, có phụ huynh bực tức la rầy,
đánh con trước mặt giáo viên và đưa con về, điều đó cho thấy chính phụ
huynh đã bất lực với con mình. Vì thế chính các em là nạn nhân của cách
giáo dục gia đình.
Có những trường hợp các em bị sa ngã khi không cưỡng lại được
những ham muốn, cám dỗ của môi trường xã hội (mê chơi games, hát
karaoke, uống rượu, bia, hút thuốc,...).
Đôi khi các em có bạn khác giới nếu không được giáo dục đúng
thì cũng dễ sa đà để lại hậu quả không tốt.
Học sinh bỏ học, do em học kém, ham chơi cảm thấy chán, do
hoàn cảnh gia đình khó khăn. Mặc cảm với bạn bè.
3. Giải pháp:
Đối với học sinh chưa đạt yêu cầu, chưa ngoan tôi tìm hiểu
nguyên nhân, đặt ra câu hỏi cho mình. Vì sao học sinh lại hành động như
vậy? Gần gũi các em nhiều hơn. Phải biết lắng nghe, thấu hiểu điều các em
nói bằng trái tim của mình, phải biết dang rộng cánh tay ôm tất cả những
điều mà tôi không muốn vào lòng, rồi tìm cách tháo gỡ, gần gũi, thân thiện,

bao dung, vị tha với các em hơn.
Thuyết phục bằng lời nói rõ ràng, dứt khoát, có lý, bằng tình cảm
và nguyên tắc tác động lên nhận thức và tình cảm của học sinh như: giành
thời gian trò chuyện nói về học tập, về cuộc sống, nêu gương người tốt việc
tốt cụ thể trong nhà trường, bằng các câu chuyện giáo dục về đạo đức (với
bản thân tôi phải là tấm gương để các em noi theo như qui định về đồng
phục, lời nói phải đi đôi với việc làm và phải đối xử thật công bằng với mọi
học sinh), thậm chí tới tận nhà tìm hiểu nguyên nhân.

Trang 20


Đưa các em vào hoạt động tập thể trong và ngoài trường với
những nhiệm vụ cụ thể. Khuyến khích khen chê đúng mục đích, đúng việc,
đúng lúc, đúng chỗ, tế nhị và có hiệu quả.
Kiên trì quan tâm, tạo sự tin tưởng của học sinh, tạo niềm tin để
các em thoải mái, nói những tâm sự, trăn trở của mình cho GVCN biết, từ
đó tôi sẽ nhận định được vì sao em đó có những hành động như vậy, để có
biện pháp giáo dục hợp lý.
Mỗi học sinh đều có đặc điểm về tâm sinh lý, về mức độ nhận
thức, về vốn sống, cung cách cư xử với mọi người xung quanh. Vì thế khi
giáo dục những học sinh chưa chuẩn mực không nên quá máy móc, rập
khuôn một cách hình thức làm vậy sẽ không bền vững trong giáo dục đạo
đức và nhân cách của học sinh.
4. MỘT SỐ TRƯỜNG HỢP CỤ THỂ ĐÃ ÁP DỤNG CÁC
BIỆN PHÁP TRÊN
Trường hợp 1
Trong lớp tôi chủ nhiệm năm học 2014-2015 có một em học sinh
học rất kém, lại thường xuyên đi học muộn, trong giờ học lại thường ngủ
gật, không chú ý nghe giảng. Khi bạn đến gặp phụ huynh của em ấy, nhà ở

xã Krông Năng nhằm trao đổi về tình hình học tập của em và muốn phối
hợp với gia đình để giúp đỡ em học tốt, thì mẹ của em lại xin cho con thôi
học. Lý do là vì Cha đã bỏ đi theo người khác, em lại có năm em nhỏ, mẹ
em muốn xin cho em thôi học, ở nhà trông em để mẹ đi làm kiếm tiền nuôi
các con. Trước tình huống đó, tôi phải làm gì để giúp đỡ cho học sinh của
mình?
Giải pháp:
Tôi bàn bạc với lớp, trao đổi thêm với phụ huynh học sinh, động
viên gia đình tạo điều kiện cho em học tiếp. Phân tích lợi ích của việc đi
học và tác hại của việc bỏ học một cách tỉ mỉ để phụ huynh thấy rõ tác hại
của việc bỏ học. Phối hợp với hội phụ huynh của lớp, trường và địa

Trang 21


phương để giúp đỡ gia đình em vượt qua khó khăn. GVCN hứa là sẽ nhờ
sự giúp đỡ của các giáo viên bộ môn phụ đạo em này, nhờ học sinh của lớp
đến giúp gia đình của em này nhổ mỳ vì gia đình này đang trong giai đoạn
thu hoạch mỳ. Vậy là hôm sau, em đó đi học đúng giờ và học ngày càng có
tiến bộ. Tôi thường xuyên trao đổi, động viên em đó cố gắng vượt qua khó
khăn để học ra trường tìm công việc phụ giúp cho mẹ và các em.
Trường hợp 2
Trong lớp tôi chủ nhiệm năm học 2011-2012 có một em học sinh
nữ học khá nhưng có một thời gian lại thường xuyên nghỉ học không phép,
có tuần em nghỉ học không phép hai lần. Khi tôi đến nhà ở buôn Tối xã
Krông Năng gặp phụ huynh của em ấy, thực chất em ấy ở chung nhà Ông
bà Ngoại nhằm trao đổi về tình hình nghỉ học không phép của em để phối
hợp với gia đình tìm ra nguyên nhân cho em đi học tốt hơn. Lý do là vì bố,
mẹ em ly dị, thấy cha mẹ nó như vậy nên cháu buồn muốn nghỉ học. Ông
bà của cháu cũng có khuyên cháu đi học nhưng mà em vẫn nghỉ học. Trước

tình hình như vậy, tôi trao đồi với Ông (bà) của em như sau:
Giải pháp:
Trước hết, tôi dẫn học sinh người dân tộc thiểu số trong lớp theo
để làm nhiệm vụ phiên dịch viên vì Ông (Bà) không biết tiếng phổ thông,
tôi trao đổi thêm với Ông (Bà) của em học sinh đó, động viên gia đình tạo
điều kiện cho em học tiếp, chỉ ra hậu quả sau này nếu mình không có trình
độ, kiến thức, xã hội ngày càng phát triển, gia đình ông bà có đủ điều kiện
cho em đi học tiếp lên Đại học vẫn được. Khuyên ông bà cố gắng giúp em
cố gắng vượt qua nỗi buồn này. Giáo viên chủ nhiệm gặp riêng học sinh đó
để tìm hiểu thêm nguyên nhân, trao đổi một cách tế nhị với em về việc ly dị
của bố mẹ là do nhiều nguyên nhân, em còn nhỏ nên chưa hiểu, tuy bố mẹ
ly dị nhưng trong tâm của họ rất mong em vẫn đi học, khi nào em lớn lên
sẽ hiểu, sau đó động viên khích lệ em vượt qua nỗi buồn cố găng học tiếp,

Trang 22


quên đi, nghĩ tương lai sau này của mình tươi sáng hơn và nhìn gương cha
mẹ để có kinh nghiệm sống sau này.
Trường hợp 3
Trong lớp tôi chủ nhiệm đầu năm học 2013-2014 có một học sinh
học lực khá vì hoàn cảnh gia đình quá khó khăn, thuộc diện hộ nghèo, ở
buôn Thiêl xã IaRmok, phụ huynh đến trình bày với tôi xin cho con nghỉ
học. Vì gia đình quá khó khăn không có đủ tiền để tiếp tục cho con đi học
tiếp, nghe qua tôi rất buồn cho em đó và rất tiết nên tôi có cách giải quyết
như sau:
Giải pháp
Phản ánh với gia đình là học sinh đó có lực học khá, ham học,
động viên gia đình tìm mọi cách khắc phục để cho em đó di học tiếp,
GVCN chỉ ra nguyên nhân, hậu quả, và tương lai của em nó sau này cho

phụ huynh học sinh rõ, nhưng em đó thuộc diện hộ nghèo gia đình cứ an
tâm cho em tiếp tục đi học. Em đó là một học sinh khá trong lớp đang có
nhiều triển vọng, vì em còn chưa đến tuổi lao động nên rất thiệt thòi cho
em nếu em phải nghỉ học. Giáo viên chủ nhiệm cũng mong gia đình cho
biết những khó khăn cụ thể để giáo viên chủ nhiệm sẽ bàn bạc với tập thể
lớp, Hội phụ huynh học sinh, Hội khuyến học của địa phương, của Trường
có biện pháp giúp đỡ cụ thể. Kết quả em đó được nhà trường xét tặng học
bổng hai lần với số tiền là: 2.500.000đ do các nhà từ thiện tài trợ, HS của
lớp cũng thường xuyên đến giúp đỡ công việc nhà của em đó, với số tiền đó
và sự giúp đỡ của các bạn, em đó hứa với tôi sẽ cho cha mẹ một ít còn lại
chi vào học tập. Tôi cảm thấy rất vui.
V. Kết quả đạt được:
Sau nhiều năm làm công tác chủ nhiệm tôi áp dụng cách làm trên.
Từ năm học 2009 – 2010 đến hết học kì I năm 2014 – 2015, ở lớp tôi chủ
nhiệm đạt kết quả như sau:
Bảng so sánh kết quả duy trì sĩ số qua các năm như sau:

Trang 23


Tổng
Năm

TT

Đầu Năm

Cuối Năm

Lớp


số

SL
36
44
45
43

TL%
100
100
100
100

SL
36
44
42
42
44

TL%
100
100
93
97,6

46


100

(Tháng

95,6

1
2
3
4

2009-2010
2010-2011
2011-2012
2013-2014

11A3
12A2
10A5
12A1

HS
36
44
45
43

5

2014-2015


12A1

46

Ghi
chú

3/2015)

Bảng so sánh kết quả duy trì sĩ số qua các lớp trong năm 2015 như sau:
TT
1
2
3
4
5
6

Năm
2014-2015
2014-2015
2014-2015
2014-2015
2014-2015
2014-2015
Từ cách

Lớp


Tổng
số
HS
12A1 46
12A2 47
10A1 48
10A2 48
10A3 47
10A4 46
làm trên, tôi đã

Đầu năm

SL
46
47
48
48
47
46
đem

Cuối tháng 3 Ghi
năm 2015
chú
TL (%) SL
TL (%)
100
44
95,7

100
44
93,6
100
39
81,25
100
40
83,33
100
39
82,97
100
40
86,95
trình bày trong tổ, được các thành

viên trong tổ đánh giá việc công tác chủ nhiệm và nhận thấy việc duy trì sĩ
số của tôi có đạt đạt kết quả cao.
Nhìn lại kết quả trên, bản thân tôi rất vui vì mình đã thực hiện đạt
cam kết Duy trì sĩ số với Ban Giám Hiệu nhà trường và đã hoàn thành được
nhiệm vụ của một giáo viên chủ nhiệm.

C. PHẦN KẾT LUẬN
I. KẾT LUẬN:

Trang 24


Trong nhiều năm làm GVCN, tôi đã áp dụng các biện pháp trên

và đạt nhiều kết quả khả quan, hoàn thành nhiệm vụ duy trì sĩ số lớp được
giao.
Tuy nhiên, việc duy trì sĩ số lớp không phải là rập khuôn, GVCN
phải linh hoạt, luôn học hỏi kinh nghiệm của người khác để có nhiều biện
pháp hữu hiệu nhất.
II. BÀI HỌC KINH NGHIỆM:
Nhìn chung nội dung và phương pháp công tác giáo viên chủ
nhiệm nhằm duy trì sĩ số lớp là hết sức phong phú và phức tạp. Đòi hỏi
ngoài những phẩm chất và năng lực của giáo viên bình thường thì giáo viên
chủ nhiệm lớp còn phải có lòng nhiệt tình, yêu nghề, yêu trẻ sâu sắc, chấp
nhận gian khó và rèn luyện năng lực hoạt động xã hội, đoàn thể, chính trị,...
để làm tốt công tác chủ nhiệm của mình.
Trong công tác này giáo viên chủ nhiệm không nên nóng vội, áp
đặt, mà cần có lòng kiên nhẫn, có nghệ thuật giao tiếp với học sinh, luôn
đặt quyền lợi của học sinh lên trên hết, đối xử và xếp loại công bằng, công
khai, minh bạch, giành nhiều thời gian và tâm sức thì khi đó công tác chủ
nhiệm sẽ không còn khó khăn phức tạp mà sẽ là niềm vui cho mỗi giáo
viên khi đến trường.
Có được kết quả này là sự chỉ đạo của Ban giám hiệu kết hợp mối
quan tâm đồng lòng hiệp sức của GVCN, giáo viên bộ môn, Đoàn thể, và
cả sự nỗ lực phấn đấu tiến bộ của học sinh, sự quan tâm của cha mẹ học
sinh.
Tôi nghĩ rằng mình cần phải tu dưỡng, rèn luyện nhiều hơn nữa,
là tấm gương sáng, là chỗ dựa tinh thần để các em noi theo.
III. KIẾN NGHỊ:

Trang 25



×