Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

skkn phóng sự tôi kéo xe (tam lang) và việc làng (ngô tất tố) từ góc nhìn so sánh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191.85 KB, 26 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong tiến trình hiện đại hóa văn học dân tộc, văn học Việt
Nam giai đoạn 1932-1945 diễn ra với nhiều cuộc cách tân sâu sắc
trên các thể loại. Phóng sự là một thể loại trung gian giữa văn học
và báo chí, ra đời muộn nhưng phóng sự có một tốc độ phát triển
nhanh, đặc biệt có sự tác động mạnh mẽ đến cuộc sống của xã
hội. Phóng sự Việt Nam giai đoạn 1932-1945 là một hiện tượng
đáng được chú ý: trẻ, lạ, tốc độ phát triển vượt bậc, nhanh mạnh,
số lượng đồ sộ, chất lượng cao, nội dung phong phú. Chính giai
đoạn này đã đánh dấu bước ngoặt ra đời, phát triển và trưởng
thành của phóng sự Việt Nam, để lại những đỉnh cao cho văn đàn
và báo giới. Những tên tuổi nổi tiếng với những thiên phóng sự
để đời gây nhiều tiếng vang góp phần tạo nên diện mạo nền văn
học Việt Nam giai đoạn 1932-1945, có thể kể đến Tam Lang, Vũ
Trọng Phụng,Vũ Bằng, Trọng Lang, Ngô Tất Tố. Mặc dù được
xem là một hiện tượng nổi bật, có nhiều thành tựu nhưng thể loại
phóng sự vẫn chưa được nhìn nhận, đánh giá xứng tầm. Hầu hết
các bài nghiên cứu còn ở mức độ nhỏ, hoặc chỉ tập trung nghiên
cứu một tác gia, tác phẩm, thể loại, mảng đề tài… và vẫn chưa có
nhiều công trình tổng hợp, đánh giá nghiên cứu chuyên sâu.
Thực tế, ta thấy hiện nay có một số giáo trình nghiên cứu
phóng sự như: Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam 1930-1945
(Viện văn học ), Tổng tập văn học Việt Nam tập 29 (Phan Cự Đệ
chủ biên), giáo trình Lịch sử văn học Việt Nam 1930-1945 tập V,
phần một của Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Chương trình
Ngữ văn ở các bậc Cao đẳng và Đại học, đều được học, nghiên
cứu nhiều về các tác giả, tác phẩm thuộc thể loại phóng sự giai



2

đoạn 1932-1945. Không những thế, trong chương trình Trung học
phổ thông, thể loại này vẫn đang được triển khai giảng dạy trong
sách giáo khoa Ngữ văn 11, chương trình nâng cao với tác phẩm
Nghệ thuật băm thịt gà (Trích Việc làng) của Ngô Tất Tố.
Nghiên cứu phóng sự dưới góc nhìn so sánh, luận văn đi sâu
tìm hiểu, đánh giá đầy đủ hơn phong cách các cây bút phóng sự
cùng thời, góp phần khẳng định tầm vóc cũng như vai trò của nó
trong tiến trình hiện đại hóa văn học dân tộc.
Với những lí do đó, trên cơ sở tiếp thu những thành tựu của
các nhà nghiên cứu, luận văn tiến hành khảo sát so sánh một cách
có hệ thống đề tài: Phóng sự Tôi kéo xe (Tam Lang) và Việc
làng (Ngô Tất Tố) từ góc nhìn so sánh nhằm đối chiếu về nội
dung và nghệ thuật, thấy được những giá trị đặc sắc, những
phong cách sáng tạo của các tác giả, cung cấp cho người đọc cái
nhìn toàn diện trong việc đối chiếu hai phóng sự này.
2. Lịch sử vấn đề
Trong cuộc cách tân văn học Việt Nam đầu thể kỉ XX, cùng
với sự phát triển của thơ Mới và tiểu thuyết, thể loại phóng sự
cũng xuất hiện và đạt nhiều thành tựu nổi bật trong văn học giai
đoạn này. Phóng sự Tôi kéo xe (viết năm 1932 và xuất bản năm
1935, in tại Trung Bắc tân văn- Hà Nội) được xem là tác phẩm
phóng sự đầu tiên trong làng báo Việt Nam. Ngay từ khi mới ra
đời, “tác phẩm của ông đã làm cho độc giả Việt Nam phải chú ý
đến một cách đặc biệt”, tác phẩm được đón nhận nồng nhiệt. Từ
đó, thể loại phóng sự bước đầu được khởi sắc.
2.1. Những công trình, bài viết về phóng sự Việt Nam
2.1.1. Những công trình, bài viết về phóng sự Việt Nam trước

năm 1975


3

Tiếp theo Tôi kéo xe là sự xuất hiện của hàng loạt phóng sự
đặc sắc với những cây bút đình đám như Vũ Trọng Phụng: Cạm
bẫy người (1933), Kỹ nghệ lấy Tây (1934), Cơm thầy cơm cô
(1937), Một huyện ăn Tết (1938)…; Trọng Lang với phóng sự
Trong làng chạy (1935), Hà Nội lầm than (1937), Gà chọi (1935)
…; Ngô Tất Tố với phóng sự Tập án cái đình (1939), Việc làng
(1940); Nguyễn Tuân, Thạch Lam, Phi Vân, Hoàng Đạo…
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, phóng sự đã nhập cuộc
vào hiện thực chiến tranh cách mạng bằng hai phóng sự dài Cảnh
Dương chiến đấu và Thôn Lệ Sơn của Nguyễn Đình Lạp… Như
vậy, ngay sau khi ra đời, phóng sự Tam Lang, Trọng Lang, Vũ
Trọng Phụng, Ngô Tất Tố… được các nhà nghiên cứu chú ý.
Sớm nhất phải kể đến các công trình của Lê Tràng Kiều, Vũ
Ngọc Phan, Phạm Thế Ngũ, Thanh Lãng…
2.1.2. Những công trình, bài viết về phóng sự Việt Nam sau năm
1975
Việc nghiên cứu phóng sự thời kì 1932-1945 đã được các nhà
nghiên cứu, phê bình tập trung quan tâm. Cụ thể như các phóng
sự được tập hợp, biên soạn, tuyển chọn và xuất bản: Tổng tập
Văn học Việt Nam tập 29A, giáo trình Lịch sử văn học Việt Nam
1930-1945…Thể loại phóng sự đã được nhìn nhận, đánh giá
tương đối toàn diện. Sang đầu thế kỉ XXI, thể loại phóng sự thật
sự được nhiều nhà nghiên cứu, phê bình quan tâm với những
công trình nghiên cứu ở nhiều cấp độ, nhiều bình diện khác nhau.
2.2. Những công trình, bài viết về phóng sự Tôi kéo xe (Tam

Lang) và Việc làng (Ngô Tất Tố)
2.2.1. Những công trình, bài viết về phóng sự Tôi kéo xe (Tam
Lang)


4

Phóng sự Tôi kéo xe của Tam Lang ra đời đã làm cho độc giả
và giới nghiên cứu phê bình văn học phải chú ý một cách đặc
biệt. Đó là các công trình nghiên cứu của Hoài Thanh, Trương
Tửu, Thế Phong, Vũ Ngọc Phan và những bài viết có liên quan
của Hoàng Lan, Tam Ích, Phan Thục Uyên, Lê Thị Đức Hạnh…
Các tác giả đều ghi nhận, khẳng định Tam Lang là một ký giả kỳ
cựu, một chủ bút danh tiếng của nhiều nhật báo từ Bắc đến Nam,
người có nhiều công sức trong làng báo Việt Nam trên nhiều
phương diện.
2.2.2. Những công trình, bài viết về phóng sự Việc làng (Ngô Tất
Tố)
Năm 1940, phóng sự Việc làng được đăng trên Hà Nội tân
văn của Vũ Ngọc Phan và năm 1941 được in thành sách. Nghiên
cứu về phóng sự Việc làng có các công trình của Bùi Huy Phồn,
Nguyễn Đăng Mạnh, Phong Lê, Nguyễn Đức Đàn, Phan Cự Đệ…
Những năm gần đây, trong nhiều công trình nghiên cứu, tập hợp
giới thiệu và xuất bản về Ngô Tất Tố chiếm một số lượng lớn.
Có thể nói, từ những công trình nghiên cứu khoa học mang
tầm khái quát cho đến những bài viết về các tác giả, tác phẩm cụ
thể, tất cả đều nhằm mục đích đóng góp vào thành tựu của thể
loại văn phóng sự nói chung và đánh giá được giá trị của hai
phóng sự nói riêng.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu
- Nghiên cứu về đặc điểm nội dung của phóng sự Tôi kéo xe
(Tam Lang) và Việc làng (Ngô Tất Tố).
- Nghiên cứu về đặc điểm nghệ thuật của phóng sự Tôi kéo xe
(Tam Lang) và Việc làng (Ngô Tất Tố).


5

3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phóng sự Tôi kéo xe (Tam Lang) và Việc làng (Ngô Tất
Tố).
- Khảo sát về một số tác giả khác có liên quan đến việc đánh
giá, nhìn nhận hai tác phẩm phóng sự trên nói riêng và thể loại
phóng sự giai đoạn 1932-1945 nói chung.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để triển khai đề tài, luận văn sử dụng những phương pháp
nghiên cứu cơ bản sau:
- Phương pháp văn học sử nhằm khôi phục lại diện mạo và
tiến trình văn học giai đoạn 1930-1945.
- Phương pháp so sánh - tổng hợp để làm rõ nội dung và nghệ
thuật của hai phóng sự Tôi kéo xe (Tam Lang) và Việc làng (Ngô
Tất Tố).
- Phương pháp phân tích - tổng hợp và hệ thống nhằm mục
đích nêu bật những vấn đề đặc sắc của tác phẩm.
- Phương pháp liên môn văn học sử - báo chí nhằm phục vụ
cho việc sáng tỏ mối quan hệ giữa văn học và báo chí trong
phóng sự của hai cây bút trên nói riêng và phóng sự trong giai
đoạn 1932-1945 nói chung.
5. Đóng góp của luận văn

- Những vấn đề chung về phóng sự và phóng sự Việt Nam
giai đoạn 1932-1945.
- Trong cùng một giai đoạn 1932-1945, luận văn chỉ ra được
những đặc điểm về nội dung và nghệ thuật dưới góc nhìn so sánh
của tác giả phóng sự mang tính mở đầu - Tam Lang và một tác
giả phóng sự được xem là gạo cội Ngô Tất Tố. Từ đó, thấy được
nét nổi bật phong cách độc đáo của từng cây bút phóng sự.


6

- Đánh giá được vai trò, vị trí của hai tác phẩm phóng sự cũng
như hai cây bút phóng sự đối với văn học và xã hội.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo,
phụ lục, luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Thể loại phóng sự và phóng sự Tam Lang, Ngô
Tất Tố trong sự hình thành, phát triển của phóng sự Việt Nam
1932- 1945.
Chương 2: Phóng sự Tôi kéo xe (Tam Lang) và Việc làng
(Ngô Tất Tố) nhìn từ phương diện nội dung.
Chương 3: Phóng sự Tôi kéo xe (Tam Lang) và Việc làng
(Ngô Tất Tố) nhìn từ phương diện nghệ thuật.


7

Chương 1
THỂ LOẠI PHÓNG SỰ VÀ PHÓNG SỰ TAM LANG, NGÔ
TẤT TỐ TRONG SỰ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN CỦA

PHÓNG SỰ VIỆT NAM 1932 – 1945
1.1. Thể loại phóng sự và phóng sự Việt Nam 1932 – 1945
1.1.1. Giới thuyết thể loại phóng sự
1.1.1.1. Khái niệm phóng sự
Phóng sự (tiếng Pháp là reportage) bắt nguồn từ tiếng La tinh,
reportage có nghĩa là thông báo một tin mới, về chuyến đi, giành
được một cái gì đó. Phóng sự là một trong những thể loại báo chí.
Trong đời sống báo chí, văn học Việt Nam, phóng sự là thể
loại tân văn, là sản phẩm của công cuộc hiện đại hóa văn học, của
cả một quá trình giao lưu, ảnh hưởng, tiếp xúc với văn hóa, văn
học phương Tây (trực tiếp là văn hóa, văn học Pháp).
Trong cuốn Từ điển thuật ngữ Văn học, tái bản năm 2013, Lê
Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi khẳng định phóng sự là
“một thể thuộc loại hình kí. Phóng sự ghi chép kịp thời những vụ,
việc nhằm làm sáng tỏ trước công luận một sự kiện, một vấn đề
có liên quan đến hoạt động và số phận của một hoặc nhiều người
và có ý nghĩa thời sự đối với một địa phương hay toàn xã hội.
Mục đích của phóng sự là cung cấp cho công chúng những tri
thức phong phú, đầy đủ, chính xác, để họ có thể nhận thức, đánh
giá đúng người và việc mà họ đang quan tâm theo dõi” [18,
tr.257].
Từ những ý kiến của các nhà văn, nhà nghiên cứu trong và
ngoài nước, chúng ta có thể nhận định đặc trưng cơ bản của thể
phóng sự.
1.1.1.2. Đặc trưng thể phóng sự


8

Tính thông tin, thời sự , xác thực và tính vấn đề trong phóng

sự
Trong Từ điển tiếng Việt, Từ điển Văn học, Từ điển thuật ngữ
Văn học, Quá trình hiện đại hóa Văn học Việt Nam 1900 – 1945,
Năm bài giảng về thể loại, Các nhà văn nói về nhà văn… Các tác
giả đều thống nhất một trong những đặc trưng quan trọng nhất
của thể phóng sự là tính thông tin, thời sự, xác thực và tính vấn
đề. Chính đặc điểm trên làm cho phóng sự có vai trò, vị trí, tầm
quan trọng trong việc phản ánh xã hội.
Tính cụ thể và tính khái quát trong phóng sự
Trong cuốn Từ điển thuật ngữ Văn học, năm 2013, các nhà
nghiên cứu không những nhấn mạnh việc ghi chép, điều tra mà
còn khẳng định mục đích của phóng sự: “Phóng sự ghi chép kịp
thời những vụ, việc nhằm làm sáng tỏ trước công luận một sự
kiện, một vấn đề có liên quan đến hoạt động và số phận của một
hoặc nhiều người và có ý nghĩa thời sự đối với một địa phương
hay toàn xã hội” [18, tr.257]. Các tác giả Từ điển Văn học (2004)
cho rằng, “Từ những “vấn đề”, những sự kiện cụ thể, khái quát
được những vấn đề bản chất của đời sống xã hội và từ đó có được
những nhận xét và kết luận tiếp cận bản chất của hiện thực, có
khả năng làm chấn động dư luận xã hội, xoay chuyển cả nhận
thức, định kiến của đông đảo người đọc – người đọc của một
quốc gia, thậm chí người đọc của một phạm vi rất rộng của thế
giới” [21, tr.1422].
Cái tôi chủ thể - nhân chứng trong phóng sự
Như ta đã biết, hiện thực trong phóng sự là hiện thực khách
quan, nóng hổi, hiện thực “có vấn đề”. Do vậy, cái tôi nhân
chứng – người trần thuật tham dự vào câu chuyện, dẫn dắt bạn


9


đọc đi suốt thiên phóng sự, trực tiếp hội nhập vào thế giới nhân
vật tác phẩm…Vì vậy, cái tôi chủ thể - nhân chứng trong phóng
sự là một cái tôi – nhân chứng sắc sảo, nhanh nhạy, xông xáo…
Cái tôi chủ thể - nhân chứng tham gia trực tiếp vào các sự kiện
“mắt thấy tai nghe”, chứng kiến những sự thật, giúp cho việc
phản ánh hiện thực thêm chân thực, sinh động, hấp dẫn. Cái tôi
chủ thể - nhân chứng kết hợp với ngôn ngữ, giọng điệu, sự kiện…
mang đến cho phóng sự sức hấp dẫn, độc đáo riêng.
Phóng sự - cầu nối giữa văn học và báo chí
Trong mối quan hệ giữa ký văn học và ký báo chí, có ý kiến
cho rằng: “Phóng sự đóng vai trò như một “cái gạch nối”. Ngoài
những đặc trưng trên, chất văn học đậm đà là yếu tố không kém
phần quan trọng làm nên sức lôi cuốn của phóng sự. Do vậy, các
tác giả trong Nhà văn hiện đại, Từ điển thuật ngữ Văn học, Tổng
tập Văn học Việt Nam tập 29A đều khẳng định phóng sự là cầu
nối giữa văn học và báo chí. Đúng như Hà Minh Đức nhận xét:
“Tác phẩm ký văn học phải là nơi gặp gỡ của hai yếu tố cơ bản là
hiện thực đời sống và giá trị nghệ thuật”.
1.1.2. Những tiền đề về xã hội, văn hóa, văn học hình thành
phóng sự Việt Nam 1932 – 1945 và thành tựu phóng sự giai
đoạn này
Đến đầu thế kỷ XX, do ảnh hưởng của các trào lưu cách mạng
trên thế giới, ảnh hưởng của các cuộc khai thác thuộc địa, xã hội
Việt Nam có những biến động sâu sắc về các mặt chính trị, kinh
tế, văn hóa, văn học. Sự xâm lược của thực dân Pháp gây nên
nhiều biến động cho xã hội Việt Nam. Trên cái nền biển đổi sâu
rộng ấy, báo chí Việt Nam ra đời và có vị trí trong xã hội. Ra đời
muộn hơn so với các thể loại khác, phóng sự với đặc trưng riêng



10

là tính xác thực, thông tin, tính thời sự, tính xã hội – chính trị thể
hiện thái độ lựa chọn và lập trường của tác giả trước các vấn đề.
Có thể nói, mới xuất hiện trong vòng mười năm, phóng sự đã có
những thành tựu đáng kể, số lượng tác phẩm lớn, phong phú, đa
dạng về đề tài, đội ngũ viết phóng sự đông đảo đầy tài năng và có
tên tuổi trong làng văn, làng báo Việt Nam. Cùng với các thể loại
thơ, kịch, truyện ngắn, tiểu thuyết; phóng sự góp phần làm nên
thành tựu rực rỡ của văn học Việt Nam giai đoạn 1932 – 1945,
đặc biệt với dòng văn học hiện thực phê phán.
Nói đến phóng sự Việt Nam, không thể không nhắc đến tác
phẩm Tôi kéo xe (1932) của Tam Lang. Có thể coi phóng sự Tôi
kéo xe là sự khởi nguồn cho thể loại này ở Việt Nam. Tam Lang
với Tôi kéo xe (1932), Đêm sông Hương (1938), Lọng cụt cán
(1939), Người…ngợm (1940)…. Trọng Lang với Trong làng
chạy (1935), Hà Nội lầm than (1937), Làm dân (1938),… Vũ
Trọng Phụng với Cạm bẫy người (1933), Kỹ nghệ lấy Tây (1934),
, Cơm thầy cơm cô (1937), Một huyện ăn tết (1939)… Vũ Bằng
với Cai (1940). Ngô Tất Tố với Dao cầu thuyền tán (1935), Tập
án cái đình (1939), Việc làng (1940). Nguyễn Đình Lạp với
Thanh niên trụy lạc (1937 – 1938), Chợ phiên đi tới đâu (1937),
Ngõ hẻm (1942)... Thạch Lam với Hà Nội băm sáu phố phường,
Hà Nội ban đêm (1933),. Lê Văn Hiến với Ngục Kon Tum (1938)
… Nguyễn Tuân với Một chuyến đi, Tàn đèn dầu lạc. Phi Vân
với Đồng quê, Dưới đồng sâu…
Các tác giả phóng sự đã dựng nên một bức tranh xã hội sống
động đầy sức tố cáo. Nó không chỉ cảnh tỉnh xã hội mà còn cảnh
tỉnh lương tri của con người, đánh thức những thiên lương đang

bị hủy hoại, những nhân cách đang bị xã hội vùi dập, những


11

phẩm chất còn sót lại ở những con người được xem là “cặn bã”
của xã hội.
1.2. Phóng sự Tam Lang và Ngô Tất Tố trong sự hình thành,
phát triển của phóng sự Việt Nam 1932 – 1945
1.2.1. Phóng sự Tam Lang
Trong gần mười năm (1932 – 1940), Tam Lang vừa viết báo,
vừa viết văn, từng là chủ nhiệm, chủ bút, thư kí tòa soạn, biên
tập, phóng viên…cho nhiều tờ báo với sự đầu tư công sức lớn và
đã có nhiều đóng góp với các thể loại: tiểu thuyết, truyện ngắn,
phóng sự, văn châm biếm. Trong đó đóng góp cơ bản nhất của
Tam Lang, phải kể tới thể loại phóng sự.
Tập phóng sự Tôi kéo xe ra đời có tiếng vang đáng kể, gây
chấn động trong làng văn, làng báo. Đúng như Vũ Ngọc Phan
đánh giá: “Tôi kéo xe là một quyển phóng sự có giá trị, nó lại là
một quyển phóng sự trước nhất ở nước ta; người ta có thể coi nó
là một quyển mở đầu cho lối văn phóng sự trong văn chương Việt
Nam” [56, tr.90].
Tiếp tục đi sâu vào tầng lớp người đau khổ, dưới đáy xã hội,
cũng năm 1932, Tam Lang viết phóng sự Đêm sông Hương, Một
đêm trước, Lọng cụt cán, Người…Ngợm. Tóm lại, tác phẩm nào
của Tam Lang, “người ta cũng thấy cây bút của ông là cây bút tả
chân và châm biếm; ông nhạo đời để răn đời, chứ không bao giờ
có giọng độc ác…” [53, tr.505]. Với giọng văn dí dỏm, sắc sảo
kết hợp cùng lối nói mỉa mai, châm biếm, nói thẳng, trào lộng;
Tam Lang mang đến tiếng cười răn người, răn đời, góp phần làm

trong sạch xã hội đầy nhiễu nhương bấy giờ. Vì vậy, Trương Tửu
từng nhận xét: “ông chỉ là một người yêu sự thực, thích tả sự thực
để đem nghệ thuật phụng sự nhân sinh” [19]. Tôi kéo xe, cùng


12

một số phóng sự khác của ông đánh dấu một thành tựu nghệ thuật
có giá trị hiện thực cao. Và ông xứng đáng là một trong số hiếm
hoi những con người tài năng, có cống hiến đặc sắc, độc đáo
trong văn chương Việt Nam những năm ba mươi của thế kỷ XX.
1.2.2. Phóng sự Ngô Tất Tố
Là một người làm báo, Ngô Tất Tố cũng viết phóng sự, nhưng
ít và muộn hơn nhiều so với Tam Lang, Vũ Trọng Phụng… Ông
chỉ có Dao cầu thuyến tán (1936), Việc làng (1940), Làm no hay
cái ăn trong những ngày nước ngập (1938), Tập án cái đình
(1939).
Trong số những cây bút phóng sự về nông thôn Việt Nam,
Ngô Tất Tố nổi lên như một tác gia tiêu biểu nhất. Trình làng với
hai tập phóng sự Việc làng, Tập án cái đình, từ đây, Ngô Tất Tố
trở thành hiện tượng “nhà văn của hạng dân quê nghèo và dốt”
(Vũ Ngọc Phan). Nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan nhận xét:
“Phóng sự Ngô Tất Tố làm cho người ta thấy những cảnh khổ
não, nhọc nhằn, những tai nạn khủng khiếp, những việc thương
tâm gây nên bởi miếng ăn được phơi bày ra trước mắt. Đọc Việc
làng, người ta có cái cảm tưởng rõ rệt là dân quê nước ta là một
dân lúc nào cũng đói, lúc nào cũng thèm ăn, thèm uống”
[53,tr.550]. Việc làng chính là quyển nói về “lệ làng” của dân
Việt Nam xứ Bắc. So với Việc làng, Tập án cái đình, Làm no hay
cái ăn trong những ngày nước ngập nghiêng về miêu tả những

phong tục, nói đúng hơn là những hủ tục kỳ quái chế độ thực dân
phong kiến duy trì ở nông thôn.
Tóm lại, phóng sự của Ngô Tất Tố hầu hết tập trung tố cáo
những hủ tục đồi bại, tố cáo gay gắt bọn cường hào lý dịch, lên


13

án phê phán chế độ thực dân nửa phong kiến, mà con người khốn
khổ là nạn nhân của chế độ xã hội ngột ngạt này.
1.2.3. Phóng sự Tam Lang và Ngô Tất Tố trên nền phóng sự
Việt Nam 1932 - 1945
Các cây bút xuất sắc Vũ Trọng Phụng, Tam Lang, Trọng
Lang, Vũ Bằng…dựng nên một bức tranh đời sống đô thị hết sức
đa dạng, phức tạp và sinh động với đủ các thành phần người,
ngành nghề, tệ nạn…. Trong đó, Tam Lang là người mở đầu và
đóng góp cho nền phóng sự Việt Nam với đề tài khai thác đời
sống thành thị, kiếp “người ngựa”, bọn nhà giàu thống trị và quá
trình tha hóa của con người trong xã hội. Hòa trong hiện thực đó,
hàng loạt phóng sự Cạm bẫy người, Kỹ nghệ lấy Tây, Cơm thầy
cơm cô, Lục xì làm nên tên tuổi vang dội của “ông vua phóng sự
đất Bắc” – Vũ Trọng Phụng; Trọng Lang với Hà Nội lầm than,
Trong làng chạy, Làm dân, Vợ lẽ nàng hầu…; Nguyễn Đình Lạp
với Thanh niên trụy lạc, Chợ phiên đi tới đâu… Phóng sự Ngô
Tất Tố, Nguyễn Đình Lạp, Trọng Lang…hiện lên những người
con dân quê nghèo bị hủ tục, lệ làng nhấn chìm cuộc đời họ đến
cùng cực tăm tối. Sau cây bút gạo cội viết về đề tài nông thôn, sự
tiếp nối xuất hiện nhiều cây bút tên tuổi: Trọng Lang, Nguyễn
Đổng Chi, Phi Vân… Nhìn tổng thể, đội ngũ các cây bút phóng
sự tiếp nối, phát triển trên hai đề tài: thành thị và nông thôn ngày

càng phong phú, đa dạng góp phần làm nên nét đặc sắc rất riêng
của hai mảng đề tài này. Và cũng có thể xem những tác phẩm
phóng sự của hai cây bút tiêu biểu này đã đánh dấu những khởi
sắc nhất định trong quá trình hình thành và phát triển của phóng
sự Việt Nam 1932 – 1945 nói riêng và của nền văn học Việt Nam
1932 – 1945 nói chung.


14

Chương 2
PHÓNG SỰ TÔI KÉO XE VÀ VIỆC LÀNG
NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG
2.1. Phóng sự Tôi kéo xe – Bản cáo trạng về hiện thực đời
sống thành thị
2.1.1. Phản ánh tình trạng phân chia giai cấp trong xã hội
đương thời
2.1.1.1. Lên án bọn nhà giàu Cai xe, chủ xe
Sự phân hóa giai cấp, những bất công trong xã hội được thể
hiện qua hàng loạt các sự kiện, chi tiết, chân thực và sống động.
Tiêu biểu với Tôi kéo xe, Tam Lang phản ánh đời sống cơ cực,
nhọc nhằn của những người phu xe, những con “ngựa người”,
bán công sức với đồng tiền vô cùng rẻ mạt. Song song kiếp sống
bần cùng, đó là những con người phi nhân tính nổi bật lên như
bọn chủ xe, Cai xe độc ác, cậy vào sức mạnh đồng tiền mà đánh
đập dã man đối với kiếp người phu xe.
2.1.1.2. Cuộc sống khốn khổ của người phu xe
Phóng sự Tam Lang thể hiện sâu đậm, tận cùng hiện thực của
xã hội về hạng người dưới đáy, tiêu biểu là kiếp người phu xe.
Qua việc miêu tả, quan sát sắc sảo đến từng chi tiết, tác giả làm

hiện lên điều kiện sinh hoạt ăn uống của họ vô cùng thiếu thốn.
Cái nghèo đeo bám những số phận hẩm hiu, bạc bẽo khốn cùng.
Núp dưới mọi hình thức, ta đâu chỉ thấy bọn thống trị cường hào
mới biến chất về nhân tính, kể cả lớp người dưới đáy xã hội cũng
tha hóa, nguyên nhân là xã hội vì đồng tiền. Họ trở thành những
con “cáo già” đội lốt phu xe, là mối hiểm họa đang rình rập xã
hội. Tác giả phơi bày bộ mặt xã hội đương thời: mọi thứ chuẩn
mực của đời sống đều bị tha hóa, lệch lạc.


15

2.1.2. Phơi bày tệ nghiện hút trong xã hội
Trong các vấn nạn xã hội làm băng hoại đời sống con người,
có lẽ nạn nghiện hút là mối đe dọa, hiểm nguy nhất gây nên hệ
lụy cho xã hội. Đó là thứ độc dược giết chết dần mòn con người.
Do vậy, tác giả lên án, phê phán trực tiếp những kẻ nghiện ngập,
biến chất, tha hóa, là gánh nặng cho gia đình, xã hội và đất nước.
Đây cũng chính là giá trị hiện thực sâu sắc của tác phẩm.
2.1.3. Hướng đến cải cách nghề kéo xe – tiếng nói nhân đạo
của nhà văn
Kiếp người – ngựa! Trong xã hội bất công, họ bị đối xử
không đáng một kiếp người. Chính xã hội thực dân phong kiến
đẩy họ vào con đường cùng tội lỗi, đen tối, lưu manh, biến chất,
tha hóa. Với lòng thành của một con người muốn cải tạo, thay đổi
xã hội, mong muốn xây dựng một xã hội văn minh và công bằng,
Tam Lang đề xuất phương án thay thế xe kéo người thành thứ xe
đạp người. Đó cũng chính là sự mong muốn cải thiện đời sống
khốn khổ của người phu xe, giải phóng kiếp ngựa người. Với tinh
thần, trách nhiệm của một nhà văn chân chính, tác giả lên tiếng

báo động, cảnh tỉnh xã hội đang trên con đường tha hóa về mọi
mặt.
2.2. Phóng sự Việc làng – Bản cáo trạng về hiện thực đời sống
nông thôn
2.2.1. Tình trạng phân chia giai cấp trong xã hội nông thôn
đương thời
Trong số những cây bút phóng sự về nông thôn Việt Nam như
Trọng Lang, Hoàng Đạo, Nguyễn Đổng Chi…Ngô Tất Tố nổi lên


16

như một tác gia gạo cội tiêu biểu nhất, trình làng với hai tập
phóng sự Việc làng và Tập án cái đình.
Có thể nói, sau lũy tre xanh là một thế giới riêng biệt, trong đó
người nông dân còng lưng chịu đựng mọi sự áp bức, bóc lột nặng
nề của bọn địa chủ, cường hào. Do vậy, mới có câu châm ngôn
“Phép vua thua lệ làng”, nó khẳng định cho cái quyền tác phúc
tác họa của bọn cường hào, địa chủ. Đồng thời, chúng lợi dụng
ngu muội của nông dân mà làm tiền và chè chén. Bên ngoài là
vậy, nhưng bên trong cũng vì miếng ăn, vì tranh giành quyền lợi
bọn chúng ngấm ngầm mâu thuẫn, xâu xé nhau gay gắt.
2.2.2. Phơi bày những tệ nạn xã hội và hủ tục lạc hậu ở nông
thôn
2.2.2.1. Những tệ nạn xã hội
Trước hết là Nạn sưu cao thuế nặng: “Cái giống nợ lãi - lãi
mẹ đẻ lãi con”, đó là đặc trưng nổi bật của chiêu bài bọn cho vay
nặng lãi. Món nợ truyền kiếp, nợ từ đời này sang đời khác, nợ
không bao giờ trả hết được.
Người dân đói, khổ không chỉ bởi cảnh sưu cao thuế nặng, mà

Nạn cường hào tham nhũng cũng đẩy cuộc sống của người dân
quê càng lún sâu vào bước đường cùng. Miêu tả Nạn mê tín dị
đoan ở chốn thôn quê. Nơi đây, bọn thực dân phong kiến thực
hiện chính sách ngu dân, bóc lột dân chúng bằng cách lợi dụng
lòng mê tín của người dân.
Nhưng có lẽ ấn tượng sâu nhất trong lòng người đọc về thôn
quê là Nạn xôi thịt. Nó gay gắt, khốc liệt không kém phần nhức
nhối. Miếng ăn như trùm lên ám khí của cái làng nhỏ bé này.
2.2.2.2. Những hủ tục lạc hậu


17

Trong Việc làng, Ngô Tất Tố phản ánh rất nhiều hủ tục lạc
hậu ở nông thôn. Trước hết là tục vào ngôi. Tục vào ngôi chỉ là
một lệ làng phải có của nông thôn Bắc Bộ Việt Nam. Với tâm lý
người dân khát khao muốn có cái danh cái phận, cái sĩ diện, nên
làng mới sinh sôi nảy nở thêm ra cái tục mua danh bán tước, còn
gọi là tục mua chức. Chốn thôn quê, thường có những lễ thờ,
cúng bái. Vì vậy, làng xuất hiện tục nuôi gà thờ. Thối nát, đê tiện
đến tận cùng! Người dân thê thảm hơn với cái tục lệ vô nhân đạo:
tục ăn vạ. Từ xưa đến nay, họ đã ăn vạ người nào, người ấy phải
bán nghiệp mà trả. Một tục lệ khác Tục ma chay, cúng tế không
kém phần nhiễu sự tốn kém cho những cuộc chè chén của bọn
chúng. Ngoài những hủ tục quái gở, bọn cường hào còn sáng tạo
thêm những “lệ làng” quái dị như lễ xôi mới, xâu lòng thờ, chiếc
lăm lợn…để tiện bề ức hiếp, bóc lột nông dân.
2.2.3. Hướng đến cải cách đời sống nông thôn – tiếng nói nhân
đạo của nhà văn
Ngô Tất Tố tỏ ra hiểu biết sâu sắc về con người và cuộc sống

ở nông thôn. Ngòi bút hiện thực của ông toát lên một tinh thần
nhân đạo cao quý. Viết Việc làng, Ngô Tất Tố dám nhìn thẳng
vào hiện thực phê phán, lên án, tố cáo âm mưu của bọn thống trị,
phơi trần cuộc sống đen tối của quần chúng. Như vậy, tác phẩm
đã có một ý nghĩa tiến bộ. Nhưng với hạn chế giai cấp, ông cho
rằng người nông dân không thoát khỏi cuộc sống tối tăm, không
xóa bỏ được những hủ tục là do tầng lớp trí thức không quan
tâm…
2.3. Phóng sự Tôi kéo xe và Việc làng – Sự bổ sung hoàn thiện
bức tranh đời sống xã hội Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX.


18

Mỗi cây bút khám phá, khai thác hai mảng đề tài thành thị và
nông thôn riêng biệt, nhưng trong cùng một hoàn cảnh xã hội,
một giai đoạn (1932 – 1945), sự đan xen đó bổ sung hoàn thiện
bức tranh xã hội đương thời đa sắc. Đó là bức tranh toàn cảnh về
đề tài cuộc sống xã hội trên hai phương diện: thành thị, nông thôn
Việt Nam buổi giao thời vô cùng phức tạp, phong phú và sinh
động. Ở đấy hiện lên một xã hội bất công, phân chia giàu nghèo,
các tệ nạn xã hội, lối sống…tất cả đang trên con đường “Âu hóa”
mà suy đồi, xuống cấp trầm trọng, đáng báo động. Có thể nói,
dưới ngòi bút sắc nhọn của các nhà phóng sự, từng mảng đời
sống xã hội cứ hiện dần lên trên từng trang viết hợp thành một
bức tranh rộng lớn, phong phú và đậm nét của xã hội Việt Nam
nửa đầu thế kỷ XX.


19


Chương 3
PHÓNG SỰ TÔI KÉO XE VÀ VIỆC LÀNG
NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT
3.1. Nghệ thuật trần thuật trong phóng sự Tôi kéo xe và Việc
làng
3.1.1. Điểm nhìn trần thuật
Phóng sự Tam Lang và Ngô Tất Tố lôi cuốn người đọc không
chỉ bởi nghệ thuật kể chuyện mà còn hấp dẫn nhờ cách tổ chức
các điểm nhìn nghệ thuật.
Với Tôi kéo xe, tác giả trực tiếp kể lại chuyện “tôi” – chính
bản thân nhà văn trong quá trình dấn thân, nếm trải “kiếp ngựa
người”. Ông hòa nhập, hóa thân với thân phận người phu xe
“mượn bộ quần áo nâu của một bạn áo ngắn khoác vào mình rồi
mạnh bạo đi làm xe”. Nhân vật “tôi” quan sát và chứng kiến
những cảnh khốn cùng của người phu xe, những cảnh đời nhọc
nhằn, bất công… Dưới cái nhìn chân thực sâu sắc về nông thôn,
Ngô Tất Tố qua nhân vật “tôi” – đóng vai trò điều tra, ghi chép
hiện thực u ám. Ở đây, nhân vật “tôi” nghe người khác kể câu
chuyện sau đó thuật lại cho bạn đọc. Ông nhập vai vào người
khách, người quen, ở trọ…của làng để nghe họ kể lại biết bao câu
chuyện đắng cay với hủ tục, lệ làng.
Sự đan xen giữa các ngôi kể, sự liên kết các điểm nhìn làm
cho nhà văn tỉnh táo nhìn thẳng vào sự thật trần trụi, tàn nhẫn
nhất của hiện thực. Có thể nói, “cái tôi trần thuật” – điểm nhìn
trần thuật được các nhà văn sử dụng một cách linh hoạt và uyển
chuyển, có lúc là chính tác giả, có khi lại là nhân chứng dẫn dắt
câu chuyện khiến độc giả luôn cảm thấy mình đang tham gia trực
tiếp vấn đề.



20

3.1.2. Trần thuật bằng lời kể kết hợp miêu tả
Kể chuyện có nhiều cách. Tác giả để cho nhân vật của mình
tự kể. Tam Lang trong Tôi kéo xe để cho nhân vật anh Tư – nhân
vật chính tự kể về đời mình. Ngô Tất Tố cũng để cho nhân vật tự
kể về cuộc đời mình đầy thương xót. Hoặc người kể chuyện
chính là tác giả, tác giả trong vai nhân vật “Tôi”. Như vậy, ta thấy
trần thuật là biện pháp không chỉ nhằm kể, thuật, cung cấp thông
tin về sự kiện, nhân vật…mà yếu tố miêu tả cũng có ý nghĩa trần
thuật. Nói cách khác, nghệ thuật trần thuật trong tác phẩm phóng
sự đậm chất tả. Đặc biệt Tam Lang, Ngô Tất Tố đều dùng lối đặc
tả phác thảo chân dung của nhân vật.
Với phương thức kể chuyện kết hợp với miêu tả, nghệ thuật
trần thuật của phóng sự trở nên hấp dẫn, đa dạng và phong phú.
Không chỉ vậy, cái Tôi tác giả - nhân vật trần thuật, dẫn dắt sắp
xếp các chi tiết, các sự việc, sự kiện, các nhân vật theo vấn đề cụ
thể. Các sự kiện, chi tiết nhỏ hình thành khái quát vấn đề lớn.
Cách kể chuyện không chỉ là dẫn dắt câu chuyện bằng kết cấu,
phóng sự còn hấp dẫn ở cách mở đầu, đặt tiêu đề rất tự nhiên, gây
ấn tượng, gợi sự tò mò ở người đọc. Với cách kể chuyện, dẫn dắt
khéo léo, mỗi câu chuyện trong phóng sự đi từ bất ngờ này đến
bất ngờ khác. Như vậy, lối kể chuyện không làm cho người đọc
nhàm chán mà như cuốn hút vào từng câu chuyện để phát hiện,
tìm tòi… Cách kể chuyện và dẫn dắt như vậy làm cho hiện thực
cuộc sống hiện lên rất tự nhiên, sôi động. Hơn nữa, nó làm cho
các tác phẩm phóng sự luôn mới mẻ và giàu sức cuốn hút.
3.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật
3.2.1. Phác họa thế giới nhân vật nghèo khổ, tận cùng của xã

hội


21

Dưới ngòi bút sắc sảo, nhà nho Ngô Tất Tố dựng nên chân
dung người nông dân nhẫn nhục, chịu đựng vì “lệ làng”. Họ hiện
lên thật thà, chất phác đúng nghĩa vì “lệ làng”. Dựng nên thế giới
nhân vật thôn quê, tác giả còn khắc họa đậm nét chân dung bọn lý
hào tham lam, lợi dụng tâm lý người dân ham danh vọng hão
huyền, mê tín…bọn chúng bằng mọi cách đục khoét nhân dân,
mưu lợi cá nhân.
Bổ sung làm phong phú thêm thế giới nhân vật, Tam Lang
dựng lên những thân phận lao động nghèo túng quẫn, là quân “tứ
chiếng” khắp nơi đổ về, sống bằng đủ loại nghề ở chốn thành thị:
người phu xe, cai xe, chủ xe, bọn du côn, bọn trùm giang hồ, bọn
trộm cắp, nghiện hút… Tam Lang mô tả tài tình những chân dung
của xã hội đương thời cả về ngoại hình và tính cách.
Thế giới nhân vật trong phóng sự Tôi kéo xe và Việc làng đều
có quan hệ mật thiết với nhân vật Tôi. Nhân vật Tôi, là sự phân
thân của tác giả - người dẫn dắt câu chuyện, kể chuyện, quan sát,
bàn luận…là người trực tiếp chứng kiến và ghi chép lại toàn bộ
sự việc, sự kiện đang diễn ra trước mắt. Chính điều này, khiến
độc giả thấy được tính thời sự, nóng hổi, tính vấn đề của xã hội
đang được mọi người quan tâm. Ở đấy, các tác giả phác họa biết
bao hình tượng con người từ thành thị đến nông thôn, từ giàu
sang quyền thế đến nghèo hèn…với đầy đủ mọi thành phần. Mỗi
nhân vật đều có những nét riêng về số phận, hoàn cảnh, sức hấp
dẫn… nhưng tất cả đều lột tả hết bản chất những tầng lớp người
của xã hội thực dân phong kiến đang trong quá trình tha hóa. Hơn

hết, ta thấy các tác giả xây dựng nhân vật đầy bi kịch, không có
lối thoát, không cải thiện cuộc đời.


22

3.2.2. Tiếp cận hiện thực, nhập thân vào những người nghèo
khổ
Tam Lang lựa chọn con người, sự kiện nơi thị thành đô hội,
ông nhập vai, hóa thân vào đủ hạng người, kiếp người, chui rúc
vào các ngóc ngách, xó xỉnh nhớp nhúa của đô thị - thế giới của
những hạng người dưới đáy của xã hội: những tay đàn anh đàn
chị, ma cô, cờ bạc, hút xách… Khác với Tam Lang, Ngô Tất Tố
sở trường về nông thôn, nhưng ông không đề cập đến nông thôn
trên diện rộng mà đi vào những tình huống cụ thể, lớp người cùng
đinh, sự kiện lối sống ở làng quê của những “việc làng” với
những hủ tục lạc hậu, những nhiễu nhương, hạch sách của bọn
hào lý địa phương, những khiếp nhược bần cùng của người nông
dân thấp cổ bé họng vì sưu thuế, lao dịch, lệ làng…
Nhìn chung, Tam Lang hay Ngô Tất Tố trong khi viết về cái
xấu, cái ác, cái đen tối của xã hội đều đứng trên lập trường phê
phán và viết với thái độ phê phán. Việc tiếp cận hiện thực có thể
từ nhiều góc độ, nhiều con đường khác nhau như lựa chọn sự
kiện, chi tiết, tình huống…nhằm phơi bày bản chất bên trong, cốt
lõi của sự việc và bộc lộ bộ mặt thật của xã hội với bản chất vốn
có của nó.
3.3. Ngôn ngữ và giọng điệu
3.3.1. Ngôn ngữ đời thường, sự kết hợp giữa ngôn ngữ báo chí
với ngôn ngữ văn học
3.3.1.1. Ngôn ngữ đời thường, thông tục đậm chất khẩu ngữ

Ngôn ngữ đời thường: Với sự vận dụng sáng tạo, linh hoạt,
khéo léo của thành ngữ, tục ngữ làm cho câu văn vừa sinh động,
vừa có giá trị biểu cảm, vừa có sức gợi vừa khái quát được vấn
đề. Việc sử dụng khẩu ngữ hết sức tự nhiên phù hợp với từng loại


23

nhân vật, phù hợp với nghề nghiệp, mang hơi thở sự sống. Bên
cạnh ngôn ngữ đời thường đậm chất khẩu ngữ, các tác giả phóng
sự còn sử dụng tiếng lóng, lớp từ vựng mới mẻ, xuất hiện trong
xã hội Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX. Tác giả thường sử
dụng nhiều thán từ, hư từ, nhiều câu, từ có tính cảm thán cao. Câu
văn phóng sự ngắn gọn, nhịp nhanh, chứa đựng nhiều thông tin.
3.3.1.2. Sự kết hợp giữa ngôn ngữ báo chí với ngôn ngữ văn học
Sự kết hợp nhuần nhị giữa ngôn ngữ báo chí ngắn gọn, giàu
thông tin với ngôn ngữ văn học giàu hình ảnh, đậm sắc thái trữ
tình làm nên sức hấp dẫn mới lạ trong tác phẩm phóng sự. Bên
cạnh những thông tin mang tính thời sự, nóng hổi là những câu
văn đoạn văn đậm chất văn, ngôn ngữ giàu hình ảnh, giàu cảm
xúc đã góp phần tạo nên phong cách “tả chân” của tác giả và giúp
người đọc cảm nhận sự mới lạ, hấp dẫn hơn qua tác phẩm.
3.3.2. Giọng điệu phê phán, lên án xã hội và cảm thông với
người cùng khổ
Giọng điệu đóng vai trò quan trọng tạo nên giá trị tác phẩm và
phong cách nhà văn. Ta có thể cảm nhận được những giọng điệu
chủ yếu trong phóng sự của Tam Lang và Ngô Tất Tố: giọng tố
cáo, phê phán, giọng mỉa mai, châm biếm, giọng khách quan,
lạnh lùng mà đầy cảm thông, chua xót. Trong hệ thống giọng điệu
đó, giọng tố cáo, cảm thông là giọng điệu chủ đạo. Giọng chủ âm

tố cáo đã lên án chế độ xã hội cũ tăm tối chôn vùi cuộc sống
người dân không lối thoát và thông cảm, xót thương đối với
những kiếp người thấp cổ bé họng trong xã hội bấy giờ. Giọng
điệu chủ đạo này thường kết hợp với những giọng điệu khác để
tạo nên tính chất đa giọng điệu mang hiệu quả biểu đạt cao.


24


25

KẾT LUẬN
Đánh giá nền văn học nửa đầu thế kỷ XX, các nhà nghiên cứu
đều thống nhất: Đây là giai đoạn văn học phát triển rực rỡ nhất
với nhiều thành tựu nổi bật. Điều đó thể hiện qua sự phát triển về
số lượng tác giả và tác phẩm, sự hình thành và đổi mới các thể
loại văn học. Cùng với thơ, truyện ngắn và tiểu thuyết, phóng sự
1932 – 1945 tuy ra đời muộn hơn so với các thể loại khác nhưng
phóng sự đã có những đóng góp không nhỏ vào bức tranh chung
của đời sống văn học giai đoạn 1932 – 1945, được xem là một
thành tựu nổi bật của văn học Việt Nam thế kỷ XX tham gia tích
cực vào quá trình hiện đại hóa của văn học. Với một đội ngũ nhà
văn viết phóng sự đầy tài năng và có tên tuổi trong làng báo, làng
văn, hầu hết các tác giả phóng sự đồng thời là những nhà văn nổi
tiếng thuộc trào lưu hiện thực phê phán như Vũ Trọng Phụng,
Tam Lang, Ngô Tất Tố, Trọng Lang, Vũ Bằng, Nguyễn Đình
Lạp, Nguyễn Tuân…với nhiều tác phẩm có giá trị.
Viết Tôi kéo xe, Tam Lang dựng lên một bản cáo trạng về
hiện thực đời sống thành thị. Ở đó, tác giả phản ánh tình trạng

phân chia giai cấp gay gắt, sự phân hóa giàu nghèo là một tồn tại
nhức nhối trong xã hội đương thời. Tác giả tập trung phơi bày tệ
nghiện hút, sự sa đọa trong lối sống hư hỏng, trụy lạc. Với cái
tâm chân thành của một người muốn thay đổi xã hội, làm cho xã
hội văn minh và công bằng hơn, tác giả hướng đến cải cách nghề
kéo xe. Với Việc làng, Ngô Tất Tố dựng lên một bản cáo trạng về
hiện thực đời sống nông thôn. Họ hiện lên với những thân phận,
cảnh đời thê lương bên cạnh sự trơ tráo đến bẩn thỉu, bỉ ổi của
những kẻ cường quyền chốn làng quê. Tác giả chỉ ra được
nguyên nhân ngột ngạt của thôn quê và có hướng cải cách nông


×