LỜI CẢM ƠN
Báo cáo thực tập tốt nghiệp “Di chúc hợp pháp – quy định của pháp luật
dân sự và thự tiễn thi hành tại địa phương” đã được hoàn thành thể hiện kết
quả tổng hợp, cô đọng của hai năm học tại trường Trung cấp Luật Thái Nguyên
và thời gian thực tập tại UBND xã Yên Sơn huyện Hữu Lũng tỉnh Lạng Sơn.
Tôi xin được trân trọng bày tỏ lòng biết ơn các thầy, cô đã nhiệt tình trong
khoa Pháp luật trường trung cấp Luật Thái Nguyên đã tận tình, nghiêm túc, trực
tiếp hướng dẫn, chỉ đạo tôi hoàn thành khóa học và hoàn thiện báo cáo này đặc
biệt là cô Trần Thị Hà giáo viên hướng dẫn cho tôi.
Cảm ơn các cán bộ, công chức trong UBND xã Yên Sơn, đã tiếp nhận yêu
cầu thực tập và nhiệt tình giúp đỡ, hướng dẫn, cung cấp các thông tin về hoạt
động và tổ chức của UBND xã Yên Sơn, thông tin về vấn đề di chúc hợp pháp
của địa phươngvà giúp tôi hoàn thành báo cáo này./.
NGƯỜI THỰC HIỆN
Hoàng Thị Mai Loan
1
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về di chúc
và di chúc hợp pháp
1.1 Một số vấn đề lý luận chung về di chúc
Trang
1
2
4
7
7
1.1.1 Khái niệm di chúc
7
1.1.2 Các hình thức di chúc
7
1.2 Một số vấn đề lý luận về di chúc hợp pháp
8
1.2.1 Khái niệm di chúc hợp pháp
8
1.2.2 Ý nghĩa của pháp luật về quy định di chúc hợp pháp
Chương 2: Quy định pháp luật về di chúc hợp pháp
9
11
và hình thức di chúc hợp pháp
2.1 Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di
11
chúc không bị lừa dối đe dọa hoặc cưỡng ép
2.2 Nội dung di chúc không trái pháp luật, đạo đức xã hội,
12
hình thức của di chúc không trái quy định của pháp luật.
2.3 Di chúc của người từ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi
13
2.4 Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc người không
13
biết chữ
2.5 Di chúc bằng văn bản không công chứng, chứng thực
14
2.6 Di chúc miệng
15
Chương 3: Thực tiễn tại địa phương và phương hướng hoàn thiện
18
3.1 Giới thiệu khái quát về xã Yên Sơn huyện Hữu Lũng tỉnh
18
Lạng Sơn
3.2 Thực tiễn thực hiện tại địa phương các quy định của pháp
19
luật về di chúc hợp pháp
3.3 Một số kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật dân sự
25
hiện hành về di chúc hợp pháp
KẾT LUẬN
28
2
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
29
PHỤ LỤC
30
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
35
3
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Pháp luật dân sự là một công cụ pháp lý của Nhà nước và công dân, góp
phần thúc đẩy giao lưu dân sự, tạo điều kiện thuận lợi cho các quan hệ dân sự
phát triển trong nền kinh tế - xã hội. Trong đó thì thừa kế là một quan hệ pháp
luật dân sự, các chủ thể tham gia bao gồm người người để lại di sản và người
thừa kế. Người để lại thừa kế chỉ có thể là một cá nhân, không thể là pháp nhân
hay một cơ quan Nhà nước nào khác, nhưng người nhận thừa kế có thể là cá
nhân, hoặc bất kì một pháp nhân nào khác.
Người để lại di sản thừa kế để lại di chúc, di chúc có thể là di chúc bằng
văn bản hay bằng lời nói. Điều 649 Bộ luật dân sự 2005 đã quy định rất rõ ràng
về di chúc. Di chúc là sự bày tỏ, thể hiện ý chí, nguyện vọng của một con người
cụ thể sẽ định đoạt tài sản của mình ra làm sao. Sự bày tỏ này có thể được thể
hiện dưới các hình thức bằng chúc thư hoặc là những lời dặn dò, những lời trăng
trối lúc hấp hối. Hình thức của di chúc là sự thể hiện ý chí của người lập di chúc
ra bên ngoài cho người khác biết, để sau này đó sẽ là những căn cứ pháp lý mà
thực hiên ý chí của người đã chết. Tóm lại di chúc phải được lập theo quy định
của pháp luật nghĩa là di chúc phải hợp pháp.
Di chúc hợp pháp trước hết phải đảm bảo yêu cầu theo quy định về nội
dung, hình thức và các quy định khác, di chúc có thể được lập thành văn bản hoặc
là di chúc miệng. Khoản 3 Điều 5 Hiến pháp 2013 đã có quy định: " Các dân tộc
có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục,
tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình". Tuy nhiên di chúc có thể
được viết bằng tiếng dân tộc mình hoặc bất kì dân tộc nào khác. Di chúc miệng
chỉ được lập ra khi người để lại thừa kế không có điều kiện để lập di chúc bằng
văn bản.
Tuy nhiên, hiện nay việc thực hiện và làm theo di chúc của người quá cố
đã nảy sinh nhiều vấn đề. Di chúc để lại không hợp pháp, di chúc đó được lập lúc
4
khi không còn minh mẫn, bị đe dọa về tinh thần…. và nhiều vấn đề khác nên việc
hiệu quả của việc lập di chúc đôi khi chưa cao.
Nhận thức được vấn đề đó, trong quá trình thực tập của mình tại xã Yên
Sơn huyện Hữu Lũng tỉnh Lạng Sơn tôi đã chọn đề tài “Di chúc hợp pháp – quy
định của pháp luật dân sự và thực tiễn thi hành tại địa phương” làm đề tài thực
tập của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Di chúc hợp pháp là một vấn đề khá phức tạp, nó có lịch sử hình thành và
phát triển khá phong phú. Pháp luật quy định về di chúc hợp pháp trong Bộ Luật
dân sự năm 2005 đã được hoàn thiện hơn. Tuy nhiên, các nghiên cứu khoa học về
vấn đề này vẫn chưa nhiều, chủ yếu là nghiên cứu một cách khái quát về quy định
của pháp luật về di chúc hợp pháp, hình thức, điều kiện của di chúc hợp pháp.
Chính vì thế tôi đã chọn đề tài “Di chúc hợp pháp – quy định của pháp luật
dân sự và thực tiễn thi hành tại địa phương” để tìm hiểu rõ hơn về di chúc hợp
pháp trong thời gian thực tập của mình.
3. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu về đề tài này, tôi sử dụng nhiều phương pháp khác nhau. Chủ
yếu nhất vẫn là dựa trên phương pháp nghiên cứu chủ nghĩa duy vật biện chứng
của C.Mác-Lênin; nhìn nhận vấn đề trong mối quan hệ tổng thể, giữa cái chung
và cái riêng của từng vấn đề, có logic, có qua có lại giữa các vấn đề; và tất cả đều
hướng tới trọng tâm chính của đề tài là những giá trị pháp lý di chúc hợp pháp.
Ngoài ra, tôi còn sử dụng các phương pháp như so sánh, phân tích, chứng
minh để làm sáng tỏ, từng vấn đề cụ thể giữa các quy định cũ và mới, giữa những
quy định chung và riêng nhằm đưa ra nhận xét, quan điểm của cá nhân để làm nổi
bật lên vấn đề cần nghiên cứu.
5
4. Kết cấu của đề tài
Báo cáo thực tập tốt nghiệp “Di chúc hợp pháp – quy định của pháp luật
dân sự và thực tiễn thi hành tại địa phương” có kết cấu gồm ba phần như sau:
Phần mở đầu, phần nội dung và phần kết luận. Phần nội dung gồm có ba phần
- Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về di chúc và di chúc hợp pháp
- Chương 2: Quy định pháp luật về di chúc hợp pháp và hình thức di chúc
hợp pháp theo BLDS năm 2005
- Chương 3: Thực tiễn địa phương áp dụng và phương hướng hoàn thiện
6
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ DI CHÚC
VÀ DI CHÚC HỢP PHÁP
1.1 Một số vấn đề lý luận chung về di chúc
1.1.1 Khái niệm di chúc
Di chúc là một thuật ngữ được đề cập và sử dụng nhiều trong đời sống.
Thuật ngữ này từ xưa đến nay thường được thường được nhân dân ta hiểu một
cách đơn giản, truyền thống “Di chúc là sự dặn lại của một người trước lúc chết
những việc người sau cần làm và nên làm”. Tuy nhiên, bản di chúc này lại không
có hiệu lực gì đối với việc phân chia di sản thừa kế vì di chúc đó không thể hiện
được ý chí của người chết trong việc trong việc dịch chuyển di sản, không có nội
dung định đoạt tài sản. Do đó, dù ngừơi chết có để lại di chúc thì cũng không có
căn cứ để chia theo di chúc mà vẫn phải chia di sản theo pháp luật.
Xuất phát từ thực tế trên pháp luật nước ta qua nhiều thời kì với nhiều văn
bản pháp lí đã ngày càng thực hiện và chuẩn hóa những thuật ngữ di chúc trong
luật. Điều 646 BLDS quy định: “ Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm
chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết”.
Như vậy, di chúc là ý chí cuối cùng và sự định đoạt về tài sản của một
người sau khi chết. Hình thức của di chúc có thể là di chúc bằng văn bản hoặc di
chúc miệng. Người lập di chức phải là người thành niên, những người chưa thành
niên đủ 15 tuổi nhưng chưa đủ 18 tuổi cũng được lập di chúc nếu được cha mẹ
hoặc người giám hộ đồng ý.
1.1.2 Các hình thức di chúc
Hình thức của di chúc là sự thể hiện ý chí của người để lại di sản ra bên
ngoài cho người khác biết, để sau này có căn cứ vào đó mà thực hiện ý chí của
người để lại di sản sau khi người đó chết. Vì vậy trước hết di chúc phải được lập
thành văn bản. Di chúc bằng văn bản được chia ra làm nhiều loại:
- Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng.
7
- Di chúc bằng văn bản có người làm chứng.
- Di chúc bằng văn bản có chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường,
thị trấn.
- Di chúc bằng văn bản có chứng thực.
Mỗi loại di chúc khi được lập ra đều có giá trị pháp lý như nhau , đều phải
tuân thủ các quy định chặt chẽ của pháp luật. Tuy nhiên, khi lập di chúc bằng văn
bản người lập di chúc cần lưu ý là phải ghi rõ ngày, tháng, năm lập di chúc. Vì
pháp luật có quy định rằng người lập di chúc có quyền sửa đổi, bổ sung hoặc thay
thế. Do đó, di chúc được lập sau sẽ có giá trị pháp lý hủy bỏ di chúc đã lập trước
đó.
Trong một số trường hợp nhất định như ốm đau, bệnh tật hiểm nghèo, tình
thế cấp thiêt ảnh hưởng đến tính mạng thì người để lại di sản có quyền lập di
chúc bằng miệng, và giá trị pháp lý của di chúc miệng tương đương với di chúc
bằng văn bản.
Điểm b, khoản 1, Điều 652, BLDS 2005 quy định: “Hình thức di chúc
không trái quy định của pháp luật”. Nếu pháp luật quy định về hình thức của di
chúc phải được thể hiện dưới những hình thức nhất định hoặc phải thoả mãn
những điều kiện cụ thể thì người lập di chúc phải thỏa mãn những điều kiện, hình
thức đó, nếu không, di chúc sẽ vô hiệu. Theo quy định tại Điều 649, BLDS 2005
thì: “Di chúc phải được lập thành văn bản; nếu không thể lập được lập di chúc
bằng văn bản thì có thể di chúc miệng. Người thuộc dân tộc thiểu số có quyền lập
di chúc bằng chữ viết hoặc tiếng nói của dân tộc mình”.
1.2 Một số vấn đề lý luận về di chúc hợp pháp
1.2.1 Khái niệm di chúc hợp pháp
Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân, nhằm chuyển nhượng tài sản của
mình cho người khác sau khi chết. Những quy định về di chúc như hình thức của
di chúc, nội dung của di chúc hay di chúc hợp pháp được quy định tại Chương
XXIII Bộ luật Dân sự 2005.
8
Theo điều 652 Bộ luật dân sự 2005 thì di chúc được coi là hợp pháp khi
đáp ứng đủ các điều kiện sau:
- Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị
lừa dối, đe doạ hoặc cưỡng ép;
- Nội dung di chúc không trái pháp luật, đạo đức xã hội; hình thức di chúc
không trái quy định của pháp luật.
Đối với di chúc của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi
phải được lập thành văn bản và phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý.
Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ
phải được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng
thực.
Di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng thực chỉ được coi là
hợp pháp, nếu có đủ các điều kiện được quy định tại khoản 1 Điều này.
Di chúc miệng được coi là hợp pháp, nếu người di chúc miệng thể hiện ý
chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau đó
những người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn
năm ngày, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc
phải được công chứng hoặc chứng thực.
Từ những vấn đề trên, có thể đưa ra khái niệm di chúc hợp pháp như sau:
“Di chúc hợp pháp là di chúc được lập lúc cá nhân còn minh mẫn, không bị lừa
dối, đe dọa và không trái với pháp luật, đạo đức xã hội thể hiện ý chí của một cá
nhân trước khi chết. Di chúc hợp pháp có thể được lập bằng văn bản hoặc là di
chúc miệng. Nếu di chúc của người đủ từ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi thì phải có sự
đồng ý của cha mẹ hoặc người giám hộ”.
1.2.2 Ý nghĩa của pháp luật về quy định di chúc hợp pháp
9
Quan hệ thừa kế là một loại quan hệ pháp luật có nội dung kinh tế, xã hội
sâu sắc, tồn tại và phát triển song hành cùng với sự phát triển của loài người. Di
chúc là hình thức để cá nhân tuyên bố ý định của mình sau khi chết thì di sản sẽ
được giải quyết như thế nào thông qua hai hình thức di chúc bằng văn bản và di
chúc miệng. Dù bằng hình thức nào thì di chúc đó cũng phải hợp pháp, phải tuân
thủ các quy định của pháp luật.
Việc đưa ra các quy định của pháp luật về di chúc và di chúc hợp pháp đã
góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiến hành các thủ tục khi muốn
lập di chúc. Việc hướng dẫn cụ thể sẽ giảm thiểu được tình trạng di chúc được
lập nhưng không có hiệu lục pháp lý.
Quy định về di chúc hợp pháp cũng giúp cho các cơ quan chức năng nắm
rõ hơn về trình tự, thủ tục, điều kiện từ đó sẽ phổ biến tới người dân, hướng dẫn
thực hiện và giải quyết các vấn đề phát sinh của di chúc cụ thể và có hiện quả.
10
CHƯƠNG 2
QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ DI CHÚC HỢP PHÁP, HÌNH THỨC DI
CHÚC THEO QUY ĐỊNH BLDS 2005
2.1 Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc không
bị lừa dối đe dọa hoặc cưỡng ép
Theo quy định tại khoản 1 điều 652 Bộ Luật dân sự năm 2005: Người lập
di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ hoặc
cưỡng ép.
Người để lại di sản lập di chúc phải ở trong tình trạng minh mẫn, sáng
suốt. Lập di chúc là hành vi của chủ sở hữu (chủ sử dụng tài sản) định đoạt tài
sản của mình nên họ phải nhận thức được hành vi đó khi thực hiện quyền định
đoạt tài sản. Đây là điều kiện tiên quyết, có ý nghĩa rất quan trọng trong việc
đánh giá giá trị pháp lý của di chúc, đảm bảo tính chính xác theo ý chí của chủ
thể - người lập di chúc trong việc định đoạt tài sản của mình.
Việc lập di chúc là phải hoàn toàn tự nguyện trên tinh thần không bị ép
buộc, nếu di chúc lập khi bị ép buộc tức là di chúc đó không hợp pháp và không
có hiệu lực pháp lý. Người để lại di chúc phải hoàn toàn tự nguyện, không bị chi
phối về mặt tinh thần , tâm lý hoặc thể chất, không bị ép buộc phải lập di chúc
theo ý chí của người khác. Đây là điều kiện rất quan trọng vì di chúc là sự thể
hiện ý chí của người lập di chúc nên không thể ép buộc một ai đó lại lập di chúc
khác tría với ý muốn của họ được.
Một trường hợp cụ thể như ông M, ông có hai người con một trai, một gái.
Trước khi mất ông lập di chúc để lại toàn bộ tài sản cho người con trai của ông
mà không để lại cho người con gái. Ông có nói chuyện này với mọi người trong
gia đình. Khi người con gái biết được đã đến gặp ông M và nói với ông rằng con
nào cũng là con, ông thiên vị để lại hết tài sản cho con trai, cô con gái khóc lóc
cầm dao và dọa rằng nếu ông không viết lại di chúc cô ta sẽ tự tử ngay trước mặt
ông. Sợ cô con gái làm liều, ông M đành viết lại di chúc trước mặt các con, thay
11
đổi nội dung di chúc rằng: Toàn bộ tài sản ông để lại được chia làm ba phần, hai
phần cho người con trai và một phần cho người con gái.
Như trường hợp trên, ông M phải viết lại di chúc vì sự đe dọa của chính
người con gái của ông. Chiểu theo quy định của pháp luật, di chúc ông viết lại
sau này không có giá trị vì khi lập di chúc lại ông ở trong tình thế bị đe dọa,
cưỡng ép.
2.2 Nội dung di chúc không trái pháp luật, đạo đức xã hội, hình thức
của di chúc không trái quy định của pháp luật.
Cũng theo quy định tại khoản 1 điều 652 của Bộ Luật dân sự năm 2005:
Nội dung di chúc không trái pháp luật, đạo đức xã hội; hình thức di chúc không
trái quy định của pháp luật.
Nội dung của di chúc không trái với pháp luật, không đúng với lợi ích của
xã hội. Vì đây sẽ là điều kiện để bảo đảm lợi ích của nhà nước cũng như toà xã
hội. Người để lại di chúc không được định đoạt tài sản không thuộc sở hữu của
mình, nội dung của di chúc không thể ép buộc người thừa kế đi ngược lại lợi ích
cuả nhà nước, xã hội và không được trái pháp luật.
Ví dụ: Một người đàn ông 72 tuổi có 03 người con trong đó có 02 người
con trai, 01 người con gái. Năm ông 30 tuổi ông có góp vốn làm ăn với một
người bạn. Nhưng vì không biết cách sử dụng số vốn đầu tư nên cả hai người thất
bại trong làm ăn. Người bạn của ông ra làm riêng và thành lập được một công ty.
Vì nghĩ bạn lừa mình lấy hết số vốn làm của riêng (Vì sau khi bị thua lỗ người
bạn kia vay mượn tiền để xây dựng lại, ông nghĩ là số vốn đó là của mình do bạn
lừa mà có chứ không phải vay ai) nên trước khi mất để lại di chúc như sau: Nếu
trong ba người con của ông ai khiến cho công ty của bạn ông bị phá sản thì người
đó được hưởng toàn bộ tài sản ông để lại.
Như vậy, di chúc ông để lại là hoàn toàn trái pháp luật. Vì theo như quy
định, di chúc hợp pháp là không trái với pháp luật, trái với đạo đức. Thế nhưng,
di chúc ông để lại đã làm trái với quy định của pháp luật, nếu các con ông làm
12
theo như di chúc thì đã phạm tội, hơn nữa những gì ông nói cũng trái với đạo
đức. Vậy, bản di chúc đó không hợp pháp.
2.3 Di chúc của người từ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi
Điều 652, khoản 2 Bộ Luật dân sự quy định: Di chúc của người từ đủ
mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải được lập thành văn bản và phải
được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý
Người tuy chưa đủ 18 tuổi nhưng đã đủ 15 tuổi cũng có thể được lập di
chúc với điều kiện phải có sự đồng ý của cha mẹ hoặc người giám hộ vào việc lập
di chúc. Đây là quy định phù hợp, đúng tinh thần như Bộ luật lao động về độ tuổi
tối thiểu có thể tham gia lao động là 15 tuổi trở lên.
Người từ đủ 15 tuổi trở lên có thể có tài sản riêng, bởi vậy họ có quyền lập
di chúc để định đoạt tài sản của mình. Tuy nhiên, vì người 15 tuổi trở lên và chưa
đủ 18 tuổi là người chưa thành niên, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho
người chưa thành niên, pháp luật quy định việc lập di chúc phải được sự đồng ý
của cha mẹ hoặc người giám hộ về việc lập di chúc
Cụ thể, trường hợp của bạn Nguyễn Văn D trú tại phường Tân Thạnh
thành phố Hồ Chí Minh, 16 tuổi. Bạn D được bố mẹ cho ra ở riêng để tạo tính tự
lập. Bạn được bố mẹ mua cho 01 căn hộ diện tích 45m 2 và 01 xe mô tô thể thao.
Bạn D muốn lập di chúc về số tài sản của mình đang sở hữu và được bố mẹ đồng
ý. Như vậy, trường hợp của bạn D muốn lập di chúc là hoàn toàn hợp pháp.
2.4 Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc người không biết
chữ
Khoản 3, điều 652 bộ Luật dân sự quy định: Di chúc của người bị hạn chế
về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành
văn bản và có công chứng hoặc chứng thực.
Người bị hạn chế về thể chất hoặc người không biết chữ nhưng đã thành
niên cũng có quyền lập di chúc, Tuy nhiên, việc lập di chúc của đối tượng này
13
phải được người làm chứng lập thành văn bản và có chứng nhận của cơ quan
công chứng hoặc chứng thực của Uỷ ban xã, phường, thị trấn.
Ví dụ: Bà Dương Thị Bé thường trú tại xã Yên Sơn muốn lập di chúc. Tuy
nhiên, bà Bé không biết chữ, vì thế bà đã nhờ con dâu của bà là chị Hà Kim Oanh
lập di chúc cho bà. Sau khi viết di chúc theo nội dung mà bà Bé yêu cầu, chị
Oanh đã đọc lại bản di chúc, sau khi nghe lại bản di chúc do con dâu viết lại bà
Bé đã điểm chỉ vào di chúc. Để di chúc có tính hiệu lực, chị Oanh đã đưa bà Bé
lên UBND xã Yên Sơn chứng thực về nội dung văn bản.
2.5 Di chúc bằng văn bản không công chứng, chứng thực
Theo khoản 5 điều 652 Bộ Luật dân sự 2005 thì Di chúc bằng văn bản
không có công chứng, chứng thực chỉ được coi là hợp pháp, nếu có đủ các điều
kiện được quy định tại khoản 1 Điều này.
Pháp luật dân sự Việt Nam đã dự liệu các trường hợp người lập di chúc
không thể đến các cơ quan công chứng hoặc UBND để chứng thực, chứng nhận
di chúc, thì nhứng người có thẩm quyền chứng nhận theo quy định tại Điều 660
của Bộ luật dân sự 2005 như sau;
Di chúc của quân nhân tại ngũ có xác nhận của thủ trưởng đơn vị cấp đại
đội trở lên, nếu như trong tình huống người quân nhân này không có điều kiện để
thực hiện việc chứng nhận, chứng thực di chúc của mình theo các quy định của
pháp luật.
Di chúc của người đang trên tàu biển, máy bay có xác nhận của người chỉ
huy phương tiện đó. Đây là trường hợp dự liệu bất khả kháng của nhà làm luật
khi có các trường hợp mà người lập di chúc không thể đến các cơ quan nhà nước
để công chứng hoặc chứng thực bản di chúc đó.
Di chúc của người đang điều trị tại bệnh viện, cơ sở chữa bệnh, điều dưỡng
cần phải có xác nhận của người phụ trách nơi đó. Trong trường hợp này cũng
vậy, ở đây người để lại di chúc không thể hoặc không có điều kiện để có .
Di chúc của người đang làm công việc nghiên cứu, khảo sát, thăm dò, ở
14
các vùng rừng núi, hải đảo thì phải có xác nhận của người phụ trách đơn vị đó.
Di chúc của người Việt Nam đang ở nước ngoài (Người có quốc tịch Việt
Nam và không cư trú ở trong nước), thì phải có xác nhận của cơ quan lãnh sự
hoặc đai điện ngoại giao của Việt Nam ở nước đó.
Di chúc của người đang bị tạm giam, đang chấp hành các hình phạt tù,
người đang chấp hành các biện pháp xử lý hành chính tại các cơ sở giáo dục, cơ
sở chữa bệnh thì phải có xác nhận của người phụ trách cơ sở đó.
Như vậy pháp luật dân sự Việt Nam đã dự liệu các trường hợp người để lại
di sản không có điều kiện để công chứng, chứng thực di chúc, điều này thể hiện
một sự tiến bộ lớn của chế định thừa kế của luật dân sự Việt Nam, đây cũng là tất
yếu khách quan, nhu cầu bức thiết vì không phải lúc nào người để lại di sản cũng
có đầy đủ các vì nhiều lí do và hoàn cảnh khác nhau nữa.
Chẳng hạn như trường hợp của anh Lò Văn Sông 59 tuổi phạm tôi buôn
bán, tàng trữ chất ma túy và bị kết án 20 năm tù giam. Anh có ba người con trai
nhưng con trai cả của anh đã bị nghiện ma túy. Trong quá trình thụ án sợ có
trường hợp bất khả kháng, anh Sông đã viết di chúc nội dung di chúc như sau:
Toàn bộ tài sản mang tên anh và vợ của anh gồm: 6.000 m 2 trồng keo, 02 xưởng
gỗ và 01 căn nhà 4 tầng do vợ chồng anh chị làm ăn chân chính mà xây dựng
được sẽ để lại cho hai người con trai thứ hai và người con trai út của anh. Nếu
trường hợp người con trai cả của anh có thể cai nghiện được và làm ăn đàng
hoàng thì số tài sản đó được chia đều làm ba phần cho ba người con trai.
Sau khi lập di chúc, anh Sông đã đến xin xác nhận của trưởng trại giam.
Như vậy theo quy định, di chúc của anh Sông là di chúc hợp pháp.
2.6 Di chúc miệng
Di chúc miệng là sự thể hiện ý chí của người để lại di sản, thông qua lời
nói và được những người làm chứng ghi lại bằng văn bản. Tuy nhiên không phải
bất cứ cá nhân nào cũng có thể được lập di chúc miệng.
Bộ luật dân sự 2005 đã có quy định rất rõ rang về việc lập di chúc miệng
15
tại Điều 651 như sau:
“1. Trong trường hợp tính mạng một người bị cái chết đe dọa do bệnh tật
hoặc các nguyên nhân khác mà không thể lập di chúc bằng văn bản thì có thể lập
di chúc miệng.
2. Sau ba tháng, kể từ thời điểm di chúc miệng mà người lập di chúc còn
sống, minh mẫn, sang suốt thì di chúc miệng mặc nhiên bị hủy bỏ.”
Từ các căn cứ trên, có thể đưa ra một số nhận xét như sau:
Thứ nhất, chỉ có thể lập di chúc miệng nếu cá nhân đang bị đe dọa về tính
mạng bởi bệnh tật hoặc nguyên nhân khác mà không thể lập di chúc bằng văn bản
được. Đây là trường hợp cá nhân đang ở trong tình trạng như liệt tay, nằm bất
động do tai nạn hoặc bệnh tật khác.., mà không thể lập di chúc bằng văn bản.
Cũng cần lưu ý ở đây, một người không biết chữ ở trong tình trạng bình thường
về sức khỏe cũng không được lập di chúc miệng. Đối với những người bị hạn chế
về thể chất (khiếm thính hoặc khiếm thị) mà không thuộc đối tượng mà đang bị
đe dọa về tính mạng, sức khỏe thì cũng không được lập di chúc miệng. Tuy nhiên
trường hợp này người lập di chúc miệng vẫn cần người làm chứng lập ra thành
văn bản và có công chứng, chứng thực. Mặc dù pháp luật dân sự đã có quy định
như vậy, nhưng đối vơi người không biết chữ và người có nhược điểm về thể chất
khi lập di chúc thì về bản chất cũng giống như di chúc miệng, tuy vậy di chúc lập
trong trường hợ nay khong bị giới hạn về thời gian như tại khoản 2 Điều 651 Bộ
luật này.
Thứ hai, việc lập di chúc miệng phải có ít nhất hai người làm chứng, và
nhứng người làm chứng không thuộc các trường hợ được quy định tại Điều 654,
Bộ luật dân sự 2995.
Thứ ba, sau khi làm chứng cho việc lập di chúc miệng, những người làm
chứng phải cùng nhau chép lại nội dung của di chúc và cùng ký tên hoặc điểm
chỉ.
Thứ tư, trong thời hạn năm ngày (Khoản 5, Điều 652, Bộ luật dân sự 2005)
16
kể từ ngày người lập di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng trước người làm
chứng thì di chúc phải được công chứng hoặc chứng thực. Đây cũng là một điểm
mới hơn của Bộ luật dân sự 2005 so với Bộ luật dan sự 1995.
Thứ năm, theo quy định sau ba tháng kể từ ngày lập di chúc miệng nếu
người lập di chúc miệng còn sống, minh mẫn, sang suốt. thì di chúc miệng này
Một trường hợp cụ thể là ông Nông Văn Yêu trú tại thôn Hạ xã Yên Sơn,
tháng 9 năm 2014 ông Yêu đột ngột bị tai biến và qua đời. trước khi qua đời vì
không thể tự viết được di chúc, ông Sơn đã dặn dò con cháu bằng lời, trong đó
có việc phân chia tài sản của ông và việc chăm lo thờ cúng của dòng họ (Vì ông
Yêu là trưởng tộc), trong đó có yêu cầu con trai cả của ông là anh Nông Văn
Quyết được thừa hưởng toàn bộ tài sản của ông để lại và có nghĩa vụ chăm sóc
mẹ già, chăm lo việc thờ cúng của dòng họ.
Khi ông Yêu dặn dò con cháu thì có 05 người hàng xóm có mặt đó làm
chứng. Sau khi ông Yêu qua đời, cả năm người hàng xóm có mặt lúc đó viết lại
di chúc của ông Yêu, cùng nhau ký tên và lên xin chứng thực của UBND xã Yên
Sơn. Như vậy, theo quy định, di chúc của ông Yêu là di chúc miệng và là di chúc
hợp pháp.
17
CHƯƠNG 3
THỰC TIỄN ĐỊA PHƯƠNG ÁP DỤNG
VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN
3.1 Giới thiệu khái quát về xã Yên Sơn huyện Hữu Lũng tỉnh Lạng
Sơn
Xã YÊN SƠN HUYỆN HỮU LŨNG TỈNH LẠNG SƠN
- Diện tích 49,47km2
- Dân số 2147 người (1999)
- Mật độ 43ng/km2
- Phía bắc Xã VẠN LINH
- Phía nam XÃ YÊN VƯỢNG
- Phía đông XÃ CAI KINH
- Phía tây GIÁP XÃ YÊN THỊNH
a. Địa hình
Xã YÊN SƠN thuộc vùng núi thấp của tỉnh Lạng Sơn, địa hình được phân
chia rõ giữa vùng núi đá vôi ở phía Tây Bắc và vùng núi đất ở phía Đông Nam.
Phần lớn diện tích ở vùng núi đá vôi có độ cao 450 - 500m và ở vùng núi đất có
độ cao trên dưới 100 m so với mặt nước biển. Nhìn chung, địa hình phức tạp, bị
chia cắt bởi các dãy núi đá vôi và các dãy núi đất.
Địa hình núi đá chiếm trên 25% tổng diện tích tự nhiên. Xen kẽ giữa vùng
núi đá là những thung lũng nhỏ địa hình tương đối bằng phẳng, là vùng đất sản
xuất nông nghiệp của cư dân. Xen kẽ các vùng núi đất là các dải đất ruộng bậc
thang phân bố theo các triền núi, triền sông, khe suối trong vùng, là vùng đất sản
xuất nông nghiệp được tạo lập từ nhiều đời nay cung cấp lương thực cho cư dân
sinh sống trong vùng.
b. Khí hậu, thủy văn
18
Xã YÊN SƠN chịu sự ảnh hưởng của khí hậu vùng núi phía Bắc, khô lạnh
và ít mưa về mùa Đông, nóng ẩm, mưa nhiều về mùa hè. Nhiệt độ không khí
trung bình hàng năm là 22,70C. Tháng 7 có nhiệt độ không khí trung bình cao
nhất là 28,50C. Tháng 01 có nhiệt độ không khí trung bình thấp nhất là 2,50 C.
Lượng mưa trung bình năm là 1.488,2mm với 135 ngày mưa trong năm và
phân bố từ 13 - 17 ngày/tháng, tăng dần từ tháng 5 đến tháng 8. Mùa mưa kéo dài
từ tháng 4 đến tháng 10 và chiếm trên 90% lượng mưa cả năm. Mùa khô kéo dài
từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau và chiếm trên 9% lượng mưa cả năm.
c. Kinh tế
Là một xã thuộc vùng 3, kinh tế khó khăn nên kinh tế chủ yếu là sản xuất
nông nghiệp
3.2 Thực tiễn thực hiện tại địa phương các quy định của pháp luật về
di chúc hợp pháp
Việc lập di chúc nhất là di chúc đó phải hợp pháp, phải có tính thực thi cao
là một điều hết sức cần thiết của người muốn để lại di sản, việc lập di chúc sẽ
phân định rõ nguồn thừa kế và những việc cần phải làm đối với thân nhân của
người đó.
Việc lập di chúc hợp pháp đã được thực hiện tại xã Yên Sơn. Có rất nhiều
trường hợp, khi người lập di chúc còn khỏe mạnh và minh mẫn đã lập di chúc và
đến UBND xã xin công chứng.
Một ví dụ cụ thể cho trường hợp này là ông Nông Văn Hiển sinh năm 1947
người ở thôn Hạ, ông có ba người con nhưng có người con trai thứ hai rơi vào
cảnh nghiện ngập, không muốn để lại tài sản cho anh con trai đó (Vì ông biết cơ
ngơi ông gây dựng mà giao vào tay anh ta sẽ nhanh chóng tiêu tan) ông đã đến
UBND xã Yên Sơn nhờ hướng dẫn lập di chúc tại UBND xã. Với trường hợp
này, thực hiện theo Điều 658 quy định về Thủ tục lập di chúc tại cơ quan công
chứng hoặc Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn. UNBD xã Yên Sơn đã hướng
dẫn Ông Hiển lập di chúc trong di chúc ghi rõ: Ngày, tháng, năm lập di chúc; Họ,
19
tên và nơi cư trú của người lập di chúc; Họ, tên người di sản; Di sản để lại và nơi
có di sản; Việc chỉ định người thực hiện nghĩa vụ và nội dung của nghĩa vụ.
Trong di chúc không được viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu; nếu di chúc gồm nhiều
trang thì mỗi trang phải được đánh số thứ tự và có chữ ký hoặc điểm chỉ của
người lập di chúc. Sau khi lập xong di chúc ông Hiển . tuyên bố nội dung của di
chúc trước công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Uỷ ban
nhân dân xã. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực phải ghi
chép lại nội dung mà người lập di chúc đã tuyên bố. Người lập di chúc ký hoặc
điểm chỉ vào bản di chúc sau khi xác nhận bản di chúc đã được ghi chép chính
xác và thể hiện đúng ý chí của mình. Người có thẩm quyền chứng thực của Uỷ
ban nhân dân xã ký vào bản di chúc.
Tuy nhiên,Việc lập di chúc nhưng không có người làm chứng xảy ra phổ
biến tại xã Yên Sơn. Ví dụ như gia đình La Thị Bé tại thôn Loi có bố chồng là
ông Hà Khuân Ban vì tuổi cao sức yếu đã đột ngột qua đời. Sau khi lo hậu sự cho
người quá cố, con cháu đã kiểm tra lại tư trang và giấy tờ cá nhân của ông thì
phát hiện ông đã viết di chúc để lại cho con cháu từ hai năm trước đó. Trong di
chúc ông phân chia tài sản và nghĩa vụ mà con cháu phải thực hiện khi tiếp nhận
số di sản mà ông để lại.
Có những trường hợp tại địa phương di chúc không được lập thành văn bản
được bởi người lập hạn chế về thể chất do người đó bị ốm yếu không đủ sức
khỏe. Ví dụ như trường hợp của bà Hà Thị Lậu tại thôn Đằng, trước lúc lâm
chung và đã không thể làm di chúc bằng văn bản nên đã để lại di chúc miệng.
Trong thời điểm đó có hai người hàng xóm, một người là cháu họ của bà Lậu
(Không liên quan đến di chúc) làm chứng. Sau khi bà Lậu mất ba người làm
chứng không liên quan đến di chúc đã viết lại di chúc do bà Lậu để lại cùng nhau
ký tên và lên UBND xã xin chứng thực.
Tuy việc thực hiện về di chúc và di chúc hợp pháp ở xã Yên Sơn đã đạt
được những hiệu quả nhất định, nhưng trong thực tiễn cho thấy không phải lúc
nào di chúc lập ra cũng được coi là hợp pháp vì rất nhiều trường hợp người lập di
20
chúc đã vi phạm các nguyên tắc về hình thức hay nội dung của di chúc. Ở đây
người lập di chúc đã không thể dự đoán được rằng di chúc mà họ đã lập ra lại có
nhiều phiền phức đến vậy.
Vì nhiều lí do khác nhau mà di chúc lập ra hoàn toàn tự nguyện nhưng
không thể hợp pháp vì đã vi phạm nội dung của di chúc. Cụ thể như trường hợp
lập di chúc của ông Nguyễn Văn Quang trú tại thôn Bãi Danh, trước khi mất đã
tự lập di chúc, mặc dù Quang lập di chúc bằng văn bản trong thời điểm hoàn toàn
minh mẫn (Sau thời điểm lập di chúc 12 ngày ông Quang bị tai biến không có
khả năng về ý thức và mất sau đó một thời gian ngắn), không bị ép buộc hay đe
dọa về tinh thần, trong bản di chúc ông Quang không để lại tài sản của mình cho
các con mà để lại tài sản cho người vợ kế của ông, nhưng bản di chúc ông Quang
lập đã không tuân thủ theo quy định tại điều 653 của Bộ Luật Dân sự năm 2005.
Trong bản di chúc để lại ông Quang đã viết tắt quá nhiều chữ, không ghi rõ họ và
tên của người lập di chúc. Theo quy định, bản di chúc ông Quang để lại không có
giá trị pháp lý. Việc phân chia tài sản cho các con và vợ kế của ông được thực
hiện theo quy định của pháp luật chứ không theo bản di chúc.
Trên thực tế cũng có nhiều trường hợp di chúc bằng văn bản mặc dù không
đúng theo quy định của pháp luật nhưng vẫn được công nhận và được thực hiện.
Ví dụ như trường hợp của ông La Văn Én tại thôn Trục Bây, trước khi mất ông
Én có để lại di chúc, trong di chúc ông Én không ghi rõ nơi ông cư trú, không ghi
rõ tên những người được thừa kế (Ông chỉ ghi là tài sản của ông được chia đều
cho hai người con trai của ông) và cũng không ghi thời gian lập di chúc.
Cũng có rất nhiều trường hợp người lập di chúc miệng lại có thể tưởng
tượng ra rằng di chúc mà họ để lại có thể gây nhiều phiền phức cho người liên
quan đến vậy, nhiều trường hợp nhất là ở vùng sâu vùng xa như Yên Sơn vì sự
hiểu biết của pháp luật còn hạn chế nên việc lập di chúc chưa đủ nội dung hoặc
rất sơ sài. Một số trường hợp người hấp hối, nhất là những người già thường gọi
con cháu đến dặn dò trước khi chết và vì không có điều kiện lập di chúc bằng văn
bản nên những câu dặn dò đấy có thể coi là di chúc miệng. Nhưng vì nhiều lí do
21
khác nhau nên những người có liên quan đến nội dung của di chúc lại là người
ghi chép và là người làm chứng, vì vậy đã vi phạm điều kiện có hiệu lực của di
chúc, và hình thức di chúc miệng trong trường hợp này bị hủy bỏ.
Cụ thể cho trường hợp này là ông La Văn Hầu thường trú tại thôn Nông
Thâm xã Yên Sơn, trước lúc hấp hối ông gọi con cháu đến dặn dò, sau khi ông
mất tài sản của ông sẽ được chia làm ba phần, một phần cho con trai lớn, hai
phần còn lại cho con trai út và dặn rằng người con trai út phải có trách nhiệm
nuôi người cô bị thiểu năng trí tuệ hiện nay gần 50 tuổi mà khi còn khỏe mạnh
ông Hầu vẫn chăm sóc hàng ngày. Tuy nhiên, khi ông Hầu hấp hối chỉ có người
con trai út và các cháu là con của người này. Như vậy, theo quy định tại điều 654
bộ Luật dân sự năm 2005, khi ông Hầu mất và để lại di chúc miệng thì không có
người làm chứng. Mặc dù, lúc đó có con trai và các cháu của ông Hầu nhưng
những người đó có liên quan đến tài sản được thừa kế và việc ông Hầu để lại di
chúc miệng là không có giá trị.
Hay một trường hợp khác, là gia đình của cụ Mai ở thôn Lân Thuổng,
trước khi mất, trong lúc hấp hối cụ có dặn dò về việc chia tài sản cho các con
(Trong đó, tài sản chia làm năm phần, hai người con trai được hưởng bốn phần
(Mỗi người hai phần) còn một phần chia cho con gái út). Lúc đó có rất đông hàng
xóm cũng có mặt. Tuy nhiên, những người có mặt làm chứng lại không ghi lại
thành văn bản, không công chứng chứng thực. Sau khi lo hậu sự cho cụ xong
khoảng 10 ngày sau con cháu đã họp bàn lại và bàn về di chúc của người quá cố.
tuy nhiên vì di chúc không được những người làm chứng ghi lại nên người con
gái đã không đồng ý như vậy (Lúc bà Mai hấp hối vì ở xa nên người con gái chưa
đến kịp), yêu cầu phải chia tài sản làm ba phần bằng nhau (Theo quy định của
pháp luật, việc phân chia tài sản không phân biệt con trai hay con gái đều có
quyền lợi và nghĩa vụ như nhau).
Qua các trường hợp trên cho thấy, tranh chấp thường phát sinh khi người
thừa kế theo pháp luật của người để lại di sản thấy rằng nếu việc thừa kế được
phân chia theo di chúc sẽ ảnh hưởng tới quyền hưởng di sản theo pháp luật của
22
họ, đồng thời họ cho rằng di chúc của người để lại tài sản là di chúc không có
hiệu lực pháp luật nên thực trạng của tranh chấp này là tranh chấp về hiệu lực của
di chúc.
Như trường hợp của gia đình ông Hầu ở trên, khi ông Hầu mất đã dặn dò
lại các con. Nhưng lúc đó người con trai cả không có mặt. Sau khi bố mất, lo mọi
việc xong hai người con của ông Hậu ngồi lại bàn họp thì anh con trai cả đã
không đồng ý với những gì em trai nói. Anh ta cho rằng em trai muốn lấy phần
hơn nên mới bịa đặt ra như thế, vì không tự giải quyết được nên giữa hai anh em
đã xảy ra xô xát, sau đó là làm đơn kiện tụng lẫn nhau.
Từ những thực tế trên cho thấy việc thực hiện di chúc theo quy định của
pháp luật là hết sức cần thiết. Nếu việc lập di chúc mà di chúc đó không hợp pháp
hoặc không có hiệu lực sẽ gây ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống gia đình, tới an
ninh, trật tự xã hội, mất nhiều thời gian, tiền bạc, công sức của chính những
người trong cuộc.
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên chủ yếu là do tính xác thực của di
chúc mà cụ thể là:
Do trình độ ngôn ngữ và sự hiểu biết pháp luật còn hạn chế nhiều người
lập di chúc đã sử dụng ngôn ngữ không chuẩn xác, cấu trúc ngữ pháp không rõ
ràng, rành mạch, không có đầy đủ thông tin cần thiết theo quy định, thậm chí có
những người còn viết tắt hoặc viết bằng kí hiệu khiến cho bản di chúc không
được hiểu một cách thống nhất dẫn đến tranh chấp.
Người lập di chúc không theo đúng trình tự, thủ tục mà pháp luật quy định
định, để nâng cao tính xác thực của di chúc, pháp luật quy định rất chặt chẽ và cụ
thể về mặt trình tự và thủ tục đối với từng loại di chúc. Vì vậy, những người lập
di chúc nên tuân thủ các quy định trên để tránh những tranh chấp về sau hay nói
cách khác nếu không tuân theo các quy định trên nó sẽ tạo ra những căn cứ pháp
lý để những người có quyền liên quan kiện yêu cầu Tóa án xác định di chúc là vô
hiệu.
23
Hình thức thể hiện của di chúc không đúng với quy định của pháp luật:
Hình thức của di chú bao gồm di chúc bằng văn bản và di chúc bằng miệng, trong
đó mỗi loại được thể hiện bằng các phương tiện khác nhau, có thể viết tay, đánh
máy, in bằng văn bản. Tuy nhiên, như một số trường hợp trên, một số di chúc
miệng không được những người làm chứng ghi lại và không được chứng thực, có
nghĩa là di chúc đó không có giá trị theo quy định của pháp luật.
Trong cuộc sống thường ngày đã có không ít sự việc xảy ra như việc ép
buộc viết di chúc. Đây là trường hợp không khó để nhận ra sự bất hợp lí của nó,
người viết di chúc thì tự tay viết và ký tên nhưng lại bị người khác đe dọa về tinh
thần, mà di chúc phải thể hiện ý chí của người để lại di sản và phải hoàn toàn tự
nguyện không bị ép buộc. Như vậy vấn đề đặt ra ở đây là nếu như người lập di
chúc mà chết thì bản di chúc bị ép viết có hiệu lực pháp luật không, người để lại
di chúc đã chết thì căn cứ như thế nào để xác minh đây là di chúc không hợp
pháp, vì về hình thức đã có đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật dân sự.
Một vấn đề rất đáng quan tâm, là vấn đề của người làm chứng. Rất nhiều
trường hợp người để lại di sản thừa kế lại phải tìm hai người làm chứng mà
không thuộc Điều 654 hay số lượng người làm chứng trong trường hợp lập di
chúc miệng tại Điều 651. Câu hỏi đặt ra ở đây là, nếu như trong trường hợp một
ai đó đang bị đe dọa về tính mạng hay sức khỏe mà xung quanh chỉ có một
người, mà người này lại là người có liên quan đến nội dung của di chúc thì có đáp
ứng được tiêu chí trên chưa.
Thứ nhất, người đó sẽ không thể là người làm chứng của di chúc miệng kia
vì thuộc quy định tại Điều 654;
Thứ hai, pháp luật quy định phải có ít nhất hai người làm chứng trở lên thì
hình thức di chúc bằng miệng mới đáp ứng được yêu cầu. Đây là một quy định
khá chặt chẽ, đảm bảo tính khách quan của di chúc
Một nguyên nhân nữa dẫn đến việc di chúc không được thực thi lại xuất
phát từ chính những người trong cuộc. Họ không bằng lòng với chính di chúc mà
24
người thân để lại. Họ cho rằng như thế là họ bị “Thiệt” , quyền lợi của họ bị xâm
phạm hay nói cách khác không có sự công bằng trong di chúc.
3.3 Một số kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật dân sự hiện hành
về di chúc hợp pháp
a. Xây dựng và hoàn thiện các quy định của pháp luật.
Nếu nghiên cứu dưới góc độ lý luận; kỹ thuật lập pháp và thực tiễn thì có
nhiều vấn đề của luật thực định cần phải được xem xét, sửa đổi cho rõ ràng, cho
phù hợp với thực tế cuộc sống. Tuy nhiên những sai sót, vướng mắc, thiếu thống
nhất hoặc tuy có thống nhất nhưng là sự tự “thống nhất” không áp dụng quy định
nào đó của luật trong thực tiễn xét xử thời gian vừa qua như sau:
Có bản di chúc không ghi đầy đủ các nội dung như quy định của Điều
653 (không ghi nơi cư trú, thậm chí có trường hợp không ghi rõ nơi có di sản)
nhưng vẫn được các Tòa án chấp nhận di chúc đó là hợp pháp, nếu có căn cứ kết
luận đó chính là di chúc do người để lại di sản viết ra khi minh mẫn, sáng suốt,
không bị ai ép buộc.
Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng, có rất nhiều trường
hợp không phải tự tay người để lại di sản viết mà họ đánh máy, điểm chỉ hay ký
rõ ràng, hoặc di chúc có người làm chứng, nhưng những người làm chứng đều là
các thừa kế ký vào bản di chúc, còn số người không phải trong diện thừa kế tuy
họ có chứng kiến nhưng họ không ký bản di chúc, có trường hợp chỉ có một
người ký. Sau này các thừa kế công nhận đó là di chúc của người để lại di sản thì
hầu hết được Tòa án công nhận di chúc đó là hợp pháp. Nếu không công nhận di
chúc, rất dễ bị Tòa án cấp trên cho là xét xử sai, sửa hoặc hủy án.
Cũng có trường hợp (di chúc viết hoặc di chúc miệng) nội dung di chúc
chỉ giao quản lý, sử dụng di sản có điều kiện, nhưng khi điều kiện đã thay đổi,
Tòa án vẫn sử dụng theo di chúc; một bên lập di chúc đã định đoạt toàn bộ tài sản
chung của vợ chồng, nhưng có thẩm phán khi xét xử vẫn công nhận toàn bộ di
chúc chúng tôi cho là không đúng; nhưng nếu công nhận một phần di chúc thì
25