Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

Bài thu hoạch lớp Đảng viên mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (377 KB, 17 trang )

Header Page 1 of 126.

CÂU 1: Phân tích vì sao Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là sự lựa chọn hợp
quy luật, hợp lòng dân?
Trả lời:
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là bài học lớn xuyên suốt quá
trình cách mạng Việt Nam là con đường duy nhất đúng mà Đảng ta và dân tộc
Việt Nam đã lựa chọn.
Độc lập dân tộc và CNXH là những vấn đề lý luận có ý nghĩa lịch sử và thời
đại sâu sắc. Độc lập Dân tộc thực chất là vấn đề Dân tộc; Chủ nghĩa xã hội thực
chất là vấn đề Giai cấp. Đây là hai vấn đề lớn, hai nguồn sức mạnh, vừa là mục
tiêu, vừa là động lực của Cách mạng VN.
Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thức IV của Đảng, lần đầu tiên bài học
này được nêu lên: "... giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã hội.
Đó là đường lối, là sức mạnh, là nguồn gốc thắng lợi của cách mạng nước ta".
Giữ vững mục tiêu Độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã hội là nhân tố bản chất trong
đường lối chiến lược cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Thực tiễn cách mạng Việt nam gần một thế kỷ qua cho chúng ta nhận thức
sâu sắc hơn bài học độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Sự gắn kết giữa
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội cũng chính là con đường tất yếu khách quan,
hợp với quy luật phát triển của đất nước, hợp lòng người. Đó là sự lựa chọn của
Đảng, Bác Hồ và cũng chính là sự lựa chọn của nhân dân, của lịch sử!
Ngược dòng lịch sử đất nước ta:
Ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, nhân dân ta đã liên tiếp
đứng lên đấu tranh chống lại kẻ xâm lược. Nhưng đều bị thực dân Pháp đàn áp tàn
bạo và thất bại. Nguyên nhân chính là do không có đường lối cách mạng đúng đắn
dưới sự chỉ đạo của một hệ tư tưởng tiên tiến, khoa học và cách mạng. Đó là sự
khủng hoảng đường lối cứu nước.
Tháng 6 năm 1911 người thanh niên Nguyễn Tất Thành (Nguyễn Ái Quốc,
Hồ Chí Minh, Bác Hồ...) ra đi tìm đường cứu nước. Bôn ba khắp năm châu, bốn
biển, vừa lao động, vừa quan sát, nghiên cứu lý luận và kinh nghiệm các cuộc cách


mạng tư sản; tham gia hoạt động trong Đảng Xã hội Pháp, sau đó trở thành một
trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp.
Bước ngoặt lớn trong tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc diễn ra khi Người được
đọc Sơ thảo lần thứ nhất Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của V.I Lênin
vào tháng 7 năm 1920. Người đã tìm thấy con đường giải phóng dân tộc gắn với
giải phóng giai cấp; giai cấp vô sản phải nắm lấy ngọn cờ giải phóng dân tộc, độc
lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội; cách mạng dân tộc từng nước gắn với phong
trào cách mạng thế giới...Người khẳng định: “ Muốn cứu nước và giải phóng dân
tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Từ đó, Người
truyền bá Chủ nghĩa xã hội vào đất nước ta, sáng lập và rèn luyện Đảng ta, lãnh
đạo Đảng và nhân dân ta giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác. Vì vậy, có thể
nói đó là sự lựa chọn của lịch sử Việt Nam, của toàn dân tộc Việt Nam.
Sự lựa chọn đó dựa trên hai căn cứ chủ yếu: ( ý này giải thích là vì sao?)
Một là, cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga năm 1917 thành công
đã mở ra thời đại mới - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội
trên phạm vi toàn thế giới. Chính tính chất của thời đại mới đã tạo ra khả năng
hiện thực cho những dân tộc đang còn lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội.

Footer Page 1 of 126.


Header Page 2 of 126.

Những khả năng hiện thực này đã đem lại nhận thức mới mẻ và triệt để trong quan
niệm cũng như giải pháp để giải quyết vấn đề độc lập dân tộc.
Hai là, chỉ có chủ nghĩa xã hội mới giải phóng triệt để giai cấp vô sản và
nhân dân lao động khỏi bóc lột, áp bức, bất công, mới đem lại cuộc sống ấm no, tự
do, hạnh phúc cho nhân dân và đưa nhân dân lao động trở thành những người làm
chủ xã hội. Độc lập dân tộc chỉ có gắn với chủ nghĩa xã hội thì mới vững chắc.
“Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ

nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc” như Cương lĩnh
năm 1991 của Đảng đã chỉ rõ.
Thực tiễn cách mạng nước ta từ khi có Đảng cộng sản lãnh đạo đã
khẳng định: Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn duy
nhất đúng đắn.
Một là, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và việc thành lập
Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Hai là, thắng lợi của các cuộc kháng chiến oanh liệt để giải phóng dân tộc,
bảo vệ Tổ quốc, đánh thắng chủ nghĩa thực dân cũ và mới, hoàn thành cách mạng
dân tộc, dân chủ nhân dân, thực hiện thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ
nghĩa xã hội, góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Ba là, thắng lợi to lớn và có ý nghĩa lịch sử của sự nghiệp đổi mới vì mục
tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, củng cố vững
chắc hơn độc lập dân tộc, từng bước đưa nước ta lên chủ nghĩa xã hội.
Trong giai đoạn Cách mạng mới, độc lập dân tộc không chỉ dừng lại là chủ
quyền quốc gia, lãnh thổ. Độc lập dân tộc phải được xác định cụ thể hơn, rộng lớn
hơn: Đó là độc lập về con đường phát triển, độc lập về kinh tế- xã hội, văn hóa...
gắn độc lập dân tộc với những vấn đề toàn cầu, với quá trình đaphương hóa, đa
dạng hóa các quan hệ quốc tế: "Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của
các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển".
Bên cạnh đó Chủ nghĩa xã hội cần được nhận thức và điều chỉnh để phù hợp với
xu thế của thời đại. Chủ nghĩa xã hội vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát
triển. Đó là một quá trình với nhiều giai đoạn, bước đi phù hợp với thời đại. Đồng
thời phải gắn CNXH với những đặc trưng cụ thể, với bản sắc của dân tộc và xu thế
thời đại, với những bước đi vững chắc, cách làm phù hợp. Kết hợp độc lập dân tộc
và CNXH cũng là một quá trình vận động của các nhân tố dân tộc, giai cấp, trong
nước và quốc tế nhằm tác động đến hành trình của toàn dân tộc trên con đường đi
tới mục tiêu xây dựng một xã hội: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh.

Thực tiễn đã và đang chứng minh: Tương lại của nhân loại không phải là
sự quay trở về với chủ nghĩa Tư bản đế quốc bằng chiến tranh, khủng bố và toàn
cầu hóa kinh tế theo kiểu "cá lớn nuốt cá bé", hay bom và đại bác đi kèm viện trợ
nhân đạo. Độc lập dân tộc kết hợp với Chủ nghĩa xã hội chính là tiền đề cho một
nền hòa bình, độc lập và phát triển bền vững vì những giá trị nhân văn cho con
người. Đó là quy luật của cách mạng Việt Nam và của nhân loại trên hành trình đi
tới một xã hội văn minh hơn!

Footer Page 2 of 126.


Header Page 3 of 126.

Câu 2. Trình bày và phân tích một số nội dung chính của quan điểm:
Phát huy sức mạnh toàn dân tộc và nội dung, giải pháp phát huy sức mạnh
toàn dân trong giai đoạn hiện nay?
Trả lời:
Đã là người Việt Nam có lẽ không ai không thuộc những câu thơ dạy về
đoàn kết của Bác Hồ. Truyền thống lịch sử dân tộc Việt Nam đã chứng minh điều
đó. Cho nên có lần Bác dạy: “Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân.
Trong thế giới không có gì mạnh bằng sức mạnh đoàn kết của nhân dân”.
Đoàn kết toàn dân tộc là sự bảo vệ, giúp đỡ, tương trợ, tôn trọng lẫn nhau,
tạo điều kiện cho nhau cùng phát triển... của mọi giai tầng trong cộng đồng dân
tộc, trong đó, các giai tầng xã hội hy sinh lợi ích riêng hay chấp nhận lợi ích của
các giai tầng khác để bảo vệ lợi ích chung, lâu dài.
Đại hội XI khẳng định: Đại đoàn kết toàn dân tộc là nguồn sức mạnh, động
lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam gần 1 thế kỷ qua là hiện thực sinh động chứng
tỏ: phát huy sức mạnh toàn dân tộc là đường lối chiến lược cơ bản, lâu dài của

cách mạng, là sự tiếp tục phát triển và hoàn thiện đường lối, quan điểm của Đảng
trong điều kiện lịch sử mới.
Qua 30 năm tiến hành kháng chiến chống ngoại xâm (1945 - 1975), truyền
thống quý báu ấy đã được nâng lên tầm cao mới, trở thành động lực và sức mạnh
chủ yếu của dân tộc ta, là một trong những nhân tố có ý nghĩa quyết định đưa đến
những thắng lợi vĩ đại của cách mạng nước ta từ năm 1930 đến nay.
Vào những năm 80 của thế kỷ XX, đứng trước tình hình khủng hoảng kinh
tế - xã hội trầm trọng, đổi mới trở thành yêu cầu có ý nghĩa sống còn đối với vận
mệnh dân tộc. Đại hội VI của Đảng (năm 1986) đã hoạch định đường lối đổi mới
đất nước, chỉ rõ bốn bài học kinh nghiệm lớn, trong đó bài học đầu tiên là: “Trong
toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc’’, xây
dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động. Thực hiện Nghị quyết
Đại hội VI, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ tám đã ra Nghị quyết 8b
(ngày 27-3-1990) về đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan
hệ giữa Đảng và nhân dân, trong đó nhấn mạnh quan điểm: cách mạng là sự
nghiệp của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Đến Đại hội VII của Đảng (năm 1991), lần đầu tiên trong Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta khẳng định lấy
khối liên minh công nhân - nông dân - trí thức làm nền tảng cho khối đại đoàn kết
toàn dân tộc. Điều đó thể hiện: Đảng ta ngày càng nhận thức rõ hơn về vị trí, vai
trò của các giai tầng trong xã hội, nhất là của tầng lớp trí thức đối với sự nghiệp
cách mạng nước ta trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học và công nghệ phát
triển mạnh mẽ và kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát
triển lực lượng sản xuất. Cương lĩnh (năm 1991) nêu năm bài học lớn được rút ra
từ thực tiễn cách mạng, trong đó có bài học: “sự nghiệp cách mạng là của nhân
dân, do nhân dân và vì nhân dân. Chính nhân dân là người làm nên thắng lợi lịch
sử" và “không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết
toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế". Đại hội VII của Đảng chỉ rõ: “Cách
mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Quan hệ giữa Đảng
với nhân dân bao giờ cũng là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với sự nghiệp cách


Footer Page 3 of 126.


Header Page 4 of 126.

mạng. Nguồn sức mạnh làm nên thắng lợi của chúng ta chính là ở chỗ Đảng gắn
bó mật thiết với nhân dân”; dân chủ “vừa là một mục tiêu vừa là một động lực của
công cuộc đổi mới xã hội ta”.
Tổng kết 10 năm đổi mới, Đại hội VIII của Đảng đã rút ra một trong những
nguyên nhân trọng yếu dẫn đến thành công của Đảng trong hoạch định đường lối
và thực hiện đường lối đổi mới: “Chính những ý kiến, nguyện vọng và sáng kiến
của nhân dân là nguồn gốc hình thành đường lối đổi mới của Đảng. Cũng do nhân
dân hưởng ứng đường lối đổi mới, dũng cảm phấn đấu, vượt qua biết bao khó
khăn, thử thách mà công cuộc đổi mới đạt được những thành tựu hôm nay”.
Đại hội VIII tiếp tục khẳng định tinh thần của Đại hội VII và nêu cao
phương châm: Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên cơ sở lấy liên minh
công nhân - nông dân - trí thức làm nền tảng, đoàn kết mọi người trong đại gia
đình dân tộc Việt Nam dù sống ở trong nước hay đang định cư ở nước ngoài; có
cơ chế và cách làm cụ thể để thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm,
dân kiểm tra”.
Đại hội IX có bước phát triển cụ thể hơn nữa về phát huy sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân: “Thực hiện đại đoàn kết các dân tộc, tôn giáo, giai cấp, tầng
lớp, thành phần kinh tế, mọi giới, mọi lứa tuổi, mọi vùng của đất nước, người
trong Đảng và người ngoài Đảng, người đang công tác và người đã nghỉ hưu, mọi
thành viên trong đại gia đình Việt Nam dù sống trong nước hay ở nước ngoài”;
“lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng”; “trên cơ sở liên minh vững chắc
giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”. Đại hội IX của
Đảng nhấn mạnh: “Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn

dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh
đạo, kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng
và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội” (15). Như vậy, trong thời
kỳ mới, quan điểm nhất quán của Đảng ta là: đại đoàn kết toàn dân, đồng thuận
mọi giai tầng, trên cơ sở giải quyết hài hòa các lợi ích, phát huy mọi tiềm năng và
nguồn lực của toàn xã hội, là động lực chủ yếu để phát triển đất nước trong giai
đoạn cách mạng mới.
Nhằm cụ thể hóa tinh thần Nghị quyết Đại hội IX, Nghị quyết Hội nghị
Trung ương 7 khóa IX về Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, coi đại đoàn kết toàn dân
tộc là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Từ thực tiễn của công cuộc đổi mới, tư duy về đại
đoàn kết toàn dân tộc của Đảng ta được phát triển lên một bước mới. Cụm từ “Đại
đoàn kết toàn dân” được bổ sung, hoàn chỉnh thành “Đại đoàn kết toàn dân tộc”
với ý nghĩa mở rộng đại đoàn kết, đoàn kết không chỉ đối với nhân dân ta ở trong
nước mà còn với cả cộng đồng người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Từ tư duy
đổi mới về vai trò của nhân dân, về vấn đề dân tộc trong thời kỳ mới, Đại hội X
của Đảng khẳng định: “đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp
công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng là
đường lối chiến lược nhất quán của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh,
động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững
của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(16).

Footer Page 4 of 126.


Header Page 5 of 126.

Sau 25 năm tiến hành công cuộc đổi mới và 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991), Đại hội XI

của Đảng tiếp tục khẳng định: phát huy sức mạnh toàn dân tộc là thành tố thứ hai,
sau thành tố về tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Đây chính là hai thành tố quan trọng, quyết định thực hiện thành công những
nhiệm vụ căn cốt nhất của toàn Đảng và toàn dân ta trong nhiệm kỳ 2011 - 2015,
đó là: đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước
ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Phát huy sức mạnh
toàn dân tộc là một thành tố được nêu trong chủ đề của Đại hội IX và Đại hội X,
nay khẳng định lại không chỉ để nhấn mạnh mà còn nhằm làm sáng tỏ hơn bản
chất và nội dung của vấn đề thông qua thực tiễn đổi mới. Sức mạnh toàn dân tộc là
sức mạnh của cả kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối
ngoại; sức mạnh của các thành phần kinh tế, các lực lượng chính trị, xã hội, các
dân tộc, tôn giáo, các tầng lớp nhân dân trong nước và cộng đồng người Việt Nam
định cư ở nước ngoài có cùng “mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình,
độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh làm điểm tương đồng; xóa bỏ mặc cảm, định kiến về quá khứ, thành
phần giai cấp, chấp nhận những điểm khác nhau không trái với lợi ích chung của
dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống nhân nghĩa, khoan dung… để tập
hợp, đoàn kết mọi người vào mặt trận chung, tăng cường đồng thuận xã hội”.
Nghị quyết Đại hội XI của Đảng là sự kết tinh trí tuệ và ý chí của toàn
Đảng, toàn dân và toàn quân ta, thể hiện sự nhất quán kiên định tư tưởng chính trị
và phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh - tư tưởng chính trị và phương pháp
cách mạng dựa trên sự bố trí các lực lượng xã hội, trên cơ sở vận dụng nhuần
nhuyễn quan điểm giai cấp, quan điểm dân tộc vào thực tiễn Việt Nam. Chủ tịch
Hồ Chí Minh từng chỉ rõ: “Vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân,
không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân”.
Phát huy truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc trong Cách mạng Tháng
Tám, với những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong công cuộc đổi mới,
trước những vận hội mới, nhưng cũng không ít khó khăn, thách thức đặt ra trước
yêu cầu phát triển nhanh và bền vững của đất nước, hơn bao giờ hết, Đảng cần tiếp
tục phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, giữ vững và củng cố khối đại

đoàn kết toàn dân và sự đồng thuận của toàn xã hội trong tiến trình xây đựng đất
nước hiện nay. Để đạt được mục tiêu đó, Đảng cần có những quyết sách nhằm
động viên và tổ chức mọi tầng lớp nhân dân phát huy truyền thống yêu nước và
lòng tự hào dân tộc, đưa đất nước vượt qua thách thức.
Với những thành quả cách mạng Việt Nam đã đạt được, dưới sự lãnh đạo
đầy bản lĩnh, trí tuệ của một chính Đảng Cộng sản được lý luận Mác - Lê-nin và tư
tưởng Hồ Chí Minh soi rọi, với sự quản lý điều hành năng động, sáng tạo của Nhà
nước cách mạng Việt Nam, với tài năng, trí thông minh, đức tính cần cù, ý chí và
khát vọng vươn lên mãnh liệt của nhân dân ta, tiếp tục vận dụng bài học phát huy
sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong bối cảnh lịch sử mới, chúng ta có đầy đủ
cơ sở để vững tin vào sự hiện thực hóa mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam xã
hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Thực tiễn của công cuộc đổi mới hiện nay đang đặt ra những vấn đề bức
thiết mà Cương lĩnh trình Đại hội XI của Đảng phải tập trung làm rõ hơn cả về lý
luận và thực tiễn nhằm thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc tạo nên sức mạnh to

Footer Page 5 of 126.


Header Page 6 of 126.

lớn hơn. Theo ý kiến của tôi, cần tổng kết thực tiễn sâu sắc hơn nữa về chiến lược
đại đoàn kết để củng cố, tăng cường và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn
dân thực hiện có hiệu quả Cương lĩnh 2011 (bổ sung, phát triển) và các văn kiện
trình Đại hội XI của Đảng. Tôi xin đề xuất một số vấn đề, nội dung dưới đây.
Một là, hoàn thiện nội dung nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và thực hiện đồng
bộ, triệt để. Dân chủ càng mở rộng và thiết thực càng tạo sự đồng thuận xã hội và
do đó sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc được tăng cường. Trong sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội theo đường lối đổi mới, nội dung dân chủ xã hội chủ nghĩa
phát triển và đòi hỏi phải nhận thức và thực hiện đúng đắn cả từ phía Nhà nước và

cả từ phía người dân, để khắc phục những biểu hiện lệch lạc trong thực hiện dân
chủ, hoặc dân chủ hình thức, hoặc dân chủ cực đoan, lợi dụng dân chủ để gây mất
ổn định chính trị, xã hội. Thực hiện dân chủ không chỉ là kêu gọi, động viên mà
nội dung dân chủ, quyền làm chủ của dân, phải được thể hiện trong chính sách,
pháp luật và được bảo đảm bằng chính sách, pháp luật, quy chế. Nội dung dân chủ
trong chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội cần được cụ thể hóa, lượng hóa để người
dân hiểu và thực hiện. Cần nhận thức và xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa dân chủ
và tập trung dân chủ với kỷ luật, kỷ cương, pháp luật, dân chủ với trách nhiệm,
nghĩa vụ công dân, dân chủ phải có lãnh đạo và lãnh đạo bằng phương pháp dân
chủ, trên cơ sở phát huy dân chủ. Thực tế đã cho thấy, ở địa phương nào, lĩnh vực
hoạt động nào, đơn vị nào thực hiện tốt dân chủ xã hội chủ nghĩa thì tạo được sự
đồng thuận, ổn định và phát triển, củng cố được sự đoàn kết, thống nhất.
Hai là, đại đoàn kết toàn dân tộc gắn liền với xây dựng và không ngừng
hoàn thiện hệ thống chính trị của đất nước. Năng lực lãnh đạo, năng lực cầm
quyền của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước được nâng cao chẳng
những quyết định sự ổn định, phát triển của xã hội, đất nước mà còn củng cố vững
chắc niềm tin của các giai cấp, dân tộc, các tầng lớp nhân dân làm cho sức mạnh
đại đoàn kết toàn dân tộc ngày càng phát triển. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách để mang
lại lợi ích cho nhân dân, bảo đảm quyền lợi chính đáng, hợp pháp của mọi giai
cấp, dân tộc, lực lượng xã hội, của các thành phần kinh tế, của mọi người dân,
đồng thời bảo đảm, bảo vệ, phát triển lợi ích chung của dân tộc, đất nước. Đó là
cái gốc của sự đoàn kết cộng đồng dân tộc và đồng thuận xã hội. Chính phủ đã
quan tâm đặc biệt đến người nghèo, nông dân nghèo, nhất là ở vùng sâu, vùng xa,
vùng đặc biệt khó khăn nhằm giúp họ xóa đói, giảm nghèo. Theo đó, Chương trình
135 (1998), Chương trình 134 (2004) đã thực hiện. Vì vậy, qua 10 năm thực hiện
8 mục tiêu thiên niên kỷ do Liên hợp quốc đề ra, Việt Nam đã thực hiện có hiệu
quả việc xóa bỏ tình trạng đói nghèo cùng cực, phổ cập tiểu học, thực hiện tốt bình
đẳng giới và nâng cao vị thế của phụ nữ. Nhưng hiện nay, Nhà nước cũng cần
quan tâm nhiều hơn đến công nhân, khi đời sống, thu nhập của một bộ phận công

nhân còn thấp, làm sao để trong các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp nước
ngoài, công nhân không bị giới chủ bóc lột quá đáng. Đối với nông dân, cần thực
hiện đồng bộ chính sách tam nông của Đảng gắn liền với công nghiệp hóa, hiện
đại hóa nông thôn, xây dựng nông thôn mới. Đối với trí thức, sự quan tâm đến
điều kiện và đời sống vật chất là cần thiết, nhưng nhiều khi, sự động viên kịp thời,
đánh giá và phát huy được năng lực thật sự của họ lại có tác dụng gấp nhiều lần.
Các tổ chức Mặt trận, đoàn thể nhân dân cần đổi mới nhiều về nội dung, phương

Footer Page 6 of 126.


Header Page 7 of 126.

thức hoạt động. Sự gương mẫu của cán bộ, đảng viên trong hệ thống chính trị có
ảnh hưởng to lớn đến củng cố đại đoàn kết toàn dân tộc.
Ba là, chú trọng giáo dục, đào tạo, hoàn thiện con người Việt Nam trong
thời đại mới, bởi con người là thành tố, là cái gốc vững bền của dân tộc và đất
nước. Mỗi người, mỗi công dân cần phải nêu cao niềm tự hào, tự tôn dân tộc, bồi
đắp tinh thần yêu nước, sống và làm việc có trách nhiệm đối với đất nước, vì sự
hùng cường, vững bền của Tổ quốc. Không ngừng nâng cao học vấn, kiến thức, kỹ
năng nghề nghiệp, thể chất và đạo đức. Thực hiện có hiệu quả Cuộc vận động học
tập và làm theo tấm gương đạo đức của Bác Hồ, hiện thân của khối đoàn kết toàn
dân, Người luôn chăm lo chiến lược con người, nâng cao đạo đức, con người sống
với nhau phải có tình nghĩa, mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người,
không tham lam, lười biếng, ỷ lại.

Câu 3: Phân tích quan điểm phát triển nhanh và bền vững nêu trong chiến
lược phát triển kinh tế xã hội 2011-2020?
Trả lời:
Quan niệm phát triển bền vững xuất hiện từ những năm đầu thập kỷ 80 thế

kỷ 20, được phổ biến rộng rãi vào năm 1987, với hàm ý tổng quát là sự phát
triển đáp ứng được những yêu cầu của hiện tại nhưng không gây trở ngại cho
việc đáp ứng nhu cầu của các thế hệ mai sau. Đây là quá trình phải bảo đảm có sự
kết hợp chặt chẽ, hợp lý, hài hòa giữa ba mặt của sự phát triển: phát triển kinh tế,
phát triển xã hội và bảo vệ môi trường.
Trong hai thập kỷ qua, trên bình diện quốc tế, vấn đề phát triển bền vững
ngày càng được đặc biệt quan tâm, trở thành yêu cầu phát triển của toàn cầu. Đã
có không ít hội nghị thượng đỉnh thảo luận về chủ đề này và đưa ra nhiều văn
kiện, quyết sách quan trọng.
Ở nước ta, quan điểm phát triển nhanh và bền vững đã được nhận thức rất
sớm và thể hiện trong nhiều chủ trương, nghị quyết của Đảng. Ngay từ Đại hội III
năm 1960 và Đại hội IV năm 1976, Đảng ta đã đặt mục tiêu “tiến nhanh, tiến
mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội”. Đại hội VII thông qua Chiến lược
Phát triển kinh tế - xã hội 1991 – 2000, nhấn mạnh “Tăng trưởng kinh tế phải gắn
liền với tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển văn hoá, bảo vệ môi trường”. Đại
hội VIII nêu bài học “Tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã
hội, giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái”. Chiến lược
Phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 thông qua tại Đại hội IX khẳng định “Phát
triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến
bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường”. Đại hội X nêu bài học về phát triển
nhanh và bền vững, trong đó ngoài các nội dung phát triển kinh tế, xã hội, môi
trường còn bổ sung yêu cầu phát triển toàn diện con người, thực hiện dân chủ và
xác định mục tiêu tổng quát của Kế hoạch 5 năm 2006 - 2010 là “Phấn đấu tăng
Footer Page 7 of 126.


Header Page 8 of 126.

trưởng kinh tế với nhịp độ nhanh, chất lượng cao và bền vững hơn, gắn với phát
triển con người”.

Như vậy, quan điểm phát triển nhanh và bền vững đã sớm được Đảng và
Nhà nước ta đặt ra với nội dung ngày càng hoàn thiện và đã trở thành một chủ
trương nhất quán trong lãnh đạo, quản lý, điều hành tiến trình phát triển của đất
nước trong nhiều thập kỷ qua. Nhà nước ta cũng đã có những cam kết mạnh mẽ về
phát triển bền vững.
Từ thực tiễn nêu trên, Chiến lược Phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 nêu
bài học “Đặc biệt coi trọng chất lượng, hiệu quả và tính bền vững của sự phát
triển… giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa tốc độ và chất lượng tăng trưởng” và
xác định “Phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững, phát triển bền vững
là yêu cầu xuyên suốt trong Chiến lược”, với các nội dung chủ yếu là “Phải phát
triển bền vững về kinh tế, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an ninh
kinh tế. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng
trưởng, coi chất lượng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh là ưu tiên hàng
đầu, chú trọng phát triển theo chiều sâu, phát triển kinh tế tri thức. Tăng
trưởng kinh tế phải kết hợp hài hoà với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội;
nâng cao không ngừng chất lượng cuộc sống của nhân dân. Phát triển kinh tế xã hội phải luôn đi cùng với bảo vệ và cải thiện môi trường. Nước ta có điều
kiện phát triển nhanh và yêu cầu phát triển nhanh cũng đang đặt ra hết sức cấp
thiết; phát triển bền vững là cơ sở để phát triển nhanh, phát triển nhanh để tạo
nguồn lực cho phát triển bền vững. Phát triển nhanh và bền vững phải luôn
gắn chặt với nhau trong quy hoạch, kế hoạch và chính sách phát triển kinh tế xã hội. Phải đặc biệt quan tâm giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tăng cường
quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn
vẹn lãnh thổ để bảo đảm cho đất nước phát triển nhanh và bền vững.”
Để hiện thực hoá quan điểm phát triển nhanh và bền vững, phải thực hiện
đồng bộ các định hướng phát triển đã nêu trong dự thảo Chiến lược, trong đó cần
tập trung thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp sau:
Một là, bằng các giải pháp và sức mạnh tổng hợp, kiên quyết giữ vững độc
lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, bảo đảm an ninh chính trị và trật tự
an toàn xã hội, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, tạo môi trường hoà bình và
điều kiện thuận lợi cho sự phát triển đất nước. Đây là điều kiện tiên quyết nhất
cho sự phát triển nhanh và bền vững và cũng là một lợi thế của đất nước ta.

Hai là, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô và các cân đối lớn của nền kinh
tế; giữ vững an ninh lương thực, an ninh năng lượng và sự hoạt động an toàn,
hiệu quả của các định chế tài chính.
Thế hệ chúng ta đã từng chứng kiến những cuộc khủng hoảng lương thực,
khủng hoảng năng lượng, mới đây là cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh
tế toàn cầu xẩy ra trong các năm 2007 - 2009 và cuộc khủng hoảng nợ công ở một
số nước hiện nay. Những cuộc khủng hoảng này là hậu quả của sự phát triển

Footer Page 8 of 126.


Header Page 9 of 126.

không bền vững, gây mất ổn định toàn cầu và tác động đến tăng trưởng của hầu
hết các quốc gia, kinh tế thế giới suy giảm, thất nghiệp gia tăng, xung đột xã hội
lan rộng...
Ở nước ta, cùng với những bất cập, yếu kém trong quản lý vĩ mô, cuộc
khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đã tác động tiêu cực đến sự
phát triển của đất nước, lạm phát tăng cao, tốc độ tăng trưởng suy giảm, đời sống
nhân dân gặp khó khăn. Kinh nghiệm quốc tế cũng như của nước ta những năm
qua cho thấy giữ vững an ninh lương thực, an ninh năng lượng, an ninh tài chính,
kiểm soát được lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn vừa là
tiền đề để tăng trưởng nhanh vừa là nội dung của tăng trưởng bền vững, trở thành
nhiệm vụ quan trọng nhất trong quản lý kinh tế của bất cứ quốc gia nào.
Ba là, huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực để bảo đảm đạt tốc
độ tăng trưởng cao đồng thời nâng cao chất lượng tăng trưởng.
Bảo đảm tốc độ tăng trưởng cao, ổn định và không ngừng nâng cao chất
lượng tăng trưởng là yếu tố quyết định nhất để phát triển nhanh và bền vững. Có
đạt được tốc độ tăng trưởng cao, đất nước mới phát triển nhanh, rút ngắn khoảng
cách với các nước, mới tạo được nguồn lực để phát triển các lĩnh vực xã hội, phát

triển con người, đầu tư phát triển những khu vực khó khăn, thu hẹp khoảng cách
phát triển giữa các vùng trong nước, mở rộng hệ thống phúc lợi và an sinh xã hội,
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Với ưu thế về nguồn lực con người, chính
trị xã hội ổn định, vị trí địa - kinh tế thuận lợi, lại là nước đi sau, chúng ta có điều
kiện để phát triển nhanh. Mặt khác, có nâng cao chất lượng tăng trưởng mới tăng
được hiệu suất sử dụng vốn và sức cạnh tranh của nền kinh tế, mới mở rộng được
thị trường tiêu thụ trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt. Trên cơ sở đó,
tạo ra giá trị gia tăng lớn cho đất nước, tăng khả năng tích luỹ từ nội bộ nền kinh
tế, bảo đảm nguồn lực cho tăng trưởng cao và ổn định trong dài hạn.
Yêu cầu cấp bách trong thời kỳ chiến lược tới là thực hiện tái cấu trúc nền
kinh tế trên cả ba nội dung chính: tái cấu trúc các ngành sản xuất, dịch vụ gắn với
các vùng kinh tế, phát triển công nghiệp hỗ trợ. Phải chuyển đổi mô hình tăng
trưởng từ chủ yếu theo chiều rộng, dựa vào sự gia tăng vốn đầu tư và nguồn nhân
lực chất lượng thấp hiện nay sang kết hợp hợp lý giữa tăng trưởng theo chiều rộng
với tăng trưởng theo chiều sâu trên cơ sở áp dụng các tiến bộ về khoa học, công
nghệ, chất lượng nguồn nhân lực và kỹ năng quản lý hiện đại. Trong mười năm
tới, nhất là trong những năm đầu của thời kỳ chiến lược, chúng ta chưa thể từ bỏ
hoàn toàn mô hình tăng trưởng theo chiều rộng. Vì, để tăng trưởng theo chiều sâu
phải sử dụng công nghệ hiện đại và phải có nguồn nhân lực chất lượng cao. Đây là
quá trình tích luỹ vốn và phát triển nguồn nhân lực trong từng doanh nghiệp và cả
nền kinh tế. Hơn nữa, phát triển bền vững phải gắn với yêu cầu giải quyết việc làm
và toàn dụng lao động trong khi nguồn lao động thiếu việc làm còn nhiều, nhất là
ở khu vực nông thôn. Tuy nhiên, phải hành động khẩn trương, kiên quyết tạo lập
đồng bộ các tiền đề để chuyển mạnh sang tăng trưởng theo chiều sâu ngay trong
những năm đầu của thời kỳ chiến lược, trước hết là ở những lĩnh vực khoa học,
công nghệ phát triển nhanh và nước ta có điều kiện. Đây là con đường cơ bản

Footer Page 9 of 126.



Header Page 10 of 126.

nhằm nâng cao chất lượng tăng trưởng; tái cấu trúc các doanh nghiệp, xây dựng
lực lượng doanh nghiệp trong nước với nhiều thương hiệu mạnh, hiệu quả và có
sức cạnh tranh cao; điều chỉnh chiến lược thị trường, coi trọng hơn thị trường
trong nước đi đôi với việc tiếp tục đa dạng hoá, mở rộng thị trường nước
ngoài. Thực hiện tốt các nội dung trên đây, chẳng những nâng cao được chất
lượng tăng trưởng, khả năng độc lập tự chủ của nền kinh tế, hạn chế được các tác
động tiêu cực trước những biến động từ bên ngoài, bảo đảm cho đất nước phát
triển bền vững mà còn tham gia có hiệu quả vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị
toàn cầu, một xu thế phát triển trong nền kinh tế toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế.
Cùng với việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, cải cách hành chính,
cần phát huy có hiệu quả chức năng kiến tạo phát triển của nhà nước, nhất là trong
thời kỳ đầu đẩy mạnh công nghiệp hoá, thể hiện trong việc đề ra chính sách cơ cấu
và định hướng phát triển vùng đúng đắn.
Bốn là, phát triển các lĩnh vực văn hoá, xã hội hài hoà với phát triển kinh
tế, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện
tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển.
Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, yếu tố làm nên giá trị ổn định, lâu
bền của một quốc gia, hình thành bản sắc riêng có của một dân tộc. Văn hoá làm
nên nguồn lực xã hội to lớn, thấm sâu vào quá trình phát triển. Sự phát triển của
một thời đại ở bất kỳ quốc gia nào đều có dấu ấn khai sáng của văn hoá. Trên nền
tảng văn hoá, con người không chỉ giải quyết mối quan hệ với đồng loại, ứng xử
với môi trường thiên nhiên trong đời sống hiện tại mà còn giải quyết mối quan hệ
với các thế hệ tương lai trong quá trình phát triển. Với ý nghĩa này, văn hoá không
chỉ là kết quả của phát triển nhanh, bền vững mà còn là yếu tố tạo nên sự phát
triển nhanh, bền vững. Phải đặt yêu cầu phát triển văn hóa ngang tầm và hài hòa
với phát triển kinh tế. Tập trung xây dựng đời sống, lối sống và môi trường văn
hóa lành mạnh. Phát triển toàn diện, đồng bộ các lĩnh vực văn hóa, vừa phát huy
những giá trị tốt đẹp của dân tộc, vừa tiếp thu những tinh hoa văn hoá nhân loại để

văn hoá thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội, là một động lực phát triển.
Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội là nội dung rất quan trọng của phát
triển bền vững. Đây còn là tiêu chí thể hiện bản chất của chế độ ta. Sự bất bình
đẳng và phân hoá giàu nghèo ở mức cao tạo nên xung đột xã hội ở không ít các
quốc gia trên thế giới, làm suy giảm tăng trưởng. Vì vậy, Đảng ta chủ trương phải
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách
phát triển. Chúng ta sẽ tập trung hơn cho công cuộc xóa đói giảm nghèo, đa dạng
hóa các nguồn lực và phương thức để thực hiện giảm nghèo bền vững. Khuyến
khích làm giàu theo pháp luật, đồng thời hạn chế phân hoá giàu nghèo, chủ yếu
thông qua chính sách điều tiết thu nhập, phát triển hệ thống phúc lợi xã hội và an
sinh xã hội đa dạng, ngày càng mở rộng và hiệu quả. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế
phân phối trong các doanh nghiệp, chính sách tiền lương, bảo đảm công bằng lợi
ích, tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.

Footer Page 10 of 126.


Header Page 11 of 126.

Tập trung sức phát triển giáo dục và đào tạo, nhất là đào tạo đại học và dạy
nghề để có nguồn nhân lực chất lượng cao, cơ cấu hợp lý nhằm đẩy nhanh quá
trình tái cấu trúc nền kinh tế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng. Phát triển mạnh
sự nghiệp y tế, nâng cao chất lượng công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân.
Tập trung chỉ đạo kiên quyết, đồng bộ và huy động sức mạnh của cả hệ
thống chính trị để bảo đảm đạt được những chuyển biến rõ rệt, vững chắc trong
công tác phòng chống tham nhũng, tệ nạn xã hội và tai nạn giao thông.
Năm là, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thực hành dân chủ rộng rãi,
nhất là dân chủ trực tiếp, xây dựng xã hội đồng thuận, cởi mở.
Thực hiện dân chủ là một thành tố của phát triển bền vững, được Đảng ta
nêu rõ tại Đại hội Đảng lần thứ X, nhằm hoàn thiện, làm phong phú thêm nội

dung phát triển bền vững. Điều này xuất phát từ luận điểm rất quan trọng: con
người vừa là mục tiêu vừa là chủ thể của phát triển. Nguồn lực con người là lợi
thế cạnh tranh dài hạn, là yếu tố quyết định sự phát triển của một quốc gia. Thực
hành dân chủ rộng rãi sẽ phát huy khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân, đóng góp
vào sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước. Dân chủ càng cao thì đồng
thuận xã hội càng sâu, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc càng được
củng cố vững chắc.
Để phát huy dân chủ, làm cho dân chủ trở thành nguồn lực phát triển, phải
bảo đảm hai điều kiện: tạo cơ hội cho mọi người được học tập, xây dựng xã hội
học tập nhằm nâng cao dân trí; thực hiện quyền làm chủ của nhân dân thông qua
các thiết chế bảo đảm dân chủ trong mọi mặt của đời sống xã hội, mở rộng dân
chủ trực tiếp. Dân chủ phải gắn với kỷ luật, kỷ cương.
Có thể nói nhà nước pháp quyền, kinh tế thị trường đi liền với bảo đảm
phúc lợi - an sinh xã hội và dân chủ xã hội chủ nghĩa là 3 trụ cột chính trong tiến
trình phát triển của đất nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trong đó, dân chủ vừa
là mục tiêu vừa là động lực. Cả 3 trụ cột này phải mạnh và có sự phát triển tương
thích, đồng bộ. Một trụ cột yếu sẽ cản trở sự vận động của các trụ cột khác và ảnh
hưởng đến sự phát triển chung.
Sáu là, tăng trưởng kinh tế phải gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi
trường.
Bảo vệ và cải thiện môi trường là một nội dung quan trọng của phát triển
bền vững. Môi trường bị ô nhiễm, tài nguyên bị cạn kiệt, rừng bị tàn phá, đất bị
xói mòn và tình trạng sa mạc hoá, biến đổi khí hậu, nguy cơ nước biển dâng… làm
thu hẹp không gian sinh tồn của con người chẳng những tác động tiêu cực đến
cuộc sống hiện tại mà còn đe doạ sự phát triển của các thế hệ tương lai.
Đối với nước ta, tình trạng ô nhiễm môi trường và những nguy cơ do biến
đổi khí hậu và nước biển dâng là những thách thức to lớn. Vì vậy, phát triển kinh
tế phải gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường; chủ động đối phó với hiểm
họa nước biển dâng; sử dụng công nghệ tiết kiệm nguyên liệu, năng lượng, phát


Footer Page 11 of 126.


Header Page 12 of 126.

triển kinh tế xanh là nội dung có tác động mạnh nhất đến phát triển bền vững, phải
được thể hiện trong toàn bộ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của cả nước cũng
như trong từng lĩnh vực, ở từng địa phương, đơn vị.
Thực hiện có hiệu quả phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững đòi hỏi
phải tạo được sự chuyển biến có tính cách mạng, thấu suốt về nhận thức, đổi mới
mạnh mẽ về tư duy, quán triệt trong mọi chính sách, quy hoạch, kế hoạch, dự án
và chương trình hành động; tổ chức thực hiện quyết liệt ở tất cả các ngành, các cấp
với sự đồng thuận tham gia của cả hệ thống chính trị, của cộng đồng doanh nghiệp
và mọi người dân trong cả nước.
Chúng ta tin tưởng vững chắc rằng, dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng,
phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc với sự điều hành có hiệu
quả của Nhà nước, sự phấn đấu nỗ lực của toàn dân, toàn quân, nhất định đất nước
ta sẽ bước vào một thời kỳ mới phát triển nhanh và bền vững./.

Câu 4: Phân tích vị trí, vai trò của người đảng viên ĐCSVN.....
1. Người đảng viên có vị trí, vai trò sau đây:
a) Đảng viên là chiến sĩ cách mạng trong đội quân tiên phong của giai cấp
công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam.
→ Đảng CSVN là đội tiên phong của giai cấp công nhân nên từng đảng
viên phải là chiến sỹ tiên phong vì lợi ích giai cấp. Sức mạnh, năng lực lãnh đạo
của Đảng được tạo thành từ từng đảng viên.
→ Đảng CSVN đồng thời là đội quân tiên phong của nhân dân lao động và
của dân tộc, vì vậy đảng viên là người tiên tiến trong nhân dân và của dân tộc. Mỗi
ĐV luôn phấn đấu vì lợi ích giai cấp và dân tộc.
→ Đảng CSVN là đại biểu trung thành lợi ích giai cấp công nhân, nhân dân lao

động và dân tộc nên mỗi đảng viên đều đặt lợi ích giai cấp dân tộc lên trên, lên
trước.
Đảng ta là đảng cầm quyền, Đảng ta được toàn dân thừa nhận là đội quân tiên
phong lãnh đạo, nên mỗi ĐV phải là người tiên phong gương mẫu trước quần
chúng.
b) ĐV có trách nhiệm góp phần xây dựng và tổ chức thực hiện đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng.
→ Đảng lãnh đạo bằng đường lối, công tác cán bộ và sự gương mẫu của đảng viên
→ Đường lối đúng là nhân tố quyết định thắng lợi.
Mỗi đảng viên phải có trách nhiệm trong việc xây dựng đường lối, NQ của Đảng.
Footer Page 12 of 126.


Header Page 13 of 126.

→ Đảng viên phải nêu cao vai trò tiên phong trong việc chấp hành chủ trương,
chính sách, pháp luật cho quần chúng noi theo.
c) Đảng viên dù ở cương vị nào, cũng vừa là người lãnh đạo, vừa là người
phục vụ quần chúng.
→ Đảng viên là người lãnh đạo: vì đảng viên là người có giác ngộ lý tưởng,
đem tư tưởng, đường lối của Đảng để tuyên truyền cho quần chúng, lôi cuốn họ
thực
hiện.
→ Đảng viên là người đầy tớ của nhân dân: vì vậy đảng viên suốt đời phải phấn
đấu vì mục tiêu, lý tưởng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con
người, vì hạnh phúc của nhân dân.
→ Đảng viên vừa là người lãnh đạo, người đầy tớ trung thành của nhân dân: thì
đảng viên phải không ngừng nâng cao trình độ nhận thức, phẩm chất chính trị, đạo
đức; không chạy theo quần chúng, phải đứng vững trên lập trường, quan điểm của
Đảng để lãnh đạo, giáo dục, tổ chức cho quần chúng hành động.

d) Đảng viên là người kiên định bảo vệ Đảng, bảo vệ đường lối, chủ trương của
Đảng.
→ Trước hết là phải cương quyết đấu tranh chống các thế lực thù địch
“Diễn biến hoà bình”.
→ Để chống lại âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch cần phải:
+ Giữ vững và tăng cường vị trí lãnh đạo của Đảng đây là yếu tố quyết định thắng
lợi.
+ Đòi hỏi khách quan thời kỳ đổi mới, thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước theo
định hướng XHCN.
+ Đảng viên phải có trách nhiệm bảo vệ Đảng, bảo vệ đường lối, chủ trương của
Đảng.
+ Đấu tranh chống tư tưởng cơ hội, hữu khuynh, giáo điều, bảo thủ.
+ Làm cho Đảng ta luôn vững vàng kiên định có sức chiến đấu cao ngang tầm với
yêu cầu của thời đại mới.
2. Nhiệm vụ của người Đảng viên.
Tại Điều 2, Điều lệ ĐCSVN được thông qua ngày 19/01/2011 tại Đại hội XI xác
định nhiệm vụ của người đảng viên gồm 4 nhiệm vụ:
(1) Tuyệt đối trung thành với mục đích lý tưởng cách mạng của Đảng, chấp hành
nghiêm chỉnh cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, Nghị quyết, chỉ thị của Đảng,
pháp luật của Nhà nước; hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; phục tùng tuyệt đối
sự phân công và điều động của đảng.
Footer Page 13 of 126.


Header Page 14 of 126.

(2) Không ngừng học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ kiến thức, năng lực của
công tác, phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, có lối sống lành mạnh; đấu
tranh chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, cục bộ, quan liêu, tham nhũng, lãng phí, và
các biểu hiện tiêu cực khác. Chấp hành quy định của Ban Chấp hành Trung ương

về những điều đảng viên không được làm.
(3) Liên hệ chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân
dân; chăm lo đời sống vật chất, tinh thần và bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhân
dân; tích cực tham gia công tác quần chúng, công tác XH nơi làm việc và nơi ở;
tuyên truyền vận động gia đình và nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước.
(4) Tham gia xây dựng, bảo vệ đường lối, chính sách và tổ chức của Đảng; phục
tùng kỷ luật, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng; thường xuyên tự phê bình và
phê bình, trung thực với Đảng; làm tốt công tác phát triển đảng viên; sinh hoạt
Đảng và đóng đảng phí đúng quy định.
3. Nội dung phấn đấu và rèn luyện của bản thân (Tự liên hệ phần thực tế của
cá nhân)
Gồm có 2 nội dung:
1. Thực hiện tốt tiêu chuẩn đảng viên được quy định trong Điều lệ Đảng.
2. Không ngừng tự phấn đấu, rèn luyện để xứng đáng với danh hiệu người
đảng viên cộng sản.
*
1. Thực hiện tốt tiêu chuẩn đảng viên được quy định trong Điều lệ Đảng.
Tiêu chuẩn đảng viên:
- Là những chuẩn mực quy định chất lượng của người đảng viên.
- Là tiêu chí để phân biệt đảng viên với quần chúng.
- Là cơ sở để đánh giá chất lượng đảng viên
- Là căn cứ để tiến hành mọi mặt công tác đảng viên.
→ Đảng viên phải dựa vào tiêu chuẩn đảng viên để rèn luyện, phấn đấu.
Tiêu chuẩn đảng viên được ghi trong Chương 1, Điều 1 điều lệ ĐCSVN: Đại hội XI
thông qua ngày 19/01/2011.
Tiêu chuẩn: “Đảng viên ĐCSVN là chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong
của gccn, nhân dân lao động và dân tộc VN, suốt đời phấn đấu cho mục đích, lý
tưởng của Đảng, đặt lợi ích của Tổ quốc, của gccn và nhân dân lao động lên trên lợi
ích cá nhân; chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, các nghị

quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước; có lao động, hoàn thành tốt nhiệm vụ
được giao; có đạo đức và lối sống lành mạnh; gắn bó mật thiết với nhân dân; phục
tùng tổ chức, kỷ luật của Đảng, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng”.
Những tiêu chuẩn đảng viên trên được thể hiện qua các điểm sau:
Footer Page 14 of 126.


Header Page 15 of 126.

1. về lập trường giai cấp, bản lĩnh chính trị
2. Về nhận thức, kiến thức, năng lực thực hiện nhiệm vụ.
3. Về phẩm chất đạo đức, lối sống, phong cách
4. Có ý thức tổ chức kỹ luật, giữ gìn sự đoàn kết thống nhất của Đảng trên cơ
sở thực hiện đúng các nguyên tắc, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, thường xuyên
tự phê bình và phê bình.
5. Có quan hệ mật thiết với quần chúng
6. Kết hợp chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân.
Một là, về lập trường giai cấp, bản lĩnh chính trị
Đảng viên phải tuyệt đối trung thành với lý tưởng, kiên định lập trường cách
mạng, phấn đấu vì mục tiêu, lý tưởng của Đảng; vững vàng, không dao động trước
khó khăn, thử thách.
Mục tiêu phấn đấu, nhiệm vụ của người đảng viên hiện nay là phấn đấu thực
hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước, sớm đưa nước ta ra
khỏi tình trạng kém phát triển, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc XHCN.
=> Đây là thước đo phẩm chất, năng lực, vai trò tiên phong gương mẫu của người
đảng viên.
Hai là, về nhận thức, kiến thức, năng lực thực hiện nhiệm vụ.
Bên cạnh lòng nhiệt tình và dũng cảm đảng viên cần phải không ngừng học
tập, nâng cao trình độ, năng lực. Đặc biệt trong công cuộc đổi mới hiện nay, đòi hỏi
đảng viên phải có kiến thức văn hóa, chuyên môn, có trình độ lý luận, năng lực làm

việc để nắm bắt thời cơ và vượt qua thách thức.
Ba là, về phẩm chất đạo đức, lối sống, phong cách
Phải có lòng yêu nước, tôn trọng và phục vụ nhân dân, tích cực đi đầu trong
tham gia thực hiện công cuộc đổi mới, thống nhất giữa lời nói và việc làm. Bên cạnh
đó phải dũng cảm đấu tranh, phê phán những biểu hiện cá nhân chủ nghĩa, cơ hội,
tham nhũng, lãng phí.
Bốn là, có ý thức tổ chức kỷ luật, giữ gìn sự đoàn kết thống nhất của Đảng trên
cơ sở thực hiện đúng các nguyên tắc, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, thường
xuyên tự phê bình và phê bình.
- Đoàn kết thống nhất là truyền thống quý báo của Đảng và đảng viên phải giữ
gìn vun đắp sự đoàn kết như giữ gìn con ngươi của mắt mình. Đồng thời đấu tranh
với các biểu hiện tiêu cực trong Đảng, không xuê xoa, né tránh.
- Đảng có mạnh là do tất cả đảng viên có tính thống nhất: thống nhất về quan
điểm, về ý trí và về hành động, thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ.
- Đảng viên tích cực tham gia thảo luận đường lối chủ trương của Đảng, chất
vấn tranh luận và lắng nghe ý kiến người khác, chấp hành nghiêm chỉnh quyết định
của tập thể, của Đảng.
Năm là, có quan hệ mật thiết với quần chúng
- Đảng ta xác định “Lấy nhân dân làm góc” và Đảng giữ mối liên hệ chặt chẽ
với nhân dân và phát huy dân chủ, coi dân chủ vừa là mục tiêu vừa là động lực của
công cuộc đổi mới.
Vì vậy, đảng viên dù ở cương vị nào cũng phải tôn trọng và phát huy quyền
làm chủ của nhân dân, lắng nghe tâm tư nguyện vọng của nhân dân, giúp đở dân khi
gặp khó khăn.
Footer Page 15 of 126.


Header Page 16 of 126.

Kiên quyết đấu tranh chống bệnh quan liêu, mệnh lệnh, gia trưởng, độc đoán,

đặc quyền, đặc lợi, trù dập ức hiếp dân và mọi hành vi vi phạm quyền làm chủ của
nhân
dân.
Muốn gắn bó được với quần chúng nhân dân thì ngoài tiêu chuẩn của nhân cách đảng
viên thì phải thể hiện được năng lực hoạt động chính trị, thực tiễn, phương pháp và
phong cách làm việc của đảng viên.
=> Đây là một vấn đề hết sức quan trọng, quyết định sự tín nhiệm của nhân dân đối
với đảng viên.
Sáu là, kết hợp chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công
nhân.
Trong suốt quá trình lãnh đạo, Đảng ta luôn luôn kết hợp chặt chẽ giữa chủ nghĩa yêu
nước và chủ nghĩa quốc tế.
Ngày nay bước vào giai đoạn mới, vấn đề đoàn kết quốc tế của nước ta mang
nội dung mới. Đó là, kết hợp chặt chẽ giữa chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế
trong sáng, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, nguồn lực bên trong và
bên ngoài.
Trên đây là 06 nội dung phấn đấu của bản thân. Còn về phần liên hệ bản thân đồng
chí tự liên hệ.

câu 2:
một số nội dung quan điểm phát huy sức mạnh toàn dân tộc và nội dung, giải
pháp!
1. Một số nội dung, quan điểm:
Một là, đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với
giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Hai là, đại đoàn kết là sự nghiệp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị mà hạt
nhân lãnh đạo là các tổ chức đảng, được thực hiện bằng nhiều biện pháp, hình
thức, trong đó các chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước có
ý nghĩa quan trọng hàng đầu..
Ba là, vấn đề đại đoàn kết toàn dân tộc bắt đầu từ sự đặt đúng vị trí của yếu

tố lợi ích, theo quan điểm được xác định từ Nghị quyết Trung ương 8B khoá
VI là: "Động lực thúc đẩy phong trào quần chúng là đáp ứng lợi ích thiết
thực của nhân dân và kết hợp hài hoà các lợi ích, thống nhất quyền lợi và
nghĩa vụ công dân".
Bốn là, thực hiện dân chủ và phát huy chủ nghĩa yêu nước là những yếu tố
quan trọng để củng cố và phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Chủ
nghĩa yêu nước luôn luôn là động lực lớn nhất của dân tộc ta trong quá trình
lịch sử. Dân chủ vùa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng.
2. NỘI DUNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY SỨC MẠNH TOÀN DÂN
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Footer Page 16 of 126.


Header Page 17 of 126.

theo tinh thần ĐH XI của Đảng, các chính sách của Nhà nước hiện
hành đã xác định nội dung, giải pháp phát huy sức mạnh toàn dân tộc hiện
nay là:
- Lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất của Tổ quốc, vì dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng để
gắn bó đồng bào các dân tộc, các tôn giáo, các tầng lớp nhân dân ở trong
nước và người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
- Tôn trọng những ý kiến khác nhau không trái với lợi ích của dân tộc.
- Đề cao truyền thống nhân nghĩa, khoan dung, xây dựng tinh thần cởi
mở, tin cậy lẫn nhau vì sự ổn định chính trị và đồng thuận xã hội.
- Đại đoàn kết là sự nghiệp của cả hệ thống chính trị bao gồm Đảng,
Chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, trong đó vai trò
hạt nhân lãnh đạo là tổ chức đảng.
- Nhà nước có vai trò to lớn trong việc thực hiện đại đoàn kết toàn dân
tộc bằng việc thể chế hoá đường lối, chủ trương của Đảng thành chính sách,

pháp luật; tổ chức thực hiện các chính sách, pháp luật một cách có hiệu quả,
thông qua bộ máy công quyền trong sạch, công tâm, hết lòng phục vụ nhân
dân.
- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân đóng vai trò đại
diện cho lợi ích chung và lợi ích từng giai cấp, từng giới quần chúng, đồng
thời là cầu nối giữa Đảng, chính quyền và nhân dân.
- Đại đoàn kết phải được thực hiện từ cơ sở, trong từng cộng đồng dân
cư ở cơ sở như thôn, làng, bản, ấp, tổ dân phố, cơ quan, đơn vị...
- Thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc trong giai đoạn trước mắt cần:
+ Thực hiện đồng bộ các chính sách, pháp luật của Nhà nước nhằm
phát huy dân chủ.
+ Tổ chức và động viên nhân dân tham gia các phong trào thi đua yêu
nước, làm kinh tế giỏi, phát triển kinh tế với văn hóa-xã hội.
+ Chăm lo và bảo vệ lợi ích của các tầng lớp nhân dân, bảo đảm công
bằng xã hội.
+ Tôn trọng và phát huy vai trò gương mẫu, dẫn dắt của những người
tiêu biểu, có uy tín trong cộng đồng.

Footer Page 17 of 126.



×