Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

Thực trạng độc quyền hiện nay tại việt nam (nguyên nhân giải pháp)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (210.12 KB, 34 trang )

MỤC LỤC

Trang
Lời mở đầu..................................................................................

2

Phần mở đầu...............................................................................

3

Chương 1. Một số vấn đề lý luận về độc quyền và độc quyền nhà nước
1.1.

Khái niệm độc quyền và độc quyền nhà nước......................

8

1.1.1 . Khái niệm độc quyền............................................................

8

1.1.2.

9

Khái niệm độc quyền nhà nước..........................................

1.2. Độc quyền nhà nước ở một số quốc gia trên thế giới............

10



Chương 2. Thực trạng độc quyền nhà nước ở Việt Nam hiện nay
2.1. Thực trạng độc quyền nhà nước............................................

12

2.2. Ảnh hưởng của độc quyền nhà nước đến kinh tế - xã hội Việt Nam 20
2.2.1.Tích cực.................................................................................

20

2.2.2. Tiêu cực.........................................................................

21

Chương 3. Giải pháp đối với độc quyền nhà nước ở Việt Nam giai

21

đoạn hiện nay
Phần kết luận...............................................................................

29

1


LỜI MỞ ĐẦU
Để nghiên cứu về thực trạng độc quyền nhà nước ở Việt Nam hiện nay,
nhóm 9 đã cùng tìm hiểu, phân tích đề tài này dựa trên cơ sở lí luận và học

thuyết kinh tế của Chủ nghĩa Mác – Lênin, đồng thời tham khảo và sưu tầm từ
nhiều nguồn tài liệu tin cậy khác.
Hy vọng công trình sẽ phần nào đáp ứng được các tiêu chí về nội dung
của đề tài này, quán triệt rõ ràng về nguyên nhân và giải pháp đối với thực
trạng độc quyền nhà nước ở Việt Nam hiện nay.
Rất mong được sự đóng góp ý kiến của giảng viên và các bạn để bài tập
lớn của nhóm được hoàn thiện hơn.

2


PHẦN MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài
Độc quyền đã gây ra rất nhiều thiệt hại cho người tiêu dùng, nhưng đáng

ngạc nhiên là trong thời kỳ đẩy mạnh hội nhập và cải cách thể chế xu hướng
này không bị bài trừ đi mà vẫn còn tồn tại song song với phát triển kinh tế. Mà
biểu hiện tồn tại mạnh mẽ nhất là ĐỘC QUYỀN NHÀ NƯỚC !
Mỗi nhà nước đều có vai trò kinh tế nhất định, tuy nhiên việc can thiệp
quá sâu vào các khâu sản xuất như: sản xuất, phân phối, lưu thông, tiêu dùng
phần nào đó lại làm kím hãm sự phát triển kinh tế; độc quyền nhà nước mang
tính hiệu quả không cao, tạo ta nhiều sự bất công trong cạnh tranh giữa các
doanh nghiệp. Bên cạnh đó độc quyền nhà nước dễ trở thành một công cụ
nhằm phụ vụ cho việc thao túng thị trường của một vài thành phần kinh tế.
Mặc dù nhà nước ta thừa nhận sự tồn tại của các thành phần kinh tế và
khẳng định quyền bình đẳng giữa các thành phần kinh tế nhưng khi thực hiện
các cơ quan chức năng vẫn lơ là không thực hiện đúng trách nhiệm. Điều nay
gây nên sự thiếu tính cạnh tranh giữa các công ty nhà nước và công ti tư nhân.

Trong thực tế ở Việt Nam kể từ sau giai đoạn mở cửa và hội nhập các
công ti nước ngoài ồ ạt đầu tư vào nền kinh tế nước nhà trong lúc các công ty
tư nhân và một số doanh nghiệp nhà nước vẫn còn trì trệ thì những công ti
nước ngoài và công ti có vốn đầu tư nước ngoài phát triển rất mạnh mẽ, đây là
nguyên nhân chính dẫn đến việc độc quyền tăng cao. Một số mặt hàng thiết
yếu như: điện, nước, xăng, dầu… những mặt hàng này không hề tồn tại tính
cạnh tranh.
Chính bởi vì không có tính cạnh tranh nên giá cả tùy thuộc vào các công
ty độc quyền, giá cả leo thang khiến người chịu thiệt hại nhiều nhất là người
dân bên cạnh đó việc độc quyền thị trường ở Việt Nam còn khiến cho các
công ti với quy mô nhỏ lẻ dễ bị chèn ép. Việc phá sản là điểu dễ xảy ra và hệ
lụy là sự thất nghiệp của người lao động.

3


Trong công cuộc mở cửa thị trường hôm nay việc làm hài hòa đi ranh
giới giữa độc quyền nhà nước và các công ty tư nhân là việc không thể thiếu,
với mục đích duy nhất là tạo ra một nền kinh tế với đà tăng trưởng đem lại lợi
ích cho cộng đồng nhằm đưa đất nước phát triển và đi lên, hội nhập và xúc
tiến thương mại.
Nhận thức rõ được điều này Đảng và nhà nước ta đã có những thay đổi
trong chính sách thế hiện quyết tâm xây dựng một nên kinh tế công bằng,
minh bạch, nâng cao hiệu quả.
Tuy nhiên dưới góc độ thực tiễn việc này vẫn là một vấn đề phức tạp, có
mối liên quan sâu sắc với nhiều thành phần xã hội, thiết thấy chưa có nhiều
nghiên cứu về vần đề này sau đây nhóm 9 chọn vấn đề “Thực trạng độc quyền
nhà nước ở Việt Nam nguyên nhân và giải pháp” làm đề tài nghiên cứu.
2.


Mục đích nghiên cứu
Làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn về thực trạng độc quyền nhà nước ở Việt

Nam đồng thời nêu ra nguyên nhân và giải pháp khắc phục giúp phát triển
kinh tế.
3.

Đối tượng nghiên cứu
Bài tập trung nghiên cứu về thực trạng độc quyền nhà nước ở Việt Nam

hiện nay, nguyên nhân gây ra thực trạng này và đưa ra các biện pháp thiết thực
nhất để giải quyết thực trạng độc quyền trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.
4.

Phạm vi nghiên cứu
Về mặt không gian: Nền kinh tế thị trường định hướng ở Việt Nam
Về mặt thời gian: Sau công cuộc đổi mới
Quy mô: Cả nền kinh tế

5.

Nhiệm vụ nghiên cứu

5.1.

Hệ thống hóa những vấn đề lý luận
4



Đánh giá thực trạng độc quyền nhà nước ta hiện nay với việc chỉ ra
nguyên nhân, biểu hiện, thành tựu, hạn chế và những vấn đề đặt ra trong
chống độc quyền nhà nước ta.
Đề xuất các quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu để giải quyết thực
trạng độc quyền nhà nước.
5.2.

Thực trạng độc quyền nhà nước ở Việt Nam

Độc quyền Việt Nam chủ yếu là độc quyền nhà nước. Do các công ty tư
nhân chưa có quyền lực về kinh tế để chiếm vị trí độc quyền trong các ngành
kinh tế chính. Cùng với quá trình mở cửa của thị trường thông qua việc kí kết
và gia nhập các hiệp định song song và đa phương, do đó xuất hiện các công
ty đa quốc gia hoạt động tại Việt Nam, với sức mạnh kinh tế của mình, các
công ty này dễ dàng chiếm lĩnh thị trường. Trong khi đó các doanh nghiệp nội
địa Việt Nam với tiềm lực hạn chế đang dần bị loại bỏ khỏi nền kinh tế. Thực
trạng này hiện đang nổi lên vấn đề lạm dụng độc quyền để vụ lợi, biến độc
quyền nhà nước thành độc quyền doanh nghiệp. Tự ý thay đổi giá cả của hàng
hóa, dịch vụ đã để lại hậu quả: tỉ lệ tăng trưởng kinh tế tính trên vốn đầu tư
của Việt Nam bị suy giảm.
Ngoài ra độc quyền nhà nước còn thể hiện ở việc kết hợp về nhân sự giữa
tổ chức độc quyền và bộ máy nhà nước. Các tổ chức độc quyền đã cử người
của họ tham gia vào bộ máy Chính phủ với những cương vị khác nhau. Mặt
khác, các quan chức và nhân viên Chính phủ được mời tham gia vào hội đồng
quản trị hoặc đỡ đầu cho các tổ chức độc quyền. Sự thâm nhập lẫn nhau này
đã tạo ra những biểu hiện mới trong mối quan hệ giữa các tổ chức độc quyền
và cơ quan nhà nước, từ trung ương đến địa phương.
Như vậy, nền kinh tế Việt Nam chủ yếu do các doanh nghiệp nhà nước độc
quyền nắm giữ. Các doanh nghiệp độc quyền nhà nước này được xây dựng
trên chủ trương của Chính phủ, được sự đầu tư, bảo hộ của Chính phủ, do đó

không có gì ngạc nhiên khi họ có một vị thế, tầm ảnh hưởng to lớn trong nền
kinh tế.

5


5.3.

Đề xuất các biện pháp, giải pháp, khuyến nghị

Để cải thiện vấn đề độc quyền nhà nước ở Việt Nam hiện nay, trước hết,
Nhà nước cần có một số biện giải pháp:
- Tạo mọi cơ hội, đối xử công bằng để các doanh nghiệp được tự do cạnh
tranh trong khuôn khổ pháp luật.
- Nhà nước khuyến khích cạnh tranh lành mạnh.
- Ngăn chặn hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
- Kiểm soát chặt chẽ việc định giá đối với một số sản phẩm dịch vụ hiện
nay còn độc quyền như: điện, vận tải, hàng không... để giá giảm xuống ngang
mức trung bình của các nước khu vực.
- Nên tiến hành kiểm toán định kì đối với các doanh nghiệp nhà nước còn
độc quyền, để có biện pháp kịp thời hạn chế sự độc quyền của doanh nghiệp
này.
- Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tư nhân khác kinh doanh các lĩnh vực
như: điện, xăng dầu, vận tải, viễn thông...
6. Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên cơ sở lí luận và phương pháp luận chung theo Học thuyết kinh tế
của Chủ nghĩa Mác-Lênin để tìm hiểu và nghiên cứu. Ngoài ra, có sự phân
tích, thống kê, so sánh tổng hợp từ nhiều nguồn tài liệu khác nhau.
-


Phương pháp chung: để thực hiện đề tài, tác giả sự dụng tổng hợp

các phườn pháp trong đó lấy phương pháp luận duy vật lịch sử làm phương
pháp luận chung trong nghiên cứu
-

Phương pháp chuyên ngành: Dựa trên cơ sở lý luận chung, luận án

sử dụng các phương pháp nghiên cứu đặc thù của kinh tế chính trị Mác –
Lênin: phương pháp trìu tượng hóa khoa học, làm cơ sở trong việc nghiên cứu
triển khai. Bên cạnh đó luận án coi trọng việc điều tra, tổng kết thực tiễn,
phương pháp hệ thống, phân tích, tổng hợp, phương pháp logic- lịch sử, điều
tra xã hội học, thống kê, so sánh, khảo sát… để nghiên cứu từ đó khái quát hóa
nêu lên những kiến nghị hoàn thiện giải pháp. Các phương pháp được sử dụng
cụ thể là:
6


Một là, hệ thống hóa các văn bản chính sách cạnh tranh, độc quyền nhất là
các quy định, chính sách, pháp luật, thể chế tác động trực tiếp, gián tiếp đến
cạnh tranh, chống độc quyền doanh nghiệp ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Hai là, tiến hành phân tích thống kê, so sánh, tổng hợp các tài liệu, số liệu
từ các văn bản, báo cáo của các cơ quan nhà nước, các công trình nghiên cứu
của các tác giả, các bài viết có lien quan đến độc quyền, chống độc quyền
doanh nghiệp như: số liệu báo cáo từ các cơ quan có liên quan của Đảng, Nhà
nước (ban chấp hành trung ương Đảng , Chính phủ, tổng cục thống kê, đặc
biệt là nguồn số liệu cục quản lí cạnh tranh - Bộ công thương) các kết quả
công bố của các hội nghị, hội thảo, các cuộc điều tra khảo sát và những thông
tin, số liệu thu nhập thông qua khảo sát và những thông tin, số liệu thu nhập
thông qua việc đi khảo sát tại các cơ quan, doanh nghiệp.

Ba là, lý án sử dụng các phương pháp sơ đồ, bảng, biểu nhằm minh chứng
cho những đánh giá, nhận định, đồng thời khái quát hóa lý luận và thực tiễn,
thấy được mối quan hệ giữa các quy định và chính sách với kết quả của tạo lập
môi trường cạnh tranh, chống độc quyền doanh nghiệp.
Bốn là, sử dụng phương pháp xin ý kiến chuyên gia, trao đổi với các nhà
khoa học về vấn đề lý luận cũng như thực tiễn trong chống độc quyền về
doanh nghiệp nước ta.
7. Kết cấu của đề tài
Đề tài gồm 3 chương chính:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về độc quyền và độc quyền nhà nước:
Các khái niệm và độc quyền ở một số quốc gia.
Chương 2: Thực trạng độc quyền nhà nước ở Việt Nam hiện nay: Thực
trạng và ảnh hưởng của độc quyền nhà nước với kinh tế xã hội Việt Nam.
Chương 3: Giải pháp đối với độc quyền nhà nước ở Việt Nam giai đoạn
hiện nay.

7


PHẦN NỘI DUNG
Chương 1. Một số vấn đề lý luận về độc quyền và độc quyền
nhà nước
1.1.

Khái niệm độc quyền và độc quyền nhà nước

1.1.1. Khái niệm độc quyền
Nghiên cứu chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, C.Mac và Ph.Angghen đã
dự báo rằng: tự do cạnh tranh sinh ra tích tụ và tập trung sản xuất, tích tụ và
tập trung sản xuất phát triển đến một mức độ nào đó sẽ dẫn đến độc quyền.

Độc quyền là một tình huống trong đó một công ty hoặc một tập đoàn ,
một nhóm các công ty chiếm lĩnh gần như toàn bộ thị trường đối với một loại
hàng hóa hoặc dịch vụ nào đó.
Độc quyền, trong kinh tế học, là trạng thái thị trường chỉ có duy nhất một
người bán và sản xuất ra sản phẩmkhông có sản phẩm thay thế gần gũi. Trong
tiếng Anh monopoly có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp monos (nghĩa là một) và
polein (nghĩa là bán). Đây là một trong những dạng của thất bại thị trường, là
trường hợp cực đoan của thị trường thiếu tính cạnh tranh. Mặc dù trên thực tế
hầu như không thể tìm được trường hợp đáp ứng hoàn hảo hai tiêu chuẩn của
độc quyền và do đó độc quyền thuần túy có thể coi là không tồn tại nhưng
những dạng độc quyền không thuần túy đều dẫn đến sự phi hiệu quả của lợi
ích xã hội.
Độc quyền gồm 2 loại: độc quyền tự nhiên và độc quyền thường
Độc quyền thường là trạng thái thị trường chỉ có duy nhất một người bán
và sản xuất ra sản phẩm, không có loại hàng hóa nào thay thế gần gũi. Tuy
nhiên, trên thực tế không có loại độc quyền thường.
Độc quyền tự nhiên là tình trạng trong đó các yếu tố hàm chứa trong quá
trình sản xuất đã cho phép hãng có thể liên tục giảm chi phí sản xuất khi quy
mô sản xuất mở rộng, do đó đã dẫn đến cách tổ chức sản xuất hiệu quả nhất là
chỉ thông qua một hãng duy nhất. Chẳng hạn, độc quyền trong ngành điện là
một ví dụ cho hình thức độc quyền tự nhiên.
8


Độc quyền là một ví dụ điển hình khi nhắc tới CNTB. Phần lớn mọi người
đều tin rằng thi trường sẽ không hoạt động nếu chỉ có một người duy nhất
cung cấp hàng hóa và dịch vụ vì họ sẽ không có động lực để hoàn thiện và đáp
ứng nhu cầu của khách hàng. Tuy nhiên độc quyền sẽ vẫn tồn tại vẫn sẽ vẫn có
nhu cầu về hàng hóa dịch vụ đó. Ví dụ như trên thị trường có sự độc quyền về
nước. Cho dù giá bán nước có cao và chất lượng không tốt thì người dân vẫn

mua và sử dụng.
Một số tập đoàn độc quyền ở Việt Nam: Tập đoàn điện lực Việt Nam
EVN, tập đoàn viễn thông quân đội Viettel, tập đoàn công nghiệp than kháng
sản Việt Nam Vinacomin, tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam PVN, tập đoàn
bưu chính viễn thông Việt Nam VNPT.
1.1.2. Khái niệm độc quyền nhà nước
Độc quyền nhà nước là hình thức nhà nước chi phối hoạt động của một
hàng hóa hoặc dịch vụ nào .
Khi “Nhà nước không cho phép bất kỳ một công ty tư nhân nào cạnh
tranh” thì đó là độc quyền nhà nước. Vì vậy khái niệm độc quyền nhà nước
không phải là khái niệm “để chỉ các công ty có vị trí thống lĩnh hoặc sức mạnh
thị trường nhờ các hạn chế về cạnh tranh do Nhà nước tạo ra”.
Một số nguyên nhân chính khiến độc quyền xảy ra:
Một là, do sự đụng độ, cạnh tranh gay gắt giữa các công ty mà đa phần là
nhờ nhà nước hậu thuẫn dẫn đến sự thâu tóm về thị trường của một mặt hàng
nào đó.
Hai là, Chính phủ nhường quyền khai thác một tài nguyên nào đó: Chính
quyền địa phương có thể nhường quyền khai thác một tài nguyên nào đó. Hay
nhà nước nhường quyền buôn bán thương mại cho một công ti nào đó.
Ba là, kinh phí quá cao thị trường có thể bị hạn chế trong một lĩnh vực nào
đó và nếu trong một khu vực chỉ có một doanh nghiệp cung cấp một loại sản
phẩm nào đó sẽ dẫn đến tình trạng gần như chiếm đạt thị trường trong kinh
doanh.

9


Bốn là, chế độ sở hữu đối với phát minh nào đó và sở hữu trí tuệ: một mặt
thúc đẩy những sang kiến trí tuệ một mặt lại độc quyền về phát minh đó và
được bảo vệ bởi các văn bản pháp lý nhà nước.

Năm là, do sử hữu một nguồn nguyên liệu lớn hay còn gọi là kiểm soát yếu
tố đầu vào của sản phẩm: điều đó giúp cho người nắm giữ nó có vai trò gần
như trọn vẹn trong sản xuất. Ví dụ như Columbia có nguồn nguyên liệu Coca
lớn nhất thế giới nên nó gần như đứng đầu thế giới về mảng này.
Sáu là, đạt được tính quy mô, yếu tố quan trọng trong quyết định thị trường
là đạt sản lượng ở mắc quy mô tối thiểu có hiệu quả với cầu của thị trường.
1.2.

Độc quyền nhà nước ở một số quốc gia trên thế giới

Theo khảo sát của ICN, trên thế giới các ngành có độc quyền nhà nước
nhiều nhất là: dịch vụ bưu chính, xổ số, sân bay/hạ tầng sân bay, hàng hóa
(chủ yếu là nông sản), cảng biển, bảo hiểm, hàng không, giao thông công
cộng...
Trong những năm 1900, ở Mỹ, Đức, Anh ,Pháp đều có tình hình là các xí
nghiệp lớn chỉ chiếm khoảng 1% tổng số xí nghiệp nhưng chiếm hơn ¾ tổng
số máy hơi nước và điện lực, gần một nửa tổng số công nhân và sản xuất ra
gần một nửa tổng số sản phẩm.
Chính phủ Anh độc quyền buôn bán với Ấn Độ cho công ty Đông Ấn.
Trước 2017, hoạt động sản xuất và phân bố muối tinh ở Trung Quốc chịu
sự kiểm soát của Chính phủ. Với chính sách hiện hành, các công ty Trung
Quốc phải sản xuất và phân phối muối tinh chế theo hạn ngạch mà chính phủ
phân bố.
Trung Quốc hiện nổi lên như là một cường quốc kinh tế trên thế giới với
mức tăng trưởng cao và liên tục trong nhiều năm trở lại đây (trung bình tăng
trưởng 5,5%/năm). Để duy trì tăng trưởng Trung Quốc phải gia tăng tiêu thụ
năng lượng dẫn tới nhu cầu nhập khẩu dầu tăng cao (đứng thứ hai thế giới, sau
Mỹ). Điều này dẫn tới Trung Quốc quản lý giá xăng dầu hết sức chặt chẽ.
Cơ quan có thẩm quyền phê duyệt và công bố giá xăng dầu của Trung
Quốc là Ủy ban cải cách và phát triển quôc gia Trung Quốc thông qua việc sử

10


dụng các biện pháp kiểm soát giá, thu nhiều loại thuế, xếp kinh doanh xăng
dầu vào kinh doanh có điều kiện, kiểm soát kế hoạch phân bổ dầu thô trong
nước…
Về kiểm soát giá: các biện pháp kiểm soát việc thực thi như kiểm soát giá
bán buôn, bán lẻ và chênh lệch giữa hai loại giá này, kiểm soát giá bán dầu
thô giữa các công ty khai thác và nhà máy lọc dầu.
Về thuế: gồm nhiều loại thuế được ban hành nhằm kiểm soát hoạt động
xuất nhập khẩu xăng dầu như thuế nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng…
Kinh doanh xăng dầu có điều kiện: quy định nghiêm ngặt việc kinh doanh
xăng dầu; kiểm soát các tiêu chuẩn kỹ thuật, quy định kho chứa, dự trữ tối
thiểu, hệ thống phân phối…
Đến thời điểm hiện nay, Trung Quốc vẫn chưa cho tự do hóa thị trường
xăng dầu, do vậy nhằm nâng cao khả năng hoạt động của các công ty dầu khí,
Trung Quốc đã tiến hành cải tổ nhiều loại hình công ty này, đặc biệt là sự sát
nhập nhiều tập đoàn, công ty xăng dầu lớn thành một hoặc vài “siêu tập đoàn”
như SINOPEC ở khâu thượng nguồn và PETROCHINA ở khâu hạ nguồn.
Nam Phi được sở hữu những mỏ kim cương chiếm phần lớn sản lượng thế
giới.
Cho đến năm 1985, ngành bưu chính viễn thông của Nhật Bản vẫn là độc
quyền của công ty nhà nước NTT (Nippon Telegraph and Telephone).
Mục tiêu tạo ra độc quyền nhà
nước
Nghĩa vụ thực hiện dịch vụ công
ích để đảm bảo rằng người dân có thể
tiếp cận được các dịch vụ quan
trọng/thiết yếu


Quốc gia
Úc, Cộng hòa Czech,
Pháp, Đức, Hungary, Nhật
Bản, Hàn Quốc, Serbia, Anh,
Mỹ

Nhà nước đầu tư vào cơ sở hạ tầng
và các ngành quan trọng như là một
phần của chính sách thay thế nhập
khẩu trước đây

Brazil, Thổ Nhĩ Kỳ

Để phù hợp với khuyến nghị của
Ủy ban châu Âu

Cộng hòa Czech

11


Ngăn ngừa hành vi cá cược bất hợp
pháp và cấm khuyến khích cờ bạc quá
mức và loại trừ các mục đích vì lợi
nhuận

CHLB Đức, Hungary

Tiếp thị theo một cách có trật tự
đối với ngành ngũ cốc và thực hiện

đòn bẩy về quy mô để đạt mức giá cao
nhất

Canada

Thực hiện độc quyền nhà nước về
rượu để ngăn ngừa tiêu dùng quá mức
bằng cách hạn chế các động cơ kinh tế
của việc bán rượu

Mỹ

An toàn công cộng trong độc
quyền taxi

Mỹ

Lợi ích công: can thiệp của nhà
nước được đảm bảo nếu khu vực tư
nhân thất bại trong việc tạo ra hàng
hóa/dịch vụ theo yêu cầu

Hà Lan

Đảm bảo an ninh giao thông hàng
không, vũ trụ, hàng hải; dịch vụ khí
tượng thủy văn, bao gồm bộ phận vệ
tinh

LB Nga


Chương 2. Thực trạng độc quyền nhà nước ở Việt Nam hiện
nay
2.1. Thực trạng độc quyền nhà nước
Thực trạng hiện nay: Sự độc quyền nhà nước bị biến tướng thành độc
quyền doanh nghiệp. Tâm lý ỷ nại, trông chờ vào sự bao cấp, bảo hộ, bù lỗ của
Nhà nước mà không tăng cường đầu tư trang thiết bị, cơ sơ vật chất và đổi mới
phương pháp làm việc. Cạnh tranh với các doanh nghiệp trong nước và nước
ngoài,nhất là trong giai đoạn đổi mới, mở cửa thị trường và gia nhập WTO.
Ở nước ta hiện nay đang tồn tại khá nhiều ngành nghề, lĩnh vực chịu sự độc
quyền của nhà nước. Các doanh nghiệp này kinh doanh theo mô hình khép kín
vừa thực hiện các khâu cuối. Nền kinh tế Việt Nam ngày càng hội nhập sâu
vào nền kinh tế thế giới, chính vì vậy chúng ta cần có những thay đổi trong
công tác quản lý cũng như điều hành kinh tế, tạo ra môi trường cạnh tranh
lành mạnh cho các doanh nghiệp phát triển một cách thuận lợi hơn. Tuy nhiên
hiện nay chúng ta vẫn ưu ái cho một số các ngành nghề đã dẫn tới việc độc
12


quyền tạo ra những tổn thất không nhỏ cho xã hội. Chính sự độc quyền này
góp phần không nhỏ trong việc làm chậm quá trình tăng trưởng cũng như phát
triển của Việt Nam.
Các ngành độc quyền có ảnh hưởng lớn đến kinh tế Việt Nam như: điện,
nước, xăng, viễn thông... Mỗi lần tăng giá các ngành đều trình bày khó khăn
riêng của mình và một câu nghe khá quen : ''So với nước ngoài thì tăng như
vậy là hợp lý'' Nhưng ở mỗi người chúng ta đều cảm nhận được từ các ngành
trên có khó khăn hay lỗ thật không, hay đó là mặt trái của sự độc quyền... Và
thử hỏi thu nhập trung bình của người Việt Nam = 1/5, 1/10, 1/20 các nước
khác không mà lại mang phân tích rằng : nước ngoài tăng 1 USD thì Nước ta
tăng 10 nghìn VND là rẻ hơn các nước khác rồi? Vậy chỉ khổ cho người dân

có thu nhập thấp và đối tượng còn nhỏ phải nhờ vào đồng lương của cha mẹ,
tạo ra nhiều hệ luỵ tiêu cực trong tương lai.
Bộ Công Thương cho rằng: dự thảo Nghị định và Danh mục được xây
dựng với quan điểm chủ đạo là không mở rộng và không tăng thêm các lĩnh
vực độc quyền nhà nước, đồng thời phù hợp với các cam kết quốc tế hiện hành
của Việt Nam.
Bộ này cho hay khi xây dựng dự thảo đã phối hợp với các Bộ, ngành rà
soát lại toàn bộ hệ thống pháp luật hiện hành để xác định các loại hàng hóa,
dịch vụ sẽ được quy định tại Danh mục. Trong đó có Luật An ninh, Luật Quốc
phòng, Luật Điện lực, Luật Bưu chính, Luật Dự trữ quốc gia... Nghị định về
quản lý hoạt động kinh doanh vàng, về kinh doanh xổ số...
Dựa trên kết quả rà soát và ý kiến các bộ ngành, Danh mục đã được xây
dựng, bổ sung từ 19 ngành nghề lên thành 20 ngành nghề. Toàn bộ các loại
hàng hóa, dịch vụ được liệt kê tại Danh mục đều là các loại hàng hóa, dịch vụ
hiện đang áp dụng độc quyền nhà nước, phù hợp với nguyên tắc quy định tại
khoản 1 điều 4 dự thảo Nghị định là giới hạn phạm vi thực hiện độc quyền nhà
nước chỉ trong các lĩnh vực, địa bàn thiết yếu mà nhà nước cần phải giữ độc
quyền liên quan đến an ninh - quốc phòng, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng
hoặc các thành phần kinh tế khác không muốn hay không có khả năng tham
gia.
13


“Danh mục không mở rộng và cũng không tăng thêm các lĩnh vực độc
quyền nhà nước”, Bộ Công Thương khẳng định. Nói về khả năng điều chỉnh
giảm số lượng ngành nghề độc quyền nhà nước tại Danh mục, Bộ Công
Thương cho rằng: Độc quyền nhà nước đối với các loại hàng hóa, dịch vụ chỉ
giới hạn trong một hoặc một số hoạt động thương mại cụ thể, chứ không phải
với tất cả các hoạt động thương mại có liên quan tới hàng hóa, dịch vụ.
Đối với ngành điện, nhà nước sẽ độc quyền vận hành thủy điện đa mục

tiêu, nhà máy điện hạt nhân, độc quyền vận hành truyền tải, điều độ hệ thống
điện quốc gia.
Với các loại hàng hoá khác, nhà nước sẽ độc quyền xuất nhập khẩu vàng
nguyên liệu và sản xuất vàng miếng, nhập khẩu thuốc lá, kinh doanh xổ số
kiến thiết, đo đạc bản đồ phục vụ quốc phòng.
Một số trường hợp cụ thể:
Ngành điện: ngành điện Việt Nam chủ yếu do EVN – Tập đoàn điện lực
quốc gia Việt Nam cung cấp. Tập đoàn EVN là doanh nghiệp thuộc sở hữu
của Nhà nước kinh doanh đa ngành nghề. Sản lượng của EVN chiếm 75%
lượng điện sản xuất, chiếm 100% về truyền tải và 94% về phân phối điện cả
nước. Do đó EVN chính là một ví dụ điển hình của độc quyền tự nhiên. EVN
tham gia cả 4 khâu gồm phát điện, truyền tải, phân phối điện và điều độ quốc
gia. Ở Việt Nam chưa hề có đối thủ cạnh tranh các công ty sản xuất điện khác,
nếu có đều phải bán điện cho EVN với giá áp đặt đã tạo ra tình trạng độc
quyền một cách nghiêm trọng gây ra những ảnh hưởng không nhỏ đối với sản
xuất và tiêu dùng. Do có tình trạng độc quyền của EVN trong ngành điện
trong nhiều năm qua nên thủ tiêu động lực sản xuất ngành điện của tập đoàn
EVN. Chính vì thế tình trạng thiếu điện ở Việt Nam những năm qua hết sức
nghiêm trọng, tới mức nhiều người bắt đầu ví von rằng sau 30 năm mở cửa
kinh tế thì Việt Nam lại quay về trạng thái liên tục cắt điện như thời bao cấp.
Có thể nói EVN là tập đoàn có kinh doanh điện. Nó sở hữu hệ thống đường
dây tải điện trên cả nước, hệ thống các công ty bán lẻ như Công ty điện lực Hà
Nội hay Công ty điện lực Tp. HCM. EVN cũng sở hữu khoảng 85% năng lực
sản xuất điện toàn quốc.
14


EVN mua điện của các nhà sản xuất điện độc lập cung cấp này qua các hợp
đồng dài hạn. Nó có ưu thế là có thể ép giá các nhà cung ứng độc lập vì nó là
người mua duy nhất. Nó cũng không gặp tổn hại gì nếu hoạt động không hiệu

quả. Trên thực tế nó có ít động cơ phải hoạt động hiệu quả hơn trừ khi Chính
phủ ép buộc. Một ví dụ về phi hiệu quả là thất thoát trên đường truyền và
trong phân phối của ngành điện là 12.2% năm 2004 (theo số liệu của World
Bank), 11.02% năm 2006 - ở mức so với các nước trong khu vực. Con số giảm
khiêm tốn từ năm 2004 đến năm 2006 là do sức ép của thủ Chính phủ yêu cầu
ngành điện phải cắt giảm thất thoát xuống dưới mức 8%. Tuy nhiên, EVN
cũng thường khẳng định là khó lòng có thể giảm xuống thấp hơn.
Gần như độc quyền trên thị trường bán buôn, độc quyền bán lẻ và đường
dây tải, EVN không có lý do gì phải làm hài lòng khách hàng. Người tiêu
dùng điện hoặc phải tìm đến nó hoặc tự sản xuất điện. Là một nhà độc quyền,
EVN có quyền xác định lượng điện phải cung cấp là bao nhiêu, tối thiểu cũng
tới mức làm cung – cầu cân bằng. Nói cách khác nếu nó sản xuất được 10MW,
nó sẽ tăng giá tới mức mà nhu cầu dùng điện chỉ còn đúng 10MW. Thậm chí
nó có thể đóng cửa một số nhà máy điện không hiệu quả để tiếp tục giảm
nguồn cung điện xuống và gây sức ép tăng giá lên hơn nữa. Bằng chứng là hầu
như không năm nào EVN không đề nghị Chính phủ cho tăng giá. Tháng 5
năm 1997, EVN yêu cầu Chính phủ cho tăng giá thêm 13%. Tháng 6 năm
1998, EVN đòi tăng giá 32% từ 689 đồng/kw lên 910 đồng/kw. Tháng 9
năm 1999, EVN lại đòi tăng thêm 6% cho khu vực hộ gia đình và 10-12%
cho công nghiệp. Tháng 7 năm 2000 tăng 10%. Tháng 10 năm 2002 tăng
12-13%. Cuối 2003 tăng 5.4%....tuy nhiên phần lớn các đề nghị này đều bị
Chính phủ từ chối. Ngành điện vừa ở vào thế độc quyền, vừa chưa có những
báo cáo minh bạch về tình hình tài chính nội bộ, nên việc tăng giá điện có thể
bắt nguồn chủ yếu từ sức mạnh độc quyền đặt giá, thay vì những khó khăn
thực sự về tài chính như vẫn được nêu ra. Khi EVN tăng giá điện điều này làm
cho ngân sách hộ gia đình giảm đi tương đối. Tiếp theo nữa là việc tăng giá
điện cũng sẽ dẫn đến sự tăng lên của tất cả các ngành sản xuất có điện là đầu
vào, làm cho các mặt hàng này cũng tăng giá theo. Ảnh hưởng chung đến sự
15



tiêu dùng của người dân cũng như tốc độ phát triển chung của nền kinh tế.
Hơn nữa việc EVN cắt điện luân phiên đã tạo ra một sự lãng phí lớn.
Hoạt động thiếu hiệu quả và liên tục đòi tăng giá này không phải là sản
phẩm tất yếu của độc quyền. Một nhà độc quyền thường bòn rút khách hàng
đến cùng trừ khi anh ta bị ngăn cấm làm điều đó. Nhưng ngay cả khi bị cấm,
một nhà độc quyền vẫn có cách để tư lợi cho mình. Phương pháp cổ truyền là
đẩy chi phí lên cao bằng nhiều cách, trong đó có việc tăng lương cho nhân
viên lên cao hơn hằn mặt bằng chung…
Việc sản lượng không tăng đủ nhanh để đáp ứng kịp nhu cầu cũng như tốc
độ mở rộng sản xuất chậm có thể bắt nguồn từ hiệu quả tổ chức - quản lý thấp
do thiếu cạnh tranh trong nội bộ ngành, chứ không phải vì giá điện thấp. Việc
đẩy giá điện trong nước lên ngang bằng với khu vực là chưa hợp lý vì trong
cấu trúc chi phí của ngành, có nhiều loại chi phí thấp hơn các nước khác trong
khu vực (như giá nhân công, nguyên liệu).
Lỗi thiếu điện hiện nay phải được nhìn từ phía quản lý điều hành ngành
điện của Chính phủ. Việc thiếu điện hiện nay gợi nhớ chúng ta về thời kỳ thiếu
gạo những năm 80, rõ ràng Việt Nam hồi đó không thiếu khả năng sản suất
gạo, cũng như bây giờ chúng ta không thiếu khả năng sản xuất điện. Vấn đề là
động cơ để sản xuất. Động cơ chỉ tồn tại trong những cơ chế thích hợp, Chính
phủ đã không tạo ra một cơ chế thích hợp để ngành điện phát triển mới chính
là nguyên nhân dẫn đến tình trạng độc quyền như hiện nay.
Tập đoàn điện lực Việt Nam EVN “ độc quyền trong ngành điện”: là người
đặt ra giá mua điện năng của các nhà máy thủy điện, nhiệt điện… Họ ban hành
mức giá bán lẻ điện theo bậc thang, tăng mức giá lên cao, thường xuyên cắt
điện luân phiên làm đảo lộn cuộc sống người dân, kế hoạc kinh doanh, sản
xuất bị thay đổi, chất lượng cuộc sống bị giảm sút…
Trong ngành điện, tình trạng độc quyền diễn ra rõ nét và thực tế nhất:
Tập đoàn Điện lực Việt Nam là một doanh nghiệp nhà nước của Việt Nam
kinh doanh đa ngành. Theo báo cáo của UNDP 2007, EVN là doanh nghiệp

lớn thứ ba Việt Nam (sau Agribank và VNPT). Lĩnh vực kinh doanh chính là
sản xuất, truyền tải và xuất nhập khẩu điện năng.
16


Tập đoàn điện lực Việt Nam EVN đang độc quyền trong ngành điện, là
người tự đặt ra giá thu mua điện năng của các nhà máy thủy điện, nhiệt điện,
khí điện đạm kể cả thu mua sản lượng điện từ bên ngoài như Trung Quốc…
Do bị ép giá, giá thu mua của ngành điện đưa ra thấp hơn giá thành sản xuất
của nhà máy, nên nhiều nhà máy sản xuất điện năng không phải do tập đoàn
đầu tư bị thua lỗ, cuối cùng phải bán chuyển nhượng lại toàn bộ cổ phần cho
EVN. Tập đoàn này cũng là người bán và phân phối điện phục vụ nhu cầu sinh
hoạt của người dân trong cả nước và quá trình sản xuất của các công ty, doanh
nghiệp. Hiện nay EVN vẫn sử dụng mức giá bán được điều chỉnh và áp dụng
từ ngày1/1/2007 vẫn theo mô hình bậc thang và phương pháp bù trừ chéo như
cũ.
Ngoài ra, độc quyền nhà nước còn diễn ra trong ngành xăng dầu của nước
ta và còn nhiều lĩnh vực khác:
Ngành xăng dầu: Thị trường xăng dầu ở Việt nam hiện nay là một thị
trường độc quyền, vẫn chưa thể thiết lập được một cơ chế theo quy luật cung
cầu của thị trường.Chịu tác động mạnh từ giá xăng dầu thế giới và giá cả
không ngừng biến động. Xăng dầu là một lĩnh vực quan trọng của đất nước
liên quan đến an ninh năng lượng quốc gia. Thời gian vừa qua, Nhà nước và
các cơ quan điều hành cũng đã thực hiện lộ trình xóa độc quyền ở phân phối
sản phẩm xăng dầu. Đến nay, cả nước có 14 doanh nghiệp đầu mối nhập khẩu
phân phối xăng dầu cả trong và ngoài quốc doanh. Tuy nhiên thị trường xăng
dầu đang có xu hướng chuyển dần qua cơ chế thị trường thế nhưng vẫn chưa
thực sự theo bản chất “thị trường” của nó mà dường như xăng dầu Việt Nam
đang tồn tại “độc quyền”
Nhà nước vẫn còn nhúng tay quá sâu, còn các doanh nghiệp vẫn chưa có sự

cạnh tranh thật sự. Các nhà đầu tư nước ngoài vẫn chưa thể thâm nhập vào thị
trường trong nước. Kết quả là tổng công ty dầu khí Việt Nam làm giá dầu
trong nước được bán tăng cao hơn nhiều so với giá dầu trên thị trường quốc tế
so với mức thu nhập trung bình của người dân, hay khai thác dầu thô bán với
giá thấp rồi nhập khẩu dầu tinh chế với giá cao gấp nhiều lần từ các nước
khác.
17


Danh sách 14 doanh nghiệp đầu mối nhập khẩu xăng dầu tại Việt Nam:
1. Tổng công ty xăng dầu Việt Nam (Petrolimex)
2. Tổng công ty dầu Việt Nam (PVoil)
3. Công ty thương mại kỹ thuật và đầu tư (Petec)
4. Công ty Hóa dầu Quân Đội (Mipec)
5. Công ty TNHH MTV dầu khí Tp HCM (SaigonPetro)
6. Công ty thương mại dầu khí Đồng Tháp (Petimex)
7. Tổng công ty xăng dầu Quân đội
8. Công ty xăng dầu hàng hải Việt Nam
9. Công ty thương mại xuất nhập khẩu Thành Lễ
10. Công ty THNN điện lực Hiệp Phước
11. Công ty CP xăng dầu hàng không (Vinapco)
12. Công ty CP nhiên liệu bay Petrolimex.
13.Công ty TNHH vận tải thủy bộ Hải Hà
14.Công ty Lọc Hóa Dầu Nam Việt (Nam Việt Oil)
Riêng Petrolimex chiếm khoảng 60% thị phần, còn lại 13 doanh nghiệp
khác chiếm chưa đầy 40% thị phần. Trong 13 doanh nghiệp đó, anh lớn hơn
thì được 5-7% thị phần, anh nhỏ chưa đủ 1%, tính chung lại mỗi anh chỉ hơn
3% thị phần, tức chỉ bằng 1/20 so với anh cả Petrolimex. Không bao giờ có
cạnh tranh trong bối cảnh như vậy. Rõ ràng ở đây Petrolimex đã trở thành gã
khổng lồ, độc quyền thị trường xăng dầu Việt Nam.

Tổng công ty xăng dầu Việt Nam hiện có 41 công ty thành viên , 34 chi
nhánh và xí nghiệp trực thuộc các công ty thành viên 100% vốn nhà nước, có
23 công ty cổ phần có vốn góp chi phí của tổng công ty, có 3 công ty liên
doanh với nước ngoài và có một chi nhánh tại Singapore. Kinh doanh xăng
dầu là lĩnh vực kinh doanh chủ đạo của Petrolimex. Hàng năm tổng công ty
nhập khẩu 7-8 triệu m3 xăng dầu, chiếm khoảng 60% thị phần nội địa. Doanh
thu xăng dầu trung bình năm đạt trên 25000 tỷ đồng, chiếm 80% tổng doanh
thu toàn ngành. Hiện nay Petrolimex là một trong những tập đoàn lớp nhất
nước ta và có vai trò chủ chốt trong thị trường xăng dầu ở Việt Nam.

18


Theo Bộ công thương, Tổng công ty dầu Việt Nam (PV Oil) hiện chiếm
khoảng 25%, Saigon Petro chiếm 8%, còn Petrolimex chiếm 55% thị trường
xăng dầu cả nước . Ở các vùng có cạnh tranh cao như Hà Nội, TP.HCM thì thị
phần của Petrolimex chiếm trên dưới 40%, nhưng ở các vùng như Sơn La, Lai
Châu, Tây Nguyên… thì có nơi thị phần của Petrolimex gần như 100%.
Sau khi nghị định 55 và 84 thể hiện sự chuyển cơ cấu xăng dầu từ độc
quyền nhà nước sang vận hành theo cơ chế thị trường, Petrolimex thừa hưởng
hệ thống hạ tầng, đội ngũ cán bộ, nhân viên đồ sộ do nhà nước đầu tư suốt hơn
nửa thế kỷ, hiển nhiên Petrolimex thành một “người khổng lồ” trong hệ thống
xăng dầu nước ta. Do đó việc các doanh nghiệp khá tham gia thị trường và
cạnh tranh công bằng với Petrolimex là điều rất khó xảy ra. Tuy nhiên một số
ý kiến khác vẫn băn khăn về việc liệu quyền lợi của người tiêu dùng có được
bảo đảm khi doanh nghiệp được tự quyết định giá theo ý mình.
Nguyên nhân chính của những tranh cãi trên là do Petrolimex đang chiếm
với khoảng 60% thị phần chi phối thị trường. Vì các sản phẩm xăng dầu gần
như đồng nhất và dịch vụ tương đối đơn giản nên các nhà phân phối xăng dầu
khác đều chạy theo giá bán của Petrolimex. Đối với Petrolimex một khi có khả

năng chi phối thị trường thì nó có thể tăng giá nhanh hạ giá chậm và đương
nhiên các đơn vị khác sẽ được ăn theo. Kết quả là sức mạnh độc quyền của
Petrolimex đã triệt tiêu cơ chế thị trường cạnh tranh và làm giảm phúc lợi của
người tiêu dùng.
Việc tăng giá xăng dầu không đem lại lợi ích cho kinh tế Việt Nam. Theo
lý thuyết, một sự gia tăng mạnh giá xăng dầu có thể tạo ra gánh nặng đối với
nền kinh tế. Việc giá xăng dầu cao và ngày càng tăng làm giảm sức sống của
dân cư xuống dưới mức lẽ ra đã có thể đạt được do tổng tiêu dùng cho sản
phẩm xăng dầu tăng lên tương đối so với thu nhập (ước tính sự gia tăng giá
xăng tại Việt Nam khiến cho mỗi cá nhân sử dụng phương tiện xe gắn máy
mỗi tháng phải chi thêm bình quân 30 - 400000 đồng so với trước, hơn nữa,
mặt hàng xăng dầu tương đối không co giãn so với giá).
Như vậy, nhà nước vẫn đã và đang nắm độc quyền về ngành điện, xăng
dầu và các ngành kinh tế, công nghiệp khác. Điều này có có nhiều lợi ích như:
19


khi không có đối thủ cạnh tranh, chỉ có một công ty nhà nước cung cấp mặt
hàng nào đó thì sẽ không diễn ra tình trạng cạnh tranh gay gắt dẫn đến mất cân
bằng thị trường cung, cầu của mặt hàng đó... Tuy nhiên, điều này lại gây cản
trở nền kinh tế, đặc biệt là nền kinh tế thị trường như của nhà nước ta hiện
nay. Khi chỉ có nhà nước độc quyền thì các doanh nghiệp tư nhân có khả năng
cung ứng và sản xuất mặt hàng lại không thể sử dụng tiềm năng của mình để
phát triển một cách mạnh mẽ, vươn tầm.Ngoài ra , khi nắm giữ độc quyền
cung cấp sản phẩm thì mọi người sẽ phải phụ thuộc vào công ty nhà nước độc
quyền đó, dẫn đến tình trạng các công ty có thể đưa ra mức giá không phù hợp
với chất lượng của sản phẩm. Chính vậy, nền kinh tế thị trường sẽ không được
đa dạng, phong phú, không có nhiều thành phần kinh tế, làm nền kinh tế xã
hội chủ nghĩa ở nước ta chậm phát triển.
Về lĩnh vực dịch vụ: Nhà nước độc quyền trong dịch vụ hoa tiêu hàng hải;

dịch vụ đảm bảo an toàn hàng hải; bảo đảm hoạt động bay; xuất bản; in, đúc
tiền; quản lý, khai thác hệ thống kết cấu hạ tầng đường sắt; quản lý, khai thác
hệ thống kết cấu
Ngành ngân hàng: Ngân hàng nhà nước độc quyền xuất nhập khẩu vàng
và độc quyền thương hiệu vàng. Sản xuất vàng miếng. Xuất khẩu, nhập khẩu
vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng. In, đúc tiền. Thực tế, nhà nước vẫn
cho kinh doanh vàng, chỉ khác là điều kiện chặt chẽ hơn trước khi có Nghị
định 24. Trước đây chúng ta có hàng chục nghìn điểm kinh doanh vàng, bây
giờ là khoảng 2000 điểm kinh doanh vàng.
2.2. Ảnh hưởng của độc quyền nhà nước đến kinh tế xã hội Việt Nam
2.2.1. Tích cực


Thu hút các nhà đầu tư



Có nguồn vốn lớn



Bảo vệ được tính cá nhân cao, thúc đẩy được sự phát minh, nghiên

cứu phát triển


Có thể phát triển một cách tập trung, tập trung sử dụng nguồn lực có

hiệu quả hơn thị trường cạnh tranh.
20



2.2.2. Tiêu cực


Gây ra tổn thất phúc lợi xã hội



Giá cả bị đẩy lên cao



Nguồn cung cấp hàng hóa, dịch vụ khan hiếm , không đa dạng, thiếu

tính cạnh tranh


Người tiêu dùng có ít sự lựa trọn tối ưu



Cho phép doanh nghiệp ép giá các nhà đầu tư khác ( VD: tháng 4

năm 2008 tiền ứng tinh thể lỏng là 15 triệu, còn nay chỉ còn 10 triệu).

Thiếu minh bạch trong kinh doanh

Gây ra sự chênh lệch mức sống, thu nhập ở các tầng lớp dân cư (thu
nhập của người lao động trong ngành xăng dầu, điện thường cao hơn so với

người lao động trong ngành dệt may, da giày...)

Không có sức ép cạnh tranh đối với việc đổi mới kỹ thuật.

Chương 3. Giải pháp đối với độc quyền nhà nước ở Việt Nam
giai đoạn hiện nay
Qua tìm hiểu cơ bản về độc quyền ở Việt Nam thông qua các hoạt động đời
sống kinh tế - xã hội đang diễn ra hằng ngày cùng các bài báo viết về vấn đề
độc quyền ở Việt Nam, chúng ta nhận thấy rằng một thực tế là do nhà nước
bảo hộ những ngành có ảnh hưởng đến an ninh quốc gia: điện, vận tải, viễn
thông, xăng dầu, hàng không và thực tế hiện nay chưa có một doanh nghiệp
nào giành được thế độc quyền bằng thế tự do cạnh tranh mà tất cả đều nhờ vào
các quyết định mang tính hành chính và do đó chỉ là độc quyền nhà nước.
Trong nền kinh tế hoạch hóa tập trung trước đây không diễn ra cạnh tranh,
nhưng trong nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường hiện nay thì cạnh
tranh lại một là yếu tố quan trọng, là động lực phát triển kinh tế. Nước ta đã
thực hiện đường lối mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự phát triển kinh
tế theo cơ chế thi trường đã xuất hiện cạnh tranh, trong đó không loại trừ việc
cạnh tranh không lành mạnh, gây ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế. Do quá
trình hội nhập, tự do hóa thương mại cho nên hiện nay đã xuất hiện các công
ty tham gia vào các lĩnh vực độc quyền nhà nước như các hãng hàng không
21


quốc tế mà gần đây nhất là các hãng hàng không giá rẻ của Thụy Điển và
Singapore, các công ty viễn thông trong nước và quốc tế cũng đua nhau cạnh
tranh… như vậy liệu chúng ta có còn giữ được tính độc quyền mang tính ban
phát hay không ?!
Trên cơ sở đã xác định, chống độc quyền doanh nghiệp trong nền kịnh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong thời gian tới cần tập

trung thực hiện tốt các giải pháp, đó là:
3.1. Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa trong đó trọng tâm là tạo lập môi trường cạnh tranh lành
mạnh
Một là, tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật trong đó có Luật cạnh tranh.
Trước hết, khẩn trương rà soát các văn bản hướng dẫn thi hành luật, loại bỏ
những văn bản chồng chéo, trùng lặp, trái ngược nhau, không phù hợp với
thực tế và thiếu tính khả thi, kịp thời sửa chữa những quy định trái với định
hướng trên để đảm bảo sự nhất thể hóa và tính đồng bộ giữa các văn bản quy
phạm pháp luật. Đồng thời nâng cao chất lượng các văn bản quy phạm pháp
luật để có thể có hiệu lực tương đối ổn định trong một thời gian nhất định.
Hai là, tiếp tục hoàn thiện các cơ chế cạnh tranh, kiểm soát, chống độc
quyền doanh nghiệp. Theo đó, cần tạo lập một môi trường kinh tế trong đó có
sự hiện diện hài hòa của cả khu vực doanh nghiệp nhà nước, tư nhân và nước
ngoài, hoạt động trên cơ sở cạnh tranh bình đẳng giữa các khu vực, qua đó, tạo
điều kiện để các doanh nghiệp có đóng góp nhiều vào sự phát triển của nền
kinh tế nhanh và bền vững.
Ba là, hoàn thiện đồng bộ các yếu tố thị trường, nhất là các ngành, lĩnh vực
có tính chất độc quyền. Tiếp tục hoàn thiện thể chế về giá, cung-cầu, cạnh
tranh và kiểm soát độc quyền trong kinh doanh. Theo đó, thực hiện nhất quán
cơ chế giá thị trường có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Nhà nước chỉ điều
tiết thông qua các công cụ kinh tế như thuế, lãi suất, tỉ giá hối đoái hoặc điều
tiết thông qua việc khuyến khích đầu tư nhằm tăng cung của thị trường, hoặc
kích cầu của thị trường để thúc đẩy sản xuất. Chỉ khi thật cần thiết và đối với

22


mặt hàng thiết yếu, Nhà nước sẽ đưa ra khung giá (giá trần, giá sàn) hoặc mức
giá của một số mặt hàng để đảm bảo bình ổn cho sản xuất và đời sống.

Bốn là, nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý kinh tế của nhà nước phù hợp
với yêu cầu tạo lập môi trường cạnh tranh lành mạnh trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước cần tập trung duy trì ổn định
kinh tế vĩ mô, định hướng phát triển, tạo điều kiện để nền kinh tế phát triển
nhanh, bền vững. Tôn trọng và vận dụng các quy luật và cơ chế vận hành của
kinh tế thị trường, phát huy mặt tích cực, hạn chế, ngăn ngừa mặt trái của cơ
chế thị trường, tạo ra những tiền đề để nền kinh tế phát triển theo định hướng
xã hội chủ nghĩa. Hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo đảm cạnh tranh bình
đẳng, minh bạch của doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, bảo đảm hài
hòa các lợi ích của nhà nước, doanh nghiệp và người dân, tạo điều kiện thuận
lợi để sử dụng có hiệu quả các nguồn lực cho sự phát triển, khắc phục tình
trạng lãng phí và tham nhũng.
3.2. Nâng cao vai trò của các chủ thể trong quản lý cạnh tranh, chống
độc quyền doanh nghiệp
3.2.1. Đối với nhà nước:


Tiếp tục kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước về cạnh tranh.



Thay đổi cách thức, quy trình bổ nhiệm nhân sự cơ quan quản lý

cạnh tranh mới.


Nâng cao chất lượng đào tạo và đào tạo lại nguồn nhân lực cho các

cơ quan quản lý cạnh tranh.



Tăng cường đầu tư vật chất, kinh phí hoạt động cho cơ quan quản lý

cạnh tranh nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng lớn của xã hội, cũng như tính
chất phức tạp trong hoạt động quản lý, chống độc quyền doanh nghiệp.


Tạo sự rõ ràng, minh bạch trong chức năng và trách nhiệm của cơ

quan quản lý ngành để giải quyết tình trạng khác nhau trong áp dụng các
chuẩn mực và cách xử lý.

23




Chủ động kiểm tra, kiểm soát hoạt động của các doanh nghiệp độc

quyền, kịp thời phát hiện những biểu hiện độc quyền doanh nghiệp gây tác
động tiêu cực cho nền kinh tế.
3.2.2. Đối với tổ chức xã hội nghề nghiệp, cộng đồng dân cư và người
dân:


Cần nâng cao ý thức, trách nhiệm, tạo sự đồng thuận cao của các tổ

chức xã hội và người dân trong chống độc quyền doanh nghiệp.



Phát huy vai trò của các hiệp hội doanh nghiệp, các tổ chức xã hội

trong tạo lập môi trường cạnh tranh, chống độc quyền doanh nghiệp.


Các hiệp hội cần hợp tác chặt chẽ với cơ quan quản lý cạnh tranh

trong việc nâng cao nhận thức cho cộng đồng doanh nghiệp và các hiệp hội
ngành, hãng về pháp luật cạnh tranh, chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự
vệ; tích cực phòng chống các vi phạm pháp luật nhằm xây dựng môi trường
cạnh tranh lành mạnh và cơ chế thị trường phát triển bền vững.


Tăng cường hoạt động tư vấn, hỗ trợ doanh nghiệp cũng như người

tiêu dùng.


Cần tích cực nghiên cứu, khảo sát thực tế, phản ánh nhu cầu người

tiêu dùng.


Kịp thời cung cấp cho cơ quan quản lý nhà nước bảo vệ quyền lợi

người tiêu dùng thông tin về hành vi vi phạm pháp luật của tổ chức ,cá nhân
kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có dấu hiệu lạm dụng độc quyền gây ảnh hưởng
tiêu cực tới nền kinh tế cũng như người tiêu dùng.



Cần tích cực, chủ động tham gia đóng góp, góp ý vào nội dung các

văn bản pháp luật liên quan đến cạnh tranh, chống độc quyền.
3.2.3. Đối với người tiêu dùng:
Nâng tầm tiếng nói của người tiêu dùng trong xây dựng môi trường cạnh
tranh, chống độc quyền doanh nghiệp. Để nâng tầm tiếng nói của mình, người
tiêu dùng cần phải nâng cao sự hiểu biết và khả năng tự bảo vệ của chính bản
thân họ, cần có sự lựa chọn đúng đắn, tự phòng vệ và trách nhiệm đấu tranh
với các hành vi vi phạm của doanh nghiệp làm tổn hại lợi ích của xã hội cũng
24


như của người tiêu dùng, để họ thực sự trở thành những người tiêu dùng thông
thái.
3.3. Đẩy mạnh cải cách DNNN theo hướng giảm bớt tính độc quyền
(DNNN: doanh nghiệp nhà nước)

Một là, tiếp tục rà soát, phân loại, xác định rõ những tiêu chí cụ thể đối với
DNNN lớn, độc quyền. Chính phủ cần có những quy định cụ thể những lĩnh
vực cho phép độc quyền, hạn chế độc quyền, giảm bảo hộ. Phân biệt rõ độc
quyền nhà nước và độc quyền doanh nghiệp. Tùy thuộc vào các yêu cầu,
nhiệm vụ chính trị, kinh tế tại từng thời kì, nhà nước xác định, ấn định những
ngành, lĩnh vực mà nhà nước giữ độc quyền. Phương thức thực hiện độc
quyền nhà nước cũng cần thay đổi. Trước đây, độc quyền nhà nước đồng nhất
với độc quyền doanh nghiệp. Điều này có nghĩa là sẽ có một số doanh nghiệp
nhà nước được hưởng những ưu đãi đặc biệt so với các doanh nghiệp khác.
Nay cần phải điều chỉnh lại theo hướng: nhà nước giữ độc quyền nhưng có thể
cho phép nhưng có thể cho phép nhiều doanh nghiệp thuộc các thành phần
kinh tế khác nhau tham gia nhưng phải tuân theo những quy định đặc thù của
nhà nước. Điều này tạo khả năng cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong việc

thực hiện đơn đặt hàng của nhà nước thông qua đấu thầu công khai. Nhà nước
độc quyền một số lĩnh vực nhưng nhà nước không tự mình lập các doanh
nghiệp để thực hiện độc quyền, mà ban hành các chuẩn mực, quy tắc, yêu cầu
để bất kì doanh nghiệp nào, nếu có đủ điều kiện đều có thể tham gia. Ngoài ra,
cần phải có yêu cầu lộ trình phù hợp và xóa bỏ độc quyền ở một số lĩnh vực:
khai thác khoáng sản, kinh doanh xăng dầu, vận tải đường sắt, đường bộ, rút
khỏi những ngành cạnh tranh như dệt may, hóa chất, điện dân dụng, công
nghiệp chế biến nông, lâm sản, dịch vụ. Phân định rõ ngành, lĩnh vực nào nhà
nước nắm 100% vốn; ngành, lĩnh vực nào nắm cổ phần chi phối và ngành, lĩnh
vực nào không cần DNNN, cần đẩy mạnh cổ phần thoái vốn nhà nước, kiên
quyết xử lý dứt điểm các DNNN thua lỗ kéo dài.
Hai là, đổi mới cơ chế thực hiện quyền chủ sở hữu nhà nước đối với
DNNN, DNNN độc quyền và cơ chế đại diện chủ sở hữu nhà nước tại doanh
25


×