Tải bản đầy đủ (.pdf) (35 trang)

Xuất khẩu chè - hướng phát triển quan trọng của ngành chè Việt Nam.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (716.81 KB, 35 trang )

Header Page 1 of 126.

PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU
Mang ảnh hưởng của tính chất kinh tế thị trường, nền nông nghiệp nước
ta chuyển dần từ tự cung tự cấp sang sản xuất nông sản hàng hoá với sản lượng
và chất lượng ngày càng được nâng cao, cải thiện rõ rệt. Song song với việc
phát triển sản xuất nông sản hàng hoá là mở rộng và phát triển thị trường đầu ra
cho các mặt hàng này.Hướng đi quan trọng của đổi mới và phát triển nông
nghiệp - nông thôn chính là chiếm lĩnh thị trường trong nước, mở rộng và nâng
cao vị thế trên thị trường xuất khẩu cho các mặt hàng nông sản phẩm - mục
đích cuối cùng của hoạt động sản xuất nông nghiệp.
Đánh giá chung mặt hàng nông sản phẩm xuất khẩu của nước ta đang
từng bước khẳng định được lợi thế so sánh với xuất phát điểm Việt Nam là một
nước nông nghiệp.Vị trí số một sẽ dành cho xuất khẩu gạo - đứng thứ hai về trữ
lượng xuất khẩu trên thế giới chỉ sau Thái Lan. Nhưng bên cạnh đó, chè với đặc
thù là cây công nghiệp ngắn ngày, thích hợp với điều kiện khí hậu và thổ
nhưỡng nước ta hứa hẹn sẽ mang lại một nguồn lợi không nhỏ. Không giống
như gạo, nhu cầu sử dụng chè là phổ biến trên thế giới không phân chia theo
vùng địa lý, tôn giáo mà chỉ có sự khác biệt về chất lượng là yếu tố quyết định
duy nhất. Nắm bắt được điều này, chúng ta đã xác định được phướng hướng và
biện pháp để có thể khai thác được lợi thế vốn có của chính mình.
Chính vì vậy trong lần viết đề án chuyên ngành em đã chọn đề tài: Xuất
khẩu chè - hướng phát triển quan trọng của ngành chè Việt Nam. Đề án này
được hoàn thành với sự giúp đỡ của cô giáo - Thạc sĩ Vũ Thị Minh. Nội dung
của đề tài này gồm ba phần:
Chương 1 : Cơ sở lý luận chung về xuất khẩu chè của Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng xuất khẩu chè của Việt Nam
Chương 3: Phương hướng và biện pháp thúc đẩy xuất khẩu chè của
Việt Nam trong thời gian tới.
Page 1


Footer Page 1 of 126.


Header Page 2 of 126.

PHẦN II: NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ XUẤT KHẨU
CHÈ CỦA VIỆT NAM.
I.VAI TRÒ XUẤT KHẨU CHÈ TRONG NỀN KINH TẾ QUỐC DÂN.

1.Sự ra đời và phát triển của ngành chè Việt Nam.
Sau Đại hội lần thứ VI của Đảng, cả nước ta bước vào một thời kỳ đổi
mới. Sau khi tiến hành thành công một thử nghiệm ở giai đoạn trước như: Liên
kết công nông nghiệp (năm 1979 ra đời và hoạt động các xí nghiệp Liên hiệp
công nông nghiệp - sản xuất chè ở trung du miền núi như: Phú Thọ, Yên Bái)
cải tiến hệ thống sản xuất và tổ chức quản lý (1983 - 1986), năm 1987 ngành
chè bắt đầu bước vào một giai đoạn tiến hành những thử nghiệm và đổi mới
kinh tế một cách căn bản và hệ thống.
Chè là loại cây công nghiệp dài ngày được trồng ở các tỉnh trung du và
miền núi phía Bắc và Lâm Đồng. Sản xuất trong nhiều năm qua đã đáp ứng
được nhu cầu về chè uống của nhân dân, đồng thời xuất khẩu đạt kim ngạch
hàng triệu USD hàng năm. Tuy có những thời điểm giá chè thấp làm cho đời
sống người làm chè gặp nhiều khó khăn nhưng nhìn tổng thể cây chè vẫn là cây
giữ vị trí quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân và tạo việc làm cho người lao
động, tăng thu nhập cho một bộ phận đáng kể nhân dân ở các vùng trung du,
miền núi, vùng cao, vùng xa và góp phần bảo vệ môi sinh. Vì vậy việc phát
triển
sản xuất chè là một hướng quan trọng nhằm thúc đẩy tốc độ tăng trưởng của
nông nghiệp và kinh tế nông thôn nước ta.


Page 2

Footer Page 2 of 126.


Header Page 3 of 126.

Biểu 1: Lực lượng sản xuất của ngành chè Việt Nam trong những năm
2000.- 2010
Đơn vị tính: Nghìn tấn
Năm
Sản phẩm

2000

2001

Sản lượng chè búp tươi

30

Sản lượng chè búp khô

12

58

Xuất khẩu

55


40

2002*

2010*
450-500
150-180

56

110

Nguồn: Tổng công ty chè Việt Nam, Ghi chú * số ước tính và dự báo
Diện tích chè của cả nước hiện nay chiếm tỷ lệ khá lớn, năm 1999 là 82
nghìn ha chè, năm 2000 là 84 nghìn ha chè. Trong đó diện tích kinh doanh
chiếm 65 nghìn ha, diện tích trồng mới là 2,2 nghìn ha, diện tích kỹ thuật cơ
bản là 12,6 nghìn ha. Sản lượng chè khô xuất khẩu là 55 nghìn tấn năm 2000,
đạt kim ngạch xuất khẩu 63 triệu USD. Năng suất chè búp tươi năm 1999 là
4,46 tấn/ ha. Đó là một thành tựu đáng kể của ngành chè Việt Nam trong công
cuộc phủ xanh đất trống, đồi núi trọc, bảo vệ môi trường sinh thái, giải quyết
việc làm cho người lao động và làm nghĩa vụ quốc tế mà Chính phủ giao phó.
Năm 2001, xuất khẩu được 40 ngàn tấn đạt giá trị là 70 triệu USD, dự tính năm
2002 sẽ xuất khẩu được 56 ngàn tấn.

2.Vị trí của ngành chè trong nền kinh tế quốc dân.
Chè là cây công nghiệp dài ngày, trồng một lần cho thu hoạch nhiều năm.
Tuổi thọ của chè kéo dài 50 - 70 năm, cá biệt nếu chăm sóc tốt có thể tới hàng
trăm năm. Chè đã có ở Việt Nam từ hàng ngàn năm nay, một số cây chè ở Suối
Giàng (Nghĩa Lộ) có tuổi thọ 300 - 400 năm. Nhiều nhà khoa học cho rằng Việt

Nam là một trong những cái nôi của cây chè.

Page 3

Footer Page 3 of 126.


Header Page 4 of 126.

Chè là thứ nước uống có nhiều công cụ, vừa giải khát, vừa chữa bệnh.
Người ta tìm thấy trong chè có tới 20 yếu tố vi lượng có lợi cho sức khoẻ, ví dụ
cafein kích thích hệ thần kinh trung ương, tamin trị các bệnh đường ruột và một
số axit amin cần thiết cho cơ thể.
Chè được trồng chủ yếu ở trung du, miền núi và có giá trị kinh doanh
tương đối cao. Một ha chè thu được 5 - 6 tấn chè búp tươi, có giá trị ngang với
một ha lúa ở đồng bằng và gấp 3 - 4 lần một ha lúa nương. Vì vậy có thể nói
cây chè là cây "xoá đói giảm nghèo, điều hoà lao động từ đồng bằng lên các
vùng xa xôi hẻo lánh, góp phần phát triển kinh tế miền núi bảo vệ an ninh biên
giới”.
Sản xuất và xuất khẩu chè thu hút một lượng lao động khá lớn (hơn 22
nghìn lao động chính kể cả lao động chính, kể cả lao động phụ và lao động dịch
vụ là gần 300 nghìn người với mức thu nhập ổn định và không ngừng tăng (thu
nhập bình quần quân toàn ngành năm 1996 đạt 250 nghìn đồng/người/tháng,
năm 9 tăng lên 350 nghìn người/tháng).
Trồng chè cũng chính là "phủ xanh đất trồng đồi trọc", cải thiện môi
trường sinh thái. Với phương châm trồng chè kết hợp nông lâm, đào dãy hào
giữa các hàng chè để giữ mùn giữ nước, sử dụng phân bón hợp lý ngành chè đã
gắn kết được phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường.
Chè là một sản phẩm có giá trị xuất khẩu cao và tiềm năng xuất khẩu lớn.
+ Một ha chè thâm canh thu hoạch được 10 tấn búp tươi chế biến được

hơn 2 tấn chè khô, đem xuất khẩu sẽ thu được một lượng ngoại tệ tương đương
với khi xuất khẩu 200 tấn than và đủ để nhập khẩu 46 tấn phân hoá học.
+ Trên thế giới có khoảng 30 nước trồng chè nhưng có tới 100 nước uống
chè. Như vậy tiềm năng về thị trường của chè Việt Nam rất dồi dào. Tuy nhiên,
tốc độ phát triển cây chè của nước ta so với thế giới còn chậm. Năm 1939, Việt
Nam xuất khẩu 2400 tấn chè - đứng hàng thứ 6 trên thế giới. Đến nay, Việt
Nam xuất khẩu được hơn 20.000 tấn chè - đứng hàng thứ 17. Có thể thấy, trong

Page 4

Footer Page 4 of 126.


Header Page 5 of 126.

vòng 60 năm, sản lượng xuất khẩu của nước ta tăng 8 lần những vị trí đã tụt đến
10 bậc.
+ Sản xuất chè của ta có nhiều thuận lợi: Điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu
rất thích hợp với cây chè. Quỹ đất trồng chè lớn (khoảng 20 vạn ha) trong khi
hiện nay ta mới chỉ trồng được khoảng 7 vạn ha. Bên cạnh đó, lao động vốn là
lợi thế so sánh của nước ta, đặc biệt là lao động nông nghiệp với kinh nghiệm
lâu đời trong trồng về chế biến chè.
Tóm lại, có thể kim ngạch xuất khẩu chè còn kém xa các mặt hàng mũi
nhọn khác (dầu mỏ, than, gạo) nhưng xét đến những tác động tích cực của nó về
mặt xã hội và để tận dụng mọi nguồn lực hiện có, chúng ta nên tiếp tục phát
triển sản xuất và xuất khẩu chè trong thời gian tới.
3. Vai trò của xuất khẩu chè
Chè là một cây công nghiệp dài ngày, thích hợp với khí hậu và đất đai ở
miền núi phía bắc và trung du của nước ta.Cây chè còn đem lại nhiều nguồn lợi
cho chúng ta việc xuất khẩu đã có một số vai trò rất quan trọng như:

- Để phục vụ cho việc xuất khẩu chè thì trước hết chúng ta phải có các
vùng chuyên trồng cây chè, như đồi núi ở trên thì cây chè thường phân bố ở
trung du và miền núi. Đây là những nơi mà việc trồng lúa rất khó khăn. Do vậy
cây chè đã trở thành một trong những cây chủ lực ở những khu vực này để xoá
đói giảm nghèo, tạo ra nhiều công ăn việc làm cho những người sống ở khu vưc
này, tránh được hiện tượng nông nhàn trong nộng nghiệp và nó còn tạo ra một
lượng thu nhập đáng kể cho những người trồng chè, góp phần nâng cao mức
sống cho nhân dân ở vùng miền núi vốn rất khó khăn và cuộc sống rất cực
nhọc. Do vậy việc xuất khẩu chè có một vai trò to lớn trong việc tạo ra công ăn
việc làm cho người lao động. Không những nó có vai trò về kinh tế mà nó còn
có vai trò về an ninh quốc phòng, việc định canh định cư của các người trồng
chè trên những vùng cao và hẻo lánh đã đảm bảo được an ninh biên giới của
nước ta.

Page 5

Footer Page 5 of 126.


Header Page 6 of 126.

Việc trồng chè để xuất khẩu cũng có một vai trò to lớn trong việc bảo vệ
môi trường sinh thái. Như chúng ta đã biết hiện nay hoạt động chặt phá rừng
ngày càng diễn ra mạnh mẽ công với việc du canh du cư chặt nương phá rẫy
của một số các đồng bào dân tộc đã hủy hoại môi trường sống của chúng ta.
Việc trồng chè để phục vụ xuất khẩu đã phủ xanh đất trống đồi núi trọc, còn
góp phần điều hoà không khí, ngoài ra cây chè còn một số tác dụng trong ngành
y học.
- Xuất khẩu chè tạo ra một nguồn vốn đáng kể cho đất nước, góp phần
vào công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.Chè là một trong những

mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực của nước ta, hàng năm mang về cho đất
nước rất nhiều ngoại tệ để thúc đẩy công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước như:
Năm 2000 đã xuất khẩu được 45 ngàn tấn mang về cho đất nước khoảng 56
triệu USD, năm 2001 đã xuất khẩu được 40000 tấn tăng 9,94% so với năm 2000
đạt kim ngạch xuất khẩu 70triệu USD, 5 tháng đầu năm 2002 đã xuất khẩu
được 25000 tấn đạt giá trị 28 triệu USD.Tuy nhữmg con số này vẫn chưa thực
cao trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của chúng ta những xuất khẩu chè
cũng đã đóng góp một nguồn vốn đáng kể cho đất nước thực hiện sự nghiệp
công nghiệp hoá hiện đại hoá.
Khi xuất khẩu chè thì chúng ta sẽ mở rộng được thị trường tiêu thụ và
giao lưu học hỏi được nhiều bài học kinh nghiệm của các nước bạn. Hiện nay
chúng ta xuất khẩu sang hơn 40 nước khác nhau. Từ đó tạo ra nhiều mối quan
hệ kinh tế cho các doanh nghiệp trong ngành chè nói riêng và các doanh nghiệp
trong cả nước nói chung, xuất khẩu chè ra nhiều thị trường thì làm cho các
doanh nghiệp của chúng ta có thể tiếp thu được các thông tin nhanh hơn, và
sáng tạo hơn.
Xuất khẩu chè thì chúng ta đã tạo ra sự ổn định cho những người trồng
chè về mặt tiêu thụ sản phẩn từ đó họ yên tâm hơn với công việc của mình. Do
đó chất lượng chè cũng phần nào được cải thiện từ đó nâng cao được khả năng

Page 6

Footer Page 6 of 126.


Header Page 7 of 126.

cạnh tranh chè của nước ta trên thị trường thế giới. Và khi có thị trường tiêu thụ
ổn định thì người trồng chè sẽ yên tâm và gắn bó với nghề của mình nhiều hơn.
II.NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN XUẤT KHẨU CHÈ


1.Đặc điểm kinh tế kỹ thuật của ngành chè.
a.Mang đặc điểm của ngành sản xuất nông sản phẩm.
- Tính thời vụ: cũng như tất cả các loại nông sản khác thì cây chè cũng
mang tính thời vụ rõ ràng, có thời gian sinh trưởng theo mùa, thường thì cây
chè cho thu hoạch vào mùa hè, không phải mùa nào cây chè cũng cho chúng ta
thu hoạch. Do vậy chúng ta cần nắm rõ các quy luật sản xuất mặt hàng chè.
Làm tốt công tác chuẩn bị trước mùa thu hoạch, đến kỳ thu hái là phải chuẩn bị
đầy đủ lao động nhanh chóng triển khai công tác thu mua và tiêu thụ sản phẩm.
- Tính khu vực: chúng ta cũng biết cây chè không phải là cây trồng ở
đâu cũng có thể sống và cho chất lượng tốt. Ở nước ta thì cây chè tập trung ở
vùng núi phía Bắc và Trung Du, nói chung là tập trung ở những vùng cao, và
được trồng ở các nông trường và do nông dân tự trồng hay trồng theo kiểu giao
khoán của Tổng công ty chè Việt Nam. Do đặc điểm này vấn đề đặt ra là việc
bố trí địa điểm thu mua, phương thức thu mua, chế biến và vận chuyển phải phù
hợp với đặc điểm này.
- Tính tươi sống: Cây chè là một loài thực vật nên cũng rất dễ bị hỏng,
kém chất lượng, tuỳ theo địa hình và khí hậu ở các nơi khác nhau mà cho chất
lượng chè của chúng ta cũng khác nhau, và ở nước ta thì chè được trồng ở Thái
Nguyên có chất lượng tương đối là tốt. Vì vậy khi chúng ta thu mua cần lưu ý
phân loại, tốt nhất là chế biến ngay sau khi thu hoạch là tốt nhất.
- Tính không ổn định: Chè cũng giống như lúa và nhiều loại nông sản
khác thường không ổn định sản lượng lên xuống thất thường, vùng này được
mùa vùng kia mất mùa. Bởi có ý do này là do cây chè cũng phụ thuộc vào điều
kiện tự nhiên, khi khí hậu không phù hợp với cây chè thì nó sẽ cho chất lượng
kém và sản lượng không cao như các năm mà thời tiết ưu đãi.
b. Đặc điểm riêng của ngành chè.
Page 7

Footer Page 7 of 126.



Header Page 8 of 126.

Cây chè thường phân bố ở các đồi núi và cao nguyên. Do đặc điểm này
mà nước ta có thể nói có điều kiện rất thuận lợi cho việc sản xuất và trồng cây
chè. Cũng do đặc điểm này thì yêu cầu đối với ngành chè cần phải có một trình
độ thâm canh rất tốt và phải phù hợp với điều kiện và khí hậu ở các vùng cao
này
Ngành chè đòi hỏi phải có một hệ thống thuỷ lợi tốt và hiện đại để có thể
đưa nước lên cao phù hợp với đặc điểm sinh sống của cây chè phục vụ cho việc
tưới tiêu thuận lợi nhất.
Công nghệ chế biến chè phải hiện đại đảm bảo được chất lượng chè theo
đúng tiêu chuẩn. Không giống như các mặt hàng nông sản khác như luá, bông..
chè thì cần phải có một quy trình chế biến và bảo quản đúng quy cách và đúng
kỹ thuật và nguyên liệu phải đưa vào chế biến ngay nếu để lâu sẽ ảnh hưởng
đến chất lượng chè, lãng phí nguyên liệu
Kỹ thuật chăm sóc cây chè cũng rất phức tạp từ khâu chọn giống tốt đến
làm đất trồng hom, đều phải đúng theo quy trình kỹ thuật và điều này ảnh
hưởng đến sự phát triển của cây chè sau này, mà cây chè không giống như
nhiều cây nông sản khác chỉ trồng một vụ thì vụ sau lại trồng lại, nhưng cây
chè thì có tuổi thọ cao thường vài chục năm, nên nếu làm tốt công đoạn gieo
trồng tốt thì cây chè sẽ phát triển tốt và cho năng suất cao, tuổi thọ sẽ được kéo
dài.
2. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng chè
Đây là điều kiện tiên quyết vì công nghệ dù có hiện đại đến đâu cũng
không thể tạo ra sản phẩm tốt từ những nguyên liệu tồi. Chất lượng chè búp
tươi được quyết định bởi các yếu tố:
* Giống chè:
Có nhiều giống chè nhưng một số giống chính đã chiếm phần lớn diện

tích. Phía Bắc trồng phổ biến 3 giống: Chè Shan ở vùng cao, chè Trung du và
PH1 ở vùng thấp. Ngoài ra còn có các giống mới khác như: LĐP1, LĐP2,
TR777, Vân Xương, Bát Tiên, Ngọc Thuý, Yabukita và 17 giống của Nhật
Page 8

Footer Page 8 of 126.


Header Page 9 of 126.

đang khảo nghiệm, chiếm diện tích chưa đáng kể. Phía Nam có các giống Shan,
Ấn Độ, TB11, TB14. Trong các giống trên, giống Trung du chiếm diện tích lớn
nhất ( 59% tổng diện tích ), sau đó đến giống Shan ( 27,3% ) còn lại là PH1 và
các giống khác. Chỉ có giống Shan cho chất lượng khá, còn lại các giống Trung
du và PH1 cho năng suất khá nhưng chất lượng không cao, vị chè hơi đắng,
hương kém thơm. Trong những năm qua, Viện nghiên cứu chè đã có nhiều cố
gắng trong việc nhập nội thuần hoá, chọn lọc cá thể và lai tạo giống nhằm tạo ra
một tập đoàn giống tốt và phong phú, tuy nhiên công tác này diễn ra còn chậm.
Có thể nói giống chè ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng chè xuất khẩu, hiện
nay chúng ta vẫn chưa có nhiều giống chè có năng suất và chất lượng cao ngoại
trừ chè Shan.
* Quy trình thâm canh:
Đầu tư cho trồng và chăm sóc chè đều thấp so với yêu cầu trung bình,
đầu tư cho trồng là 6 - 7 triệu đồng/ ha đạt 40%, và cho chăm sóc là 3 - 3,5 triệu
đồng/ ha đạt 80%. Ở những vùng nghèo, tỉ lệ này còn thấp hơn, thậm chí có
vườn chè nhiều năm không được bón phân. Quy trình kỹ thuật chưa được thực
hiện nghiêm túc, không thâm canh ngay từ đầu. Bón phân chưa đủ, thiếu cân
đối, nặng về phân đạm thiếu hữu cơ và vi lượng. Cơ cấu phân bón như vậy
không những làm nghèo đất, kiệt quệ cây chè, mà còn làm tăng vị đắng chát,
giảm hương thơm của sản phẩm. Cá biệt, một số đơn vị áp dụng công thức bón

phân cân đối đã tạo nên chất lượng chè rất đặc trưng như Mộc Châu, Thanh
Niên. Đặc biệt, vấn đề nghiêm trọng đáng báo động hiện nay là việc sử dụng
thuốc trừ sâu tuỳ tiện, không đúng liều lượng, chủng loại và quy trình. Hậu quả
là dư lượng thuốc trừ sâu trong sản phẩm vượt quá mức cho phép; qua kiểm tra
sản phẩm của 5 đơn vị với 15 mẫu, đã phát hiện 4 mẫu ( 26% ) của 3 đơn vị có
dư lượng thuốc trừ sâu cao.
* Thu hái:
Có thể coi thu hái là khâu cuối cùng trong công đoạn sản xuất nông
nghiệp, sản phẩm của công đoạn này là những búp chè tươi sẽ được dùng làm
Page 9

Footer Page 9 of 126.


Header Page 10 of 126.

nguyên liệu cho các công đoạn sau. Để đảm bảo chất lượng, việc hái chè phải
tuân thủ nguyên tắc “một tôm hai lá” nghĩa là chỉ hái 1 búp và 2 lá non nhất.
Trong những năm gần đây, việc hái chè và thu mua chè búp tươi không theo
tiêu chuẩn đã diễn ra trong hầu khắp cả nước, điển hình là ở những vùng buôn
bán chè sôi động như Yên Bái, Phú Thọ, Lâm Đồng. Ở những vùng này, vào
thời điểm chính vụ, nhiều đơn vị không mua được chè B, thậm chí cả chè C nếu
xét đúng tiêu chuẩn. Nhiều nơi không có khái niệm chè A, B. Chè hái quá già (
5 - 7 lá ) và lẫn loại đã gây trở ngại cho quá trình chế biến, thiết bị chóng hư
hỏng và tất cả dẫn đến chất lượng thấp, hàng kém sức cạnh tranh.
* Vận chuyển:
Khi búp chè đã hái ra khỏi cây thì dù muốn dù không công đoạn chế biến
cũng đã được bắt đầu, đó là quá trình héo. Từ đây, búp chè đã phải tham gia vào
quá trình với những đòi hỏi khắt khe về thời gian và điều kiện bảo quản. Chính
vì vậy, vận chuyển chè búp tươi có ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng sản phẩm.

Hiện nay, khâu vận chuyển còn có nhiều nhược điểm: thứ nhất, số lần cân nhận,
thu mua và vận chuyển trong ngày ít, thường chỉ 2 lần/ ngày ( so với Ấn Độ là 4
- 6 lần/ ngày ), nên chè thường bị lèn chặt ở sọt hái trong thời gian dài, dẫn đến
bị ngốt, nhất là vào mùa hè. Thứ hai, khoảng cách vận chuyển xa làm kéo dài
thời gian vận chuyển. Thứ ba, không có xe chuyên dùng chở chè và không thực
hiện đúng quy trình vận chuyển cũng dễ gây ôi ngốt dập nát.
3. Môi trường chính trị luật pháp và các chính sách của nhà nước.
Môi trường chính trị và hành lang pháp lý của một quốc gia có ảnh
hưởng trực tiếp tới hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động xuất nhập
khẩu nói riêng. Sự ổn định về mặt chính trị sẽ giúp cho mối quan hệ giữa hai
bên được thưc hiện. Chính vì vậy, trước khi đặt quan hệ với đối tác, các doanh
nghiệp cần tìm hiểu và tuân thủ các quy định của chính phủ các nước liên quan,
tập quán và luật pháp quốc tế liên quan trực tiếp hay gián tiếp đến hoạt động
xuất khẩu. Trong nhiều trường hợp yếu tố chính trị và pháp luật trở thành tiêu
thức buộc các nhà kinh doanh phải tuân thủ khi lựa chọn thị trường xuất khẩu.
Page 10

Footer Page 10 of 126.


Header Page 11 of 126.

Với ngành chè thì cũng vậy khi chúng ta xuất khẩu sang một nước nào đó thì
chúng ta cần hiểu con người và luật pháp ở nước đó, cũng phải tìm hiểu xem
tình hình chính trị ở nước đó như thế nào có ổn định hay không, người dân ở đó
có hay uống chè hay không.
Mỗi một quốc gia đều có các chính sách về xuất khẩu riêng, ở nước ta
sau đại hội Đảng lần thứ IX thì Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện chủ trương
khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia xuất khẩu, và đã chủ chương
thành lập quỹ hỗ trợ xuất khẩu. Những điều này tạo rất nhiều điều kiện cho các

ngành các doanh nghiệp khi tham gia vào việc xuất khẩu. Những phải nhìn
nhận một cách khách quan rằng những chủ trương của Đảng và Nhà nước vẫn
chưa được thực hiện một cách có hiệu quả. Nhiều mặt hàng không cần phải
xuất khẩu qua đầu mối những vẫn phải qua đầu mối, vừa không những không
phát huy được thế mạnh của các doanh nghiệp vừa không phù hợp với cam kết
quốc tế mà nước ta đã ký trong thời gian qua. Doanh nghiệp chưa thực sự làm
chủ khi xuất khẩu. Các chính sách của nhà nước về xuất khẩu như thuế quan,
hạn ngạch xuất khẩu, giấy phép xuất khẩu.
-Thuế quan: thực chất là dùng thuế này để đánh vào các mặt hàng xuất
khẩu, nhưng hiện nay nhà nước đã quy định một số mặt hàng khi xuất khẩu
không phải chịu thuế trong đó có mặt hàng chè và điều này tạo điều kiện rất lớn
cho ngành chè khi tham gia vào việc xuất khẩu.
-Hạn ngạch xuất khẩu: quy định của nhà nước về hạn chế xuất khẩu số
lượng hoặc giá trị một mặt hàng nào đó hoặc một thị trường nào đó trong một
thời gian nhất định (thường là một năm ). Như vậy, rõ ràng nếu doanh nghiệp
xuất khẩu một hay nhiều sản phẩm nằm trong chế độ quản lý hạn ngạch thì tất
yếu hạn ngạch được cấp nhiều hay ít sẽ kéo theo quy mô kinh doanh xuất khẩu
của doanh nghiệp tăng hay giảm. Và nếu chúng ta nhìn vào ngành chè thì việc
hạn ngạch này hầu như không áp dụng đối với xuất khẩu chè.
-Giấy phép xuất khẩu: Một số mặt hàng nhà nước quy định trước khi xuất
khẩu thì phải xin giấy phép xuất khẩu, việc này chỉ áp dụng đối với những mặt
hàng mà nhà nước quy định, và những mặt hàng này nhà nước không khuyến
Page 11

Footer Page 11 of 126.


Header Page 12 of 126.

khích xuất khẩu, hay liên quan đến việc an ninh quốc phòng của một đất nước.

Còn đối với việc xuất khẩu chè thì chúng ta không phải xin giấy phép xuất khẩu
vì chè nằm trong những mặt hàng được nhà nước khuyến khích xuất khẩu. Việc
này tạo điều kiện rất lớn cho ngành chè khi tiến hành xuất khẩu và ở nước ta
việc xuất khẩu chè thường do Tổng công ty chè đảm nhiện.
4. Hệ thống tài chính của nhà nước
Có thể nói hệ thống tài chính có ảnh hưởng rất lớn đến xuất khẩu nói
chung và xuất khẩu chè nói riêng, nó thể hiện ở các mặt sau:
- Các chính sách tài chính mà thông thoáng thì việc vay tiền hỗ trợ cho
việc sản xuất sản phẩm để xuất khẩu sẽ trở nên dễ dàng và ngược lại nếu hệ
thống tài chính qua phức tạp thì việc vay vốn của các công ty rất khó vì vậy nó
ảnh hưởng đến việc sản xuất và xuất khẩu của các công ty.
Như chúng ta đã biết cây chè thì chủ yếu do các nông trường và người
dân trồng. Nếu là những người dân thì việc có thể vay được vốn của các ngân
hàng mà đầu tư để phát triển cây chè thì đó là một điều đáng mừng vì hầu hết
các người dân không có vốn chỉ trông chờ vào sự hỗ trợ của nhà nước. Nhưng
thực tế hiện nay khâu nay vẫn có nhiều vấn đề nay sinh và chưa đáp ứng được
những nhu câù của nhân dân thủ tục vay vốn quá phức tạp.
Mặc dù hiện nay chúng ta đã có quỹ hỗ trợ xuất khẩu nhưng tác dụng của
quỹ này chưa cao đặc biệt là đối với các doanh nghiệp tư nhân.
Ngoài những nhân tố chủ yếu trên đây còn rất nhiều các nhân tố khác ảnh
hưởng đến xuất khẩu như: về con người, cơ sở hạ tầng phục vụ cho sản xuất và
xuất khẩu, công nghệ chế biến và đặc biệt trong ngành chè thì công nghệ chế
biến có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng của chè xuất khẩu.

Page 12

Footer Page 12 of 126.


Header Page 13 of 126.


CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU CHÈ CỦA VIỆT NAM
I.THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU CHÈ CỦA VIỆT NAM

1.Kết quả sản xuất và chế biến chè
*Về sản xuất chè: Việc thực hiện kế hoạch sản xuất nông nghiệp 6 tháng
đầu năm 2002 gặp phải những khó khăn ngay từ ban đầu bởi hạn hán ở nhiều
địa phương có diện tích chè lớn, làm cho khả năng sinh trưởng và khả năng cho
búp kém hơn so với thời kỳ của các năm trước. Song thực thế sức hút thị trường
và sự chủ động của các đơn vị, cây chè đã được chủ động chăm sóc thâm canh
cho sản lượng 6 tháng đầu năm tương đương so với cùng kỳ năm 2001. Giá thu
mua chè nguyên liệu bình quân đạt cao, từ 1950 – 2100đ/kg, có nơi giá cao hơn
như ở: Thái Nguyên, Lâm Đồng từ 2300 – 2500đ/kg. Đây là điều đáng phấn
khởi cho người sản xuất nông nghiệp và đảm bảo được nghị quyết và các cam
kết của người sản xuất chè tại Đại hội và các hội nghị toàn thể Hiệp hội chè
khoá 2, 6 tháng đầu năm nay sản lượng sản xuất ra tăng cao so với cùng kỳ.
Nguyên liệu búp tươi tăng so với cùng kỳ 24%. Sản lượng tăng so với cùng kỳ
25%, trong đó, xuất khẩu tăng 32%, kim ngạch xuất khẩu tăng 27%. Xuất khẩu
6 tháng đầu năm chủ yếu là chè cấp thấp. Giá chè trong nước vẫn giữ mức như
trước: chè Sen 1700000 đ/kg; chè nhài 150.000đ/kg; chè đặc sản 100.000 150.000đ/kg; chè xanh ngon 50.000 - 70.000đ/kg; chè thường 13.000 -14.000
đ/kg. Đời sống người sản xuất chè được nâng cao, tạo ra không khí phấn khởi
trong ngành chè. Bên cạnh sự sôi động tích cực, còn nhiều điều nảy sinh chưa
tốt trong sản xuất nông nghiệp. Với sự bùng nổ ra đời nhiều doanh nghiệp và hộ
chế biến chè trong 3 năm gần đây phân bố không tương xứng với quy mô sản
xuất nông nghiệp gây ra sự cạnh tranh mua bán nguyên liệu. Qua báo cáo hoạt
động năm 2001 của Tổng công ty chè Việt Nam và hơn 31 đơn vị khác cho
thấy: tỷ lệ nguyên liệu chủ động tự sản xuất rất thấp. Tổng công ty chè có sản
lượng tự sản xuất chiếm 49,7%, mua ngoài chiếm 50,3%. Các đơn vị ngoài chỉ
có 37,2% sản lượng nguyên liệu tự sản xuất còn 62,85 sản lượng thu mua
Page 13


Footer Page 13 of 126.


Header Page 14 of 126.

nguyên liệu trôi nổi trên thị trường, lại chưa ký hợp đồng giữa người sản xuất
với người chế biến nên luôn luôn bị động. Sản xuất nguyên liệu 6 tháng đầu
năm 2002 cung vẫn trong tình trạng ấy, giá thu mua nguyên liệu không phản
ánh đúng chất lượng, thường lẫn loại vượt từ 1- 2 cấp, với tỷ lệ giá bánh tẻ
trong nguyên liệu phổ biến 50 – 55% thậm chí có nơi chiếm 65- 70% giá bánh
tẻ. Chỉ có ít các đơn vị như Mộc Châu, Long Phú, Lương Sơn có nguyên liệu
sản xuất đảm bảo. Hơn thế ở không ít vùng miền, việc đầu tư chăm sóc chưa
thật đầy đủ chỉ đảm bảo 50 - 60% mức quy trình thâm canh cần thiết. Trồng chè
hạt vẫn chiếm 30- 40% diện tích. Phân bón vào đồi chè mất cân đối các yếu tố
dinh dưỡng: thuốc trừ sâu phun không đúng chủng loại quy định, hiện trạng thu
hái chỉ sau phun thuốc khoảng 3- 4 ngày vẫn còn. Thu hái chè thậm chí không
cần biết đến loại phẩm cấp nguyên liệu, mua bán theo giá cả thoả thuận trực
tiếp. Gần đây một số đơn vị sản xuất lớn như Mộc Châu, Trần Phú, Phú Đa,
Phù Bền.. đã chú trọng việc đầu tư phân tổng hợp đa yếu tố khoáng cân đối
cùng việc đưa phân hữu cơ cho đồi chè là một hướng đi đúng đắn nhằm tổ chức
sản xuất lâu bền, chất lượng và an toàn thực phẩm dần được cải thiện.
* Về chế biến chè: đến nay cả nước đã có khoảng hơn 250 doanh nghiệp
lớn, vừa và nhỏ, khoảng 1 vạn hộ sản xuất chế biến hộ gia đình, trong đó có hơn
40 doanh nghiệp quốc doanh trung ương và địa phương. Nhiều đơn vị thuộc
tổng công ty đã có đội ngũ cán bộ được đào tạo chuyên môn kỹ thuật, quản lý
nên đảm bảo thực việc thực hiện quy trình có tiến độ hơn trước, chất lượng sản
phẩn được chú trọng hơn, khắc phục được 60 – 70% các khuyết tật trong công
nghệ như chế biến vận chuyển chè bằng bao tải, dải chè trên nền đất, bớt được
chè cao lửa, giảm nhiều mùi than ướt qua các tiến độ về sấy, tạo được mặt hàng

tốt hơn bằng phương pháp áp dụng cắt nhẹ. Một số nhà máy như Mộc Châu,
Sông Cầu, Nghệ An, Phú Đa.. đã xác định rõ trách nhiệm từng công đoạn, từng
ca sản xuất xúc tiến xây dưng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO
9000. Công tác vệ sinh công nghiệp đã được nhiều nhà máy lớn, các cán bộ
công nhân có ý thức trách nhiệm tốt hơn. Nhiều doanh nghiệp tư nhân, công ty
Page 14

Footer Page 14 of 126.


Header Page 15 of 126.

cổ phần, công ty TNHH vì giá trị và danh tiếng sản phẩm của mình cũng đã rất
chú trọng đến chất lượng, thương hiệu mặt hàng như Xí nghiệp chế biến Cầu
Tre, công ty chè Bảo Lộc, công ty cổ phần Mỹ Lâm. Sự phát triển các doanh
nghiệp sản xuất chế biến chè với tốc độ cao, trong thời gian ngắn cũng bộc lộ
nhiều điểm vướng mắc cần được hạn chế. Trên cùng một địa bàn nhiều doanh
nghiệp chế biến không có vùng cung cấp nguyên liệu riêng nên thiếu chủ động,
việc xác định phẩm chất và trả giá không thể thống nhất được, mà phần lớn các
doanh nghiệp mới chỉ đứng ngoài hiệp hội nên càng không thể có tiếng nói
chung. Đó là một trong những nguyên nhân mà việc cạnh tranh nguyên liệu
chưa được khắc phục. Hơn nữa, kéo theo đó nhiều nhà máy không đủ nguyên
liệu để sản xuất theo công suất thiết kế gây rất nhiều lãng phí về năng lực sản
xuất và tiền bạc. Hàng loạt các doanh nghiệp được hình thành với nhiều loại
quy mô, nhiều doanh nghiệp có quy mô khá nhưng thiết bị được đầu tư ở mức
thấp, thậm chí nhiều loại thiết bị được chế tạo theo kiểu mẫu sao chép nhưng
kém chất lượng không được kiểm nghiệm đầu tư theo hướng giá rẻ, khấu hao
nhanh. Tình trạng này phổ biến ở nhiều vùng, miền sản xuất chè đặc biệt như ở
Thái Nguyên năm 2000 mới chỉ có 7 doanh nghiệp, đến năm 2001 đã có 20 và
đến đầu năm 2002 đã có 29 doanh nghiệp sản xuất và chế biến chè năm trong

khu vực đã nêu trên. Thêm vào đó, nhân lực của các doanh nghiệp cũng như
người công nhân, nông dân trồng chè phần nhiều thiếu hiểu biết, không được
đào tạo, chủ yếu dựa vào kinh nghiệm thế hệ trước truyền lại, mai một nhiều, lại
rất thiếu thông tin. Những tình trạng trên đây rất phổ biến ở các doanh nghiệp
mới, doanh nghiệp vừa và nhỏ, nguyên nhân trực tiếp gây ra cách sản xuất phi
quy trình, không đảm bảo kỹ thuật cần thiết nên chất lượng chè xấu.
2. Kết quả xuất khẩu chè theo chủng loại sản phẩm:
Trong kế hoạch 5 năm từ 1995-1999, Tổng công ty và Hiệp hội chè đã
từng bước tự khẳng định mình trên thị trường với các loại chè xuất khẩu sau:

Page 15

Footer Page 15 of 126.


Header Page 16 of 126.

Biểu 2: Cơ cấu và chủng loại chè xuất khẩu năm 1996 - 1999.
Năm

1996

1997

1998

1999

Chè đen


72,5%

74%

73%

75%

Chè xanh

11,65%

10,11%

9,13%

6,2%

Chè ctc

1,98%

2,29%

4,30%

4%

Chè thành phẩm


6,155%

5,42%

7,11%

3,1%

Chè sơ chế

0,22%

2,52%

0,76%

3,42%

Các loại chè

7,5%

5,64%

5,74%

8,2%

Tổng


100%

100%

100%

100%

Sản phẩm

Nguồn: Tổng công ty chè Việt Nam
Chú thích:
- Chè CTC là chè chất lượng cao, được sản xuất theo dây chuyền công
nghệ của Ấn Độ.
- Chè “thành phẩm” là loại chè đã được sản xuất và chế biến hoàn chỉnh
có đủ hương vị, bao gói để bán cho người tiêu dùng cuối cùng như chè túi, chè
hộp, chè nhúng có ướp hương hoa như các loại chè hộp Đông Đô, chè hộp Phú
Quốc, chè gói Thanh Tâm...
Trong cơ cấu chè xuất khẩu của Vina Tea qua các năm, chè đen đều
chiếm tỷ trọng lớn nhất, tuy cũng có nhiều biến động. Điều này chứng tỏ chè
đen là mặt hàng chủ lực của Tổng công ty. Chè xanh đứng thứ hai nhưng có xu
hướng giảm dần và giảm mạnh vào năm 1999.
Chè CTC có biến động mạnh: Năm 1996 có giảm so với năm 1995 nhưng
không đáng kể, và từ năm 1997 trở lại đây, chè CTC lại tăng nhanh. Điều đó
cho thấy rằng thế giới ngày càng tiêu dùng nhiều loại chè có chất lượng cao.
Tỷ lệ xuất khẩu chè sơ chế qua các năm rất bấp bênh. Năm 1995 chỉ
chiếm 0,3% nhưng đến năm 1997 lại chiếm 2,54% và đến năm 1998 chỉ chiếm
0,76%. Sang đến năm 1999 lại tăng cao chiếm khoảng 3,42% trong tổng số
hàng xuất khẩu trong năm.
Page 16


Footer Page 16 of 126.


Header Page 17 of 126.

Chè “thành phẩm” trong suốt những năm 1996 - 1999 tỷ trọng xuất khẩu
tăng lên rất cao so với các loại chè khác. Nhưng đến năm 1999 lại giảm xuống
chỉ còn 3,10% tỷ trọng xuất khẩu.
Các loại chè khác cũng chiếm một lượng không nhỏ trong các loại chè
xuất khẩu, chỉ đứng sau chè đen và chè xanh.
Tuy chủng loại chè xuất khẩu của các doanh nghiệp và của Tông công ty
chè Việt Nam có đa dạng hơn trước nhưng vẫn còn có những hạn chế về chất
lượng và mẫu mã, các loại chè cấp thấp vẫn còn chiếm tỷ trọng đáng kể. Do đó
chưa đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng các loại chè cao cấp tăng lên trên thị
trường thế giới. Xu hướng tăng tỷ trọng chè “thành phẩm” là rất tốt, phù hợp
nhu cầu người tiêu dùng.
Trước đây, sản phẩm chè xuất khẩu của Tổng công ty chè và các doanh
nghiệp chỉ được đóng thùng gỗ dán hoặc bao tải là chủ yếu, thời gian vận
chuyển thì dài nên không bảo đảm chất lượng. Nhưng những năm gần đây đã
được đóng vào các thùng cáctông, nilông với trọng lượng chè thành phẩm các
loại, kích cỡ bao bì từ 20g, 50g,...1000g. Việc đầu tư cải tiến bao bì tuy phức
tạp nhưng giá bán cao hơn, lợi nhuận cũng tăng cao.
Tóm lại, cơ cấu và chủng loại chè của Tổng công ty chè Việt Nam và các
doanh nghiệp nằm ngoài liên tục thay đổi qua các năm, xu hướng tăng và
chiếm tỷ trọng lớn vẫn là chè đen. Những năm gần đây, Tổng công ty tiến hành
nhiều hình thức như: cổ phần hoá, liên doanh với các nước như Bỉ, Đài Loan...
bao tiêu sản phẩm. Đối với mặt hàng chè xanh CTC đã và đang được tiến hành
song song xuất khẩu với mở rộng thị trường trong nước, định hướng người tiêu
dùng trong nước sử dụng các loại chè truyền thống như: chè xanh Thái nguyên,

chè Tùng hạc, chè Thanh long, chè Tân cương... với mẫu mã và chất lượng phù
hợp với người tiêu dùng, đồng thời nhanh chóng hoàn thiện và đưa ra thị trường
các sản phẩm mới có chất lượng cao để cạnh tranh trong chính thị trường trong
nước như các loại chè hoà tan, chè đen, chè nhúng có ướp hương của các hãng
như Lipton, Dilmah..
Page 17

Footer Page 17 of 126.


Header Page 18 of 126.

Vì vậy, Tổng công ty và các doanh nghiệp cần phải đẩy mạnh đa dạng hoá
sản phẩm hơn nữa, không chỉ dừng lại ở con số 6 chủng loại chè xuất khẩu và
nâng cao chất lượng chè xuất khẩu nhằm đưa lại giá trị xuất khẩu cao đúng với
vị thế kinh doanh trên thị trường của Tổng công ty chè Việt Nam
3. Kết quả xuất khẩu chè theo thị trường:
Trong những năm qua, Việt Nam tích cực mở rộng các mối quan hệ,
tham gia tích cực vào các tổ chức kinh tế quốc tế nên thị trường xuất khẩu hàng
hoá của Việt Nam đã có những thay đổi rõ rệt theo chiều hướng đa dạng hơn.
Trước kia, hàng hoá của Việt Nam chủ yếu xuất sang Liên xô và các nước
XHCN. Nhưng từ những năm 90 trở lại đây do sự sụp đổ của hệ thống này,
hàng hoá của ta xuất sang những thị trường mới ở nhiều châu lục khác nhau.
Thị trường xuất khẩu của Việt Nam được mở rộng như vậy là nhờ vào chính
sách đa dạng hoá mặt hàng và đa phương hoá các quan hệ kinh tế thương mại.
Mỗi mặt hàng khác nhau đã xuất đi nhiều nơi trên thế giới để vùa khai thác
được lợi thế của thị trường vừa phân tán được rủi ro. Hiện nay, Việt Nam đã có
quan hệ buôn bán với 120 nước và vùng lãnh thổ.
Hàng năm, doanh số xuất khẩu chè chiếm trên 90% trong tổng số doanh
thu của Tổng công ty cho nên vấn đề chính là thị trường nước ngoài. Đây là

triển vọng để Tổng công ty có thể mở rộng thị trường, khuếch trương uy tín của
Tổng công ty trên thị trường thế giới. Để thực hiện những mục tiêu trên thì vấn
đề cốt yếu đầu tiên phải giải quyết là thị trường tiêu thụ, vì đó là mục tiêu lớn
nhất để cho một ngành hàng kinh tế kỹ thuật phát triển, nó quyết định toàn bộ
quá trình kinh doanh và sự phát triển trong tương lai. Để giữ vững được thị
trường đã có và ngày càng mở rộng nhiều hơn điều quan trọng là phải tạo ra
được sản phẩm chè có chất lượng cao, bao bì đẹp thu hút được người tiêu dùng,
giá thành hợp lý, sản phẩm cạnh tranh được trên thị trường mà trong đó chất
lượng là nhân tố quyết định hàng đầu. (Xem biểu3)

Page 18

Footer Page 18 of 126.


Header Page 19 of 126.

Biểu3: Doanh thu xuất khẩu chè của Tổng công ty chè Việt Nam.
Đơn vị tính: USD/Năm
Năm

1996

1997

Nga

173.165

226.437


Singapor

106.372

584.473

Đài Loan

675.702

670.499

Nhật

1.033.076

1.318.539

1998

1999

2000

800.258

1008.000

149.492


198.000

378.502

141.480

957.520

1.382.500

Nước
1.017.450

419.426

Nguồn: Tổng công ty chè
Mặc dù đã đạt được một số thành tựu đáng kể song thị trường xuất khẩu
chè của chúng ta còn nhiều yếu kém, chưa thâm nhập được vào các thị trường
lớn nhiều tiềm năng, đặc biệt khi gặp các đối thủ “nặng ký” Tổng công ty trở
nên quá “nhỏ bé” và chịu nhiều thua thiệt. Vì vậy, trước mắt chúng ta đặc biệt
là Tổng công ty chè cần chủ động hơn nữa trong việc tìm kiếm và khai thác thị
trường mới, duy trì và củng cố những thị trường truyền thống với sự hỗ trợ của
nhà nước trong việc khai thác các mối quan hệ kinh tế - chính trị, ký kết các
hiệp định thương mại hoặc các văn bản thoả thuận hợp tác với các nước. Nhìn
chung, vấn đề thị trường vẫn là vấn đề lớn còn nhiều bức xúc đòi hỏi nhiều nỗ
lực không chỉ về phía doanh nghiệp mà còn từ phía Nhà nước
II. ĐÁNH GIÁ CHUNG

1. Những mặt tích cực

Trước hết ta phải thấy rằng trong cả nước có rất nhiều các doanh nghiệp
cũng như các đơn vị sản xuất và chế biến chè với vai trò quan trọng của Tổng
công ty chè Việt Nam. Tổng công ty đã tạo được mối liên kết chặt chẽ với các
đơn vị thành viên, mở rộng ra cả các vùng chè của người dân. Tuy có số lượng
đơn vị khá lớn ở nhiều vùng khác nhau nhưng Tổng công ty đã thống nhất được
sự quản lý từ trên xuống dưới thể hiện ở chỗ: các thành viên tuân thủ nghiêm
ngặt kế hoạch và nhiệm vụ được giao, khi có khó khăn về nguồn hàng Tổng
công ty vẫn có thể đảm bảo được lượng hàng xuất khẩu bằng cách yêu cầu các
Page 19

Footer Page 19 of 126.


Header Page 20 of 126.

đơn vị dừng việc bán hàng ra ngoài để tập trung toàn bộ lượng hàng giao cho
Tổng công ty. Ở đây không xảy ra tình trạng "Trống đánh xuôi, kèn thổi ngược"
như vẫn thường thấy ở một số Tổng công ty Việt Nam hiện nay. Sở dĩ tạo ra
được mối liên hệ này là nhờ Tổng công ty đã gắn được lợi ích của mình với lợi
ích của các thành viên. Và thực tế đã chứng minh không có mối quan hệ kinh tế
nào bền chặt bằng mối quan hệ kinh tế hai bên cùng có lợi. Do làm tốt công tác
này mà tránh được tình trang trạng mua tranh tranh bán ở nhiều nơi, làm thiệt
hại cho các công ty và bà con trồng chè, xuất khẩu chè đã làm cho mức sống ở
các vùng trồng chè được cải thiện đáng kể, môi trường cũng phần nào được cải
thiện vì hiện nay diện tích trồng chè của chúng ta đã tăng lên gấp nhiều lần làm
đã phủ xanh đất trống đòi núi trọc, khi xuất khẩu chè thì hiện nay chúng ta đã
xâm nhập được vào các thị trường mới đầy tiềm năng như: Nhật Bản, Mỹ
không còn phụ thuộc vào thị trường Liên Bang Nga và các nước Đông Âu như
trước kia, và hiện nay chúng ta có rất nhiều mối quan hệ với các nước bạn hàng.
Điều này làm cho các doanh nghiệp của nước ta học hỏi được rất nhiều điều và

nắm bắt được những thông tin quan trọng, làm cho các doanh nghiệp chủ động
trước những sự biến động của thị trường, chúng ta đã tạo ra nhiều giống tốt để
phục vụ cho qúa trình xuất khẩu trình độ quản lý cũng được cải thiện, trình độ
thâm canh cây chè cũng được từng bước nâng cao
2. Những hạn chế còn tồn tại
*Trong sản xuất nguyên liệu: Năng suất bình quân thấp do tổ chức sản
xuất sai lầm trong nhiều năm.
- Một thời gian dài trước đây, chè được phát triển tràn lan theo kiểu rải
mành mành, tập trung vào quảng canh.
- Bộ giống chè nghèo, không có giống tốt, giống đặc sản.
- Việc quản lý chăm sóc kém, quy trình kỹ thuật chưa được tuân thủ một
cách nghiêm túc, không thâm canh ngay từ đầu. Cộng với việc khai thác quá
mạnh làm cây chè chóng cạn kiệt, rút ngắn chu kỳ kinh doanh, sớm phải thanh
lý.
Page 20

Footer Page 20 of 126.


Header Page 21 of 126.

- Dùng nhiều phân vô cơ làm đất bị nghèo dinh dưỡng, độ pH tăng cao.
- Vườn chè thiếu hay không có cây bóng mát do nhận thức sai lầm rằng
đây là nơi trú ngụ của sâu bệnh nên đã cho chặt. Thiếu cây bóng mát làm cho
đất bị xói mòn, mực nước ngầm xuống thấp, chè bị héo vào những tháng nóng.
- Vườn chè không được quan tâm đồng đều. Thậm chí ngay trong một xí
nghiệp có vườn chè tốt có vườn lại rất xấu. Có vườn được đầu tư đúng mức,
canh tác đúng quy trình có thể đạt năng suất 15 - 20 tấn/ha. Có vườn bị buông
lỏng, khoán trắng chỉ khai thác, không đầu tư làm năng suất chỉ còn 1,6 tấn/ha.
Đặc biệt, nhiều vườn chè dân xung quanh cơ sở chế biến chưa được quan tâm

một cách đầy đủ, có trợ giá nhưng nông dân vẫn không đủ vốn đầu tư.
- Chè trồng trên dốc nhiều, lại không có hệ thống tưới nước đầy đủ.
*Chất lượng sản phẩm kém: Nhiều đánh giá cho rằng chất lượng của ta
chỉ đạt mức trung bình so với thế giới. Chất lượng thấp làm giảm năng lực cạnh
tranh, kéo giá chè XK xuống thấp hơn hẳn giá chè thế giới. Trong các yếu tố
ảnh hưởng xấu tới chất lượng, nổi lên những yếu tố sau:
- Công nghệ: Chỉ một số ít nhà máy mới xây dựng bằng thiết bị công nghệ
của Ấn Độ là tương đối hoàn chỉnh. Còn phần lớn là các nhà máy công nghệ
Liên Xô (cũ) đến nay đã xuống cấp hay nâng cấp chắp vá bằng các phụ tùng
trong nước nên không đảm bảo tính đồng bộ của dây chuyền sản xuất chè đen
theo tiêu chuẩn. Một số đơn vị đã đầu tư bổ sung thêm máy héo, máy vò, máy
sấy để nâng công suất nhà máy nhưng khâu bảo quản chè búp tươi, phòng lên
men, phòng sàng chưa được nâng cấp tương xứng nên công suất các công đoạn
mất cân đối, chè bị ùn tắc cục bộ dẫn đến chè bị ôi ngay trước khi đưa vào máy
héo hoặc chua thiu trong quá trình lên men. Sự không đồng bộ của dây chuyền
dễ dẫn đến cắt xén quy trình từng công đoạn trong quá trình sản xuất và chất
lượng sản phẩm cũng giảm theo.
- Con người: Cùng với sự yếu kém về công nghệ, thiếu cán bộ kỹ thuật
và công nhân lành nghề cũng như nguyên nhân làm chất lượng chè thấp. Đội
ngũ cán bộ kỹ thuật có trình độ đại học và trên đại học ngày càng thưa thớt,
Page 21

Footer Page 21 of 126.


Header Page 22 of 126.

nhiều đơn vị chè lớn không có kỹ sư chế biến, thậm chí thiếu cả cán bộ chế biến
có trình độ trung cấp. Công nhân lành nghề được đào tạo những năm 60 - 70
nay dần đã về hưu, thay thế là thế hệ công nhân trẻ thiếu kinh nghiệm và tay

nghề thấp. Do thiếu cán bộ có trình độ đại học nên việc bồi dưỡng và nâng cao
tay nghề cho công nhân cũng hạn chế.
- Quản lý: Vẫn còn nhiều đơn vị vì lợi ích cục bộ, chỉ chạy theo số lượng
cốt hoàn thành kế hoạch mà không có trách nhiệm với người tiêu dùng, không
quan tâm duy trì và cải tiên, làm cho chất lượng sa sút ảnh hưởng tới chất lượng
chung của Tổng công ty. Đây là hậu quả của cơ chế cũ. Ngành chè ra đời và
phát triển trong thời kỳ hệ thống XHCN còn vững mạnh. Ta đã nhận được thiết
bị chế biến qua con đường viện trợ không hoàn lại hay trên cơ sở hợp tác ưu
đãi. Phần lớn chè được xuất dưới dạng bán thành phẩm. Sản phẩm sản xuất ra
dù có chất lượng hay không đều có thị trường tiêu thụ ổn định. Sản xuất đến
đâu bán hết đến đó do được bao cấp cả đầu ra. Chính cơ chế này đã gây ra sự trì
trệ và thói quen coi thường chất lượng ở một số cán bộ. Điều này đã thực sự
làm cho tiêu thụ chè nói riêng và hàng hoá Việt Nam nói chung bị "sốc" khi
khối XHCN sụp đổ, thị trường cũ đột ngột co hẹp, buộc phải vươn ra các thị
trường mới mà chất lượng mới chính là yếu tố cạnh tranh để sống còn.
*Tuy Tổng công ty đã mở rộng nhiều thị trường mới nhưng chưa có bạn
hàng thực sự lâu dài: thậm chí còn bị mất thị trường chè vàng ở Hồng Kông.
Nguyên nhân là do:
- Sản phẩm còn đơn điệu về chủng loại, mẫu mã, bao bì, ta chủ yếu xuất
chè có kích thước và kiểu dáng tự nhiên. Trong khi người tiêu dùng đặc biệt
người tiêu dùng ở các nước tư bản lại ưa thích sản phẩm tiện dụng và cho phép
tiết kiệm thời gian.
- Chưa hình thành hệ thống phân phối trực tiếp ở nước ngoài. Ngay cả ở
các thị trường truyền thống, các thị trường lớn như Nga, I rắc... cũng vẫn phải
bán qua các nhà nhập khẩu của họ. XK phải qua nhiều khâu trung gian vòng
vèo.Với vai trò nhỏ bé trên thị trường thế giới và tình hình chất lượng như hiện
Page 22

Footer Page 22 of 126.



Header Page 23 of 126.

nay, chúng ta chưa có khả năng áp dụng nhiều chính sách giá như giá tấn công,
giá hớt váng, chiến tranh giá cả... XK vẫn kiểu cầm chừng, gặp khách thoả
thuận được giá bán, nên yêu cầu chủ yếu với giá xuất khẩu là đủ bù đắp chi phí
và có lãi chứ chưa sử dụng được giá như một công cụ cạnh tranh.
- Chi phí dành cho các hoạt động xúc tiến, yểm trợ còn thấp. Các hình
thức quảng cáo còn nghèo nàn - đây là nhược điểm chung của các doanh nghiệp
Việt Nam. Công tác tiếp thị yếu, chưa có một đội ngũ tiếp thị chuyên môn. Vẫn
theo quan điểm marketing truyền thống, coi trọng khâu tiêu thụ. Đã có các dây
chuyền công nghệ như vậy, đã sản xuất ra các sản phẩm như vậy, vấn đề phải
quan tâm là tìm đầu ra. Chính vì vậy chưa thực sự có được vị trí trên thị trường
thế giới.
*Tất cả những hạn chế trên còn có chung một nguyên nhân là tổ chức
quản lý của ngành chè chưa được hợp lý. Các đơn vị sản xuất chè còn manh
mún, phân tán, còn phân biệt năng nề giữa trung ương và địa phương. Tổng
công ty mới được thành lập trong thời gian ngắn nhưng đang có sự xáo trộn do
việc chuyển đổi một số đơn vị từ Trung ương sang địa phương. Nhìn chung, các
nhà sản xuất và kinh doanh chè trong cả nước chưa tập trung về một mối để tạo
nên sức mạnh tổng hợp, để cạnh tranh được trên thị trường quốc tế.

Page 23

Footer Page 23 of 126.


Header Page 24 of 126.

CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ BIỆN PHÁP THÚC ĐẨY XUẤT

KHẨU CHÈ CỦA VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI
I.PHƯƠNG HƯỚNG CỦA NGÀNH CHÈ VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI

1. Về sản xuất chè.
Quy hoạch vùng nguyên liệu, tập trung phát triển chè tại 8 tỉnh phía Bắc:
Sơn La, Lai Châu, Hà Giang, Tuyên Quang, Yên Bái, Lài Cai, Thái Nguyên,
Phú Thọ, Lâm Đồng. Viện nghiên cứu chè hỗ trợ các đơn vị nhân giống và đưa
nhanh các giống có năng suất cao, chất lượng tốt vào các vườn chè để cải tiến
chất lượng chè xuất khẩu. Tăng tỷ lệ giống mới có chất lượng cao trong cơ cấu
nguyên liệu. Cải tạo đất bằng cách bón phân hữu cơ tổng hợp phù hợp với loại
đất. Đưa công cụ vào canh tác nông nghiệp tại các đơn vị của Tổng công ty rồi
phổ biến rộng ra. Trong 2 năm 1999 - 2000 đầu tư 34,41 tỷ đồng tưới cho các
vườn chè tập trung có điều kiện về nguồn nước ở 9 tỉnh.
Biểu 4: Các chỉ tiêu phát triển chè cả nước.
Năm

1999

2000

2005

2010

Diện tích chè cả nước (ha)

77.142

81.692


104.000

104.000

Diện tích chè kinh doanh (ha)

70.192

70.192

92.500

104.000

Diện tích chè trồng mới( ha)

4.350

4.550

2.800

-

NS bình quân (tấn tươi/ha)

3,82

4,23


6,1

7,5

Sản lượng búp tươi (tấn)

268.200

297.600

490.000

665.000

Sản lượng chè khô (tấn)

59.600

66.000

108.000

147.000

Sản lượng XK (tấn)

37.000

42.000


78.000

110.000

50

60

120

200

Diện tích

Kim ngạch XK (triệu USD)

Nguồn: Kế hoạch sản xuất chè 1999 - 2000 và định hướng phát triển chè
đến 2005 - 2010 (Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn).

Page 24

Footer Page 24 of 126.


Header Page 25 of 126.

2. Về chế biến chè.
Đầu tư cải tạo nâng cấp 30% số cơ sở chế biến công nghiệp trong năm
2003 - 2004. Xây dựng thêm 180 nhà máy chế biến công suất 12 tấn/ngày. Đầu
tư xây dựng nhà máy cơ khí chè công suất 350 - 500 tấn/năm để chế tạo phụ

tùng và thiết bị lẻ phục vụ cho sửa chữa, nâng cấp các nhà máy cũ.
3. Về xuất khẩu.
Tiếp tục giữ vững thị trường XK hiện có, mở ra các thị trường mới bằng
việc sản xuất tiêu thụ sản phẩm có chất lượng cao, giá cả hợp lý. Đa dạng hoá
sản phẩm tổng hợp có chè và khai thác triệt để các sản phẩm từ đất chè.
4. Về lao động.
Nhu cầu đến năm 2010 là 1000 kỹ sư nông nghiệp và 9000 kỹ sư chế
biến. Vì vậy phải đào tạo bổ sung 360 người, bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý cho
216 người, tập huấn khuyến nông cho 200.000 người.
II.NHỮNG BIỆN PHÁP CHỦ YẾU ĐỂ THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU CHÈ CỦA VIỆT
NAM TRONG THỜI GIAN SẮP TỚI

1.Quy hoạch lại vùng chè, nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm.
a. Quy hoạch những vùng nguyên liệu chính và ổn định theo hướng tập
trung chuyên canh thâm canh.
Căn cứ vào đặc điểm địa hình có thể chia làm 3 loại chè: vùng có độ cao
dưới 100m so với mặt nước biển gồm một số huyện thuộc Hà Giang Tuyên
Quang,Lào Cai, Yên Bái, Hoà Bình Bắc Thái, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Thanh Hoá,
Nghệ An và Hà Tĩnh, khả năng mở rộng diện tích từ 14-15 ngàn ha; vùng có độ
cao từ 100 - 1000m gồm Mộc Châu và Cao Nguyên Lâm Đồng, khả năng mở
rộng diện tích từ 8 - 10 ngàn ha; vùng có độ cao trên 1 ngàn mét gồm một số
huyện thuộc Lào Cai, Yên Bái, Hà Giang, Lai Châu, có khả năng mở rộng diện
tích từ 6 - 8 ngàn ha. Để thực hiện, trước mặt là nhằm tạo vùng chè cao sản, đặc
sản, ổn định về sản lượng và chất lượng ngay trên những vườn chè tập trung
hiện có. Cần thúc đẩy hơn nữa việc gắn lợi ích của kinh doanh chè với lợi ích
của người trồng chè. Cụ thể là cải thiện điều kiện làm việc nâng cao đời sống
Page 25

Footer Page 25 of 126.



×