Tải bản đầy đủ (.pdf) (59 trang)

Nhà nước pháp quyền và vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (966.79 KB, 59 trang )

Header Page 1 of 126.

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

LÊ THỊ LOAN

NHµ N¦íC PH¸P QUYÒN
Vµ VÊN §Ò KIÓM SO¸T QUYÒN LùC NHµ N¦íC

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2017

Footer Page 1 of 126.


Header Page 2 of 126.

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

LÊ THỊ LOAN

NHµ N¦íC PH¸P QUYÒN
Vµ VÊN §Ò KIÓM SO¸T QUYÒN LùC NHµ N¦íC
Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nƣớc pháp luật
Mã số: 60 38 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS.TSKH ĐÀO TRÍ ÚC

HÀ NỘI - 2017

Footer Page 2 of 126.


Header Page 3 of 126.

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm
bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các
môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định
của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi
có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Lê Thị Loan

Footer Page 3 of 126.


Header Page 4 of 126.

MỤC LỤC
Trang

Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ
NƢỚC TRONG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN .........................................8
1.1.

Kiểm soát quyền lực là biểu hiện cơ bản của nhà nƣớc pháp quyền .....8

1.1.1.

Khái niệm nhà nước pháp quyền ...................................................................8

1.1.2.

Kiểm soát quyền lực nhà nước là biểu hiện cơ bản của nhà nước
pháp quyền ..................................................................................................16

1.2.

Vai trò, ý nghĩa của kiểm soát quyền lực nhà nƣớc ...............................21

1.3.

Các cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nƣớc trong nhà nƣớc pháp quyền .....24

1.3.1.


Chủ thể, đối tượng, nội dung của kiểm soát quyền lực nhà nước ...............26

1.3.2.

Các hình thức kiểm soát quyền lực nhà nước trong nhà nước pháp quyền ...........39

Chƣơng 2: THỰC TRẠNG CƠ CHẾ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƢỚC
TRONG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT
NAM VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG HIỆU LỰC KIỂM SOÁT
QUYỀN LỰC NHÀ NƢỚC ...................................................................................... 52
2.1.

Thực trạng cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nƣớc trong nhà nƣớc
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam ..................................................52

2.2.

Phƣơng hƣớng, giải pháp cơ bản đổi mới và tăng cƣờng kiểm soát
quyền lực nhà nƣớc ...................................................................................61

2.2.1.

Hoàn thiện cơ chế phân công phối hợp kiểm soát quyền lực nhà nước............61

2.2.2.

Hoàn thiện cơ chế giám sát của Đảng .........................................................64

2.2.3.


Hoàn thiện cơ chế giám sát của cơ quan Nhà nước. ...................................67

3.2.4.

Hoàn thiện cơ chế giám sát xã hội ..............................................................77

KẾT LUẬN ..............................................................................................................85
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................88

Footer Page 4 of 126.


Header Page 5 of 126.

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Footer Page 5 of 126.

CHXHCN:

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

HĐND:

Hội đồng nhân dân

MTTQ:

Mặt trận tổ quốc


TAND:

Tòa án nhân dân

UBND:

Ủy ban nhân dân

VKSND:

Viện kiểm sát nhân dân

XHCN:

Xã hội chủ nghĩa


Header Page 6 of 126.

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhà nước pháp quyền là một hiện tượng chính trị - pháp lý phức tạp được
hiểu và nhìn nhận ở nhiều góc độ khác nhau, song có thể hiểu nước nước pháp
quyền theo cách đơn giản, đó là một nhà nước quản lý kinh tế - xã hội bằng pháp
luật và nhà nước hoạt động tuân theo pháp luật. Nhà nước pháp quyền là nhà
nước phục tùng pháp luật mà chủ thể phục tùng pháp luật trước hết là cơ quan
nhà nước và công chức nhà nước. Quyền lực được ủy quyền, giao cho một số
người trong thay mặt nhân dân thực thi pháp luật. Do đó, vấn đề kiểm soát quyền
lực nhà nước có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, quyền lực ấy nếu không được kiểm
soát sẽ trở nên xa lạ với xã hội, lạm dụng quyền lợi ấy tự thân nó sẽ mất đi trách

nhiệm của chính mình.
Cơ chế kiểm tra giám sát quyền lực Nhà nước luôn giữ một vị trí đặc biệt
quan trọng trong tổ chức và thực thi quyền công quyền. Xây dựng một cơ chế kiểm
soát hợp lý, đầy đủ và có hiệu lực luôn là một trong những bảo đảm cho guồng máy
quyền lực hoạt động hết công suất đồng thời tránh được tình trạng bộ máy quyền
lực vận hành ngoài tầm kiểm soát của người chủ quyền lực dẫn đến quan liêu, tha
hóa quyền lực.
Từ khi thành lập nước đến nay, quyền lực Nhà nước của ta luôn được thực hiện
dưới sự kiểm tra, giám sát của những cơ chế khác nhau. Chúng ta đã thiết lập nhiều
công cụ kiểm soát quyền lực Nhà nước và ở mức độ nhất định, các cơ chế đó đã góp
phần vào việc duy trì vận hành an toàn của bộ máy quyền lực nước ta. Tuy nhiên trong
điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa - khi việc thực hiện quyền
lực Nhà nước đã có sự thay đổi về chất - thì vị trí của hoạt động kiểm soát quyền lực
Nhà nước cũng như của các cơ chế kiểm tra, giám sát quyền lực Nhà nước đã khác
trước về cơ bản. Chúng ta không thể duy trì các cơ chế kiểm tra, giám sát quyền lực
Nhà nước như trước kia, cũng không thể hiểu về giải quyết và các cơ chế, công cụ
kiểm soát quyền lực Nhà nước trong khuôn khổ và tính chất như trước kia.

1
Footer Page 6 of 126.


Header Page 7 of 126.

Vị trí, vai trò của giám sát và các cơ chế kiểm tra, giám sát quyền lực Nhà
nước trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được xác định xuất
phát từ hai yêu cầu chủ yếu:
Thứ nhất liên quan đến tính thống nhất về bản chất của quyền lực Nhà nước
ở nước ta. Quyền lực Nhà nước là quyền lực thống nhất của nhân dân dưới sự lãnh
đạo của Đảng.

Thứ hai liên quan đến việc tổ chức thực hiện quyền lực Nhà nước. Ở nước ta,
chúng ta đã có công thức hoàn chỉnh trong tổ chức thực hiện quyền lực Nhà nước.
Đó là sự phân công giữa các cơ quan thực hiện chức năng lập pháp, hành pháp, tư
pháp trên cơ sở phối hợp để bảo đảm quyền lực Nhà nước thống nhất. Đã là phân
công quyền lực thì phải thấy được hai mặt của nó: phân công và phối hợp. Về sự
phân công, chúng ta xác định trong bộ máy Nhà nước có quyền lập pháp, hoạt động
lập pháp, có quyền hành pháp và hoạt động hành pháp, có quyền tư pháp và hoạt
động tư pháp.
Có thể nói, hoạt động kiểm tra, giám sát việc thực hiện quyền lực Nhà nước
là một hoạt động tất yếu trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nhằm để duy
trì bản chất, định hướng chung thể hiện qua nhiệm vụ chung của quyền lực Nhà
nước và để bảo đảm cho quyền lực Nhà nước được thực hiện một cách khoa học,
hiệu quả. Xã hội càng phát triển, quá trình dân chủ hóa trong xã hội càng được mở
rộng thì yêu cầu kiểm tra, giám sát quyền lực Nhà nước càng cao. Điều này lý giải
bởi sự tăng cường của phạm vi tác động của quyền lực, bởi tính phức tạp trong tổ
chức và thực hiện quyền lực, bởi sự đan xen, giao thoa và mâu thuẫn trong việc sử
dụng quyền lực.
Ở Việt Nam xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của
dân, do dân, vì dân là vấn đề được Đảng Cộng Sản Việt Nam xác định là một trong
tám mối quan hệ lớn của đường lối đổi mới toàn diện đất nước. Trong đó vấn đề kiểm
soát quyền lực nhà nước đã được xác định là quan điểm có tính nguyên tắc trong xây
dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam. Thực hiện chủ trương trên, thời gian qua công
cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã đạt được những

2
Footer Page 7 of 126.


Header Page 8 of 126.


thành tựu quan trọng. Tuy vậy trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam cũng còn nhiều vấn đề cần được nghiên cứu làm rõ cả về vấn đề lý luận và
thực tiễn trong đó có vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước.
Vì vậy tôi chọn đề tài: “Nhà nước pháp quyền và vấn đề kiểm soát quyền lực
nhà nước” làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu tổng quát của việc nghiên cứu đề tài là nhận diện được những nội
dung cơ bản về kiểm soát quyền lực nhà nước trong nhà nước pháp quyền trên cơ sở
đó nhận thức được nhu cầu, thực tiễn, những quan điểm để tiếp thu vận dụng nó
trong sự nghiệp xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay
Mục tiêu cụ thể:
- Tìm hiểu về những vấn đề lí luận chung về xây dựng nhà nước pháp quyền,
về vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước trong nhà nước pháp quyền
- Các yêu cầu của việc kiểm soát quyền lực trong nhà nước pháp quyền
- Chỉ ra được cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước
- Thực trạng các cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước
- Chỉ ra được tính cấp thiết của việc kiểm soát quyền lực nhà nước trong xây
dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay
- Luận giải về nhu cầu, khả năng phương hướng hay nói cách khác là
phương hướng, giải pháp để tăng cường hiệu lực việc kiểm soát quyền lực nhà nước
trong bối cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung vào các vấn đề lý luận và thực tiễn, các nghiên cứu về
quyền lực nhà nước, yêu cầu cuả việc kiểm soát quyền lực nhà nước, các cơ chế hay
hình thức kiểm soát quyền lực nhà nước, thực trạng vấn đề kiểm soát quyền lực nhà
nước ở Việt Nam khi đang xây dựng nhà nước pháp quyền cụ thể:
- Việc tổ chức thực thi và kiểm soát quyền lực nhà nước trong chính quyền
địa phương ở nước ta hiện nay


3
Footer Page 8 of 126.


Header Page 9 of 126.

- Các cơ chế, hình thức kiểm soát quyền lực nhà nước bên trong và bên
ngoài trong chính quyền địa phương nước ta hiện nay
Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu thực trạng các cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ta
từ bản Hiến pháp đầu tiên của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam đến nay,
Nghiên cứu hệ thống vấn đề kiểm soát quyền lực Nhà nước trong bộ máy Nhà Nước
ta hiện nay.
4. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Nhà nước pháp quyền là một trong những giá trị xã hội quý báu được tích
lũy và phát triển trong Lịch sử tư tưởng nhân loại. Tư tưởng về nhà nước pháp
quyền đã xuất hiện từ rất sớm, trong tư tưởng chính trị - pháp lý thời cổ đại đã
chứa đựng nhiều nhân tố của nhà nước pháp quyền. Đến thời kỳ cách mạng Dân
chủ tư sản, những tư tưởng quý báu đó đã được kế thừa, phát triển để trở thành
học thuyết về nhà nước pháp quyền. Học thuyết đó đã được áp dụng ở các mức độ,
phạm vi khác nhau ở nhiều nước tư sản. Ngày nay, ở Việt Nam học thuyết đó lại
tiếp tục được bổ sung, phát triển cho phù hợp với những đổi thay sâu sắc của xã
hội hiện đại. Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu, luận giải vấn đề nhà nước
pháp quyền và vấn đề kiểm soát quyền lực, nhằm tìm hiểu những phương thức
kiểm soát cụ thể khác nhau.
Ở Việt Nam đã có những công trình nghiên cứu, những cuốn sách chuyên
khảo của các chuyên gia đề cập đến vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước, về cơ
chế nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước, tiêu biểu là một số cuốn sách như:
“Phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực với việc sửa đổi Hiến pháp năm
1992” của tác giả Trần Ngọc Đường; “Sự hạn chế quyền lực nhà nước” của tác

giả Nguyễn Đăng Dung; “Kiểm soát quyền lực nhà nước – Một số vấn đề lí luận
và thực tiễn” của tác giả Trịnh Thị Xuyến; “Giám sát và cơ chế giám sát việc
thực hiện quyền lực nhà nước ở nước ta hiện nay” của tác giả Đào Trí Úc và Võ
Khánh Vinh đồng chủ biên; “Mối quan hệ pháp lí giữa cá nhân công dân với
Nhà nước” của tác giả Trần Ngọc Đường và Chu Văn Thành đồng chủ biên;“Vai

4
Footer Page 9 of 126.


Header Page 10 of 126.

trò của Mặt trận tổ quốc Việt nam đối với việc thực hiện quyền làm chủ của
nhân dân ở nước ta” của tác giả Nguyễn Thị Hiền Oanh;“Nhà nước và trách
nhiệm của Nhà nước” tác giả Nguyễn Đăng Dung; “Xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt nam trong giai đoạn hiện nay – một số vấn đề lí
luận và thực tiễn” của tác giả Đào Trí Úc và Phạm Hữu Nghị đồng chủ biên;“Cơ
chế giám sát của nhân dân đối với hoạt động của bộ máy Đảng và nhà nước –
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả Đào Trí Úc,…
Về cơ bản các công trình nghiên cứu trên đã tập trung làm rõ bản chất của
Nhà nước Việt Nam là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Nhân
dân kiểm soát quyền lực nhà nước vậy cần có sự phân công phối hợp, kiểm soát
giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Bên cạnh đó có một số đề tài nghiên cứu việc kiểm soát quyền lực trong
từng lĩnh vực cụ thể đối với hoạt động của bộ máy nhà nước như: Một số công
trình nghiên cứu của Bộ Tư Pháp “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” hay
của Khoa Nhà nước pháp luật của Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
“Tăng cường hoạt động giám sát của Quốc Hội”. Các nghiên cứu này xuất phát từ
cách tiếp cận phương pháp luận khoa học phân tích từng hoạt động cụ thể của việc
thực hiện chức năng giám sát của từng cơ quan cụ thể như của Quốc Hội, HĐND,

hoạt động của Chính Phủ.
Những công trình này đã đưa ra được những đánh giá khái quát các giải pháp
mang tính định hướng chung của việc kiểm soát nhưng lại không đi sâu luận chứng
hệ thống kiếm soát quyền lực nhà nước ta đặc biệt là trong tiến trình đi lên xây
dựng nhà nước pháp quyền. Cho đến nay các nghiên cứu chuyên sâu về kiểm soát
quyền lực ở nước ta không nhiều. Nhằm tiếp tục nghiên cứu những vấn đề lý luận,
đồng thời vận dụng vào thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền và vấn đề kiểm
soát quyền lực ở Việt Nam tôi chọn đề tài “Nhà nước pháp quyền và vấn đề kiểm
soát quyền lực nhà nước” làm đề tài luận văn thạc sĩ, chuyên ngành Lý luận và lịch
sử nhà nước pháp luật.

5
Footer Page 10 of 126.


Header Page 11 of 126.

5. Nội dung và phƣơng pháp nghiên cứu
Nội dung nghiên cứu
Nội dung nghiên cứu của luận văn là nhằm nhận diện được những nội dung
cơ bản về nhà nước pháp quyền, kiểm soát quyền lực nhà nước trong nhà nước pháp
quyền trên cơ sở đó nhận thức được nhu cầu, thực tiễn, những quan điểm để tiếp thu
vận dụng nó trong sự nghiệp xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay
Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử của triết học Mác - Lênin; các khoa học chuyên ngành khác đặc biệt
là khoa học về Lý luận lịch sử nhà nước và pháp luật, chú trọng đến phương pháp
phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, kết hợp lý luận và thực tiễn.
6. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Đưa ra được những luận giải những nhận thức cơ bản trên lí luận và thực tiễn

về kiểm soát quyền lực nhà nước trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền ở
Việt Nam hiện nay.
Mặc dù đã có nhiều học giả nghiên cứu về vấn đề kiếm soát quyền lực nhà
nước nhưng luận văn sẽ Góp phần nhận diện đầy đủ hơn nhận thức về cơ chế kiểm
soát quyền lực nhà nước trong bộ máy chính quyền ở Việt Nam hiện nay để từ đó
hoàn thiện cơ chế, phương thức giải pháp tăng cường hiệu lực của việc kiểm soát
quyền lực nhà nước.
Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận văn
- Nâng cao nhận thức lý luận và nhận thức thực tiễn, tính tất yếu cấp bách
của vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước.
- Luận văn cung cấp những luận điểm khoa học nhất về nhà nước pháp
quyền, vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước trong nhà nước pháp quyền.
- Các luận điểm khoa học cũng như kết quả nghiên cứu của luận văn có giá
trị tham khảo đối với những người làm công tác nghiên cứu, cho các nhà hoạt động
chính trị xã hội, các học viên, sinh viên chuyên ngành luật, tổ chức cá nhân. Góp
phần nâng cao văn hóa chính trị cho người đọc, áp dụng trong thực tiễn hạn chế sự

6
Footer Page 11 of 126.


Header Page 12 of 126.

lạm dụng quyền lực trong bộ máy nhà nước đảm bảo hiệu lực hiệu quả, đẩy mạnh
thực thi dân chủ trong xã hội đảm bảo quyền lực thuộc về nhân dân.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, kết cấu của đề tài bao gồm 2
chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về kiểm soát quyền lực nhà nước trong nhà nước
pháp quyền

Chương 2: Thực trạng cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước trong nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam - Thực trạng và phương hướng giải pháp
tăng cường hiệu lực kiểm soát quyền lực nhà nước.

7
Footer Page 12 of 126.


Header Page 13 of 126.

Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƢỚC
TRONG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN
1.1. Kiểm soát quyền lực là biểu hiện cơ bản của nhà nƣớc pháp quyền
1.1.1. Khái niệm nhà nước pháp quyền
Tư tưởng về Nhà nước pháp quyền luôn gắn liền với tư tưởng phát triển dân
chủ đã hình thành ngay từ thời cổ đại, thể hiện trong quan điểm của các nhà tư
tưởng của thời cổ đại như Xôcrat (469-399 Tr.CN), Arixtốt (384-322 Tr.CN),
Xixêrôn (l06-43 Tr.CN). Những tư tưởng này đã được các nhà tư tưởng chính trị và
pháp lý tư bản sau này như John Locke (1632 -1704), Montesquieu (1698 -1755),
J.J.Rút-xô (1712 -1778), I.Kant (1724 -1804), Hêghen (1770 -1831).
Hiện nay, trong lý luận có nhiều quan điểm cách tiếp cận khác nhau về khái
niệm và các yếu tố cơ bản của nhà nước pháp quyền. Cụ thể các quan điểm thường
nhấn mạnh đến một trong những yếu tố cơ bản sau đây của nhà nước pháp quyền:
tính tối cao của luật, nghĩa vụ tuân thủ pháp luật của chính nhà nước, cơ chế phân
chia quyền lực, kìm chế và đối trọng giữa các nhánh quyền lực: Lập pháp, Hành
pháp, tư pháp, dân chủ, xã hội công dân, quyền con người....
Theo PGS.TS Hoàng Thị Kim Quế Nhà nước pháp quyền được định nghĩa
như sau:
Nhà nước pháp quyền là một hình thức tổ chức nhà nước với sự

phân công lao động khoa học hợp lí giữa các quyền lập pháp, hành pháp,
tư pháp có cơ chế kiểm soát quyền lực, nhà nước được tổ chức và hoạt
động trên cơ sở pháp luật, nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, pháp
luật có tính khách quan, nhân đạo, công bằng, tất cả vì lợi ích chính đáng
của con người [14, tr.174].
Những giá trị phổ biến của Nhà nƣớc pháp quyền
Thứ nhất, Nhà nước pháp quyền dựa trên nền tảng của chủ nghĩa lập hiến. Sự
hiện diện của Hiến pháp được coi là điều kiện tiên quyết cho sự tồn tại của nền dân

8
Footer Page 13 of 126.


Header Page 14 of 126.

chủ và Nhà nước pháp quyền, bởi vì Hiến pháp thể hiện ý chí của mình, là cơ sở
bảo đảm tính hợp pháp của nhà nước.
Hiến pháp là văn bản khế ước của nhân dân, được đa số nhân dân thông qua
theo những trình tự đặc biệt. Như vậy, chủ nghĩa lập hiến đồng nghĩa với việc coi
nhân dân là nguồn gốc của quyền lực nhà nước, là chủ thể của quyền lực nhà nước.
Làm theo Hiến pháp là tuân theo ý chí gốc rễ của chủ thể quyền lực, làm trái hoặc
khác với Hiến pháp là xâm phạm chủ quyền của nhân dân.
Nhà nước pháp quyền trước hết là nhà nước được tạo nên bằng ý chí chung
của nhân dân, nhằm bảo vệ tự do tài sản của mỗi thành viên của nó. Mỗi thành viên
tuân thủ ý chí chung (được nhà nước thể hóa thành pháp luật) cũng tức là tuân thủ ý
chí của riêng mình mà vẫn tự do. Quá trình chuyển nhà nước từ cá nhân vua chúa, từ
ý chí tối cao thành nhà nước của nhân dân trở thành quá trình xóa bỏ các chế độ độc
đoán, chuyên quyền và tách nhà nước ra khỏi sự nhà thờ, tách xã hội dân sự ra khỏi
xã hội thần dân. Nhà nước không có mục đích tự thân nào, mà chỉ là công cụ phục vụ
nhân dân, phục vụ yêu cầu phát triển của xã hội. Nếu ở thời cổ đại, hình thức nhà

nước hỗn hợp (kết hợp ba hình thức quân chủ, quý tộc và cộng hòa) được coi là thích
hợp, thì ở thời cận đại và hiện đại hình thức cộng hòa dân chủ được coi là thích hợp
và đáp ứng được yêu cầu phát triển của xã hội. Sự ra đời của Nhà nước pháp quyền
đồng thời phủ nhận nhà nước chuyên chế, cực quyền, độc quyền phát xít. Tiêu chí
đầu tiên của một Nhà nước pháp quyền là nhà nước mà toàn bộ quyền lực của nó
thuộc về nhân dân và trở thành vấn đề mang tính pháp lý. Đây thực sự là một bước
tiến lớn lao trong lịch sử chính trị của nhân loại. Trong các nhà nước không pháp
quyền, nhân dân không chỉ là chủ thể, mà chỉ là khách thể của quyền lực. Bởi vì, chỉ
khi nào có quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân thì nhân dân mới có quyền kiểm tra
và giám sát quyền lực đó. Hoặc nói khác đi, sở dĩ đặt ra vấn đề phải đặt nhà nước
dưới sự giám sát của nhân dân vì đó là sự giám sát của người chủ quyền lực. Pháp
luật không chỉ có mục đích tự thân mà chỉ là công cụ thực hiện quyền lực. Do đó, nếu
Chính phủ sai thì nhân dân phải có thái độ, kể cả thay đổi chính phủ, pháp luật không
phù hợp với Hiến pháp thì phải đình chỉ hiệu lực thi hành.

9
Footer Page 14 of 126.


Header Page 15 of 126.

Thứ hai, pháp luật giữ vị trí chi phối và có hiệu lực pháp lý tối thượng trong
xã hội, Nhà nước cũng phải chịu sự ràng buộc của pháp luật.
Với sự ra đời của học thuyết Nhà nước pháp quyền, mối quan hệ giữa nhà
nước và pháp luật đã có sự thay đổi căn bản. Pháp luật do nhà nước ban hành giữ vị
trí và có hiệu lực thống trị không chỉ đối với xã hội mà còn đối với cả nhà nước.
Đây là sự kết hợp giữa tổ chức quyền lực của xã hội và giai cấp cầm quyền với hệ
thống các quy tắc ứng xử trong xã hội thể hiện ý chí của giai cấp cầm quyền, với
công lý và công bằng. Quyền lực nhà nước không chỉ dựa trên công bằng thì chỉ là
bạo lực thô bạo. Công lý và lẽ phải mà không có sự đảm bảo của quyền lực nhà

nước thì bất lực. Nhà nước ban hành pháp luật không chỉ để tổ chức và quản lý xã
hội mà còn để tổ chức và quản lý bản thân mình. Pháp luật trở thành công cụ chế
ước, quy định kiểm tra, giám sát tổ chức và phương thức hoạt động của Nhà nước.
Nhà nước pháp quyền tự đặt mình dưới pháp luật, chứ không đứng trên và đứng
ngoài pháp luật. Pháp luật không chỉ là công cụ để duy trì và phát triển xã hội mà
còn là công cụ duy trì sự tồn tại của chính Nhà nước. Chức năng, quyền hạn của nhà
nước chỉ nằm trong khuôn khổ pháp quyền. Đặt mình trong chế độ pháp quyền, nhà
nước là mạnh nhất, ngoài lĩnh vực pháp quyền, nhà nước luôn luôn nằm trong nguy
cơ của sự chuyên quyền và mất dân chủ. Nhà nước pháp quyền là nhà nước được
xây dựng trên cơ sở lý trí, hợp hiến, hợp pháp và chế độ trách nhiệm pháp lý. Trong
Nhà nước pháp quyền, viên chức nhà nước chỉ được làm những gì pháp luật cho
phép, còn công dân lại được làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm. Vượt quá
giới hạn cho phép, nhà nước sẽ thoái hóa, biến chất. Với nguyên tắc pháp luật chi
phối, mối quan hệ giữa công dân và nhà nước cũng có sự thay đổi. Nhà nước và
công dân đều có quyền hạn và nghĩa vụ trước pháp luật.
Pháp luật trong Nhà nước pháp quyền là ý chí, nguyện vọng, quyền lợi và
nghĩa vụ của công dân được luật hóa, là tiếng nói của công lý và lý trí. Pháp luật là
một thực thể hay một đại lượng chung có tính phổ biến bảo đảm sự tự do và bình
đẳng của mọi thành viên trong xã hội. Trong quy phạm của xã hội là tính tất yếu
được hình thành qua vô số ngẫu nhiên. Pháp luật chứa đựng những giá trị ổn định,

10
Footer Page 15 of 126.


Header Page 16 of 126.

chuẩn mực hóa những quan hệ xã hội và có các chức năng đặc biệt tổ chức, bảo
vệ, trọng tài. Nhà nước pháp quyền quản lý xã hội bằng pháp luật là quản lý bằng
ý chí phổ biến của nhân dân được thể chế hóa, chứ không phải bằng chỉ lệnh, luật

lệnh của cá nhân tùy tiện. Nhờ pháp luật mà cái vốn là của một giai cấp trờ thành
của một toàn xã hội. Nhà nước và công dân đều tuân thủ pháp luật có nghĩa là
cũng tuân theo những quy tắc đã đặt ra. Pháp luật trong nhà nước pháp quyền là ý
chí của nhân dân được thể chế hóa là một tiến bộ lịch sử. Nó đề cao giá trị của con
người trong mối quan hệ với nhà nước. Về hình thức, pháp luật trong nhà nước
pháp quyền chi phối toàn bộ hoạt động của xã hội và nhà nước. Về nội dung, pháp
luật thể hiện và đáp ứng nhu cầu khách quan của xã hội, thúc đẩy xã hội phát triển.
Về cấu trúc, pháp luật trong Nhà nước pháp quyền là một thể thống nhất và có thứ
bậc, trong đó Hiến pháp giữ vị trí cao nhất chi phối toàn bộ các đạo luật và các
quy định dưới luật.
Quản lý xã hội bằng pháp luật và nhà nước tự đặt mình dưới pháp luật là một
tiến bộ, một giá trị xã hội. Với nguyên tắc pháp luật thống trị, tính ổn định về tổ
chức và hoạt động của nhà nước được duy trì, tính thống nhất, hiệu lực và hiệu quả
của các chính sách được bảo đảm, quan hệ nhà nước - công dân chuyển từ quan hệ
quyền lực sang quan hệ pháp lý, nhà nước ban hành luật, nhưng sau khi luật được
ban hành thì chính nhà nước cũng phải chịu sự điều chỉnh của đạo luật đó. Đó là
quan niệm có tính nền tảng của học thuyết về Nha nước pháp quyền.
Quan niệm cho rằng bản thân nhà nước cũng phải chịu sự điều chỉnh của
pháp luật có rất nhiều yêu cầu nhưng về cơ bản có thể tóm tắt lại rằng, Nhà nước
pháp quyền là tính tối tối cao của pháp luật, nó là tối thượng đối với mọi người, kể
cả các quan chức, người lãnh đạo.
Tuy nhiên, quan điểm đặt nhà nước và các quan chức của nhà nước dưới sự
điều chỉnh của pháp luật sẽ không có ý nghĩa nếu không có cách thức gì để kiểm tra
tính hợp pháp và sự tuân thủ pháp luật trong hoạt động của các cơ quan và viên
chức nhà nước. Chính vì vậy, cơ chế bảo hiểm đã ra đời, các cơ chế kiểm tra, giám
sát hoạt động của các cơ quan nhà nước đã được thiết kế và áp dụng đối với tất cả
các nhánh quyền lực.

11
Footer Page 16 of 126.



Header Page 17 of 126.

Thứ ba, bảo đảm nguyên tắc phân quyền và yêu cầu về sự độc lập của tư
pháp. Có thể nói rằng, sự độc lập của hoạt động tư pháp là một trong những yếu tố
cơ bản của Nhà nước pháp quyền. Tòa án là cơ quan áp dụng pháp luật khi mà pháp
luật được coi là có vị trí tối thượng, phán xét về khả năng vi phạm các quyền công
dân từ phía người khác hoặc từ phía nhà nước, lại cũng là nơi phán xét các quyết
định của các cơ quan hành pháp nếu có biểu hiện vi phạm quyền công dân hoặc
thẩm quyền của các cơ quan khác. Nguyên tắc phân quyền nói rõ là quyền lập pháp
thuộc về Quốc hội, quyền hành pháp thuộc về Chính phủ, quyền tư pháp thuộc về
Tòa án. Mặt khác, cơ chế cho phép Quốc hội có quyền bỏ phiếu bất tín nhiệm đối
với các thành viên Chính phủ để lập Chính phủ mới được bổ sung bởi các cơ chế có
tính đối trọng là quyền của Chính phủ giải tán Quốc hội. sự độc lập của Tòa án xuất
phát từ yêu cầu bảo đảm để không có sự can thiệp từ phía cơ quan lập pháp và cơ
quan hành pháp, bảo đảm để công chúng có được lòng tin vào sự không thiên vị của
các thẩm phán khi họ giải quyết các việc tư của dân.
Thứ tư, pháp luật phải được áp dụng công bằng, nhất quán, phải bảo đảm
tính công khai, sự minh bạch, dễ tiếp cận, áp dụng kịp thời. Tuy nhiên, ý nghĩa của
yêu cầu công bằng là hết sức rõ ràng. Lòng tin của công chúng vào Nhà nước pháp
quyền chỉ có thể được duy trì nếu nhận thức về tính công bằng của pháp luật đủ sâu
rộng đến mức không có chỗ cho sự thiên vị dựa trên những tiêu chí tôn giáo, chủng
tộc. Yêu cầu về tính minh bạch có hai nội dung: thứ nhất đòi hỏi pháp luật phải dễ
hiểu và được công bố rộng rãi để mọi người được cảnh báo trước về những hành
động có thể phải chịu chế tài của nhà nước, hoặc có thể thực hiện các quyền của
mình theo các cách thức thích hợp và để cho người khác có thể tôn trọng các quyền
của họ sau khi tìm hiểu những quy định có liên quan.
Yêu cầu về tính minh bạch đòi hỏi trong mọi hoạt động của mình, Chính phủ
phải tuân thủ pháp luật mà trước đó đã được thông qua và công bố. Những quy định

pháp luật phải cho phép dự báo về các thức mà Chính phủ sẽ sử dụng để thực thi
quyền cưỡng chế của mình trong những hoàn cảnh nhất định. Nội dung thứ hai của
yêu cầu minh bạch liên quan đến vấn đề thủ tục. Quy trình làm luật cũng phải được

12
Footer Page 17 of 126.


Header Page 18 of 126.

công bố công khai. Nếu luật pháp được công bố chỉ để các quan chức Chính phủ
tuân thủ, thì rất có thể sẽ đi đến chổ coi nhẹ tính hợp lý và sự cần thiết ban hành văn
bản. Ngay cả khi đã rõ về sự cần thiết ban hành một đạo luật, nếu không công khai
hóa quy trình ban hành luật và không tạo điều kiện để những người có thể bị ảnh
hưởng bởi việc áp dụng luật tham gia ý kiến về dự luật thì sự ủng hộ của dân chúng
dành cho văn bản luật đó cũng sẽ bị giảm sút.
Thứ năm, tôn trọng và bảo vệ quyền công dân và quyền con người.
Đây là giá trị của mọi giá trị tư tưởng về Nhà nước pháp quyền mà tư duy
nhân loại đã đạt đến. Với sự ra đời của học thuyết về Nhà nước pháp quyền và Nhà
nước pháp quyền tư sản trong hiện thực, lần đầu tiên trong lịch sử con người đã
bước từ đại vị nô lệ trong xã hội thần dân sang địa vị người công dân trong xã hội
công dân. Người công dân trong mối quan hệ với Nhà nước pháp quyền là con
người, mà các quyền cơ bản, thiêng liêng nhất của nó như quyền được sống, quyền
bình đẳng, quyền mưu cầu hạnh phúc, quyền sở hữu tài sản được nhà nước bảo vệ
bằng pháp luật. Về lý thuyết, mỗi cá nhân có thể phát triển bình đẳng và tự do trước
pháp luật, có đủ cơ hội pháp lý để phát huy mọi khả năng của mình. Nhà nước cam
kết, tôn trọng trên thực tế và bằng pháp luật các quyền, lợi ích hợp pháp, danh dự và
nhân phẩm của công dân. Con người được sống trong công lý và lẽ phải. Pháp luật
là phương tiện để con người đạt được tới tự do. Trong Nhà nước pháp quyền, người
công dân có quyền kiểm tra và giám sát hoạt động của nhà nước, kể cả quyền thay

đổi nhà nước khi nó xâm phạm đến các quyền và lợi ích của nhân dân và xã hội.
Không gian và xã hội cho sự sinh tồn và hoạt động của con người được mở rộng.
Nhà nước pháp quyền là nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật nên nó có đặc
điểm là hoạt động công khai và dân chủ. Công dân có quyền và nghĩa vụ chống lại
sự xâm phạm hay can thiệp tùy tiện, trái pháp luật của nhà nước. Điều này khác với
các nhà nước không phải là Nhà nước pháp quyền ở đó, người dân phải làm các
nghĩa vụ với nhà nước, còn nhà nước thì không. Nó khác với nhà nước khác còn ở
chỗ nó không thể ban hay thu lại cái không thể ban phát là tự do cho người dân. Với
sự ra đời của Nhà nước pháp quyền, nhà nước trở về đúng vị trí của mình trong mối
quan hệ với xã hội công dân.

13
Footer Page 18 of 126.


Header Page 19 of 126.

Trong Nhà nước pháp quyền, quyền con người, quyền công dân được xác lập
về mặt pháp lý, tạo cơ sở cho việc xây dựng một xã hội bình đẳng và công bằng.
Các quyền đó được mở rộng và nâng cao bao nhiêu thì quyền hạn nhà nước bị giới
hạn và bị kiểm soát chặt chẽ bấy nhiêu.
Ở Việt Nam hiện nay, Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
đã được Đảng ta coi là nhiệm vụ quan trọng và đã được Hiến pháp ghi nhận. Nhiệm
vụ đó được Đảng đặt trong định hướng chung của việc đổi mới và hoàn thiện
phương thức lãnh đạo, bảo đảm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng, không ngừng đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng và từng bước hoàn thiện
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân.
Bắt đầu từ Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kì khóa VII (tháng
01/1994) Đảng ta đã khẳng định sự cần thiết phải xây dựng Nhà Nước pháp quyền
như điều kiện không thể thiếu để có nền dân chủ thực sự vì nhân dân. Liên tiếp qua

các kì đại hội gần đây (Đại hội IX. Đại hội X, Đại hội XI. Đại hội XII), Đảng ta tiếp
tục coi nhiệm vụ xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Trong các văn kiện của Đảng đặc biệt là Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ
XII nêu vấn đề: “Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN”. “Xây
dựng” và “hoàn thiện” Nhà nước pháp quyền đều là những nhiệm vụ quan trọng.
Đảng ta đã xác định đi vào chiều sâu của nhiệm vụ này. Quá trình hoàn thiện Nhà
nước pháp quyền XHCN sẽ là quá trình không ngừng nâng cao nhận thức lý luận,
tiếp thu có chọn lọc các giá trị phổ biến của Nhà nước pháp quyền nói chung và
đúc kết kinh nghiệm thực tiễn lãnh đạo quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam nói riêng. Theo tinh thần đó, Đảng, Nhà nước sẽ chú trọng rà
soát lại toàn bộ hệ thống thể chế, luật pháp, cơ chế, chính sách và môi trường, điều
kiện để đạt được mục đích thiết lập bộ máy nhà nước tinh gọn, hiệu quả, bảo đảm
phát huy cao nhất quyền làm chủ của nhân dân, vừa bảo đảm là công cụ quan
trọng nhất để giữ vững định hướng chế độ, vừa phù hợp với xu thế phát triển

14
Footer Page 19 of 126.


Header Page 20 of 126.

chung của thế giới. Quá trình hoàn thiện sẽ bổ khuyết những gì còn thiếu mà
chúng ta đã xây dựng, thay thế những gì đã có nhưng không còn phù hợp. Đây
không phải là sự chuyển hướng trong cách tiếp cận, mà là sự nhấn mạnh của Đảng
về những nhiệm vụ cần làm đối với vấn đề xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền trong thời gian tiếp theo.
Văn kiện Đại hội XII của Đảng đã nhìn nhận thẳng thắn, đánh giá đúng
những ưu điểm và nghiêm khắc chỉ ra những tồn tại, hạn chế trong xây dựng và

hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta trong thời gian qua, đồng thời
xác định những nguyên nhân cốt lõi nhất của hạn chế, khuyết điểm. Theo đó, những
tồn tại, hạn chế trong xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền ở nước ta trong
thời gian qua được Đảng ta chỉ ra bao gồm cả những vấn đề thuộc về thể chế, cơ
chế, chính sách; cả về tổ chức và hoạt động; cả về yếu tố con người. Về nguyên
nhân của những hạn chế, Báo cáo chính trị Đại hội XII của Đảng đã xác đinh vấn đề
cơ bản nhất: “Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN là vấn đề mới đối với nước
ta. Sự phân định giữa vai trò lãnh đạo của Đảng và vai trò quản lý, điều hành của
Nhà nước còn những nội dung chưa rõ; phương thức và cơ chế lãnh đạo của Đảng
đối với Nhà nước ở các cấp còn nhiều điểm chưa được chế định rõ và phù hợp với
nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền. Tổ chức thực hiện pháp luật và pháp chế
XHCN chưa nghiêm”. Nếu nguyên nhân thứ nhất là khách quan, thì nguyên nhân
thứ hai là chủ quan, trong đó tập trung trọng tâm vào vai trò của Đảng. Cách nhìn
nhận, đánh giá như vậy cho thấy, Đảng ta đã sẵn sàng cho một sự “chuyển mình” cả
về nhận thức và hành động trong thời gian tới, nhằm tháo gỡ, minh bạch, chính xác
hóa mối quan hệ Đảng - Nhà nước. Đây cũng chính là then chốt cho sự hoàn thiện
Nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay.
Vị trí, tầm quan trọng của nhiệm vụ xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền XHCN được Đại hội XII của Đảng khẳng định sâu sắc hơn. So với Báo cáo
chính trị Đại hội XI, Báo cáo chính trị Đại hội XII đã dành riêng một ý trong phần
phương hướng, nhiệm vụ để khẳng định: “Tiếp tục hoàn thiện và xây dựng Nhà
nước pháp quyền XHCN do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ

15
Footer Page 20 of 126.


Header Page 21 of 126.

thống chính trị”. Tuy đây là sự tiếp tục quan điểm nhất quán của Đảng ta, song việc

nhấn mạnh này trong văn kiện Đại hội đã cho thấy rõ quyết tâm chính trị của toàn
Đảng. Đảng ta chỉ rõ: “Trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước, phải thực hiện
dân chủ, tuân thủ các nguyên tắc pháp quyền và phải tạo ra sự chuyển biến tích cực,
đạt kết quả cao hơn. Xây dựng Nhà nước pháp quyền phải tiến hành đồng bộ cả lập
pháp, hành pháp, tư pháp và được tiến hành đồng bộ với đổi mới hệ thống chính trị
theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; gắn với đổi mới kinh tế, văn hóa-xã hội”.
Mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị là một trong tám mối quan
hệ lớn cần nắm vững và tập trung giải quyết đã được Đảng ta xác định. Trong đổi
mới chính trị thì nhiệm vụ xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN do
Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm, có vai trò chi phối, quyết định đến các nhiệm
vụ khác và đến việc giải quyết mối quan hệ lớn này.
Có thể nói xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt nam là chủ
trương đường lối có tính chiến lược mà Đảng và Nhà nước ta đã đặt ra. Là đòi hỏi
tất yếu khách quan của thực tiễn xây dựng và phát triển đất nước, là nhiệm vụ của
toàn bộ hệ thống chính trị và của toàn dân.
1.1.2. Kiểm soát quyền lực nhà nước là biểu hiện cơ bản của nhà nước
pháp quyền
1.1.2.1. Khái niệm kiểm soát quyền lực nhà nước
Khái niệm kiểm soát quyền lực nhà nước: là hoạt động có chủ đích của nhà
nước và xã hội, với tổng thể những phương tiện tổ chức và pháp lý thông qua các
hình thức kiểm soát bên trong, kiểm soát bên ngoài nhằm hạn chế những nguy cơ
sai phạm cũng như hành vị lộng quyền của cơ quan nhà nước nhằm đảm bảo quyền
lực nhà nước được thực hiện đúng mục đích, khoa học, hiệu lực và hiệu quả.
Lý thuyết kiểm soát quyền lực nhà nước được thiết lập đầu tiên bởi các nhà
tư tưởng chính trị - pháp lý, đó là của Aristotle, J. Locke, S.L. Montesquieu và J.J.
Rousseau, tạo thành học thuyết được gọi là Chủ nghĩa Hiến pháp/Chủ nghĩa hợp
hiến mà cái cốt lõi căn bản của học thuyết là sự giới hạn quyền lực nhà nước nhằm
chống lại chế độ chuyên chế phong kiến, và bảo vệ nhân quyền.

16

Footer Page 21 of 126.


Header Page 22 of 126.

Ở Việt Nam, các bản Hiến pháp đều nhất quán khẳng định quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân.
Tại Hiến pháp 1946 của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã quy định rõ:
“Tất cả quyền bính trong nước ta là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân
biệt giống nòi, trai gái, giàu nghèo giai cấp tôn giáo” [16, Điều 1]. Tư tưởng nhất
quán này đều được thể hiện qua bản hiến Pháp 1959, Hiến pháp 1980, và Hiến pháp
1992. Tại Hiến pháp 1992 thì:
Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam là nhà nước của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng
là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức, Nhân dân
sử dụng quyền lực thông qua Quốc Hội và Hội đồng nhân dân là những cơ quan đại
diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách
nhiệm trước nhân dân [19, Điều 2, 6].
Hiến pháp năm 2013 đã được thông qua theo một quy trình dân chủ, bảo đảm
việc lấy ý kiến rộng rãi của mọi tầng lớp nhân dân, thể hiện ý chí của đông đảo nhân
dân lao động. Điều đó khẳng định hơn nữa quyền xây dựng Hiến pháp trước hết
thuộc về nhân dân.
Một điểm mới về quyền lực trong Hiến pháp năm 2013 đó là việc nhận thức
về chủ thể của quyền lập hiến. Cụ thể, nếu như trong Hiến pháp năm 1992 tại Điều
83 có quy định “Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp” thì
sang Hiến pháp năm 2013 nội dung này đã được quy định như sau: “... Quốc hội
thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp...” [16, Điều 69]. Quốc hội không phải là
cơ quan duy nhất có quyền lập hiến, Quốc hội chỉ là cơ quan đại biểu cao nhất của
Nhân dân, Nhân dân mới là chủ thể tối cao của quyền lập hiến.
Một điểm mới nữa có thể thấy của Hiến pháp mới được ban hành, Điều 6 ghi

nhận “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân
chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan
khác của Nhà nước”.
Quyền lực nhà nước bao giờ cũng được thể hiện bởi các cơ quan trong bộ

17
Footer Page 22 of 126.


Header Page 23 of 126.

máy, với những con người cụ thể trong bộ máy ấy. Vì vậy việc thực thi quyền lực
cụ thể phụ thuộc vào phương thức tổ chức bộ máy nhà nước và con người trong bộ
máy ấy. Nếu như người cầm quyền được trao quyền không biết thực thi quyền lực
cho đúng, hoặc sử dụng quyền lực vì mục đích vụ lợi thì sức mạnh quyền lực nhà
nước sẽ gây nguy hiểm cho xã hội. Vì thế muốn có một xã hội tốt đẹp, quyền tự do
con người được đề cao thì phải có cơ chế kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà
nước, kiểm soát hoạt động của công chức, viên chức nhà nước. Đây là một điều tất
yếu trong tổ chức và hoạt động của một nước dân chủ, kể cả trong việc đi lên xây
dựng nhà nước pháp quyền của nước ta.
Hiến pháp Việt Nam quy định: Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự
phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện
các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp [16, Điều 2]. Vậy,khái niệm “kiểm soát”
giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp và nó có sự khác biệt gì so với giám sát, thanh tra, kiểm tra, kiểm sát việc thực
hiện quyền lực nhà nước.
Chúng ta đều biết, trong quá trình thực hiện quyền lực nhà nước luôn phải
tiến hành các hoạt động “giám sát”. Thông thường, giám sát là hoạt động theo dõi,
xem xét, đánh giá có tính bao quát của chủ thể bên ngoài hệ thống đối với khách thể
thuộc hệ thống. Trong bộ máy nhà nước, giám sát thường thể hiện chức năng của

các cơ quan quyền lực nhà nước đối với hoạt động của bộ máy nhà nước hoặc của
Tòa án nhân dân; các tổ chức xã hội và công dân đối với hoạt động quản lý nhằm
bảo đảm sự tuân thủ pháp luật, kỷ luật trong quản lý nhà nước. Chẳng hạn, theo
điều 69 của Hiến pháp năm 2013 thì: Quốc hội giám sát tối cao đối với hoạt động
của Nhà nước thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, Luật và
Nghị quyết của Quốc hội Uỷ ban thường vụ Quốc hội giám sát việc thi hành Hiến
pháp, luật, nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội; giám sát hoạt động của
Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán nhà
nước và cơ quan khác do Quốc hội thành lập; Giám sát và hướng dẫn hoạt động của
Hội đồng nhân dân [16, Điều 74]; Hội đồng dân tộc thực hiện quyền giám sát việc

18
Footer Page 23 of 126.


Header Page 24 of 126.

thi hành chính sách dân tộc, chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội miền
núi và vùng đồng bào dân tộc thiểu số [16, Điều 75]; Uỷ ban của Quốc hội thực
hiện quyền giám sát trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn do luật định [16, Điều 76];
Đại biểu Quốc hội chịu sự giám sát của cử tri [16, Điều 79]; Hội đồng nhân dân
giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương và việc thực hiện nghị
quyết của Hội đồng nhân dân [16, Điều 113].
Ngoài việc giám sát, các cơ quan nhà nước còn phải tiến hành “thanh tra”,
“kiểm tra” việc thực hiện quyền lực nhà nước. Hiến pháp quy định: Chính phủ tổ
chức công tác thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, chống
quan liêu, tham nhũng trong bộ máy nhà nước; hướng dẫn, kiểm tra Hội đồng nhân
dân trong việc thực hiện văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên [16, Điều 96]; Bộ
trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ tổ chức thi hành và theo dõi việc thi hành pháp
luật liên quan đến ngành, lĩnh vực trong phạm vi toàn quốc [16, Điều 99]; Chính

quyền địa phương chịu sự kiểm tra, giám sát của cơ quan nhà nước cấp trên [16,
Điều 112]. Như vậy, “thanh tra” là sự xem xét từ bên ngoài vào hoạt động của một
đối tượng nhất định nhằm phát hiện, ngăn chặn pháp luật trái với quy định. Thanh
tra là hoạt động xem xét, kiểm tra của cơ quan nhà nước cấp trên hoặc theo sự ủy
quyền của cơ quan nhà nước cấp trên đối với cơ quan nhà nước cấp dưới (mang tính
trực thuộc). Còn “kiểm tra” là xem xét tình hình thực tế để đánh giá, nhận xét. Đây
là hoạt động của các chủ thể tác động vào đối tượng kiểm tra (có thể trực thuộc
hoặc không trực thuộc). Chẳng hạn, kiểm tra của các tổ chức xã hội, các đoàn thể và
của công dân đối với hoạt động của bộ máy nhà nước hoặc kiểm tra của các cơ
quan, nhân viên nhà nước có thẩm quyền nhằm xem xét, xác định một việc gì đó
của đối tượng bị quản lý xem có phù hợp hay không với trạng thái định trước (kiểm
tra mang tính nội bộ của người đứng đầu cơ quan kiểm tra
Ở Việt Nam, “kiểm sát” là hoạt động xem xét, đánh giá của Viện kiểm sát
nhằm đảm bảo pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Chẳng hạn,
Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát hoạt động tư pháp.
Còn “kiểm soát” được cho là xem xét. Đánh giá, theo dõi nhằm ngăn chặn

19
Footer Page 24 of 126.


Header Page 25 of 126.

những điều trái với quy định. Như vậy, về cơ bản, thanh tra, kiểm tra, giám sát,
kiểm soát có nghĩa như nhau, đó là xem xét, đánh giá hoạt động của các chủ thể
thực hiện quyền lực nhà nước để Hiến pháp, pháp luật được thực hiện nghiêm
chỉnh, chính xác, đầy đủ, nhưng chúng khác nhau về chủ thể thực hiện, về nội dung,
hình thức, phạm và đối tượng chịu sự xem xét, đánh giá. So với thanh tra, kiểm tra,
giám sát, kiểm sát thì kiểm soát có phạm vi xem xét, đánh giá rộng hơn, hình thức
phong phú hơn, nó bao hàm cả việc giám sát, thanh tra, kiểm tra, theo dõi đối tượng

chịu sự xem xét, đánh giá của kiểm soát là tất cả các chủ thể thực hiện quyền lực
nhà nước. Nội dung kiểm soát bao gồm việc tổ chức và việc thực hiện đối với cả
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp vậy:
1.1.2.1. Biểu hiện của kiểm soát quyền lực nhà nước trong nhà nước pháp quyền
- Kiểm soát quyền lực của “ Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân
do dân, vì dân, Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ;
tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp
công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam kiểm soát quyền lực trên cơ sở Hiến pháp, tôn trọng và bảo vệ
Hiến pháp: Trong Nhà nước pháp quyền, ý chí của nhân dân và sự lựa chọn chính
trị được xác lập một cách tập trung nhất, đầy đủ nhất và cao nhất bằng Hiến pháp.
Chính vì lẽ đó mà Hiến pháp được coi là Đạo luật cơ bản của Nhà nước, có hiệu lực
pháp lý cao nhất, quy định chế độ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an
ninh, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, cơ cấu, nguyên tắc tổ chức và hoạt
động của các cơ quan nhà nước. Sự hiện diện của Hiến pháp là điều kiện quan trọng
nhất bảo đảm sự ổn định xã hội và sự an toàn của người dân. Những quan điểm lớn,
những nội dung cơ bản của Hiến pháp là cơ sở pháp lý quan trọng cho sự duy trì
quyền lực nhà nước, cho sự làm chủ của nhân dân.
- Kiểm soát quyền lực của một nhà nước đơn nhất, nhiều yếu tố tập quyền,
được xây dựng trên nguyên tắc “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân
công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Quyền lực nhà nước ở nước ta là quyền lực

20
Footer Page 25 of 126.


×