Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO TUYÊN NGÔN của ĐẢNG CỘNG sản TUYÊN NGÔN của CHỦ NGHĨA QUỐC tế vô sản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (85.88 KB, 11 trang )

"Tuyên ngôn của Đảng cộng sản" - Tuyên ngôn của chủ
nghĩa quốc tế vô sản
Tuyên ngôn của Đảng cộng sản đã, đang và sẽ còn giữ một vị trí đặc
biệt quan trọng trong di sản sáng tạo được thừa nhận là vô giá không chỉ đối
với mỗi người, mỗi đảng cách mạng, mà với cả phong trào cách mạng thế
giới. Trên thực tế, đây là văn kiện đầu tiên trong lịch sử tư tưởng nhân loại
đã trình bày một cách đầy đủ, có hệ thống những quan niệm khoa học về xã
hội và về các quy luật phát triển của nó. Thay cho các giả thuyết, ảo tưởng,
phỏng đoán là một lý luận khoa học "giải thích thế giới" và đồng thời cũng
chỉ ra cần phải "cải tạo thế giới" đó như thế nào để mang lại cho con người
những điều kiện sinh hoạt và lao động đích thực, mang tính nhân văn và cần
thiết cho "sự phát triển tự do của mỗi người" trở thành "điều kiện cho sự
phát triển tự do của tất cả mọi người".
Xét về mặt nội dung, Tuyên ngôn của Đảng cộng sản có thể là một
bách khoa thư. Trong bài viết này, chúng tôi đặt ra một nhiệm vụ khiêm tốn
là xem xét các vấn đề có liên quan tới chủ nghĩa quốc tế vô sản và cuộc đấu
tranh vì sự thống nhất trong phong trào cộng sản thế giới.
Sau khi vạch ra tính lôgíc và các quy luật chung của sự phát triển lịch
sử, trong "Tuyên ngôn", C.Mác và Ph.Ăngghen đã đi tới kết luận: Bản thân
sự hình thành chế độ tư bản chủ nghĩa đã đưa vào đời sống xã hội nhân loại
những yếu tố mới về chất và qua đó, đưa nhân loại tới bước ngoặt trong tiến
trình phát triển của mình - tạo ra một chế độ xã hội không có áp bức bóc lột,
không còn giai cấp.
Trên thực tế, ở mọi giai đoạn phát triển trước đây của xã hội loài
người, tiến bộ xã hội thể hiện ở sự thay thế một hình thức bóc lột dựa trên sự
thống trị của chế độ tư hữu này bằng một hình thức khác cũng bóc lột, cũng


dựa trên sự thống trị của chế độ tư hữu. Trước khi chủ nghĩa tư bản được
thiết lập thì tiến bộ xã hội không thể lựa chọn một con đường nào khác. Vì
chỉ có chế độ tư bản chủ nghĩa mới tạo ra các lực lượng và quan hệ sản xuất


bao hàm trong nó những tiền đề cần thiết, tất yếu để thủ tiêu chế độ tư hữu
với tư cách một sức mạnh thống trị trong xã hội.
Thắng lợi của các quan hệ tư sản có nghĩa rằng bước đi tiếp theo của
nhân loại trên con đường tiến bộ xã hội là một bước nhảy vọt, không những
chuyển xã hội từ hình thái cũ lên hình thái mới cao hơn, mà còn từ sự thống
trị của chế độ tư hữu sang sự thống trị của sở hữu xã hội. Chủ nghĩa tư bản
là sự kết thúc thời kỳ tiền sử của nhân loại, nhân loại bắt đầu lịch sử đích
thực của mình.
Ngay trong các tác phẩm đầu tay, C.Mác đã chứng minh rằng lịch sử
nhân loại ngay từ đầu, về mặt lý luận - trừu tượng đã bao hàm các tiền đề
của tính toàn cầu, tính phổ biến. Theo ông, bản thân sự phát triển của lực
lượng sản xuất đã đem lại "sự tồn tại có tính chất lịch sử thế giới, chứ không
phải có tính chất địa phương nhỏ hẹp, của con người đã thực hiện một cách
kinh nghiệm chủ nghĩa". Tuy nhiên, sự tồn tại của nhân loại chỉ có thể có
được "tính chất lịch sử thế giới" nhờ thắng lợi của chủ nghĩa tư bản mà, sau
khi tạo ra thị trường thế giới, nó đã đẩy mạnh quá trình quốc tế hoá tư liệu
sản xuất và toàn bộ đời sống xã hội. Sau đó, C.Mác đã viết: "Từ đó (từ sau
thắng lợi của chủ nghĩa tư bản - tác giả) là những ảnh hưởng có tính chất
khai hoá to lớn của tư bản, là một trình độ phát triển xã hội mà so với nó,
mọi thang bậc phát triển lịch sử trước đó thể hiện ra chỉ như là sự phát triển
mang tính chất địa phương của nhân loại". Nói cách khác, trong quan niệm
của C.Mác, chủ nghĩa tư bản không những đã tạo ra các tiền đề vật chất
khách quan để thủ tiêu sự thống trị của chế độ tư hữu và sau khi quốc tế hoá


đời sống nhân loại, còn cho phép hiện thực hoá các tiền đề đó trên quy mô
toàn thế giới.
Cuối cùng, một yếu tố mới nữa được chủ nghĩa tư bản đưa vào lịch sử
thế giới là ở chỗ, chủ nghĩa tư bản, sau khi tạo ra các tiền đề vật chất khách
quan để thay thế sự thống trị của chế độ tư hữu bằng sự thống trị của sở hữu

xã hội trên quy mô toàn thế giới, đồng thời cũng sản sinh ra một lực lượng
xã hội có năng lực thực hiện sự thay thế đó trên thực tế - giai cấp vô sản.
"Giai cấp tư sản, - C.Mác và Ph.Ăngghen khẳng định, - không những đã rèn
những vũ khí sẽ giết mình, nó còn tạo ra những người sử dụng vũ khí ấy
chống lại nó, đó là những công nhân hiện đại, những người vô sản".
Giai cấp vô sản, lực lượng xã hội mới đó có những đặc trưng mới về
chất so với tất cả các giai cấp bị bóc lột tồn tại trước nó.
Trong "Tuyên ngôn", C. Mác và Ph. Ăngghen đã chỉ rõ, mọi hình thái
tiền tư bản chủ nghĩa đều mang một đặc trưng hết sức đặc thù là sự bảo thủ
quá mức trong cách tiếp cận với việc phát triển lực lượng sản xuất. Chủ
nghĩa bảo thủ đó, ý muốn duy trì nguyên vẹn phương thức sản xuất cũ, như
C.Mác và Ph. Ăngghen nhận xét, là điều kiện tiên quyết cho sự tồn tại của
tất cả các giai cấp bóc lột trước chủ nghĩa tư bản. Và điều đó không thể
không ảnh hưởng tới tính cách và số phận của các giai cấp bị bóc lột.
Khác với nô lệ và nông nô, người vô sản có nghĩa vụ phải hoàn thành
một vai trò lịch sử mới, hoàn toàn khác. Sự tồn tại, hoạt động của nó không
dừng lại trong khuôn khổ của cái chế độ đã sản sinh ra nó, tức là chủ nghĩa
tư bản. Khi trả lời cho câu hỏi tại sao như vậy? C.Mác và Ph. Ăngghen đã
đem lại cho câu hỏi đó một sự lý giải sâu sắc, đích thực khoa học trong
"Tuyên ngôn". Các ông đã lý giải vấn đề đó như sau: Giai cấp công nhân
ngay từ khi ra đời đã gắn liền với các lực lượng sản xuất, công cụ lao động
và phương thức sản xuất mà xét về cơ cấu của chúng, chúng không những
tạo nên sự xuất hiện và phát triển của chủ nghĩa tư bản, mà còn làm chín


muồi các tiền đề vật chất cho sự diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản. Hơn
nữa, theo các ông, lực lượng sản xuất của chủ nghĩa tư bản có một tính chất
là khi tiếp tục phát triển, nó cũng tất yếu tạo ra các tiền đề vật chất cho sự
xuất hiện một chế độ xã hội mới, cao hơn, không có bóc lột - chế độ xã hội
xã hội chủ nghĩa.

Sự tiến bộ của nền đại công nghiệp cơ khí, những bước ngoặt thường
xuyên trong phát triển của lực lượng sản xuất mà giai cấp tư sản là người
điều hành, đã đưa tới chỗ làm tăng không ngừng số lượng công nhân, phát
triển cuộc đấu tranh của họ, biến cuộc đấu tranh đó thành một cuộc đấu
tranh giai cấp tự giác chống lại chế độ tư bản chủ nghĩa. "Cùng với sự phát
triển của đại công nghiệp, chính cái nền tảng trên đó giai cấp tư sản đã sản
xuất và chiếm hữu sản phẩm của nó, - C.Mác và Ph.Ăngghen khẳng định, đã bị phá sập dưới chân giai cấp tư sản... Sự sụp đổ của giai cấp tư sản và
thắng lợi của giai cấp vô sản đều là tất yếu như nhau".
Gắn liền với yếu tố đó, như các tác giả của "Tuyên ngôn" đã chỉ rõ,
cái có một ý nghĩa hết sức quan trọng là yếu tố sau đây:
Khi chống lại chế độ hiện tồn, các giai cấp tiền bối của giai cấp vô sản
trước hết đều bảo vệ chủ yếu là lợi ích của bản thân mình. Thêm vào đó, lợi
ích này mang một tính chất rất hạn hẹp và về thực chất, như "Tuyên ngôn"
đã chỉ rõ, nó chỉ có thể "bảo đảm cho giai cấp ấy những điều kiện sinh sống
khiến cho họ, chí ít, cũng có thể sống được trong vòng nô lệ". Còn những
người vô sản "chẳng có gì là của mình để bảo vệ cả, họ phải phá huỷ hết
thảy những cái gì, từ trước đến nay, vẫn bảo đảm và bảo vệ chế độ tư hữu".
Chính vì vậy mà giai cấp vô sản thể hiện với tư cách một giai cấp không
phải từ lập trường của lợi ích ích kỷ, riêng của mình, mà từ lập trường lợi
ích của toàn thể nhân dân lao động. "Phong trào vô sản, - C.Mác và
Ph.Ăngghen khẳng định, - là phong trào độc lập của khối đại đa số, mưu lợi
ích cho khối đại đa số".


Và, cuối cùng, một sự khác biệt cũng hết sức quan trọng nữa của giai
cấp vô sản so với các giai cấp tiền bối của nó là: mặc dù về mặt lý luận, đấu
tranh giai cấp trong suốt lịch sử nhân loại không bao giờ là một hiện tượng
thuần tuý khu vực hay địa phương, song chỉ có cuộc đấu tranh giai cấp của
giai cấp vô sản, do tính chất của xã hội tư bản, mới có thể có được tính chất
đích thực toàn thế giới. Điều đó có nghĩa rằng giai cấp vô sản là giai cấp bị

bóc lột đầu tiên trong lịch sử có khả năng thực hiện sự thống nhất trên quy
mô toàn thế giới, mang lại tính chất quốc tế cho cuộc đấu tranh giai cấp của
mình.
Như vậy, nếu chủ nghĩa tư bản, một mặt, đã tạo ra các tiền đề vật chất
để thủ tiêu chế độ tư hữu, mặt khác đã biến lịch sử thành "lịch sử toàn thế
giới", thì giai cấp vô sản đã trở thành lực lượng xã hội thực tế bắt tay vào
việc đổi mới căn bản đời sống nhân loại, đã thực sự trở thành người lãnh đạo
cuộc đấu tranh của tất thảy những người bị bóc lột và áp bức và hơn nữa, là
giai cấp quyết thực hiện nhiệm vụ đó trên quy mô "lịch sử toàn thế giới".
Đúng như sau này, trong "Tư bản", C.Mác đã khẳng định rằng lẽ đương
nhiên là bản thân sự ra đời của người vô sản và giai cấp vô sản đã "bao hàm
cả một lịch sử thế giới".
Dưới hình thức chung, nhưng một cách hết sức rõ ràng, trong "Tuyên
ngôn", C.Mác và Ph.Ăngghen đã vạch ra lôgíc phát triển nội tại của cuộc
đấu tranh của giai cấp vô sản, lôgíc phát triển của phong trào công nhân. Tư
tưởng chủ đạo của C.Mác và Ph.Ăngghen là hết sức đơn giản và rành mạch:
Từ khi xuất hiện cuộc đấu tranh đầu tiên của giai cấp vô sản cho tới cuộc
cách mạng xã hội chủ nghĩa liên tục diễn ra quá trình trưởng thành của giai
cấp công nhân, quá trình ngày càng lớn mạnh của phong trào cách mạng vô
sản. Đó là quá trình đi từ cuộc đấu tranh phân tán, cục bộ, đến cuộc đấu
tranh toàn dân tộc; từ phong trào tự phát đến phong trào có tổ chức, đến việc


thành lập chính đảng của giai cấp vô sản. Tiếp theo, đến việc giành lấy "bá
quyền lãnh đạo trong đấu tranh chính trị". Thật ra, thuật ngữ này chưa có
trong "Tuyên ngôn", song ở đây, C.Mác và Ph.Ăngghen đã đặt ra vấn đề về
vai trò lãnh đạo của giai cấp vô sản trong cuộc đấu tranh của tất thảy những
người lao động. Và cuối cùng, đến việc thiết lập sự thống trị về chính trị của
giai cấp công nhân, tức là đến khi mà cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa do
nó khởi xướng và lãnh đạo giành được thắng lợi hoàn toàn.

Đó là lược đồ phát triển chung của cuộc đấu tranh cách mạng do giai
cấp vô sản tiến hành mà C.Mác và Ph.Ăngghen đã phác hoạ trong "Tuyên
ngôn". Cuộc đấu tranh này thoạt đầu được thực hiện trên phạm vi dân tộc.
"Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản, - các ông viết,
- dù về nội dung, không phải là một cuộc đấu tranh dân tộc, nhưng lúc đầu
lại mang hình thức đấu tranh dân tộc. Đương nhiên là trước hết, giai cấp vô
sản mỗi nước phải thanh toán xong giai cấp tư sản nước mình đã". Nhưng,
khi bắt đầu với tư cách là cuộc đấu tranh dân tộc, cuộc đấu tranh của giai cấp
vô sản, một cách khách quan và về thực chất, ngay từ đầu đã mang tính quốc
tế. Điều đó được quy định bởi, như Ph. Ăngghen khẳng định, "giai cấp vô
sản tất cả các nước đều cùng chung mội lợi ích, cùng chung một kẻ thù và
cùng đứng trước một cuộc đấu tranh; tất cả những người vô sản vốn dĩ sinh
ra đã không mang thiên kiến dân tộc và toàn bộ sự phát triển về tinh thần và
hoạt động của họ về thực chất đã mang tính chất nhân đạo và chống lại chủ
nghĩa dân tộc".
Với tư cách là cái vốn có ở giai cấp vô sản, chủ nghĩa quốc tế ngay lập
tức được biểu hiện cụ thể trong cuộc đấu tranh thực tế của giai cấp công
nhân trên diễn đàn quốc tế. Minh hoạ rõ nét cho điều đó là sự xuất hiện của
"Liên đoàn những người cộng sản" mà "Tuyên ngôn của Đảng cộng sản" là
văn kiện mang tính cương lĩnh của nó.


Như vậy, giống như sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản, giai cấp vô sản
cũng tồn tại dưới hai hình thức - dân tộc và quốc tế. Ph. Ăngghen là người
đầu tiên không những đặt ra vấn đề này, mà còn nghiên cứu nó một cách
khoa học. Trong bài viết "Ngày hội của các dân tộc ở Luân Đôn" (1845), sau
khi chỉ rõ vì sao mọi ý định hợp nhất "các dân tộc khác nhau" ở đầu thế kỷ
XIX đều thất bại, Ph.Ăngghen cho rằng chỉ đến giữa những năm 40 của thế
kỷ ấy, một bước ngoặt mới diễn ra trong quá trình phát triển của phong trào
cách mạng thế giới. "Giai cấp vô sản tất cả các nước, - ông viết, - bắt đầu kết

nghĩa anh em thực sự dưới ngọn cờ dân chủ cộng sản chủ nghĩa, không ồn
ào và ầm ỹ". Chỉ khi đó, Ph. Ăngghen nhấn mạnh, khẩu hiệu kêu gọi sự
đoàn kết giữa các dân tộc mới mang một ý nghĩa xã hội mới. "Sự kết nghĩa
anh em giữa các dân tộc mà hiện nay các đảng thật sự vô sản đang đề xướng
ở khắp nơi để chống lại chủ nghĩa vị kỷ dân tộc lộ liễu cũ rích cũng như chủ
nghĩa thế giới tự tư tự lợi giả nhân giả nghĩa của mậu dịch tự do", theo ông,
đó là - "sự kết nghĩa anh em giữa các dân tộc dưới ngọn cờ của nền dân chủ
hiện đại sản sinh ra từ cách mạng Pháp, phát triển thành chủ nghĩa cộng sản
Pháp và chủ nghĩa Hiến chương Anh", là bằng chứng "chứng tỏ rằng quần
chúng và đại biểu của họ" đã "hiểu rõ nhu cầu của thời đại". Với quan niệm
đúng đắn đó, Ph. Ăngghen kết luận: "Chỉ có người vô sản mới có khả năng
xoá bỏ sự cách biệt giữa các dân tộc, chỉ có giai cấp vô sản giác ngộ mới xây
dựng được tình anh em giữa các dân tộc khác nhau".
C.Mác đã hoàn toàn ủng hộ các kết luận mang tính nguyên tắc đó của
Ph. Ăngghen khi khẳng định rằng: "Giai cấp vô sản chỉ có thể tồn tại trên
quy mô của lịch sử thế giới, cũng như chủ nghĩa cộng sản, tức là hoạt động
của giai cấp vô sản, hoàn toàn chỉ có thể tồn tại được với tư cách là một tồn
tại "có tính lịch sử thế giới".


"Tồn tại trên quy mô của lịch sử thế giới" của giai cấp vô sản, "tồn tại
có tính lịch sử thế giới" của nó ở các giai đoạn phát triển khác nhau của nó,
đương nhiên phải có các hình thức cụ thể khác nhau. Khi xem xét sự tiến
hoá của các hình thức đó, C.Mác và Ph.Ăngghen đã căn cứ vào kinh nghiệm
thực tế của thời đại. Căn cứ trên kinh nghiệm đó, các ông đã đi tới các kết
luận sau đây:
Giai đoạn phát triển thứ nhất trong sự tồn tại "có tính lịch sử thế giới"
của phong trào vô sản quốc tế là giai đoạn chỉ mới có những biểu hiện tự
phát của tính chất quốc tế của giai cấp vô sản. Còn giai đoạn phát triển thứ
hai của nó được C.Mác và Ph.Ăngghen coi là sự mở đầu phối hợp hành

động một cách tự giác của các tổ chức vô sản khác nhau ở các nước khác
nhau, là sự hình thành các trung tâm quốc tế tự giác định ra cho mình mục
đích thúc đẩy phong trào đấu tranh chống lại giai cấp tư sản trên quy mô
toàn thế giới.
Như vậy, có thể nói, trong quan niệm của các nhà sáng lập chủ nghĩa
Mác, khi thể hiện dưới các hình thức cụ thể đa dạng, chủ nghĩa quốc tế vô
sản và cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân ngày càng mang tính chất triệt
để và sâu sắc hơn. Chủ nghĩa quốc tế vô sản cũng như cuộc đấu tranh của
giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản vẫn là một tất yếu khách quan, phản
ánh chính bản chất của giai cấp công nhân và của phong trào công nhân với
tư cách là một quá trình lịch sử - toàn cầu, thống nhất, phản ánh chính bản
chất của cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản với tư cách là cuộc đấu
tranh thống nhất trên quy mô quốc tế chống lại giai cấp tư sản quốc tế. Quan
niệm đó của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác cho phép chúng ta lý giải một
cách đầy đủ và sâu sắc hơn mối quan hệ giữa tính chất dân tộc và tính chất
quốc tế của cuộc đấu tranh giai cấp.
Trong "Tuyên ngôn", C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: "Cuộc đấu
tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản, dù về mặt nội dung,


không phải là một cuộc đấu tranh dân tộc, nhưng lúc đầu lại mang hình thức
đấu tranh dân tộc".
Khi đặt vấn đề như vậy, C.Mác và Ph.Ăngghen đã thực sự đem lại cho
chúng ta một cơ sở lý luận để phân tích mối tương quan giữa tính chất dân
tộc và tính chất quốc tế với tư cách là mối tương quan giữa hình thức và nội
dung của cuộc đấu tranh giai cấp.
Về mặt phương pháp luận, luận điểm đó của các nhà sáng lập chủ
nghĩa Mác cho chúng ta thấy đặc trưng cơ bản, bản chất nhất của giai cấp vô
sản - đặc trưng xác định nội dung sáng tạo lịch sử, sứ mệnh lịch sử của giai
cấp vô sản - mang tính phổ biến, quốc tế.

Việc thừa nhận tính chất quốc tế của cuộc đấu tranh của giai cấp vô
sản chống lại giai cấp tư sản theo quan điểm của các nhà sáng lập chủ nghĩa
Mác có nghĩa là thừa nhận hết thảy mọi đội ngũ của phong trào công nhân
cách mạng cần thực sự tự nguyện tiến hành đấu tranh theo một đường lối
chung thống nhất, cần thực hiện chính sách đoàn kết và tương trợ lẫn nhau
trong cuộc đấu tranh chống lại kẻ thù chung, vì các mục đích chung. Nói
cách khác, giai cấp vô sản cần phải quan tâm tới lợi ích quốc tế chung trong
cuộc đấu tranh chống lại giai cấp tư sản. Quan niệm đó của các nhà sáng lập
chủ nghĩa Mác hoàn toàn không có nghĩa là đòi hỏi giai cấp vô sản các nước
phải hy sinh lợi ích dân tộc của mình vì sự phát triển phong trào đấu tranh
cách mạng của giai cấp vô sản toàn thế giới. Ngay trong "Tuyên ngôn",
C.Mác và Ph.Ăngghen đã nhấn mạnh: "Giai cấp vô sản mỗi nước trước hết
phải giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc, phải tự
mình trở thành dân tộc, tuy hoàn toàn không phải theo cái nghĩa như giai cấp
tư sản hiểu". Không phải theo cái nghĩa như giai cấp tư sản đã hiểu, mà theo
cái nghĩa là phong trào của giai cấp vô sản đã bắt đầu và được triển khai
trước hết trên cơ sở dân tộc, "giai cấp vô sản mỗi nước phải thanh toán xong
giai cấp tư sản nước mình đã", phải trước hết giành lấy chính quyền từ tay


giai cấp tư sản nước mình đã, phải "tự vươn lên thành giai cấp chủ đạo trong
dân tộc". Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản, trước hết là cuộc đấu tranh
mang tính dân tộc. Điều đó, về thực chất, có nghĩa là cuộc đấu tranh giai cấp
của giai cấp vô sản trước hết được triển khai dưới các hình thức dân tộc. Và
các hình thức dân tộc đó là hết sức quan trọng, không được phép xem nhẹ
hay bỏ qua những hình thức đó. Giai cấp vô sản phải chú ý đến,- C.Mác
khẳng định, - những thiết chế, phong tục và truyền thống" của nước mình2 .
Khi nói về cương lĩnh hành động chung của giai cấp vô sản toàn thế giới
"trong một liên minh thống nhất và đoàn kết", "trong sự thống nhất hành
động và sách lược" - sự thống nhất đang đóng vai trò cổ vũ giai cấp vô sản

toàn thế giới và là "thành quả vĩ đại nhất của chính bản thân nó", Ph.Ăngghen khẳng định, cương lĩnh hành động đó phải "dễ dàng thích ứng
với những điều kiện khác nhau của từng nước và từng địa phương", nhưng
bất cứ ở đâu, nó cũng phải "giữ được sự thống nhất về mục đích và sự phù
hợp chung về biện pháp áp dụng để đạt được mục đích chung là việc giải
phóng giai cấp công nhân phải do bản thân giai cấp công nhân tiến hành".
Như vậy, có thể nói cả C.Mác lẫn Ph.Ăngghen đều luôn đòi hỏi giai
cấp vô sản phải xem xét, cân nhắc một cách kỹ lưỡng các điều kiện riêng có
của mỗi dân tộc, kết hợp hài hoà nghĩa vụ quốc tế và nhiệm vụ dân tộc trong
hoạt động của các đảng vô sản. "Vô sản tất cả các nước, đoàn kết lại!" - đó
là lời kêu gọi mà các ông muốn gửi tới giai cấp vô sản toàn thế giới.
GẦN 160 năm đã qua, kể từ khi "Tuyên ngôn của Đảng cộng sản" ra
đời, khoảng thời gian đó chưa hẳn đã dài, song hoàn toàn đủ để chúng ta
kiểm nghiệm các lý luận khoa học mà C.Mác và Ph. Ăngghen đã đưa ra
trong đó. Vậy, chúng ta có thể nói gì về các kết luận của "Tuyên ngôn" có
liên quan tới chủ nghĩa quốc tế vô sản? Thực tiễn đã cho chúng ta câu trả lời
khẳng định ý nghĩa bất biến trong nhiều kết luận cụ thể mà C.Mác và


Ph.Ăngghen đã đưa ra khi đề cập tới ý nghĩa của chủ nghĩa quốc tế vô sản,
tầm quan trọng của sự kết hợp đúng đắn lợi ích dân tộc và lợi ích quốc tế
trong phong trào cách mạng của giai cấp vô sản mỗi nước. Thực tiễn phong
trào cách mạng thế giới đã chứng tỏ các tư tưởng cơ bản của "Tuyên ngôn
của Đảng cộng sản" hoàn toàn đủ sức vượt qua thử thách của lịch sử.
Kết luận này càng thể hiện rõ nét hơn một khi chúng ta áp dụng vào
thời đại ngày nay toàn bộ hệ thống phương pháp luận và cách tiếp cận của
C.Mác và Ph.Ăngghen về chủ nghĩa quốc tế vô sản với tư cách là bản chất
của phong trào công nhân, là bản chất giai cấp của nó. ý định tiến hành một
sự phân tích như vậy về thời đại hiện nay dựa trên cơ sở của hệ thống
phương pháp luận mà C.Mác và Ph.Ăngghen đã đưa ra trong "Tuyên ngôn"
sẽ đưa chúng ta tới kết luận rằng nhu cầu và sự cần thiết phải tiến hành triệt

để các nguyên lý của chủ nghĩa quốc tế vô sản đang ngày càng tăng lên
mạnh mẽ trong bối cảnh phong trào cách mạng thế giới đang lâm vào thoái
trào. Và điều đó được quy định bởi xu thế phát triển theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, bởi quá trình toàn cầu hoá ngày một tăng, bởi tính chất của thời
đại ngày nay - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.
----------------------------------------------------------------------------------------------------------



×