Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Thành ngữ và tục ngữ việt nam nhìn từ góc độ ý niệm (có liên hệ với tiếng nga và tiếng anh) (Tóm tắt trích đoạn)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.31 MB, 12 trang )

THÀNH NGŨ VÀ TỤC NGỮ VIỆT NAM
NHÌN TỪ GÓC Đ ộ Ý NIỆM
(có liên hệ vói tiếng N ga và tiế n g A n h )

N guyễn X uân H òa *

1. Đ ăt vấn đề
1.1. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn: "Tiếng nói là thứ của cải
vô cùng lâu đời và vô cùng quý báu cùa dân tộc. Chúng tơ ph ả i g iữ gìn nó, quý
trọng nó, làm cho nó phổ biến ngày càng rộng khắp". Từ xa xưa tiếng Việt luôn
được sử dụng như công cụ giao tiếp thúc đẩy sự phát triển xã hội và cho đến ngày
nay nó đang được sử dụng rộng rãi trên cả nước trong đời sống 54 dân tộc của đại
gia đình Việt Nam. Trên thực tế, tiếng Việt có một vị thế đã được khẳng định trên
trường quốc tế như ngôn ngữ chỉnh thức của một quểc gia có chủ quyền. Có thể nói,
trong tiến trình phát triển lịch sử của dân tộc tiếng Việt đã tỏ rõ sức sống trường tồn
và có đầy đủ phương tiện để diễn đạt những vấn đề phức tạp và trừu tượng nhất của
thực tế khách quan. Trong suốt thời kì Việt Nam bị Bắc thuộc kéo dài hàng nghìn
năm, mặc dù phải chổng lại sự đồng hóa ngôn ngữ và văn hóa từ phương Bắc, tiếng
Việt vẫn tỏ rố sức sống bắt nguồn từ ngôn ngữ Việt tộc từ thời các Vua Hùng dựng
nước thể hiện ở việc chủ động vay mượn những yếu tố của ngôn ngữ văn hóa Hán
để điều chinh và cải biến cho phù hợp với cách dùng của người bản ngữ tiếng Việt,
biết tiếp thu các yếu tố ngoại sinh kết hợp với yếu tố nội sinh để hoàn thiện cơ cấu
ngữ pháp của ngôn ngữ Việt. Ngôn ngữ, trong đó có thành ngữ và tục ngữ, là cái
làm nên cốt cách, đặc điểm riêng của một dân tộc với chức năng không chỉ là công
cụ giao tiếp quan trọng của con người mà còn lưu giữ trường tồn bản sắc văn hoá
dân tộc. Thành ngữ, tục ngữ Việt Nam được người bản ngữ Việt ưa chuộng, chúng
thường được sử dụng trong hành chức để diễn đạt những vấn đề đa dạng của cuộc
song muôn màu muôn vẻ.
1.2. Để diễn đạt ý nghĩ, tinh cảm hoặc nhận xét. đánh giá hiện tượng khách
quan một cách hình ảnh nhăm đem lại hiệu quả cao trong giao tiếp, người bản ngữ
Việt thường dùng thành ngừ, tục ngữ khi phát ngôn. Những đơn vị thành ngữ, tục


ngữ cùa một ngôn ngữ luôn luôn hướng đến chủ thể, nghĩa là khi xuất hiện và hành

* PGS.TS., Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đạ học Quốc gia Hà Nội.

719


VIỆT NAM HỌC - KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TỂ LÀN THỬ T ư

chức thì thành ngữ, tục ngữ không chỉ miêu tả thế giới m à quan trọng hom là nó thé
hiện sự đánh giá thế giới đó với thải độ chủ quan riêng của người bản ngữ liên
quan đến đặc trưng tư duy dân tộc với cách nhìn khác nhau của mỗi người bản ngữ
đối với bức tranh ngôn ngữ về thế giới, mang đậm tính dân tộc. Trong ngôn ngữ học
tri nhận, như đã biết, ỷ niệm (concepts) là một trong những phạm trù cơ bản, trong
đó quan điểm của Iu.s. Stepanov cho rằng, "ỷ niệm là tế bào chủ y ếu của văn hóa
trong thế giới tinh thần của con người"[ 12; 43], và xét về phương diện ngôn ngữ tác
giả này cũng đồng thời cho rằng, "ỷ niệm - đó là nghĩa của từ" [12; 44] được sử
dụng khi phát ngôn ra, chứ không phải là ý nghĩa biểu vật của từ đó. N hư vậy là ý
niệm có quan hệ với cả ngôn ngữ lẫn văn hóa.
Bài viết này bước đầu tìm hiểu việc sử dụng thành ngữ, tục ngữ Việt Nam
trong giao tiếp từ góc nhìn ý niệm như "yếu tố của ý thức" [14; 8] thể hiện thái độ
chủ quan của người nói khi phát ngôn ra bằng thành ngữ hay tục ngữ.
2. Ý niệm trong ngôn ngữ học trí nhận
2.1. N gôn n g ữ học tri nh ậ n (Cognitive Linguistics) là m ột hướng nghiên cứu
mới xuất hiện trong những năm 80 của thế kỉ XX, có mục đích nghiên cứu mối
quan hệ giữa ngôn ngữ và tư duy của con người với cách nhìn riêng của người bản
ngữ khi tri giác về thế giới, đặc biệt mục đích quan trọng của nó là nghiên cứu ý
niệm của con người được lưu giữ trong tiềm thức của mỗi người bản ngữ. Những ý
niệm khi phát ngôn ra mặc dù thuộc về cá nhân của chủ thể lời nói, song ý niệm đó
thường là phù hợp với khế ước cộng đồng người bản ngữ. Khi nghiên cứu lí thuyết

tri nhận về ẩn dụ, hai tác giả G. L akoff và M. Johnson (1980) đã lấy tựa đề cho
cuốn sách của mình là "Metaphors we live by" ("An dụ mà chủng ta đang song")
[L akoíĩ G. and Johnson M., 1980] không phải là không có lí do của nó, bởi lẽ ẩn dụ
giúp cho mỗi người bản ngữ tri nhận thế giới khách quan theo cách riêng của mình
trong thế giới tbực tại m à họ đang sống cũng như trong thế giới phi thực tại mà họ
sống trong trí tường tượng (như trong những truyện cổ tích, truyện thần thoại).
S.Kh. Liapin (1997) đã có lý khi nhận xét rằng, khi con người sống, giao tiếp, hành
động trong thế giới những khái niệm, những hình ảnh, những khuôn mẫu hành vi,
giá trị, tư tưởng, v.v..., thì đồng thời cũng là sống, suy nghĩ, giao tiếp trong thế giới
của những ý niệm [Dần theo: Trần Văn Cơ - 7; 91].
2.2. Ỷ niệm trong quan hệ với văn hóa và ngôn ngữ
Kho tàng thành ngữ và tục ngữ của một ngôn ngữ là nguồn thông tin quan
trọng nhất về văn hoá và tinh thần dân tộc, bởi lẽ trong nội hàm của thành ngữ, tục
ngữ thường chứa đựng những thông tin lưu giữ ý niệm bằng hình ảnh về thế giới
thực tại mang bản sắc văn hoá dân tộc. Khi người nói dùng thành ngữ hoặc tục ngữ
720


THÀNH NGỮ VÀ TỤC NGỮ VIỆT NAM NHlN

từ gốc đ ộ

...

để nói len ý nghĩ, tình cảm về sự vật, hiện tượng, họ thường tâm niệm và nhớ ra
trong tiềm thức cùa mình những ý niệm chung nhất, phổ dụng nhất để phát ngôn
thành lời hướng tới người nghe. Thành tựu văn hóa luôn luôn là cái còn lại có giá
trị, sau khi những cái khác không có giá trị mất đi, nghĩa là trong thành tựu văn hóa
có chứa đựng những nét đặc thù, quen thuộc đổi với người bản ngữ, nhưng lại khác
biệt đối với cộng đồng người bản ngữ khác.

2.2.1. Ỷ niệm trong quan hệ với văn hóa
Ở Việt Nam thời xưa cũng như ngày nay chẳng hạn, bức tranh ngôn ngữ với ý
niệm về chợ phiên ở làng quê là chợ thường họp vào những ngày cổ định theo âm
lịch (bởi thế nên ngày nay hằng năm lịch blốc để treo, lịch bỏ túi... nếu in ra mà
không ghi kèm ngày âm lịch tương ứng với ngày dương lịch thì người dân không
bao giờ mua), thường cách nhau 5 ngày, như chợ Bưởi làng Yên Thái (Hà Nội) là
chợ cây cảnh và các loại hoa họp vào các ngày 4, 9, 14, 19, 24, 29 âm lịch hằng
tháng. Ý niệm của người Việt về chợ ở vùng quê trung du không chỉ là nơi trao đổi,
m ua bán hàng hóa, mà còn là điểm đến để người già, người trẻ, thanh niên nam nữ
rủ nhau vừa đi chợ vừa đi chơi, thưởng lãm: Người các ấp tưng bừng ra chợ Tết/
Họ vui vè kéo hàng trên cỏ biếc (Đoàn Văn Cừ. Chợ Tết). Đặc biệt chợ vùng cao
(như chợ tình Sa Pa) không chỉ là nơi mua bán sản phẩm đơn thuần mà còn là nơi
giao lưu tình cảm, bời cư dân ở đây sống rải rác, buồn tẻ nên họ có nhu cầu gặp gỡ
giao tiếp, giao duyên. Đây là một nét văn hóa đẹp của các dân tộc thiểu số Việt
Nam đã in sâu vào tiềm thức người bản ngừ Việt. Ở miền Nam, ý niệm về phiên
chợ độc đáo ở vùng đồng bằng sông Cửu Long là chợ nổi. Chợ nổi là loại hình chợ
thường xuất hiện tại vùng sông nước trên các tuyến chính đường thủy, người bán và
người mua đều dùng ghe, thuyền. Đây cũng là nét văn hóa đặc sắc của vùng đồng
bàng sông Cửu Long thông qua cảnh sinh hoạt mua bán nhộn nhịp trên sông: hàng
trăm ghe, thuyền ngày đêm tụ họp, bán đủ các loại sàn phẩm m iệt vườn như rau, củ,
trái cây, tôm, cua, rùa, rắn; đặc biệt còn ngộ nghĩnh nữa: đầu ghe người bán thường
treo lùng lẳng thứ gi là hán thứ ấy. Đây cũng là điểm du lịch ưa thích cho người
trong nước và người nước ngoài (như chợ Cái Răng, Tp. c ầ n Thơ chẳng hạn). Đúng
như Iu.s. Stepanov đã định nghĩa về ý niệm rằng: "Ý niệm tựa như sự cô đặc của
nền văn hóa trong ý thức của con người; dưới dạng của nó nền văn hóa đi vào thế
giới tinh thần của con người. Và mặt khác, ý niệm là cái mà nhờ nó con người bình
thường, không phải là "người sáng tạo ra nhừna giá trị văn hóa"- chính con người
đó đi vào văn hóa và trong một sổ trường hợp còn tác động đến văn hóa" [12; 43].
2.2.2. Ỷ niệm trong quan hệ với ngôn ngữ
Quan điểm của Slyshkin G.G. cho rằng: "Ý niệm là dơn vị của tư duy, yếu tố

cùa ý thức. Chính ý thức con người đóng vai trò trung gian giữa văn hóa và ngôn
721


VIỆT NAM HỌC - KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ LẦN THỨ TƯ

ngữ. Việc nghiên cứu tác động qua lại giữa ngôn ngữ và văn hóa sẽ là không đầy đù
nếu thiếu yếu tổ gắn kết ngôn ngữ với văn hóa. Thông tin văn hóa đi vào ý thức, ở
đây nó được sàng lọc, được chế biến và hệ thống hóa lại. Ý thức có nhiệm vụ phải
lựa chọn những phương tiện ngôn ngữ làm cho thông tin văn hóa ấy được tường
minh trong tình huống giao tiếp cụ thể nhàm thực hiện những mục đích giao tiếp
nhất định" [14; 8]. N hư vậy, ý niệm m ang đậm tính dân tộc, bởi khi nói "thông
tin văn hóa đi vào ý thức" thì phải được hiểu đây là ý thức của mỗi người bản
ngữ nhìn nhận thế giới theo những cách khác nhau. Ví dụ ở V iệt N am thời xưa
cũng như ngày nay, bức tranh ngôn ngữ với ý niệm "quý giá nhất" đối với người
V iệt là Không có gì quý hơn độc lập tự do, khi nói đến vận mệnh của dân tộc thl
người Cu Ba lại dùng cách nói khác với nghĩa tương ứng: Tổ quốc hay là chết.
Khi Tổ quốc V iệt Nam lâm nguy - quân Thanh vào chiếm Thăng L ong Hoàng
đế Quang Trung Nguyễn Huệ sau ngày lên ngôi (22/12/1788) đã ra Lời dụ kêu
gọi tiến quân ra Bắc tiêu diệt quân ngoại xâm: "Đánh cho để dài tóc/ Đánh cho
để đen răng/ Đảnh cho nó chích luân bất phản/ Đánh cho nó phiên giáo bất
hoàn/ Đảnh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ " (Q uang Trung Nguyễn
Huệ). Lời dụ thể hiện quyết tâm m ạnh mẽ gìn giữ truyền thống văn hóa dân tộc
như tục để tóc dài, nhuộm răng đen khác biệt với người phương Bắc, tỏ rõ quyết
tâm đánh giặc đến cùng để khẳng định chủ quyền quốc gia của nước V iệt (đánh
cho lịch sử biết rằng nước Nam anh hùng là quốc gia có chủ). Và trong ý niệm
của người Việt, khi nói: "Đánh cho để dài tóc/ Đảnh cho để đen răng" là muốn
nói lên cái cốt cách riêng của dân tộc Việt, có lẽ nó có mối liên quan nhất định
đến câu tục ngữ Cải răng cái tóc là góc con người (H àm răng, mái tóc góp phần
quan trọng làm nên vẻ đẹp con người), bởi lẽ thời vua Q uang Trung Nguyễn Huệ

thì để tóc dài và nhuộm răng đen được người dân cho là đẹp. Hoặc những ngày
đầu Toàn quốc kháng chiến năm 1946, từ bức thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi
cho các chiến sĩ Quyết tử Thủ đô "Các em quyết tử cho Tồ quốc quyết sinh" nên
sau đó trong giao tiếp của người dân Hà Nội cho đến nay vẫn thường dùng các
cụm từ cố định "Lời thề quyết tử ", "Chiến s ĩ quyết tử'' m ang tính thành ngữ. Còn
khi nói đến giá trị con người là vốn quý nhất thì người Việt lại nói người ta là
hoa đất (cái tinh túy nhất của trời đất) (tục ngữ). Ý niệm về màu trắng có tính
đại diện đối với người châu Âu thường được dùng là trắng như tuyết, còn ở
người Việt là trắng như bông, người Thái Lan ở Đông Nam Á có ý niệm về màu
trắng gần giống với người Việt: khảo mưởn p u i phải (trẳng như bông trong gối) (TS
Siriwong Hongsawan, người Thái Lan, cung cấp ví dụ này); hoặc khi nói về số
lượng rất nhiều, đông nghịt hàng vạn người thì người bản ngữ Việt dùng đông nhu
kiến cỏ (phản ánh hiện tượng khách quan); nhưng khi dùng đông như quân Nguyên
lại phản ánh hiện thực xã hội; v.v...
722


THẢNH NGỮ VÀ TỤC NGỮ VIỆT NAM NHlN

từ gốc đ ộ

.

Thành ngữ chân cứng đá mềm trong tiếng Việt có nghĩa trực tiếp "khỏe và dẻo
dai" về mặt thể chất như mong muốn của người phát ra thông báo "lời chúc tiễn
người đi xa" mà người Việt thường ưa dùng với nghĩa hàm ẩn như một lời chúc
người ra đi sẽ vượt qua được những khó khăn trở ngại trên bước đường công tác,
học hành, lập nghiệp; trong khi đó thì người Nga lại dùng thành ngữ 008 no dopoae,
a Hẻpm cmoponoủ [13; 30] với nghĩa thực tại biểu thị một hy vọng có Thượng đế
cùng đồng hành trong chuyến đi xa và ma quỷ sẽ bị gạt sang bên.

3. T h àn h ngữ, tục ngữ nhìn từ góc độ ý niệm đòi th ư ờ n g
Với cách đặt vấn đề về cái "hệ thống ý niệm đời th ư ờ n g của chủng ta" (mà
trong khuôn khổ của nó chúng ta suy nghĩ và hành động) được G. L akoff và
M. Johnson nhiều lần nhấn mạnh [Dẩn theo: Lý Toàn Thấng - 2; 35] thì có thể
hiểu rằng, trong giao tiếp giữa những người bản ngữ thành ngữ, tục ngữ nói chung
"được sử dụng tự nhiên trong đời sổng hằng ngày của chúng ta, bởi những con
người bình thư ờ ng , chứ không chi bởi những nhà khoa học hay các chuyên gia
đặc biệt" [Dần theo: Lý Toàn Thắng - 2; 35]. Bởi lẽ từ những nghiên cứu ý niệm
bình thường, chúng ta có thể xác định tính dân tộc của nó. A. W ierbicka (1996)
nghiên cứu các loại ý niệm của các ngôn ngữ khác nhau đã rút ra kết luận về
những tiêu chí xác định "tính dân tộc" của ý niệm sau đây: "a) từ nào biểu hiện ý
niệm phải có tính tần số cao; b) từ này phải có khả năng p hái sinh tích cực và phải
nằm trong những cấu trúc cố định mang tính thành ngữ (idiom e); c) ý niệm phải
có "độ đậm đặc về ngữ nghĩa" và thường gây khó khăn cho việc dịch ra tiếng nước
ngoài (ngoại trừ nhừng trường hợp khi ý niệm này có m ột ý niệm tương đương
chính xác trong ngôn ngữ dịch)" [Dan theo: Trần Trương Mỹ Dung - 6; 62-63].
Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cụm từ đi B mang tính thành ngữ rất đặc
trưng, được dùng phổ biến với nghĩa thực tại "đi vào chiến trường miền Nam làm
nhiệm vụ chi viện cho cuộc kháng chiến chống Mỹ", từ thực tiễn khách quan của
cuộc kháng chiến chống Mỹ mà sau đó xuất hiện những cụm từ + đi B đóng vai trò
bổ nghĩa: diện đi B, gia đình có người đi B , đơn đi B. Đối chiếu ta thấy, hai tiêu
chí a) và b) ở trên cho thấy cụm từ đi B một thời luôn thường trực trong ý niệm tư
duy cùa người dân với lòng tự hào khi dùng nó trong giao tiếp hằng ngày. Hoặc
hai từ trầu, cau cũng vậy. Ý nghĩa biểu vật cùa hai từ này không nói lên đặc trưng
văn hóa dân tộc, trong khi đó nghĩa của hai từ này khi được sử dụng trong phát
ngôn lại mang tính dân tộc, nó được dùng để làm lễ vật hôn nhân như lời giao ước
giữa hai họ nhà trai và nhà gái. Cha mẹ bên nhà gái nhận lễ vật trầu cau của nhà
trai là bày tỏ sự đồng thuận sẽ gả con gái cho bên họ nhà trai: M iếng trầu nên dâu
nhà người (Từ khi nhà gái nhận trầu thì người con gái coi như nàng dâu nhà người
ta rồi), nghĩa là trầu cau dã giúp cho đôi bạn trỏ nên vợ nên chồng. Bời thế nên

723


VIỆT NAM HỌC - KỶ YỂU HỘI THÀO QUỐC TÉ LẰN THỨ TƯ

người con trai muốn nhắm đến người con gái nào làm vợ thì thường đánh tiếng:
Giúp em quan tám tiền cheo/ Quan năm tiền cưới lại đèo buồng cau. Trầu cau còn
là cái để giao đãi, làm quen nhau: M iếng trầu là đầu câu chuyện. Đây là mội
phong tục xưa của người Việt thường mời nhau xơi trầu trong các cuộc gặp gỡ.
thăm hỏi nhau. Phong tục truyền thống dân gian của người N ga đón khách quý thì
lại mời khách ăn bánh mì - muối ỤCne6-cojib) như sự m ến khách, hậu đãi:
BTpenaTb Koro-ji. xjieốoM-cojibto đón tiếp ai nồng hậu; CaflHTecb, flo p o ra e CBaTH.
H e n o ố p e 3 r y ỉÍ T e H a iu e fi xjieốoM-cojibto ( A . H . T o j i c t o h . ĩ l ẽ i p n e p B M ì í ) ( X i n m ờ i
ông bà thông gia an tọa. Xin ông bà đừng chê món bảnh mì - m uối của chúng tôi
đấy nhé).
3.1. Đ ổi với bản thăn
Khi nói về mình trong quan hệ giữa người với người, người Việt luôn luôn
tuân theo một quy ước: "Xưng là phải khiêm, hô là phải tôn" và thực hiện ừong
phạm vi gia đình họ hàng một lối xưng hô có tôn ti trên dưới. Nếp xưng hô này hay
nói rộng ra là m ột phép ứng xử, một phần của nếp sống người V iệt bát rễ sâu xa
trong tâm thức người Việt như thành viên của gia đình và đồng thời như thành viên
của xã hội. Điều này cũng được phản ánh vào cơ cấu ngữ nghĩa của nhiều thành ngữ
như đặc trưng văn hoá dân tộc, song thường là ở trạng thái động, tức là trong những
hoàn cảnh giao tiếp đời thường khi ý niệm được phát ngôn ra. Ví dụ:
- Rước bác xơi tự nhiên. Cây nhà lả vườn chứ có phải m ua bán gì đâu (lời mời
khiêm tốn). Người N ga dùng thành ngữ với nghĩa tương ứng HeM ỗosambi, meM u
padbi (Cây nhà lá vườn xin mời bác).
- Bác cứ nói thế. Tôi chỉ là anh phó thường dân giữ cái chân gõ đầu trẻ thôi
mà (lối nói nhún mình).
- Tôi tài hèn sức mọn, không có gan làm giàu nên phải chịu cảnh gà què ăn

quẩn coi xay vậy (lối nói nhún nhường, biết thân phận mình).
r

- Chị em chúng tôi trước hết là đến thăm anh em, sau gọi là của ít lỏng nhiều
xin tặng anh em ít thức ăn, mong anh em nhận giúp (Báo Quân đội nhân dân,
11/01/1966) (lời nói thành tâm, khiêm tốn).
- Cô vui vẻ mời: Thưa bác có gì mà hoang? Thầy con còn muốn mời thêm mấy
ông trong họ và trong làng nữa. Khách ba chúa nhà bảy, nếu không giết lợn thì không
thể đủ (Ngô Tất Tổ - Lều chõng) (lối nói nhã nhặn để khách đến ăn cỗ an lòng).
Từ những ví dụ trên ta thấy, trong đạo lý làm người của dân ta, người có văn
hoá là người biết đặt cái tôi trong mối quan hệ với những người xung quanh, tù
những người thân trong gia đình đến bà con lối xóm, bạn bè đồng nghiệp. Lời ăn
724


THẢNH NGỮ VÀ TỤC NGỮ VIỆT NAM NHlN

tử góc đ ộ

...

tiếng nói hăng ngày nếu dùng đúng lúc, đúng người, đúng cảnh là lời nói đẹp, góp
cho đời thêm đẹp: Lời nói chẳng mất tiền mua/ Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.
3.2.
Quan hệ gia đình: Gia đinh là tế bào của xã hội. N ét đẹp của gia đình
Việt Nam là cha mẹ yêu thương con cái, hết lòng vì con, gây dựng cho con nên
người; còn con cái đổi với cha mẹ thì truyền thống dân ta là biết ơn các bậc sinh
thành, thờ cha kính mẹ (nhà nào cũng có bàn thờ gia tiên), coi trọng truyền thống
gia đình: Đ ội ơn chín chữ cù lao/Sinh thành kế mấy non cao cho bằng.
Người mẹ, người cha, anh chị em, ông bà, cô dì chú bác đều được phản ánh

trong lối nói bằng thành ngừ, tục ngữ. Trong quan hệ vợ chồng, thành ngữ cũng đề
cập đến những nét đặc trưng: đề cao những nét đẹp, phê phán những cách nhìn,
quan niệm lỗi thời. Trong trường hợp này, ngôn ngữ không chi là thành tố của văn
hoá mà là sản phấm của văn hoá, bởi những thành ngữ được bảo tồn lun giữ đến
ngày nay hiện diện trong mỗi chúng ta không chỉ như đơn vị ngôn ngữ mà còn là
những giá trị tinh thần, những giá trị văn hoá của dân tộc.
Trước hểt nói về người mẹ. Trong đời sổng thực cũng như đời sống tâm linh
cùa người Việt, vai trò người mẹ đặc biệt thicng liêng. Trong sản xuất, người mẹ người phụ nữ Việt Nam chưa bao giờ bị đẩy ra ngoài, hơn nữa còn giữ vai trò khó
lòng thay thế: trong nghiệp nhà nông: người đàn ông cày bừa làm đất, nhưng cấy
lúa phải đến tay người đàn bà (quan niệm dân gian cho rằng đàn bà cấy lúa thì cây
lúa mới sinh sôi mẩy hạt): chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa; ờ vùng cao, đồng bào
thiểu sổ trồng lúa nương thì người đàn ông chọc lỗ, người đàn bà tra hạt, lấy ngón
chân cái ấn đất lên hạt thóc thì cây lúa mới lên xanh tốt và đẻ nhiều nhánh (ý nói
đến khả năng sinh sản của người phụ nữ). Nhìn ra bên ngoài ta thấy có khác: ở
châu Âu một hộ phận phụ nữ bị đưa ra khỏi sản xuất mà ngay ở thòi đại mình,
Ph. Ảngghen cũng phải đặt câu hỏi tìm hiểu.
Trong đời sống thường nhật, trong quan hộ gia đình người mẹ, người phụ nữ
là hiện thân của dức tính hy sinh gánh vác, lo toan. Bởi thể m à trong giao tiếp
thường ngày, những câu thành ngữ, tục ngữ, những lời nói cửa miệng thường là ý
niệm thường trực trong tâm trí người Việt: Cha sinh không tày mẹ dưỡng, Phúc đức
tại mẫu, Lệnh ông không bằng cồng bà, Tay hòm chìa khoá, Gái có công chồng
chẳng phụ... v ề phương diện này có một thực tế hiển nhiên là, do sự phân công lao
dộng một cách rất tự nhiên và rất Việt Nam, người mẹ, người vợ là người hiện diện
thường trực trong, mỗi gia dinh thườne xuyên hơn người đàn ông, do đó, họ đương
nhiên là người lo toan mọi việc: việc đi phu phen, đi thoát ly, đi làm ăn thập
phương, đi bộ đội là bổn phận trước hết của nam giới; phó thác lên vai người mẹ,
người vợ là trăm thứ việc, từ việc cơm áo gạo tiền, ngày ba lần đỏ lửa cho đến việc
dựng vợ gả chồng, giỗ chạp, tết nhất, hiếu hỷ. Ngay cả những việc hệ trọng bên họ
725



VIỆT NAM HỌC - KỶ YỂU HỘI THẢO QUỐC TẾ LẰN THỨ TƯ

nội nhiều lúc cũng không thể thiếu sự hiện diện và sự giải quyết của người dâu
trưởng. Nét đặc thù không thể trộn lẫn trong nếp sống của đa phần các gia đình Việt
Nam đã để lại dấu ấn trong thành ngữ, tục ngữ, trong từ ngữ và lời ăn tiếng nói dân
gian. Ở các nước châu Âu, như Nga chẳng hạn, chỉ có m ột số lượng từ rất hạn chế
kểt hợp với từ Mẹ với nghĩa "lớn về kích thước, được đề cao về địa vị" như Tổ quốc
- Mẹ, Mẹ các châu thành Nga, trong khi ở tiếng Việt thì từ cải (mẹ) hiện diện trong
nhiều tổ hợp từ, m à ở đó nghĩa của từ cái hoàn toàn lấn át: đường cái (đường
chính), sông cái (sông lớn), thúng cái (thúng to), trống cái (trống to hơn trong quan
hệ đối sánh): người Lô Tô bao giờ cũng đúc cùng m ột lúc hai trổng đồng, trống to
hom gọi là trống cái, nhỏ hom gọi là trống đực. v ề thành ngữ Lệnh ông không bằng
cồng bà (vai trò quyết định tối hậu của người vợ trong gia đình) có thể đưa ra một
chứng tích mà đến nay vẫn hiện diện trong đời sống của người dân làng Vó, tức
làng Quảng Bố, huyện Lương Tài (Bắc Ninh): đám m a ở đây thường có đánh cồng
hoặc đánh lệnh, nếu nghe tiếng cồng thì biết người vừa qua đời là phụ nữ (cồn g to
hơn lệnh), nghe tiếng lệnh thì biết người vừa mất là nam giới. So sánh thì thấy:
tiếng cồng trầm hùng vang xa, còn tiếng lệnh nhỏ lanh lảnh. Hoặc m ột chứng tích
khác về thành ngữ này được ghi nhận là, theo phong tục cưới xin ở m ột số dân tộc,
trước khi đón dâu, nhà trai thường đánh một vài hồi lệnh (thanh la) và chờ cho đến
khi cỏ tiếng cồng nhà gái đáp lại mới được phép đến đón dâu. Ví dụ:
- Thầy cháu đồng ý tôi cũng đồng ý. - Sao lại thầy cháu, lệnh ông không bằng
cồng bà (Đào V ã Cải sân gạch)', vai trò tối hậu ở đây không phải là của người
chồng mà chính là của người vợ.
- Anh nói thế mà nghe được à? Đành rằng mấy năm ở bên đó anh có dành dụm
gửi tiền, gửi hàng về, nhưng không có vợ anh ở nhà lo toan thì làm gì có nhà cửa
khang trang như bây giờ. Của chồng công vợ chứ! (Lời bà mẹ chồng xác nhận công
sức của người con dâu ở nhà).
Dâu con, rể khách - Lời nói cửa miệng này xác nhận bổn phận nàng dâu trong gia

đình là lo toan gánh vác mọi việc như con cái trong nhà chứ không thảnh thơi như các
chàng rể. Từ đó mà có thành ngữ Làm dâu trăm họ để chỉ cảnh phải chiều lòng, phục
vụ nhiều đối tượng khác nhau với nhiều yêu cầu, đòi hỏi khác nhau (ở đây không thay
thế dâu bằng rể được). Đây cũng là một đặc trưng khá nổi bật của văn hoá Việt Nam:
Quan thế âm Bồ Tát là người theo đạo Phật hay giúp chủng sinh, ở Ẩn Độ là nam giới
nhưng sang đến Việt Nam lại là nữ giới, bời người phụ nữ ở Việt Nam là hiện thân
cho đức tính hy sinh vì chồng vì con, và vì cả anh em họ hàng bên chồng nữa, chính
vì thế biểu tượng của Quan thế âm Bồ Tát vốn mệnh danh là cứu nạn, cứu khổ cho
mọi chúng sinh ở Việt Nam phải là một bà Bồ Tát. Trong tiếng Việt có thành ngữ
Của người Bồ Tát, Của mình lạt buộc ý nói là của người thì chi dùng thoải mái, hào
726


THÀNH NGỮ VÀ TỤC NGỮ VIỆT NAM NHỈN t ừ g ó c đ ộ .

phong, còn của mình thì chi tiêu chặt chẽ, keo kiệt. Trong mấy thập niên gần đây
xuat hiện cụm từ mang tính thành ngữ của chùa được dùng với nghĩa gần giống với
thành ngữ trên. Để đánh giá đường ăn nết ở của người đàn bà, trong tiếng Việt có
tục ngữ Xem trong bếp biết nết đàn bà là người ngăn nắp, đảm đang, biết lo toan
việc gia đình hay không, trong khi đó tục ngừ Anh lại dùng A good workman is
known by his chips (Nhìn đống vỏ bào biết người thợ nào hay dở).
Bên cạnh người mẹ lo toan gánh vác thì người cha là chỗ dựa tinh thần, là tấm
gư:mg của con cái, là đại diện cho truyền thống gia phong. Bên cạnh thành ngữ Cha
sinh không tày mẹ dirỡng trong lời ăn tiếng nói, dân gian thường đùng Cha truyền
con nối, Con có cha như nhà có nóc, Cha nào con ẩy, Phụ tử tình thâm, Quê cha
đất tổ... Người cha nào cũng đều mong con cái nên người, trưởng thành (Con hơn
chã là nhà có phúc) và nhất cử nhất động đều nghĩ đen hậu thể, tránh để lại hậu quả
xấu xa cho con cháu (Đời cha ăn mặn đời con khát nước). Đây cũng là nét đặc
trung được chú ý khi nghiên cứu bình diện văn hoá dân tộc của thành ngữ.
Trong đạo vợ chồng, người vợ và người chồng thương yêu nhau, dựa vào nhau

để xây tổ ấm, nuôi dạy con cái. Nét đặc trưng dân tộc trong đạo vợ chồng của đa
phần các gia đình Việt Nam là chung lòng chung sức, phân công lao động rõ ràng,
tự hào vì nhau, sống vì nhau (Giàu vỉ bạn sang vì vợ\ N ấp bóng tùng quân, Lấy
chồng nhờ hồng p h ú c nhà chồng)', suy ra thành ngữ x ẩ u chàng hố ai khi xuất hiện
trong lời nói không còn là nếp nghĩ của riêng cá nhân người vợ nào mà là của sổ
đôig những người vợ —» nếp nghĩ xâ hội, bởi người vợ nào cũng muốn chồng hay,
chàng tốt để nở mày nở mặt với chị em bè bạn. Ví dụ:
- Có những đôi vợ chồng êm ấm, nhưng cũng nhiều những bà nói ra sợ chị em
cuời cho rằng xấu chàng hổ ai, nên cứ phải chịu nhịn.
(Hoàng Đạo Thúy, Phố phường Hà Nội xưa).
- Biết chồng hư hỏng, nhưng xấu chàng hồ ai, vợ Thành đành im miệng.
(Vũ Cao, Những người cùng làng).
3.3.
Quan h ệ x ã hội: Xét trên phương diện quốc gia thì văn hoá Việt Nam về
co bản là văn hoá nông nghiệp, trên phưong diện xã hội thì văn hoá Việt Nam là
văi hoá xóm làng. Mối quan hệ gia đình, dòng họ dâv mơ rễ má chằng chịt ở làng
xã Việt Nam (nhất là ở miền Bắc; ờ miền Nam quan hệ họ hàng lòng lẻo hom, bời lẽ
về con người có cả người tứ xứ đến sinh cơ lập nghiệp ờ các thôn ấp, về địa lý thôn
ấp miền Nam thường trải dài trên các kênh rạch) tạo cho người dân một cái nếp ứng
XV dựa vào tình là chủ yếu (Chín bỏ làm mười). Chủ tịch H ồ Chí Minh thấy được
né đặc trưng này của dân tộc nên trong nhiều huấn thị, lời dạy của Người yếu tố
tìrh bị đưa xuống hàng thứ yếu, tuy chưa bị hoàn toàn gạt bỏ: có lý có tình. Rõ ràng
727


VIỆT NAM HỌC - KỶ YÉU HỘI THẢO QUỐC TÉ LẰN THỨ T ư

việc công nếu giải quyết theo kiểu đặt yếu tố tình lên trên thì thường là phương hại

đến lợi ích của tập thể và trong nhiều trường hợp dẫn đến rối như canh hẹ. Song,

trong đời sống đa dạng của người Việt Nam ta cho đến nay, nét đặc trưng của quan
hệ xã hội vẫn mang đậm tính dân gian, mà dân gian là m ột cái gì không chính thức,
đời thường, vượt ra bên ngoài yếu tổ lý, tức là vượt ra ngoài luật lệ, trật tự. Những
nét đặc trưng này được phản ánh vào thành ngữ khá nhiều: Tối lửa tắt đèn, Lọt sàng
xuống nia, Chỉn bỏ làm mười, Giơ cao đánh khẽ, c ỏ đi có lại mới toại lòng nhau,
Ông mất chân giò bà thò chai rượu, c ỏ lý cổ tình, c ỏ người có ta, Dây m ơ r ễ má,
Con ông cháu cha, Lá lành đùm lá rách, Cùng hội cùng thuyền, Cưới chẳng tày lại
mặt, Cưới không cheo tiền gieo xuống suối, Lời nói gió bay, Cứu được một người
phúc đẳng hà sa, Cứt trâu để lâu hoả bìm, Làng trên xóm dưới, Lại mặt hơn ăn cưới,
Làm dâu trăm họ, Lắm sãi không ai đóng cửa chùa, Phép vua thua lệ làng, Lệnh làng
nào làng ấy đánh, Lụt lút cả làng, Qua sông phải ỉuỵ đò, Vị thần nể cây đa...
Hãy so sánh m ột số ví dụ:
- Quan tám cũng ừ, quan tư cũng gật (thái độ ba phải, hòa cả làng): nét nghĩa
được khai thác là với sổ lượng tiền thế nào cũng được, nhiều hay ít không quan
trọng; trong khi với nghĩa này, người Nga biểu thị bằng thành ngữ Cudemb M6MC
deyx cmyjibee (Ngồi chung chiêng giữa hai ghế): nét nghĩa được khai thác là vị trí
bấp bênh, không xác định giữa hai ghế, dễ dàng ngả sang bên này hoặc bên kia.
- Yêu nhau rào dậu cho kín (Dù có quý mến, thân thiết với nhau thế nào cũng
nên phân minh rạch ròi, sòng phăng thì quan hệ mới được lâu bền) (tục ngữ); người
Anh cũng có câu tục ngữ tương tự: A hedge between keeps friendship green (Bờ dậu
ngăn đôi ở giữa thì tình bạn mới xanh tươi).
- Nồi tròn úp vung tròn, nồi méo úp vung méo (Người đàn ông thế nào thì
người đàn bà thế ấy, vợ chồng tương xứng về mọi m ặt) (tục ngữ). Trong tiếng
Anh, người bản ngữ dùng Every Jack has his J ill ý muốn nói dù có thế nào, xấu
hay đẹp thì người như Jack cũng có được người tương xứng như Jill để thành
một cặp đẹp đôi.
- Không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời (Thời cuộc thay đổi, số phận đổi
thay, không có gì là vĩnh viễn) (tục ngữ), trong khi đó tục ngữ Anh lại dùng Every
day is not Sunday (Không phải ngày nào cũng là ngày chủ nhật).
v ề phương diện này, thành ngữ và tục ngữ tiếng Việt không chỉ là nguồn tư

liệu độc đáo mà còn là tấm gương phản chiểu những di sản của một truyền thống
lâu đời về phong tục, tập quán của người Việt Nam, những nếp nghĩ, tư duy mang
tính cộng đồng và khi được thường xuyên sử dụng trong đời thường chúng sẽ trở
thành ý niệm thường trực trong bộ não người bản ngữ.
728


THÀNH NGỮ VÀ TỤC NGỮ VIỆT NAM NHÌN TỪ GỐC ĐỘ..

3.4.
v ề ý niệm cỏ "độ đậm đặc về ngừ nghĩa" thường gây khó khăn cho việc
dịch ra tiếng nước ngoài có thể đơn cử một ví dụ: Trone thành ngữ Việt Mẹ tròn con
vuông,: các thành tố tròn, vuông chì những khái niệm từ \TJng về hình học mặc nhiên có
những từ tương đương hoàn toàn ở nghĩa biểu niệm trong các ngôn ngữ khác, song ở
nghĩa vị ngoại biên (peripheral sema) tròn, vuông lại nằm trong mối liên tưởng với
trường ngữ nghĩa phái sinh tồn tại trong đời sống người bản ngừ Việt nhưng lại khuyết
ờ các dân tộc khác (như ở người bàn ngữ Nga, Anh chẳng hạn): đó là quan niệm của
người Việt xưa cho rằng trời tròn đất vuông nên vuông, tròn ờ đây gắn với nghĩa tốt
lành, bình yên, hàm ý đứa bé sinh ra được khỏe mạnh, lành lặn, còn người mẹ thì an
toàn, khỏe mạnh. Và dung lượng nghĩa mới này (nghĩa hình tượng của thành ngữ)
chế dịnh luôn hoàn cảnh và phạm vi sử dụng của thành ngữ (bình diện ngữ dụng). Ý
niệm này hầu như chế ngự trong tâm trí mọi người dân khi dùng nó để phát ngôn ra
thành lời: Khi đến nhà hộ sinh thăm sản phụ hoặc đến nhà người mẹ mới sinh con,
người Việt có ý niệm là phải dùng thành ngữ Mẹ tròn con vuông để hỏi thăm sức
khỏe của người mẹ và đứa trẻ. Trong tiếng Nga không cỏ thành ngữ tương đương
nên phải dùng cách dịch nghĩa: 6jiaaonojiynno pa3peiuumt>cn om ôpeMenu (sinh con
an toàn - đây không phải là thành ngữ).
4. Thay lời kết
Nghiên cứu thành ngữ, tục ngữ cũng như các cụm từ cố định có tính thành ngữ
từ góc nhìn ý niệm và ý niệm đời thường giúp cho người nghiên cứu thấy rõ hơn

một điều quan trọng đó là trong khi ngôn ngữ văn hóa học (Linguistic Culturology)
chủ yếu nghiên cứu những biểu hiện của văn hóa dân tộc được phản ánh và ghi lại
dấu ấn trong ngôn ngữ, nhấn mạnh đến những nhân tố văn hóa xã hội, thì ngôn ngữ
học tri nhận (Cognitive Linguistics) nhấn mạnh đến quá trình nhận thức và cái
cách mà con người nhận thức thế giới từ góc nhìn ngôn ngữ và văn hóa. Ở mỗi dân
tộc, thế giới khách quan và cả thế giới phi thực tại được phạm trù hóa theo những
cách khác nhau và được phản ánh vào ngôn ngữ thông qua cách tri giác của người
hản ngữ. Bởi vậy, trong ngôn ngừ học tri nhận, đơn vị cơ bản là ỷ niệm, và ý niệm
khác với khái niệm ờ chỗ, ý niệm là lời nói được phát ngôn ra bởi chủ thể lời nói
luôn luôn tâm niệm trong tiềm thức về một sự vật, hiện tượng để hướng tới người
nghe hoặc người đọc. Và, ý niệm cũng chi phối lời nói được phát ngôn ra của mỗi
người bàn ngữ.

Tài liệu tham khảo
1. Bùi Đình Mỹ, 1974. "Bước đầu tìm hiểu vấn đề đặc trưng nội dung cùa ngôn ngữ dân
tộc", Tạp chí Ngôn ngữ, số 2, tr. 1- 9.
729


VIỆT NAM HỌC - KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TÉ LÀN THỨ T ư

2. Lý Toàn Thắng, 2012, Đôi điều suy nghĩ về việc nghiên cứu ngôn ngữ và văn hóa (từ
hướng nhìn cùa ngôn ngữ học tri nhận và ngôn ngữ học văn hóa)/ Những vấn đề
ngôn ngữ và văn hóa. Kỷ yếu Hội thảo khoa học. Khoa Ngôn ngữ học, Trường Đại
học Khoa học xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội. Hội Ngôn ngữ học Hà
Nội, tr. 34-39.
3. Martin H. Manser, Từ điển thành ngữ nói thường ngày trong tiếng Anh. Trần Tất
Thắng (dịch và chú giải), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
4. Nguyễn Xuân Hòa, 2006, Đi tìm cách chuyển dịch thành ngữ tiếng Việt ra tiếng Nga
II Những vấn đề ngôn ngữ học. Khoa Ngôn ngữ học Trường Đại học Khoa học xã

hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
5. Ferdiand de Saussure, 1973, Giảo trình ngôn ngữ học đại cương, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
6. Trần Trương Mỹ Dung, 2005, "Tìm hiểu ý niệm "buồn" trong tiếng Nga và tiếng
Anh". Tạp chí Ngôn ngữ, số 8, tr. 61-67.
7. Trần Văn Cơ, 2011, Ngôn ngữ học tri nhận từ điển. Tường giải và đối chiếu, Nxb
Phương Đông.
8. Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn quốc gia. Viện Ngôn ngữ học, 1999, Từ
điển Anh - Việt. English - Vietnamese dictionary, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
9. Vũ Dung, Vũ Thúy Anh, Vũ Quang Hào, 1993, Từ điển thành ngữ, tục ngữ Việt
Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
10. Wierzbicka A., 1996, Semantics: Primes and Universal, Oxford: Oxford University
Press.

11. MacJioBa B.A., 2001, JIumeoKyjibmypojiosw (yneốHoe nocoốHe), MocKBa.
12. CxenaHOB K).c., 2001, KoHcmawnbi: Cnoeapb pyccKoủ Kyjibmypbi. "AKaneMHHecKHH

npoeKT", MocKBa.
13. OeflopoB A.H., 2001, &pa3eojioemecKUU cnoeapb pyccKopo JIumepamypiIOPO H3biKa.

"Act AcTpejib", MocKBa.
14. CjibiuiKHH r .r ., 2000, JJumeoKyjibmypubie KOìiụenmbi npeụeòenmiibix meKcmoe 6
C03 nm u u u ducKypce. M.: Academia.

730



×