Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

ĐỀ CƯƠNG môn cơ sở văn hóa VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191.57 KB, 18 trang )

ĐỀ CƯƠNG MÔN CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM
Câu 1: Hãy nêu đặc điểm và những cái hay, cái dở của hai loại hình văn
hóa gốc du mục và văn hóa gốc nông nghiệp?
Trả lời
- Phương Đông cư trú trong môi trường là những vùng châu thổ nằm trong
lưu vực các con sông lớn với khí hậu nóng ẩm. Phương Tây là xứ sở của
những thảo nguyên mênh mông với khí hậu lạnh khô.
- Hai loại địa hình châu thổ và đồng cỏ dẫn đến việc cơ dân của hai khu
vực sinh sống bằng nghề khác nhau: trồng trọt và chăn nuôi.
- Kinh tế được quy định bởi môi trường sống. Văn hóa được quy định bởi
môi trường sống và kinh tế.
 Hình thành hai loại hình văn hóa: nông nghiệp và du mục.
a. Văn hóa du mục
Cái hay
- Du cư: Nếu thấy sống nơi này không thuận
tiện, họ có thể dễ dàng bỏ di nơi khác.
- Coi thường thiên nhiên thì khuyến khích
con người dũng cảm đối mặt với thiên nhiên,
khuyến khích khoa học phát triển.
- Sống không phụ thuộc vào thiên nhiên.
- Tư duy khoa học phân tích kéo theo siêu
hình, chú trọng các yếu tố, trừu tượng hóa
chúng khỏi các mối liên hệ. Đây là cơ sở sự
hình thành và phát triển khoa học.
- Lối tư duy tổng hợp là hệ thống tri thức thu
được bằng con đường kinh nghiện, chủ quan,
cảm tính. Diễn đạt ngắn gọn, súc tích và đẻ ra
thâm túy.
- Trọng lý, tính tổ chức và kỷ luật cao, coi
trọng sức mạnh, trọng võ, trọng nam giới,
quyền lực tuyệt đối nằm trong tay người cai


trị ( pháp trị tuyệt đối nguyên tắc).
- Tư duy phân tích, cách tổ chức cộng đồng
theo nguyên tắc => Tâm lý trọng cá nhân.




Cái dở
- Coi thường thiên nhiên
- Hủy hoại môi trường

-Cái đúng của khoa học chỉ là đúng trong
những giới hạn. Nên nó luôn chứa khiếm
khuyết, sai lầm, tư tưởng trước sai sẽ có tư
tưởng sau thay thế.
- Sức thuyết phục thấp vì không được biện
chứng, chứng minh.
-Tâm lý hiếu thắng

-Lối sống: Lối ứng xử độc tôn, chiếm đoạt
trong tiếp nhận và cứng rắn trong đối phó.

Ưu điểm: Lo tổ chức làm sao để có thể thường xuyên di chuyển một cách
gọn gàng, nhanh chóng, thuận tiện, mang tính chất trọng động mang
trong mình tham vọng chinh phục và chế ngự thiên nhiên.
Nhược điểm: Máy móc, rập khuôn, thiếu bình đẳng do bị áp đặt.


b.


Văn hóa nông nghiệp

Cái hay
-Sống hòa hợp với thiên nhiên.
-Luôn coi trời là chỗ dựa, là “người cứu tinh”.

Cái dở
- Sống phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên
(Đã cố định một chỗ với cái nhà, cái cây
của mình thì phải có ý thức tôn trọng
không ganh đua với thiên nhiên).
- Tôn trọng thiên nhiên thì giữ gìn được môi - Con người trở nên rụt rè, e ngại, thậm chí
trường sống tự nhiên.
tôn sùng thiên nhiên.
=> Coi con người với thiên nhiên là một. Vấn
đề không phải chiến thắng thiên nhiên mà sống
trong một sự hòa hợp có ý thức và tế nhị với
thiên nhiên.
- Tư duy tổng hợp : không phải là tập hợp của -Mang tính siêu hình, chú trọng các yếu tố,
các yếu tố riêng rẽ mà là những quan hệ qua lại trừu tượng hóa chúng khỏi các mối liên hệ.
giữa chúng. => Tích lũy một kho kinh nghiệm
hết sức phong phú.
- Trọng tình làng xóm : cuộc sống hòa thuận,
lấy tình nghĩa làm đầu. => trọng đức, trọng
văn, trọng phụ nữ.
- Nguyên tắc trọng tình cảm cơ sở tâm lí hiếu
hòa, tôn trọng và cư xử bình đẳng.
- Thái độ dung hợp trong tiếp nhận, mềm dẻo
trong đối phó.
Kết luận : Tuy nhiên không có nền văn hóa nào là nông nghiệp hoàn

toàn hay du mục hoàn toàn. Vấn đề chỉ là mức độ ít nhiều của văn hóa.
- Văn hóa nông nghiệp: Sống cộng đồng, con trâu đi trước cái cày đi sau. Sống
luôn lo lắng đến ngày hôm sau. Nhà cửa là nơi gắn bó với cuộc sống con người,
làng quê là nơi chôn rau cắt rốn.
- Văn hóa du mục: cũng sống cộng đồng nhưng không ở một chỗ cố định (dĩ
nhiên) và việc của họ là di chuyển đến những nơi màu mỡ, có thể sống được
(sau vài năm sau khi đất bạc màu, hết lớp mỡ đất thì lại tiếp tục di chuyển),
cuộc sống của họ không ổn định, sống lều trại.
Để nói cái gì tốt hơn cái nào thì khó, vì vào thời điểm hiện nay thì cả 2 đều đã
bị tác động điều chỉnh nhiều. Tuy nhiên, vào giai đọan trước đây thì lại khácvới quan điêm ở 1 chỗ thì cuộc sống ổn định hơn, nhưng với thời điểm trước
đây thì cái nào cũng có cái tốt: văn hóa nông nghiệp phát triển mạnh mẽ và có
bảo tồn (cụ thể là các nhóm dân khu vưc Đông nam á hoặc Đông Bắc Á). Riêng
với văn hóa du mục do va chạm rất nhiều nên họ tự điều chỉnh để thích hợp với
môi trường sống (thấy dễ nhất qua việc dân Do Thái được coi là một nhóm dân


du mục khá thành công và thông minh, hoặc như bạn cũng đã nghe đến dân du
mục Digan hoặc dân Mông Cổ - Thành cát tư hãn).
Văn Hoá
Văn Hoá
Loại hình Văn Hoá
gốc nông nghiệp
gốc du mục
Địa lý
Đồng bằng
Đồng cỏ
Khí hậu
Ẩm, thấp
Khô, cao
Đặc trưng gốc

Kinh tế
Trồng trọt
Chăn nuôi
Lối sống
Định cư
Du cư
Tổng hợp và biện chứngPhân tích và siêu hình
Nhận thức
(trọng quan hệ)
(trọng yếu tố)
Chủ quan, cảm tính, kinhKhách quan, lý tính, thực
Tư duy
nghiệm
nghiệm
Trọng: Tình, Đức, Văn,Trọng: Lý,
Nguyên tắc
Nữ
Tài, Võ, Nam
Tổ chức
Linh hoạt
Nguyên tắc
Cách thức
Dân chủ
Quân chủ
Trọng tập thể
Trọng cá nhân
Tôn trọng và sống hoàCoi thường và tham vọng
Môi trường tự nhiên
hợp với thiên nhiên
chế ngự thiên nhiên

Dung hợp, dân chủ trongChiếm đoạt và độc đoán
Ứng xử
tiếp nhận.
trong tiếp nhận.
Môi trường xã hội
Mềm dẻo, hiếu hoà trongCứng rắn, hiếu thắng
đối phó
trong đối phó.

Câu 2. Tác động của môi trường tự nhiên đối với văn hóa Việt Nam.
Trả lời :
Có 3 đặc điểm cơ bản của môi trường tự nhiên Việt Nam đã tác động và ảnh
hưởng sâu sắc đến sự hình thành và phát triển nền văn hoá dân tộc:
- Việt Nam nằm ở vị trí địa lý là trung tâm đến của các trục đường giao lưu
quốc tế. Các nước đều phải đi qua Việt Nam hoặc lấy Việt Nam làm một
vị trí trung chuyển thuận lợi. Việt Nam trở thành nước có vị trí chiến lược
trên bản đồ thế giới.
 Tạo thuận lợi cho nước ta giao lưu văn hóa, thương mại, du lịch… Nhưng
nó cũng là nguyên nhân mà Việt Nam chịu nhiều thiên tai hàng năm.
- Nước ta có hệ sinh thái đa dạng phong phú, nghiêng về phía thực vật,
thực vật ưu trội hơn động vật. Chính vì thế ngành kinh tế trồng trọt, nông
nghiệp mạnh hơn chăn nuôi. Điều này ảnh hưởng sự phát triển của văn
hóa Việt Nam rất đậm biểu hiện :
+ Việt Nam có nền văn minh lúa nước. Từ đây nó quy định bữa ăn điển hình
của người Việt là cơm – rau – cá. Hai trong ba thức ăn đó là thực vật. Cây


lúa liên quan mật thiết đến văn hóa ẩm thực ( các sản phẩm làm từ gạo :
bánh gạo, rượu,…). Cây lúa, hạt gạo trở thành biểu tượng tinh thần trong tâm
thức người Việt.

+ Chúng ta có tín ngưỡng thờ cây. Có hai thứ cây quan trọng nhất người Việt
Nam biến thành cây thiêng liêng : cây lúa và cây cau. Xôi, bánh chưng, bánh
dầy để thờ cúng, cau dùng để thờ cúng, dẫn cưới. Tết nguyên đán người Việt
có tục hái lộc. Đặc biệt ngày mùng 5/5 được coi là ngày kết tinh tín ngưỡng
thờ cây của người Việt. Vào ngày này người dân ăn các thứ quả để ‘ giết sâu
bọ’, hái là mùng năm.
+ Cảm quan con người với thiên nhiên đặc biệt gắn bó với cây cối, hoa cỏ,
người Việt hay ví von người với hoa cỏ, lấy hoa cỏ làm thước đo vẻ đẹp con
người.
- Nước ta có hệ thống sông ngòi kênh rạch chằng chịt. Đặc điểm sông ngòi
để lại dấu ấn rất đậm lên diện mạo văn hóa Việt Nam. Biểu hiện :
+ Thành phần thứ ba trong cơ cấu bữa ăn điển hình của người Việt là cá, các
loại thủy hải sản khác.
+ Hình thức cộng cư của người Việt hoặc vị trí gần sông nhất theo kiểu ‘
nhất cận thị, thị cận giang’. Người Nam Bộ có nghề ‘thương hồ’- người buôn
bán trên sông nước, chợ nổi.
+ Cư dân Bắc và Trung thường xuyên chịu lũ lụt. Chính vì thế chưa bao giờ
người Việt coi nhẹ việc đắp đê chống lũ.
+ Tín ngưỡng thờ sông nước : thần sông, thần suối ‘đất có thổ công, sông có
hà bá’.
- Ngoài ra nước ta có địa hình đa dạng. Đặc điểm này cảm thụ về thiên
nhiên của người Việt khá phong phú. Trong các địa hình đó không thể
không nhắc đến hang động vùng rừng núi và cảng vịnh dưới biển. Hệ
thống hang động Việt Nam kỳ vĩ, phong phú trải dài từ Bắc vào Nam,
trong đó Phong Nha (Quảng Bình) đã trở thành Di sản thiên nhiên thế
giới. Người Việt đến với hang động không chỉ để thưởng thức mà con
thiêng liêng hoá chúng, biến thành nơi cầu nguyện, đáp ứng nhu cầu tâm
linh.
Câu 3 : Phân tích khái niệm : tiếp xúc văn hóa, giao lưu văn hóa, tiếp biến
văn hóa. Phân tích ý nghĩa của vấn đề.

Trả lời :
• Khái niệm
- Giao lưu văn hóa là sự tiếp xúc trao đổi qua lại những giá trị giữa các
cộng đồng người khác nhau. Qua đó nền văn hóa bổ sung thêm nhiều yếu
tố mới làm biến đổi mô thức ban đầu.
- Giao lưu và tiếp biến văn hoá là sự gặp gỡ, thâm nhập và học hỏi lẫn
nhau giữa các nền văn hóa. Trong quá trình này, các nền văn hoá bổ sung,
tiếp nhận và làm giàu cho nhau, dẫn đến sự biến đổi, phát triển và tiến bộ
văn hoá.


-


-

-


-

-


-

-

-


-

Giao lưu văn hoá thực chất là sự gặp gỡ, đối thoại giữa các nền văn hoá.
Quá trình này đòi hỏi mỗi nền văn hoá phải biết dựa trên cái nội sinh để
lựa chọn tiếp nhận cái ngoại sinh, từng bước bản địa hoá nó để làm giàu,
phát triển văn hoá dân tộc.
Quá trình tiếp xúc và giao lưu văn hoá thường diễn ra theo hai hình thức:
Hình thức tự nguyện: Thông qua các hoạt động như buôn bán, thăm hỏi,
du lịch, hôn nhân, quà tặng…mà văn hoá được trao đổi trên tinh thần tự
nguyện.
Hình thức cưỡng bức: thường gắn liền với các cuộc chiến tranh xâm lược
thôn tính đất đai và đồng hoá văn hoá của một quốc gia này đối với một
quốc gia khác. Tuy nhiên, trên thực tế, các hình thức này lắm khi không
thuần nhất. Có khi trong cái vẻ tự nguyện, có những yếu tố mang tính
cưỡng bức. Hoặc trong quá trình bị cưỡng bức văn hoá, vẫn có những yếu
tố tiếp nhận mang tính tự nguyện.
Ý nghĩa
Nền văn hoá đa dạng phong phú
Bước phát triển đáng kể trên tất cả các mặt, kinh tế, chính trị, khoa học,
giáo dục, công nghệ.
Trình độ học vấn, nhận thức về văn hoá và vai trò của văn hoá của tất cả
các cấp lãnh đạo cũng như người dân được nâng cao, ý thức về quốc gia,
lòng tự hào dân tộc được khơi dậy mạnh mẽ, người dân được thoả sức
sáng tạo và hưởng thụ những giá trị văn hoá vật chất, tinh thần ở mọi khía
cạnh.
Vị thế của đất nước được nâng cao, bình đẳng với tất cả các quốc gia trên
thế giới.
Văn hoá vừa là nền tảng, vừa là động lực phát triển xã hội.
Học hỏi những tinh hoa văn hoá thế giới dưới mọi hình thức, vừa kiên
quyết chống văn hoá độc hại. Đồng thời ra sức gìn gữ và phát huy các giá

trị văn hoá truyền thống của dân tộc.
Hạn chế
Tiếp thu khoa học công nghệ cũng đồng nghĩa với việc tiếp thu lối sống,
tác phong công nghiệp => nếp nghĩ, lối sống, đến cả không gian thôn dã
của một nền văn hoá nông nghiệp lúa nước đang bị mất dần.
Một hệ tư tưởng đạo đức không phù hợp với thuần phong mỹ tục, với các
giá trị đạo đức nhân văn truyền thống đang từng ngày thâm nhập vào đời
sống văn hoá của nhân dân ta.
Môt bộ phận dân chúng, nhất là thanh thiếu niên đang chạy theo lối sống
hưởng thụ, trong quan hệ ứng xử phai nhạt nghĩa tình, tất cả đều nhuốm
màu thương mại, tiếp thu văn hoá ngoại lai một cách thái quá, phủ nhận
các giá trị truyền thống.
Một số cấp lãnh đạo quản lý cũng còn chưa nhận thức được đầy đủ vai trò
của văn hoá đối với đời sống xã hội


-

Hoàn cảnh lịch sử => giao lưu tiếp biến VH thay đổi trên nhiều phương
diện
Các thế lực thù địch, phản động quốc tế không ngừng tìm cách chống
phá chúng ta về mọi mặt thông qua con đường giao lưu tiếp biến văn hoá,
nhằm từng bước chuyển hoá về tư tưởng ý thức hệ, đạo đức lối sống của
nhân dân ta.

Câu 4 : Tại sao nói: Văn hóa là chìa khóa của sự phát triển ?
- Khái niệm : Phát triển dùng để chỉ quá trình vận động của sự vật, hiện
tượng theo khuynh hướng đi lên; từ trình độ thấp đến trình độ cao, từ kém
hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
• Văn hóa là chìa khóa của sự phát triển vì :

- Khi nói đến văn hóa là nói tới con người, văn hoá chính là sự phát triển
những năng lực bản chất của con người nhằm hoàn thiện con người, hoàn
thiện xã hội. Văn hoá là động lực, mục tiêu, hệ chuẩn của sự phát triển và
nó luôn biến đổi không ngừng. Văn hóa luôn có hai mặt, thẩm thấu trong
tất cả hoạt động của con người, đó là hoạt động sản xuất ra các giá trị vật
chất và tinh thần nhằm giáo dục con người khát vọng hướng tới cái chân,
cái thiện, cái mỹ.
- Đặc trưng của sự phát triển là văn hoá ngày càng trở thành yếu tố nội
sinh, trở thành động lực và hệ chuẩn của sự phát triển. Vì lẽ đó sự phát
triển văn hoá không chỉ là sự cố gắng đẩy mạnh sự phát triển kinh tế mà
còn làm cho bản chất của nó lan toả và bao trùm tất cả sự phát triển trên
các lĩnh vực khác nhau, đặc biệt là tới một hệ giá trị phi vật chất.
- Văn hóa phải thật sự đứng ở vị trí trung tâm của sự phát triển. Lĩnh vực
nào của đời sống xã hội cũng cần sự trợ giúp của văn hóa như một nguồn
lực nội sinh trực tiếp cho sự phát triển.
- Văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội:
+ Vì xã hội là một thể thống nhất giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội cho nên
xã hội không chỉ duy nhất có nền tảng vật chất mà còn là nền tảng tinh thần.
+ Văn hóa là tổng thể các dạng hoạt động sáng tạo của con người tất cả giá
trị con người tạo ra tạo thành sức mạnh tinh thần quyết định mọi thành bại
của cách mạng.
+ Ở Việt Nam bí quyết của sức mạnh đó chính là ở các nhân tố văn hóa, ở
những giá trị tinh thần và nó đã được thể hiện rất rõ trong lịch sử hàng ngàn
năm dựng nước và giữ nước của dân tộc.
 Vì vậy yếu tố văn hóa và phát triển không thể tách khỏi sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam, không thể tách rời mục tiêu phấn đấu của toàn
Đảng, toàn dân ta vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ,
công bằng, văn minh.
- Văn hóa - Mục tiêu sự phát triển
+ Văn hóa hướng đích cuộc sống, hoàn thiện nhân cách con người bằng quá

trình phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực, điều chỉnh những hiện


tượng lệch chuẩn, phản tiến bộ, phản nhân văn bảo đảm cho sự phát triển
kinh tế - xã hội được hài hòa, cân đối và bền vững.
Ví dụ : Cá nhân : sống có ước mơ hoài bão
Tổ chức : xây dựng mục tiêu cho tổ chức mình để tổ chức luôn phát
triển và vững mạnh.
Đất nước : mục tiêu độc lập dân tộc – chủ nghĩa xã hội.
+ Mặt tiêu cực của kinh tế thị trường dễ làm nảy sinh và phát triển tâm lý
sùng bái hàng hóa, chạy theo đồng tiền, chạy theo những lợi ích vật chất
phục vụ thái độ vụ lợi, ích kỷ cá nhân, xem thường các giá trị nhân văn…
=> Chính vì thế lấy văn hóa làm thước đo chuẩn mực cho mọi lĩnh vực xã
hội.
- Văn hóa – động lực của sự phát triển
+ Văn hóa là động lực thúc đẩy của sự phát triển kinh tế, là nhân tố trực tiếp
hình thành và phát triển nền kinh tế tri thức trong tương lai.
+ Động lực của văn hóa không chỉ tác động trực tiếp trong kinh tế mà còn
tiềm tàng chi phối đời sống chính trị - góp phần giữ vững ổn định chính trị,
đánh thức tinh thần dân tộc và chủ nghĩa yêu nước.
+ Văn hóa còn là yếu tố quan trọng để phát triển dân chủ và tạo lập công
bằng xã hội.
+ Khát vọng động lập dân tộc.
+ Tinh thần tự lực tự cường dân tộc.
+ Lòng yêu nước nồng nàn.
Câu 5: Phân tích khái niệm văn hóa của Chủ tịch Hồ Chí Minh và
UNESCO.
Trả lời :
• Định nghĩa văn hóa của Chủ tịch Hồ Chí Minh :
- “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người đã sáng tạo

và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn
giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ sinh hoạt hằng ngày về ăn, ở,
mặc và các phương thức sử dụng khác. Toàn bộ những sáng tạo và phát
minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức
sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm
thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”.
- Định nghĩa văn hoá của Hồ Chí Minh vừa mang tính khoa học vừa mang
tính sáng tạo bởi định nghĩa của Người dựa trên các quan điểm:
+ Quan điểm hệ thống: Văn hoá là một hệ thống những phát minh do con
người sáng tạo ra trong quá trình lao động. Văn hoá được đặt ngang hàng với
chính trị, kinh tế, xã hội, tạo thành 4 nhân tố chủ yếu của đời sống xã hội.
+ Nó mang tính khoa học vì nội hàm văn hoá mà Người đưa ra không quá
hẹp, không quá rộng, nó phù hợp với mọi điều kiện đời sống xã hội trong
quá trình phát triển của con người. Bản chất văn hoá trong quan niệm của Hồ
Chí Minh là hướng đến chủ nghĩa nhân văn cao cả. Văn hoá được hiểu đồng


nghĩa với những giá trị Chân- Thiện- Mỹ. Đây cũng chính là những nét
tương đồng mà UNESCO mãi đến năm 1982 mới thống nhất được. Đó chính
là vì con người, vì sự phát triển toàn diện của con người.
+ Quan điểm phát triển: Văn hoá là tổng hoà các phương thức sinh hoạt vật
chất và tinh thần của con người, cùng với quá trình xây dựng và phát triển
văn hoá, con người ngày càng hoàn thiện hơn. Văn hoá theo Hồ Chí Minh là
nét riêng biệt chỉ có ở loài người, được hình thành từ “lẽ sinh tồn cũng như
mục đích của cuộc sống”. Trong quá trình lao động sản xuất vật chất và sản
xuất tinh thần, văn hoá là thể hiện trình độ Người trong mỗi một con người.
Do đó, phát triển văn hoá cũng chính là phát triển con người.
+ Quan điểm toàn diện: theo Hồ Chí Minh, văn hoá là một kiến trúc thượng
tầng mà trong đó bao gồm cả ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, tôn
giáo…( văn hoá phi vật thể) và các công trình kiến trúc được tạo ra do hoạt

động thực tiễn của con người( văn hoá vật thể). Điểm đặc biệt trong định
nghĩa văn hoá của Hồ Chí Minh đó chính là đã đưa tôn giáo cũng là một
thành tố cấu thành nên văn hoá.
• Định nghĩa văn hóa của UNESCO
- Văn hóa hôm nay có thể coi là tổng thể những nét riêng biệt tinh thần và
vật chất, trí tuệ và xúc cảm quyeeth định tính cách của một xã hội hay của
một nhóm người trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn
chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ
thống các giá trị, những tập tục và những tín ngưỡng : Văn hóa đem lại
cho con người khả năng suy xét về bản thân. Chính văn hóa làm cho
chúng ta trở thành những sinh vật đặc biệt nhân bản, có lý tính, có óc phê
phán và dấn thân một cách đạo lí. Chính nhờ văn hóa mà con người tự thể
hiện, tự ý thức được bản thân, tự biết mình là một phương án chưa hoàn
thành đặt ra để xem xét những thành tựu của bản thân, tìm tòi không biết
mệt những ý nghĩa mới mẻ và sáng tạo nên những công trình vượt trội lên
bản thân.
= > Văn hóa không phải là một lĩnh vực riêng biệt. Văn hóa là tổng thể
nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra.
Văn hóa là chìa khóa của sự phát triển.
Tóm lại, Văn hóa là sản phẩm của loài người, văn hóa được tạo ra và
phát triển trong quan hệ qua lại giữa con người và xã hội. Song, chính
văn hóa lại tham gia vào việc tạo nên con người, và duy trì sự bền vững
và trật tự xã hội. Văn hóa được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác
thông qua quá trình xã hội hóa. Văn hóa được tái tạo và phát triển trong
quá trình hành động và tương tác xã hội của con người. Văn hóa là trình
độ phát triển của con người và của xã hội được biểu hiện trong các kiểu
và hình thức tổ chức đời sống và hành động của con người cũng như
trong giá trị vật chất và tinh thần mà do con người tạo ra.
Câu 6 : Trình bày đặc điểm loại hình tiếng việt.
Trả lời :



Tiếng Việt thuộc ngôn ngữ đơn lập, tức là mỗi một tiếng (âm tiết) được phát âm
tách rời nhau và được thể hiện bằng một chữ viết. Đặc điểm này thể hiện rõ rệt

tất
cả
các
mặt
ngữ
âm,
từ
vựng,
ngữ
pháp.
- Đặc điểm ngữ âm: Trong tiếng Việt có một loại đơn vị đặc biệt gọi là "tiếng".
Về mặt ngữ âm, mỗi tiếng là một âm tiết. Hệ thống âm vị tiếng Việt phong phú
và có tính cân đối, tạo ra tiềm năng của ngữ âm tiếng Việt trong việc thể hiện
các đơn vị có nghĩa. Nhiều từ tượng hình, tượng thanh có giá trị gợi tả đặc sắc.
Khi tạo câu, tạo lời, người Việt rất chú ý đến sự hài hoà về ngữ âm, đến nhạc
điệu
của
câu
văn.
- Đặc điểm từ vựng: Mỗi tiếng, nói chung, là một yếu tố có nghĩa. Tiếng là đơn
vị cơ sở của hệ thống các đơn vị có nghĩa của tiếng Việt. Từ tiếng, người ta tạo
ra các đơn vị từ vựng khác để định danh sự vật, hiện tượng..., chủ yếu nhờ
phương
thức
ghép


phương
thức
láy.
Việc tạo ra các đơn vị từ vựng ở phương thức ghép luôn chịu sự chi phối của
quy luật kết hợp ngữ nghĩa, ví dụ: đất nước, máy bay, nhà lầu xe hơi, nhà tan
cửa nát... Hiện nay, đây là phương thức chủ yếu để sản sinh ra các đơn vị từ
vựng. Theo phương thức này, tiếng Việt triệt để sử dụng các yếu tố cấu tạo từ
thuần Việt hay vay mượn từ các ngôn ngữ khác để tạo ra các từ, ngữ mới, ví dụ:
tiếp thị, karaoke, thư điện tử (e-mail), thư thoại (voice mail), phiên bản
(version), xa lộ thông tin, siêu liên kết văn bản, truy cập ngẫu nhiên, v.v.
Việc tạo ra các đơn vị từ vựng ở phương thức láy thì quy luật phối hợp ngữ âm
chi phối chủ yếu việc tạo ra các đơn vị từ vựng, chẳng hạn: chôm chỉa, chỏng
chơ, đỏng đa đỏng đảnh, thơ thẩn, lúng lá lúng liếng, v.v.
Vốn từ vựng tối thiểu của tiếng Việt phần lớn là các từ đơn tiết (một âm tiết,
một tiếng). Sự linh hoạt trong sử dụng, việc tạo ra các từ ngữ mới một cách dễ
dàng đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển vốn từ, vừa phong phú về số
lượng, vừa đa dạng trong hoạt động. Cùng một sự vật, hiện tượng, một hoạt
động hay một đặc trưng, có thể có nhiều từ ngữ khác nhau biểu thị. Tiềm năng
của vốn từ ngữ tiếng Việt được phát huy cao độ trong các phong cách chức
năng ngôn ngữ, đặc biệt là trong phong cách ngôn ngữ nghệ thuật. Hiện nay, do
sự phát triển vượt bậc của khoa học-kĩ thuật, đặc biệt là công nghệ thông tin, thì
tiềm
năng
đó
còn
được
phát
huy
mạnh

mẽ
hơn.
- Đặc điểm ngữ pháp: Từ của tiếng Việt không biến đổi hình thái. Đặc điểm này
sẽ chi phối các đặc điểm ngữ pháp khác. Khi từ kết hợp từ thành các kết cấu
như ngữ, câu, tiếng Việt rất coi trọng phương thức trật tự từ và hư từ.
Việc sắp xếp các từ theo một trật tự nhất định là cách chủ yếu để biểu thị các
quan hệ cú pháp. Trong tiếng Việt khi nói "Anh ta lại đến" là khác với "Lại đến
anh ta". Khi các từ cùng loại kết hợp với nhau theo quan hệ chính phụ thì từ
đứng trước giữ vai trò chính, từ đứng sau giữ vai trò phụ. Nhờ trật tự kết hợp
của từ mà "củ cải" khác với "cải củ", "tình cảm" khác với "cảm tình". Trật tự
chủ ngữ đứng trước, vị ngữ đứng sau là trật tự phổ biến của kết cấu câu tiếng
Việt.
Phương thức hư từ cũng là phương thức ngữ pháp chủ yếu của tiếng Việt. Nhờ


hư từ mà tổ hợp "anh của em" khác với ttổ hợp "anh và em", "anh vì em". Hư từ
cùng với trật tự từ cho phép tiếng Việt tạo ra nhiều câu cùng có nội dung thông
báo cơ bản như nhau nhưng khác nhau về sắc thái biểu cảm. Ví dụ, so sánh các
câu
sau
đây:
Ông
ấy
không
hút
thuốc.
Thuốc,
ông
ấy
không

hút.
Thuốc,
ông
ấy
cũng
không
hút.
Ngoài trật tự từ và hư từ, tiếng Việt còn sử dụng phương thức ngữ điệu. Ngữ
điệu giữ vai trò trong việc biểu hiện quan hệ cú pháp của các yếu tố trong câu,
nhờ đó nhằm đưa ra nội dung muốn thông báo. Trên văn bản, ngữ điệu thường
được biểu hiện bằng dấu câu. Chúng ta thử so sánh 2 câu sau để thấy sự khác
nhau
trong
nội
dung
thông
báo:
Đêm
hôm
qua,
cầu
gãy.
Đêm
hôm,
qua
cầu
gãy.
Câu 7 : Vì sao Đảng ta cho rằng : “Văn hóa là mục tiêu, động lực thúc đầy
sự phát triển bền vững đất nước” ?
Trả lời :

Văn hóa là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử của dân tộc, nó làm nên sức
sống mãnh liệt, giúp cộng đồng dân tộc Việt Nam vượt qua sóng gió và thác
ghềnh để tồn tại và không ngừng phát triển. Vì vậy, chúng ta chủ trương làm
cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội để các giá trị văn
hóa trở thành nến tảng tinh thần bền vững của xã hội, trở thành động lực phát
triển kinh tế - xã hội.
- Khái niệm : Phát triển dùng để chỉ quá trình vận động của sự vật, hiện
tượng theo khuynh hướng đi lên; từ trình độ thấp đến trình độ cao, từ kém
hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
- Mục tiêu đất nước ta : độc lập dân tộc – chủ nghĩa xã hội.
- Nghị quyết 05 của Bộ chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VI
khẳng định: “Văn hoá là nhu cầu thiết yếu trong đời sống tinh thần của xã
hội, thể hiện trình độ phát triển chung của một đất nước, một thời đại, là
lĩnh vực sản xuất tinh thần, tạo ra những giá trị văn hoá, những công trình
nghệ thuật, được lưu truyền từ đời này sang đời khác, làm giàu đẹp thêm
cuộc sống con người”.
- Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Muốn tạo lập được CNXH phải biến
một đất nước nghèo nàn lạc hậu trở thành một đất nước có nền văn hóa
cao, khoa học phát triển; Văn hóa là động lực thúc đẩy của sự phát triển
kinh tế, là nhân tố trực tiếp hình thành và phát triển nền kinh tế tri thức
trong tương lai.
- Giáo dục-đào tạo là chìa khóa của sự phát triển, là vấn đề cốt lõi của cách
mạng con người. Hiện nay chúng ta tiến hành CNH, HĐH để tạo ra bước
nhảy vọt cho sự phát triển mà không bắt đầu từ giáo dục - đào tạo, không


-

-




dựa trên nền tảng khoa học- công nghệ thì sẽ không đem lại kết quả như
mong muốn, thậm chí còn tụt hậu.
Động lực của văn hóa không chỉ tác động trực tiếp trong kinh tế mà còn
tiềm tàng chi phối đời sống chính trị - góp phần giữ vững ổn định chính
trị, đánh thức tinh thần dân tộc và chủ nghĩa yêu nước.
Văn hóa còn là yếu tố quan trọng để phát triển dân chủ và tạo lập công
bằng xã hội.
Hiện nay chúng ta đang hướng tới một CNXH hiện thực với bản chất
đích thực là không có sự tồn tại của chế độ người bóc lột người, không có
xiềng xích nô lệ; con người được giải phóng và phát triển toàn diện về thể
chất, trí tuệ và tâm hồn.
Vì vậy các chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và
Nhà nước ta phải trên cơ sở lấy văn hóa làm thước đo, làm chuẩn mực,
làm sao để mọi hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị
trường được đánh giá theo kỳ vọng đạo đức cũng như lý tưởng của toàn
thể xã hội và nền văn hóa dân tộc.

Câu 8 : Phân biệt văn hóa và văn minh.
Trả lời :
• Khái niệm
- Văn hóa là sản phẩm do con người sáng tạo có thuở bình minh của xã hội
loài người.
- Văn minh được dùng để chỉ trình độ phát triển về vật chất và tinh thần
của nhân loại đến một thời kỳ lịch sử nào đó.
• Phân biệt
- Giống : đều là sự sáng tạo con người gắn liền với cuộc sống con người.
- Khác :
Văn hóa

Văn minh
- Chứa cả các giá trị vật chất lẫn
- Thiên về giá trị vật chất – kỹ
tinh thần
thuật
- Có bề dày lịch sử
- Chỉ trình độ phát triển ( lát cắt
lịch sử)
- Có tính dân tộc
- Có tính quốc tế
- Gắn bó nhiều hơn với phương
- Gắn bó nhiều hơn với phương
Đông nông nghiệp
Tây đô thị
Trong văn hóa có văn minh
+ Văn hóa sông Hồng có văn minh lúa nước
+ Văn hóa thang máy có văn minh nhường chỗ,…
Câu 9: Nêu những đặc điểm cơ bản của tín ngưỡng thờ Thành Hoàng.
Trả lời:
- Thành Hoàng là vị thần cai quản, che chở, định đoạt họa phúc cho một
cộng đồng người sống trong một đơn vị hành chính.
-


- Biểu hiện rõ nhất, tiêu biểu nhất là tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng.
Thành hoàng làng chỉ chung một vị thần được thờ trong một làng xã Việt
Nam, mà theo quan niệm của người dân, thần có thể bao quát, chứng kiến
toàn bộ đời sống của dân làng và quyết định hoạ phúc của một làng.
- Những nhân vật được cộng đồng làng suy tôn là Thành hoàng làng bao
gồm: anh hùng dân tộc (trong thần thoại, truyền thuyết, lịch sử), ví dụ: Đổng

Thiên Vương, Chử Đồng Tử, Liễu Hạnh công chúa, Lý Thường Kiệt, Trần
Hưng Đạo…; những người khai hoang lập ấp, những người có công với
làng, với đất nước, với triều đìnhphong kiến, những người được tôn vinh là
tổ nghề; hoặc có khi là những người làm nghề hèn mọn, vô danh những chết
vào giờ linh, giờ thiêng thì cũng được suy tôn là Thành hoàng làng. Thành
hoàng làng thậm chí còn bao gồm cả những thần có nguồn gốc phức tạp như:
tà thần, yêu thần, dân thần….
- Thành hoàng làng thường được thờ cúng ở đình làng - trung tâm hành
chính, trung tâm văn hoá, trung tâm tín ngưỡng của cả làng, hoặc thờ ở đình
miếu. Hàng năm, ngày giỗ Thành hoàng làng là ngày hội đông vui nhất của
làng, của xã. Trong những ngày hội làng, ngoài việc làm cỗ, ăn uống còn
diễn ra các nghi thức khác như: tế lễ, rước kiệu hay các trò vui dân gian…
Bàn thờ Thành hoàng làng bao giờ cũng được đặt trang trọng, linh thiêng,
trên bệ thờ thường có lư hương, đèn, lọ hoa và trên vách có một chữ Thần
bằng chữ Hán. Có nơi thờ áo mũ của thành hoàng. Hai bên có Tả Ban, Hữu
Ban...
- Thành Hoàng là biểu hiện của lịch sử, phong tục đạo đức, pháp luật cũng
hy vọng của cả làng. Thờ Thành hoàng làng, cũng chính là sự thờ phụng luật
lệ làng xã, lề thói gia phong của làng, thờ Thành hoàng làng để bảo vệ và
phát triển cộng đồng làng, để xóm làng phát triển thành một cộng đồng có tổ
chức chặt chẽ. Dân làng đối với thành hoàng cũng kính cẩn như con cháu đối
với tổ tiên vậy.
Câu 10: Vì sao nói “Văn hóa phát huy nguồn lực nội sinh của đất nước”?
Trả lời:
- Nguồn lực là: con người, tự nhiên, vốn khoa học công nghệ, chính sách.
- 2 loại:
+ Nội lực: kinh tế tự cường tự chủ
+ Ngoại lực: phát triển lệ thuộc
- Văn hóa phát huy nội sinh là phát huy con người.
• Việt Nam là quốc gia có nhiều lợi thế, nguồn lực tiềm năng về văn hóa để

đẩy mạnh, phát huy trong điều kiện hiện nay:
- Thứ nhất, nói tới nguồn lực văn hóa phải nói đến nguồn lực con người vì:
+ Con người là nhân tố quan trọng, là chủ thể sáng tạo ra nền văn hóa. Vẻ
đẹp, sức mạnh, trí tuệ của con người Việt Nam là những phẩm chất, đức tính
quý báu cần được phát huy.


+ Trong chiến tranh cách mạng, người Việt Nam từng làm nên những chiến
công vĩ đại, trở thành biểu tượng của hòa bình, lương tâm của thời đại, được
bạn bè quốc tế cảm phục, mến mộ, tự hào.
+ Và trong công cuộc xây dựng đất nước hiện nay, những phẩm chất tốt đẹp
về lòng yêu nước, bản tính cần cù, chịu khó, sự thông minh, hiếu học, nỗ lực
sáng tạo không ngừng cùng với tinh thần nhân ái, khoan dung văn hóa,…
vẫn đang được phát huy, trở thành động lực to lớn để thúc đẩy kinh tế - xã
hội phát triển.
+ Bên cạnh đó, với số dân hơn 90 triệu, chủ yếu ở độ tuổi “lao động vàng”,
lực lượng lao động trẻ, năng động, có tay nghề, chịu khó học hỏi, tiếp thu
kinh nghiệm của thế giới,… là những tiềm năng, thế mạnh về nguồn lao
động dồi dào, nhân lực rẻ, thu hút nguồn đầu tư của các doanh nghiệp nước
ngoài.
+ Mặt khác, sự gia tăng, lớn mạnh của đội ngũ những nhà khoa học trẻ,
những nhà nghiên cứu có tài đang dần thúc đẩy sự hình thành, phát triển nền
kinh tế tri thức.
+ Nhưng trên hết, những vẻ đẹp về lòng nhân ái, khoan dung, yêu chuộng
hòa bình; cách ứng xử lịch thiệp, trọng tình; vẻ đẹp nhã nhặn, xinh xắn,
duyên dáng của những cô gái Việt với những tà áo dài thướt tha; sự đồng
lòng, chung tay giúp đỡ các quốc gia khi gặp hoạn nạn, khó khăn là những
thế mạnh tạo thành nguồn lực “sức mạnh mềm” để thu hút, chinh phục được
tình cảm và sự giúp đỡ, quý mến của các nước anh em.
- Thứ hai, là đất nước được thiên nhiên ưu đãi, Việt Nam có nhiều phong

cảnh và danh thắng được Tổ chức Giáo dục, Văn hóa và Khoa học của
Liên hợp quốc (UNESCO) công nhận là di sản thiên nhiên hàng đầu của
nhân loại như vịnh Hạ Long, động Phong Nha - Kẻ Bàng, bãi đá cổ Sapa;

- Thứ ba, Đảng và Nhà nước ta trong nhiều năm qua đã có nhiều chính
sách đầu tư, phát triển cho văn hóa. Các ngành thông tin truyền thông,
báo chí xuất bản không ngừng phát triển; hoạt động sáng tác văn học,
nghệ thuật được quan tâm, chú trọng; ngành điện ảnh, truyền hình không
ngừng được đầu tư; đội ngũ những người làm công tác văn học được
quan tâm, đào tạo, bồi dưỡng.
Với những nỗ lực, cố gắng cùng những cơ chế, chính sách phát triển, quản lý
văn hóa hợp lý, trong những năm qua, nền văn hóa Việt Nam đã đạt được
nhiều thành tựu đáng tự hào. Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ chín,
khóa XI khẳng định: Tư duy lý luận về văn hóa có bước phát triển; nhận
thức về văn hóa của các cấp, các ngành và toàn dân được nâng lên. Đời sống
văn hóa của nhân dân ngày càng phong phú, nhiều giá trị văn hóa truyền
thống của dân tộc được phát huy, nhiều chuẩn mực văn hóa, đạo đức mới
được hình thành. Sản phẩm văn hóa, văn học nghệ thuật ngày càng phong
phú, đa dạng. Nhiều phong trào, hoạt động văn hóa đạt được những kết quả
cụ thể, thiết thực. Xã hội hóa hoạt động văn hóa ngày càng được mở rộng,


góp phần đáng kể vào việc xây dựng các thiết chế văn hóa. Nhiều di sản văn
hóa vật thể và phi vật thể được bảo tồn, tôn tạo; hoạt động tín ngưỡng, tôn
giáo và sinh hoạt văn hóa tâm linh của nhân dân được quan tâm.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu to lớn mà văn hóa đã đạt được, vẫn
còn đó những vấn đề bất cập, yếu kém, nảy sinh, gây nhức nhối dư luận.
Đánh giá về những hạn chế trong công tác văn hóa, Đảng cũng thẳng thắng
chỉ ra: So với những thành tựu trên lĩnh vực chính trị, kinh tế, quốc phòng,
an ninh, đối ngoại, thành tựu trong lĩnh vực văn hóa chưa tương xứng; chưa

đủ để tác động có hiệu quả xây dựng con người và môi trường văn hóa lành
mạnh. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong
Đảng và trong xã hội có chiều hướng gia tăng. Đời sống văn hóa tinh thần ở
nhiều nơi còn nghèo nàn, đơn điệu; khoảng cách hưởng thụ văn hóa giữa
miền núi, vùng sâu, vùng xa với đô thị và trong các tầng lớp nhân dân chậm
được rút ngắn. Còn ít những tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị cao về
tư tưởng và nghệ thuật. Hoạt động lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật
chưa theo kịp thực tiễn sáng tác. Cơ chế, chính sách về kinh tế trong văn
hóa, văn hóa trong kinh tế, về huy động, quản lý các nguồn lực cho văn hóa
chưa cụ thể, rõ ràng. Hệ thống thiết chế văn hóa và cơ sở vật chất, kỹ thuật
cho hoạt động văn hóa còn thiếu và yếu, có nơi xuống cấp, thiếu đồng bộ,
hiệu quả sử dụng thấp. Tình trạng nhập khẩu, quảng bá, tiếp thu dễ dãi, thiếu
chọn lọc sản phẩm văn hóa nước ngoài đã tác động tiêu cực đến đời sống
văn hóa của một bộ phận nhân dân, nhất là lớp trẻ...
Nguyên nhân của những bất cập, hạn chế, yếu kém của công tác văn hóa
có nhiều, nhưng chủ yếu là do cấp ủy và chính quyền chưa quan tâm đầy đủ
đến lĩnh vực này; công tác quản lý nhà nước về văn hóa còn chậm đổi mới;
đầu tư cho văn hóa chưa tương xứng và dàn trải; chưa quan tâm đúng mức
đến công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý văn hóa
các cấp,... Điều quan trọng hiện nay là các cấp, các ngành, chính quyền và
nhân dân phải nhận thức sâu sắc được những mặt đạt được và những tồn tại,
yếu kém của văn hóa để có thái độ ứng xử hợp lý, khoa học, phát huy tối đa
nguồn lực của văn hóa để góp phần xây dựng đất nước.
Câu 11: Nêu những đặc điểm cơ bản trong lễ hội của người Việt.
Trả lời:
- Lễ hội là một hình thức sinh hoạt văn hoá tất yếu nảy sinh trong xã hội
loài người trên cơ sở nhằm thỏa mãn nhu cầu tinh thần của con người khi
sống thành cộng đồng.
- Lễ hội là hình thức sinh hoạt văn hóa cộng đồng, diễn ra trên một địa bàn
dân cư, trong thời gian và không gian xác định, nhằm nhắc lại một sự

kiện, nhân vật lịch sử hay huyền thoại, đồng thời là dịp để biểu hiện cách
ứng xửa văn hóa của con người với thiên nhiên, với thánh thần và với con
người trong xã hội.
• Đặc điểm


- Lễ hội là sinh hoạt của một cộng đồng dân cư nhất định. Nếu lễ tết diễn ra
trong phạm vi không gian gia đình thì lễ hội lại diễn ra ngoài không gian
cộng đồng làng, vùng miền, Tổ quốc. Lễ hội mỗi làng quê khác nhau thì
ngày hội làng cũng khác nhau. Mặt khác, lễ hội mang tính tộc người rất rõ,
các dân tộc khác nhau sẽ có những lễ hội khác nhau…
- Lễ hội gồm hai bộ phận: lễ và hội. Đã thành một ước lệ, người ta chia lễ
hội thành hai bộ phận, lễ và hội:
+ Phần lễ là các nghi thức thờ cúng được thực thi trong lễ hội, thường là có
sự giống nhau trong các lễ hội, sau này được thể chế húa thành điển lệ của
các triều đình phong kiến. Chẳng hạn nghi thức quy định khi nào dâng rượu,
khi nào dâng trà, dâng oản quả, dâng thức ăn mặn v.v…
+ Phần hội là phần khác nhau giữa các lễ hội. Thành tố đáng lưu ý trong
phần hội là trò diễn.Trò diễn là hoạt động mang tính nghi lễ, diễn lại toàn bộ
hay một phần hoạt động của cuộc đời nhân vật được phụng thờ. Trình tự của
một trò diễn bao giờ cũng đi từ nơi thờ vọng đến nơi gắn bó với một sự kiện
nào đó trong cuộc đời vị thánh. Trong lễ hội thờ Thành hoàng làng, trò diễn
thường theo trình tự: Điểm bắt đầu của đám rước lúc đi là đình làng, điểm
kết thúc của đám rước là nghè (miếu). Các trò diễn trong lễ hội là các lớp
văn hoá tín ngưỡng của các thời kỳ lịch sử khác nhau lắng đọng lại, phản ánh
những sinh hoạt của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước gắn kết với nhân vật
được phụng thờ. Cùng với các trò diễn là trò chơi. Các trò chơi trong lễ hội
thường không mang tính nghi lễ. Nhưng cũng có những trò chơi trước kia
vốn là các trò diễn mang tính nghi lễ, nhưng nay đã mờ nhạt, như trò chọi gà,
trò đấu vật.

 Phần hội gồm các trò vui chơi giải trí hết sức phong phú.
- Xét về nguồn gốc, phần lớn các trò chơi này đều xuất phát từ những ước
vọng thiêng liêng của con người nông nghiệp.
- Xuất phát từ ước vọng cầu mưa là các trò tạo ra tiếng nổ mô phỏng tiếng
sấm vào các hội mùa xuân để nhắc trời làm mưa như thi đốt pháo, đi
thuyền đốt pháo, ném pháo, đánh pháo đất...
- Xuất phát từ ước vọng cầu cạn là các trò thi thả diều vào các hội mùa hè
mong gió lên, nắng lên để nước lụt mau rút xuống.
Xuất phát từ ước vọng phồn thực là các trò cướp cầu thả lỗ, đánh đáo,
ném còn, nhún đu, bắt chạch trong chum...
- Xuất phát từ ước vọng luyện rèn sự nhanh nhẹn, tháo vát, khéo léo là các
trò thi thổi cơm, thi luộc gà, thi dọn cỗ, thi bắt lợn, thi bắt vịt, thi dệt vải,
thi leo cầu ùm, thi bịt mắt bắt dê, đua cà kheo...
Xuất phát từ ước vọng luyện rèn sức khoẻ và khả năng chiến đấu là các
trò đấu vật, kéo co, chọi gà, chọi trâu, chọi cá, chọi dế ...
• Ưu điểm lễ hội
- Lễ hội còn mang truyền thống đặc trưng của mỗi dân tộc, vùng miền,
phản ánh những nét đẹp văn hoá truyền thống của mỗi dân tộc, tôn giáo,
tính nhân văn mà mỗi dân tộc, tôn giáo, vùng miền vốn có.


-

-


-

-


-

-

-

-

Lễ hội còn mang tính giáo dục tư tưởng, đạo đức lối sống, giáo dục lòng
yêu nước, yêu quê hương, tự hào dân tộc, xây dựng tinh thần đoàn kết
trong cộng đồng.
Đến với lễ hội mọi người còn được tham dự các trò chơi giải trí, các
chương trình liên hoan văn nghệ, giải toả tư tưởng và tâm linh, nhắc nhở
mọi người phải sống sao có tâm, có đức, cầu mong cho đất nước được
bình an, bản thân và gia đình được may mắn và hạnh phúc trong cuộc
sống, nhắc nhở mọi người sống phải có ý thức văn hoá, có trách nhiệm
với địa phương và đất nước, đóng góp công sức xây dựng, trùng tu, tôn
tạo các di tích lịch sử, nơi thờ tự, công đức xây dựng các công trình văn
hoá, xã hội, đẩy mạnh phát triển kinh tế của địa phương, giúp đỡ người
nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn và bất hạnh.
Vì vậy lễ hội có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc giáo dục chính trị,
tư tưởng, xây dựng đạo đức lối sống của mỗi người.
Hạn chế lễ hội
Lễ hội tổ chức quá nhiều, tràn lan, thiếu kiểm soát, lãng phí tiền của,
ngày giờ lao động. Hiện nay cả nước có gần 8.000 lễ hội/ năm, trung bình
có 21 lễ hội/ ngày.
Ví dụ: hiện tượng đốt hương khói, vàng mã, sắm lễ, tiền mua thẻ, mua
dấu ấn, tiền phúng viếng, tiền giọt dầu vứt la liệt ở tượng phật, giếng, sân
của di tích gây lãng phí, tốn kém.
Một số lễ hội tổ chức quy mô quá lớn, thời gian kéo dài, mạnh địa

phương nào địa phương đó tổ chức, thiếu sự điều hành và quản lý của cấp
uỷ và chính quyền địa phương.
Các hiện tượng trong một số lễ hội dân gian như "chém lợn", "đâm trâu",
"treo đầu trâu", "cướp lộc" v.v... gây nhiều tranh luận, bức xúc trong dư
luận xã hội. Những hình ảnh bất cập và phản cảm trong một số lễ hội
trong thời gian qua đã làm méo mó, xấu đi nét văn hoá truyền thống dân
tộc.
Công tác quản lý Nhà nước đối với các lễ hội chưa được quan tâm đúng
mức, chưa tập trung tuyên truyền nâng cao nhận thức và hướng dẫn cụ
thể để người dân nâng cao ý thức thực hiện nếp sống văn minh khi tham
gia lễ hội, khắc phục những hiện tượng không lành mạnh trong lễ hội.
Việc tổ chức các hoạt động dịch vụ phục vụ các lễ hội còn yếu kém, hàng
quán trong lễ hội bán tràn lan, giá cả tuỳ tiện buộc người đi lễ hội phải
mua.
Ô nhiễm môi trường.
Hiện tượng móc túi, chèo kéo khách.

Câu 12: Trình bày chức năng giáo dục của văn hóa.
Trả lời:


Văn hóa gồm các chức năng
Chức năng nhận thức
Chức năng thẩm mỹ
Chức năng dự báo
Chức năng giải trí
Chức năng giáo dục là chức năng bao trùm.
Chức năng giáo dục của văn hóa
Bản chất của văn hóa: là hoạt động nhằm sản xuất, sáng tạo ra các sản
phẩm văn hóa hữu thể và vô thể, văn hóa là một tổng thể rất nhiều hoạt

động, các hoạt động ấy hướng đến cái chân, thiện, mỹ.
- Mục tiêu cao cả nhất của hoạt động văn hóa là vì con người, vì sự phát
triển và hoàn thiện con người.
- Chức năng bao trùm của văn hóa là chức năng giáo dục
+ Chức năng tập trung của văn hóa là bồi dưỡng con người, hướng lí tưởng,
đạo đức và hành vi của con người vào “ điều hay lẽ phải, điều khôn, lẽ thiệt”,
theo những khuôn mẫu, chuẩn mực mà xã hội quy định.
+ Văn hóa bao giờ cũng hình thành trong một quá trình và được tích lũy qua
nhiều thế hệ, mang tính lịch sử và tạo cho văn hóa một bề dày, một chiều
sâu. Nó được duy trì bằng truyền thống văn hóa ( tích lũy và truyền đạt lại ).
Nó là những giá trị tương đối ổn định thể hiện dưới những khuôn mẫu xã hội
được tích lũy và tái tạo trong cộng đồng người cố định dưới dạng ngôn ngữ,
phong tục, tập quán,…
+ Văn hóa thực hiện chức năng giáo dục không chỉ bằng giá trị ổn định mà
còn bằng những giá trị đang hình thành. Nó đóng vái trò quyết định trong
việc hình thành nhân cách ở con người, trồng người, dưỡng dục nhân cách.
+ Chức năng giáo dục của văn hóa đảm bảo tính kế tục của lịch sử.
+ Bằng chức năng giáo dục, văn hóa tạo cho lịch sử nhân loại và lịch sử của
mỗi dân tộc một sự phát triển liên tục. Chức năng tổ chức xã hội và sự phát
triển của chức năng này là văn hóa có chức năng điều chỉnh xã hội, định
hướng các chuẩn mực, cách ứng xử của con người.
- Chức năng giáo dục của văn hóa còn được thể hiện qua các chức năng
khác.
+ Chức năng nhận thức: chức năng tồn tại trong mọi hoạt động của văn hóa,
thiếu chức năng này không thể nói tới chức năng khác.
+ Chức năng thẩm mỹ là chức năng rất quan trọng của văn hóa, nhưng là
chức năng hay bị bỏ quên, bị coi nhẹ, khi xem xét, điều hành, quản lý văn
hóa.
+ Chức năng giải trí: Chức năng này không tách rời chức năng giáo dục và
không đi ra ngoài mục tiêu hoàn thiện con người.



-

Câu 13: Phân biệt khái niệm văn hóa và văn hóa tinh thần?
Trả lời:
• Văn hóa: hiểu theo 2 nghĩa:


-


-

Theo nghĩa hẹp, văn hoá được giới hạn theo chiều sâu hoặc theo chiều
rộng, theo không gian hoặc theo thời gian… Giới hạn theo chiều sâu, văn
hóa được hiểu là những giá trị tinh hoa của nó (nếp sống văn hoá, văn hoá
nghệ thuật…). Giới hạn theo chiều rộng, văn hoá được dùng để chỉ những
giá trị trong từng lĩnh vực (văn hoá giao tiếp, văn hoá kinh doanh…).
Giới hạn theo không gian, văn hoá được dùng để chỉ những giá trị đặc thù
của từng vùng (văn hoá Tây Nguyên, văn hoá Nam Bộ…). Giới hạn theo
thời gian, văn hoá được dùng để chỉ những giá trị trong từng giai đoạn
(văn hoá Hoà Bình, văn hoá Đông Sơn…)…
Theo nghĩa rộng, văn hoá thường được xem là bao gồm tất cả những gì
do con người sáng tạo ra.
Văn hóa tinh thần
Văn hóa tinh thần: tất cả hoạt động tinh thần đem lại giá trị phát triển con
người, xã hội. Văn hoá tinh thần bao gồm toàn bộ những sản phẩm do
hoạt động sản xuất tinh thần của con người tạo ra: tư tưởng, tín ngưỡng tôn giáo, nghệ thuật, lễ hội, phong tục, đạo đức, ngôn ngữ, văn chương…




×