Tải bản đầy đủ (.pdf) (40 trang)

tóm tắt Quan niệm của John Stuart Mill về bầu cử trong tác phẩm “Chính thể đại diện” và ý nghĩa của nó đối với Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (938.98 KB, 40 trang )

Header Page 1 of 126.

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

ĐINH THỊ QUỲNH ANH

QUAN NIỆM VỀ BẦU CỬ CỦA JOHN STUART MILL
TRONG TÁC PHẨM “CHÍNH THỂ ĐẠI DIỆN” VÀ
Ý NGHĨA CỦA NÓ ĐỐI VỚI VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: TRIẾT HỌC

Hà Nội - 2016

Footer Page 1 of 126.


Header Page 2 of 126.

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

ĐINH THỊ QUỲNH ANH

QUAN NIỆM VỀ BẦU CỬ CỦA JOHN STUART MILL
TRONG TÁC PHẨM “CHÍNH THỂ ĐẠI DIỆN” VÀ
Ý NGHĨA CỦA NÓ ĐỐI VỚI VIỆT NAM HIỆN NAY



Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành triết học
Mã số: 60 22 03 01

Người hướng dẫn khoa học: TS. Hoàng Thị Hạnh

Hà Nội - 2016

Footer Page 2 of 126.


Header Page 3 of 126.

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
NỘI DUNG ................................................................................................................9
Chƣơng 1: NHỮNG ĐIỀU KIỆN VÀ TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH QUAN NIỆM
CỦA J.S. MILL VỀ BẦU CỬ TRONG TÁC PHẨM CHÍNH THỂ ĐẠI DIỆN .9
1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội ...............................................................................9
1.1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội nước Anh cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX .....9
1.1.2. Bối cảnh văn hóa - chính trị nước Anh cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX .....12
1.2. Tiền đề tƣ tƣởng hình thành quan niệm của J.S. Mill về bầu cử .............15
1.2.1. Thuyết công lợi của Jeremy Bentham ......................................................15
1.2.2. Tư tưởng dân chủ của Alexis de Tocqueville ...........................................17
1.2.3. Luận thuyết về bầu cử của Thomas Hare .................................................20
1.3. Khái quát về J.S. Mill và “Chính thể đại diện” .........................................23
1.3.1. Vài nét về cuộc đời và sự nghiệp của J.S. Mill ........................................23
1.3.2. Về “Chính thể đại diện” ...........................................................................28
Chƣơng 2: NỘI DUNG CƠ BẢN QUAN NIỆM CỦA J.S. MILL VỀ BẦU CỬ
TRONG TÁC PHẨM CHÍNH THỂ ĐẠI DIỆN VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ ĐỐI VỚI

VIỆT NAM HIỆN NAY............................................................................................33
2.1. Hai nguyên tắc nền tảng cho quan niệm về bầu cử của J.S. Mill .............33
2.1.1. Nguyên tắc công lợi ..................................................................................33
2.1.2. Nguyên tắc về quyền tự do .......................................................................35
2.2. Quan niệm cơ bản về bầu cử của J.S. Mill trong “Chính thể đại diện” ..37
2.2.1. Mối quan hệ giữa chính thể đại diện và bầu cử .......................................37
2.2.2. Quan niệm về mở rộng quyền bầu cử.......................................................41
2.2.3. Quan niệm về quyền bầu cử cho phụ nữ ..................................................57
2.2.4. Quan niệm về quy trình bầu cử ................................................................62
2.2.5. Quan niệm về cách thức bỏ phiếu và nhiệm kỳ của Nghị viện .................66
2.3. Những giá trị và hạn chế chủ yếu trong quan niệm về bầu cử của J.S.
Mill trong “Chính thể đại diện” .........................................................................68

Footer Page 3 of 126.


Header Page 4 of 126.

2.3.1. Những giá trị chủ yếu trong quan niệm về bầu cử của J.S.Mill...............68
2.3.2. Những hạn chế chủ yếu trong quan niệm về bầu cử của J.S.Mill ............73
2.4. Ý nghĩa quan niệm về bầu cử của J.S. Mill trong “Chính thể đại diện”
đối với Việt Nam hiện nay ...................................................................................76
2.4.1. Ý nghĩa lý luận ..........................................................................................76
2.4.2. Ý nghĩa thực tiễn.......................................................................................80
KẾT LUẬN ..............................................................................................................87
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................90

Footer Page 4 of 126.



Header Page 5 of 126.

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong lịch sử tư tưởng chính trị - pháp lý nhân loại nói chung và lịch sử tư
tưởng về nhà nước nói riêng, vấn đề tổ chức quyền lực nhà nước được coi là vấn đề
quan trọng và phức tạp nhất. Theo V.I. Lê Nin: “đó là vấn đề rất cơ bản, rất mấu
chốt trong toàn bộ chính trị, đến nỗi không những thời đại giông tố và cách mạng
như thời đại chúng ta, mà cả trong các thời đại yên tĩnh nhất”1.
Lịch sử đã chứng minh sự tồn tại của rất nhiều học thuyết, lý thuyết hay quan
niệm khác nhau về vấn đề nhà nước và tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước phải
đứng trên nhiều góc nhìn, phản ánh nhiều mặt của vấn đề. Các lý thuyết do con
người sáng tạo nên và để phục vụ cho lợi ích con người. Những giá trị thực tiễn và
lý luận mà các mô hình nhà nước dân chủ trên thế giới đem lại là một nguồn tài liệu
quý giá cho Việt Nam nghiên cứu và học tập trong sự nghiệp xây dựng nhà nước
pháp quyền và kiện toàn hệ thống chính trị.
Quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân là một vấn đề cơ bản nhất của Hiến
pháp ở bất kỳ quốc gia nào. Quyền lực thuộc về nhân dân phải có các hình thức và
biện pháp thực hiện nhất định. Hình thức dân chủ đại diện với việc nhân dân bỏ
phiếu bầu ra những người đại diện, những người này thay mặt nhân dân, được nhân
dân ủy nhiệm giải quyết các công việc của nhà nước là hình thức thực hiện quyền
lực nhà nước thuộc về nhân dân.
Phương pháp bầu cử trở thành một trong những hình thức thực hiện quyền tự
do dân chủ, một trong những biểu hiện quyền con người trong lĩnh vực chính trị.
Về tầm quan trọng của bầu cử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết:“Tổng tuyển
cử là một dịp cho toàn thể quốc dân tự do lựa chọn những người có tài, có đức, để
gánh vác công việc nước nhà. Trong cuộc tuyển cử, hễ là người muốn lo việc nước
thì đều có quyền ra ứng cử, hễ là công dân thì đều có quyền đi bầu cử. Không phân

1


V.I. Lê Nin, Toàn tập, Tập 33, Nxb Tiến bộ, M, .1976, tr.5.

1
Footer Page 5 of 126.


Header Page 6 of 126.

chia trai gái, giàu nghèo, tôn giáo, nòi giống, giai cấp, đảng phái, hễ là công dân
Việt Nam đều có hai quyền đó” (Tờ Cứu quốc phỏng vấn ứng cử viên Đại biểu
Quốc hội khoá đầu tiên, VietNamNet, 01/01/2006)
Phương Tây – là khởi nguồn của dòng tư tưởng xã hội dân chủ, nơi mà tất cả
các công dân có quyền được tham gia tối đa một cách thực sự vào các quyết định
chung cho sự phát triển, tồn vong của quốc gia. Dòng tư tưởng này đã thấm đẫm
vào thực tiễn đời sống chính trị, mang lại nhiều thành tựu quan trọng cho quá trình
hình thành, phát triển và kiện toàn bộ máy nhà nước tại nhiều quốc gia trên thế giới.
Trong bối cảnh hội nhập và tiếp biến văn hóa toàn cầu hiện nay, chúng ta cần
nghiêm túc nhìn nhận, đánh giá và tiếp thu có chọn lọc những tư tưởng có giá trị
của phương Tây. Nghiên cứu triết học một cách nghiêm túc, chúng ta luôn ý thức
được tầm quan trọng của việc nghiên cứu những tư tưởng triết học vĩ đại trong lịch
sử tư tưởng nhân loại để lấy đó như bài học, kinh nghiệm quý báu cho sự phát triển
của Việt Nam nói chung và công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam hiện nay nói riêng.
“Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân
mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ
trí thức”. Đó là tuyên bố trịnh trọng trong Điều 2 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam năm 2013. Điều 6 Hiến pháp 2013 tiếp tục khẳng định “Nhân

dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện
thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà
nước”. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 4 năm
2006) đã khẳng định nhiệm vụ trọng tâm của nước ta trong thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước là “Phát huy dân chủ và sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” [47-tr.40]. Một trong những phương
hướng quan trọng để thực hiện nhiệm vụ chiến lược này là “Tiếp tục đổi mới tổ
chức và hoạt động của Quốc hội. Hoàn thiện cơ chế bầu cử nhằm nâng cao chất
2
Footer Page 6 of 126.


Header Page 7 of 126.

lượng đại biểu Quốc hội…phát huy tốt vai trò của đại biểu và đoàn đại biểu Quốc
hội”[47, tr.126]. Như vậy, có thể thấy được định hướng của Đảng về đổi mới chế độ
bầu cử được thể hiện khá rõ ràng. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần XII đã
chỉ rõ cần phải “Tổ chức thành công cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội
đồng nhân dân các cấp, bảo đảm cơ cấu và tiêu chuẩn, nâng cao chất lượng đại biểu,
tăng số lượng đại biểu hoạt động chuyên trách một cách hợp lý” và “Đổi mới bầu
cử trong Đảng, phương thức tuyển chọn, bổ nhiệm cán bộ,... để lựa chọn những
người có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt, năng động, dám nghĩ,
dám làm, dám chịu trách nhiệm giữ các vị trí lãnh đạo, đặc biệt là người đứng đầu”.
Như vậy, xét về cơ sở lý luận cũng như cơ sở thực tiễn, định hướng chính trị của
Đảng cũng như định hướng nghiên cứu lịch sử tư tưởng triết học chính trị nhân loại,
việc đổi mới nhận thức về pháp luật bầu cử là hoàn toàn cấp thiết, phù hợp với mục
tiêu chính trị cũng như mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân và là cấp thiết trong giai đoạn hiện nay.
Trong lịch sử tư tưởng nhân loại, đời sống triết học chính trị thế giới đã vô
cùng sôi động, ngay từ thời cổ đại chúng ta đã có “Nền Cộng hòa” của Plato – một

tác phẩm nổi tiếng thể hiện ước mơ về một nhà nước lý tưởng, chúng ta cũng hoàn
toàn kinh ngạc khi đọc “Chính trị luận” của Aristotle,…cho đến “Khảo luận thứ hai
về chính quyền của” John Locke, “Tinh thần pháp luật” của Montesquieu hay “Bàn
về khế ước xã hội” của Jean-Jacques Rousseau. Vấn đề nhà nước là gì, mục đích ra
đời của nhà nước ra sao, nhà nước có thể làm được gì và cơ chế hình thành nhà
nước như thế nào là những trăn trở, suy tư, phân tích chính của các triết gia. Một
vấn đề nan giải còn tồn tại chưa có cách giải quyết thỏa đáng đó là bằng cách nào để
có thể thiết lập được một hình thức nhà nước đại diện cho tất cả mọi người chứ
không phải số đông nhằm tổ chức một xã hội quy củ, hệ thống, đảm bảo hài hòa
quyền lợi của mọi người.
Xuất phát từ những yêu cầu lý luận và thực tiễn như vậy, tác giả mong muốn
tìm tòi những tư tưởng về nhà nước trong lịch sử tư tưởng nhân loại. Một triết gia
gây sự chú ý đặc biệt chính là J.S. Mill (J.S. Mill) – nhà tư tưởng nổi tiếng người
3
Footer Page 7 of 126.


Header Page 8 of 126.

Anh thế kỷ XIX, sự nghiệp chính trị và học thuật của ông có ảnh hưởng to lớn đến
công cuộc xây dựng hệ thống chính trị ở nhiều quốc gia trên thế giới. J.S.Mill
(1806-1873) được coi là người đại diện chính cho trường phái chủ nghĩa Công lợi
(Utilitarianism). Tư tưởng chính trị nổi bật của ông có thể coi là xuất phát từ lập
luận rằng mọi hành động của con người đều phải hướng tới việc mang lại tối đa
hạnh phúc (tức sự thỏa mãn các nhu cầu) cho đa số người. Học thuyết của ông đã có
đóng góp rất lớn trong việc đem lại các quyền tự do, dân chủ cho phụ nữ và tầng lớp
lao động ở nước Anh đầu thế kỷ XIX cũng như để lại nhiều bài học to lớn đối với
các quá trình thực hiện quản lý xã hội của các nhà nước dân chủ.
Nghiên cứu sâu rộng trên nhiều lĩnh vực, J.S.Mill đã để lại một kho tàng các
tác phẩm tiêu biểu như “Bàn về tự do” (On Liberty, năm 1859), “Chính thể đại

diện”

(Representative

government,

năm

1861),

“Chủ

nghĩa

công

lợi”

(Utilitarianism, năm 1863),v.v. Trong các tác phẩm này, tác giả luận văn lựa chọn
“Chính thể đại diện” – được coi là tác phẩm kinh điển về nền dân chủ phương Tây,
tác giả luận văn muốn làm rõ những giá trị của các quan điểm của J. S. Mill về bầu
cử mà theo ông đó là phương thức để thiết lập chính thể lý tưởng. Về cá nhân tác
giả luận văn, hướng nghiên cứu tư tưởng triết học chính trị xã hội phương Tây một
cách hệ thống qua các tác phẩm nổi tiếng là hướng nghiên cứu yêu thích, lâu dài của
từ lâu.
2. Tình hình nghiên cứu
“Chính thể đại diện” ra đời cách đây hơn một thế kỷ rưỡi và được xếp vào
Bộ sách “Great Books of the Western World” (Tạm dịch: Những cuốn sách vĩ đại
của phương Tây”) .Có nhiều công trình nghiên cứu chuyên sâu và hệ thống về quan
niệm của J.S. Mill. Ở Việt Nam, các công trình nghiên cứu về tư tưởng triết học

chính trị của J.S.Mill chiếm số lượng khiêm tốn trong các đề tài nghiên cứu, đặc
biệt quan niệm về bầu cử của ông lại là một lĩnh vực nghiên cứu tương đối mới mẻ.
Trong số các tác phẩm của J. S. Mill, có hai tác phẩm được dịch ra tiếng Việt
đó là “Bàn về tự do” (Nguyễn Văn Trọng dịch, Nhà xuất bản Tri thức ấn hành lần

4
Footer Page 8 of 126.


Header Page 9 of 126.

đầu năm 2005) và “Chính thể đại diện” (Nguyễn Văn Trọng và Bùi Văn Nam Sơn
dịch, giới thiệu và chú thích, Nhà xuất bản Tri thức ấn hành lần đầu năm 2008). Đây
là hai tác phẩm tiêu biểu trong sự nghiệp của J. S. Mill. Các bản dịch của hai dịch
giả Nguyễn Văn Trọng và Bùi Văn Nam Sơn cũng là những bản dịch công phu, tỉ
mỉ, có lời giới thiệu của người dịch phân tích đánh giá khái quát toàn bộ nội dung.
Đề tài "Tư tưởng chính trị phương Tây cận, hiện đại" do TS Ngô Huy Đức,
Viện Chính trị học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh chủ nhiệm là đề tài
nghiên cứu chuyên sâu về tư tưởng chính trị. Đề tài dành chương II để nghiên cứu
về các tư tưởng của Mandison và Mill, trong đó, tư tưởng chính trị của J. S. Mill
được để cập thông qua các luận đề như quan niệm về con người chính trị, quan
niệm về thể chế chính trị, mối quan hệ giữa con người chính trị và thể chế chính trị.
Luận án Tiến sĩ Triết học của Ngô Thị Như (Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân Văn, Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, 2012) với tên đề tài: “Triết
học chính trị của J.S. Mill – Giá trị và bài học lịch sử”, trình bày một cách hệ thống
triết học chính trị J.S.Mill và chỉ ra những nội dung cơ bản trong triết học chính trị
của ông. Luận án cũng phân tích và rút ra những giá trị, bài học lịch sử của triết học
chính trị J.S.Mill trong vấn đề tự do cá nhân, quyền lực nhà nước, dân chủ, bầu cử,
giáo dục và giải phóng phụ nữ, qua đó chỉ rõ những hạn chế của triết học chính trị
J.S.Mill thể hiện ở tính chủ quan, thiếu nhất quán và thiếu một cơ sở thực tiễn thể

hiện ở quan điểm về vai trò của quần chúng nhân dân.
Luận văn cao học Triết học của Nguyễn Thị Thùy Linh (Đại học Khoa học
Xã hội và Nhân Văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, tháng 10, năm 2010) với tên đề tài
“Quan niệm về Chính thể của J.S. Mill trong “Chính thể đại diện”. Tác giả đi sâu
phân tích nội dung tư tưởng của J.S.Mill về chính thể trong “Chính thể đại diện”,
phân tích những giá trị và hạn chế của quan niệm đó. Đây là một trong những công
trình nghiên cứu chuyên sâu và hệ thống đầu tiên tư tưởng của J.S.Mill trong “Chính
thể đại diện” tuy nhiên quan niệm về bầu cử chỉ chiếm một phần rất khiêm tốn.
5
Footer Page 9 of 126.


Header Page 10 of 126.

Như vậy, nghiên cứu tư tưởng của J.S.Mill về bầu cử vẫn còn là một hướng
nghiên cứu mới mẻ, đầy khó khăn nhưng không kém phần hấp dẫn mà chúng tôi tin
chắc rằng sẽ góp phần làm phong phú thêm tư tưởng chính trị của ông.
J.S.Mill không xa lạ với giới học giả thế giới, đặc biệt là các học giả phương
Tây. Các đề tài nghiên cứu về J.S.Mill tập trung phân tích tư tưởng chính trị của
ông, đặt nó trong mối quan hệ với dòng chảy tư tưởng triết học chính trị phương
Tây thời kỳ cổ đại, cận đại và hiện đại để đánh giá những giá trị, điểm tiến bộ và
hạn chế trong hệ thống tư tưởng của ông.
J.S. Mill (1806-1873) là nhà tư tưởng nổi tiếng người Anh ở thế kỷ XIX và
có ảnh hưởng sâu rộng đối với triết học chính trị phương Tây cận - hiện đại. Do
vậy, các học giả ở nhiều quốc gia đã nghiên cứu về nội dung tư tưởng chính trị của
ông với những công trình có giá trị nhất định. Trong đó, phải kể đến những tác
phẩm sau:
"Great political thinkers" (Tạm dịch: Những nhà tư tưởng chính trị vĩ đại)
của William Thomas (Oxford University Press, New York, 1992) là công trình
nghiên cứu tư tưởng chính trị về 4 nhà tư tưởng gồm Niccolo Machiavelli, Thomas

Hobbes, J. S. Mill và Karl Marx. Trong công trình này, William Thomas nghiên cứu
về J. S. Mill theo từng luận điểm: tuổi thơ, nền giáo dục sớm, kinh tế chính trị học.
J. S. Mill được đánh giá như một nhân vật quan trọng của lịch sử tư tưởng thế kỷ
XIX, một nhà tư tưởng tiêu biểu của thời đại.
Luận án Tiến sỹ của John Mercel Robson (Đại học Toronto, Tháng 12, 1956)
với đề tài “The social and political thought of J.S. Mill” (Tư tưởng chính trị - xã hội
của J.S. Mill) đề cập quan niệm của Mill về Chính phủ song còn rất hạn chế. Tác
giả chủ yếu đi phân tích những tư tưởng chính trị xã hội nói chung của Mill như
Đạo đức học, Phương pháp khoa học hay một số vấn đề xã hội khác.
Cuốn “Mill on Democracy: From the Athenian Polis to Representative
Government” (Tạm dịch: Mill bàn về Dân chủ: Từ thành bang Athen đến Chính thể
Đại diện) của Nadia Urbinati, giáo sư chuyên nghiên cứu về Lý thuyết chính trị và
6
Footer Page 10 of 126.


Header Page 11 of 126.

lịch sử Hy Lạp thuộc Khoa Khoa học Chính trị của Đại học Columbia, Hoa Kỳ.
Công trình khoa học này được xem là nghiên cứu đầu tiên mang lại những kiến thức
sâu rộng về lý thuyết Dân chủ của Mill.
Cuốn sách “Tư tưởng chính trị của J.S. Mill” được nhà xuất bản Đại học
Cambridge xuất bản năm 2007 của hai tác giả Nadia Urbinati và Alex Zakaras đã
đưa ra một cách đánh giá lại (theo cách diễn đạt của các tác giả) về giá trị trong tư
tưởng chính trị Mill. Trong cuốn này, các tác giả cố gắng liệt kê những bài viết đề cao
giá trị triết học chính trị của Mill, từ đó các tác giả đưa ra nhận định riêng của mình về
sức hấp dẫn của những ý tưởng đặc sắc trong tư tưởng J.S. Mill.
Tựu chung, có thể nói rằng góc độ tiếp cận triết học chính trị J.S.Mill của các
tác giả trên thế giới thường tập trung nghiên cứu cả hệ thống tư tưởng hoặc những
tư tưởng chính trị của ông. Quan niệm của J.S.Mill về bầu cử chỉ được nghiên cứu

đan cài trong các công trình liên quan đến chính thể đại diện nói chung. Tiếp thu giá
trị từ những công trình nghiên cứu, tác giả luận văn mạnh dạn đi tìm hiểu những nội
dung về quan niệm bầu cử của Mill được trình bày trong “Chính thể đại diện”.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Phân tích những điều kiện, tiền đề hình thành quan niệm về bầu cử của J.S.
Mill; làm rõ những quan niệm cơ bản về bầu cử của J.S.Mill trong “Chính thể đại
diện”, từ đó rút ra ý nghĩa đối với công cuộc đổi mới hệ thống chính trị ở Việt Nam
hiện nay.
Để thực hiện mục đích trên, luận văn cần giải quyết những nhiệm vụ cơ bản:
- Phân tích những điều kiện, tiền đề hình thành quan niệm về bầu cử của J.S.
Mill trong “Chính thể đại diện”.
- Phân tích những quan niệm cơ bản về bầu cử của J.S. Mill, chỉ ra một số
giá trị, hạn chế chủ yếu của nó và rút ra ý nghĩa đối với việc đổi mới bầu cử ở Việt
Nam hiện nay.

7
Footer Page 11 of 126.


Header Page 12 of 126.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn lấy quan niệm về bầu cử của J.S. Mill làm đối tượng nghiên cứu.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là tập trung vào những quan niệm cơ bản
về bầu cử của J.S. Mill trong “Chính thể đại diện”. Luận văn cũng bước đầu phân tích
ý nghĩa của nó đối với công cuộc đổi mới hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Luận văn được thực hiện trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; các quan điểm, đường lối, chủ trương của
Đảng Cộng Sản Việt Nam về xây dựng và đổi mới bộ máy Nhà Nước.

- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử và một số phương pháp khác
như: phương pháp phân tích – tổng hợp, logic – lịch sử, hệ thống – cấu trúc, đồng
thời sử dụng phương pháp tiếp cận từ góc độ chính trị - pháp lý.
6. Đóng góp của luận văn
- Đóng góp về mặt lý luận: Luận văn đã phân tích một cách tương đối hệ
thống và đầy đủ những điều kiện, tiền đề hình thành quan niệm bầu cử của J.S.Mill;
những nội dung cơ bản trong quan niệm về bầu cử của Mill trong “Chính thể đại
diện” và chỉ ra ý nghĩa của nó đối với việc đổi mới bầu cử ở Việt Nam hiện nay. Do
đó, luận văn góp phần vào việc khẳng định giá trị hệ thống tư tưởng chính trị của
J.S.Mill, đặc biệt là tư tưởng về bầu cử của ông.
- Đóng góp về mặt thực tiễn: Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo
cho công tác học tập và nghiên cứu của sinh viên, học viên cao học và những người
quan tâm đến triết học chính trị của J.S. Mill.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm
2 chương, 7 tiết.

8
Footer Page 12 of 126.


Header Page 13 of 126.

NỘI DUNG
Chƣơng 1: NHỮNG ĐIỀU KIỆN VÀ TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH QUAN NIỆM
CỦA J.S.MILL VỀ BẦU CỬ TRONG TÁC PHẨM CHÍNH THỂ ĐẠI DIỆN
1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội
1.1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội nước Anh cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX
Thứ nhất, cuộc cách mạng tư sản Anh thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX

thắng lợi làm tiền đề phát triển mạnh mẽ cho phương thức sản xuất tư bản.
Đến thế kỷ XVII, Anh trở thành nước có nền kinh tế mạnh nhất châu Âu.
Khu vực phía Bắc, phía Nam nước Anh, đặc biệt là khu vực Luân Đôn mọc ra hàng
loạt các công trường thủ công sản xuất nhiều sản phẩm công nghiệp, đặc biệt là
hàng len dạ. Các công trường thủ công phát triển là nhân tố thúc đẩy ngoại thương
Anh, hàng loạt các bến cảng ra đời và phát triển đã đưa hàng hóa của Anh xuất khẩu
khắp nơi trên thế giới. Từ đó, chủ nghĩa tư bản xâm nhập mạnh mẽ đến cả nông
thôn nước Anh.
Về chính trị, đứng đầu nước Anh trong giai đoạn này là vua Charles I (1600
– 1649), chế độ phong kiến ngày càng tìm cách kìm hãm, ngăn trở sự phát triển của
lực lượng sản xuất chủ nghĩa tư bản.
Về tình hình xã hội trước cách mạng tư sản, giai cấp tư sản bao gồm chủ
xưởng, nhà buôn giàu lên nhanh chóng và có tiềm lực kinh tế mạnh mẽ nhờ công
nghiệp len dạ và đặc biệt là buôn bán những người nô lệ.
Qua quá trình phát triển của thủ công nghiệp, đặc biệt là trong lĩnh vực len
dạ đã thúc đẩy và giúp cho sự phát triển của nghề nuôi cừu, do đó ở nông thôn Anh
giai đoạn này, một số quý tộc nhỏ và vừa đã chuyển hướng kinh doanh theo hướng
tư bản chủ nghĩa và tầng lớp quý tộc mới đã hình thành, đồng thời ngày càng có
thế lực về kinh tế. Đời sống quần chúng nhân dân ngày càng cơ cực, đặc biệt là
nông dân Anh trong giai đoạn này, qua quá trình rào đất, cướp ruộng để trồng
cỏ nuôi cừu.

9
Footer Page 13 of 126.


Header Page 14 of 126.

Chính vì những mâu thuẫn lên đến đỉnh điểm của giai cấp tư sản, quý tộc
mới với các tầng lớp phong kiến đã đưa đến cuộc cách mạng tư sản Anh. Cuộc cách

mạng đã đánh dấu sự thắng lợi của liên minh giữa tư sản và quý tộc mới, có ý nghĩa
to lớn đối với tiến trình phát triển của lịch sử thế giới. Đối với nước Anh, cuộc
thắng lợi này đã mở đường thênh thang cho chủ nghĩa tư bản phát triển. Đối với thế
giới, cách mạng tư sản Anh đã đánh dấu thời kỳ quá độ từ chế độ phong kiến sang
tư bản chủ nghĩa.
Thứ hai, cuộc cách mạng công nghiệp Anh thế kỷ XVIII thay đổi một cách
căn bản diện mạo nước Anh.
Cuối thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XIX, ở châu Âu đã diễn ra một bước nhảy
vọt phát triển mới trong lĩnh vực sản xuất đó là cuộc cách mạng nhằm mục đích cơ
khí hóa nền sản xuất thay thế cho lao động thủ công, thực chất cuộc cách mạng này
là sự thay đổi về mặt kỹ thuật để tăng năng suất lao động cao hơn so với thời kỳ tư
bản chủ nghĩa và để củng cố nền tảng mới.
Anh là nước đầu tiên ở châu Âu diễn ra cuộc cách mạng công nghiệp này, có
thể nói nguyên nhân là do nước Anh là nước đầu tiên tiến hành cách mạng tư sản
với sự phát triển lực lượng sản xuất mạnh mẽ nhất hay cụ thể là Anh hội đủ ba điều
kiện chính để tiến hành cách mạng công nghiệp. Đầu tiên, Anh là nước có cách
mạng tư sản nổ ra sớm đưa chính quyền thuộc về giai cấp tư sản, khi chế độ phong
kiến sụp đổ, giai cấp tư sản tiếp tục củng cố vị thế của mình bằng cách phát triển về
kinh tế mà chỉ có cách mạng công nghiệp mới có thể đáp ứng được yêu cầu đó, mục
đích là tạo ra một phương thức sản xuất mới thay thế phương thức sản xuất phong
kiến đã lỗi thời. Điều kiện thứ hai là do kinh tế tư bản phát triển mạnh mẽ ở nước
Anh, đặc biệt là công nghiệp. Thứ ba là do Anh có một hệ thống thuộc địa rộng lớn,
đủ điều kiện để cho nước Anh tích lũy tư bản nguyên thủy ban đầu (vốn ban đầu).
Trong tất cả các điều kiện trên, có thể nói tích lũy tư bản nguyên thủy là việc vô
cùng quan trọng để Anh có thể tiến hành được cách mạng công nghiệp vì có một
nguồn vốn thặng dư lớn sẽ giúp nước Anh luôn sẵn sàng quay vòng sản xuất.

10
Footer Page 14 of 126.



Header Page 15 of 126.

Cùng với ba điều kiện chính trên, với việc phát minh ra máy hơi nước của
James Watt năm 1784 và đầu máy xe lửa chạy bằng hơi nước của George
Stephenson năm 1814 đã tạo dựng gần như đầy đủ những điều kiện hoàn hảo để
Anh tiến hành thành công cách mạng công nghiệp. Để có được sự thành công của
cuộc cách mạng không thể không kể đến những ưu đãi mà thiên nhiên đã ban tặng
nước Anh với lượng than đá khổng lồ và rất nhiều các mỏ sắt.
Hai cuộc cách mạng trên có ảnh hưởng vô cùng to lớn tới mọi mặt đời sống
xã hội nước Anh lúc bấy giờ, phơi bày những mâu thuẫn ngày càng gia tăng trong
xã hội Anh. Người ta thấy rằng, mặc dù cuộc cách mạng tư sản đã giành thắng lợi
với việc lật đổ tầng lớp phong kiến mới chỉ đem lại những quyền lợi cho giai cấp
cầm quyền – giai cấp tư sản mà thôi, nông dân và quần chúng lao động bị mất đất
và đời sống thì ngày càng khó khăn hơn. Đây cũng là lý do vì sao cuộc cách mạng
tư sản ở nước Anh là cuộc cách mạng tư sản không triệt để. Hệ quả của các cuộc
cách mạng đã làm biến đổi sâu sắc đời sống của nông dân và quần chúng lao động ở
nước Anh lúc đấy giờ, cấu trúc gia đình và xã hội có sự thay đổi rõ rệt.
Về mặt xã hội, trước hiện trạng giai cấp tư sản rào đất cướp ruộng của nông
dân để trồng cỏ nuôi cừu phục vụ cho ngành công nghiệp dệt may đang khát nguyên
liệu đã khiến tình trạng di dân từ nông thôn lên thành thị ngày một nghiêm trọng.
Những người nông dân mất đất giờ đây không còn nơi để canh tác mưu sinh, không
còn nhà cửa, phiêu bạt khắp nơi, họ dồn lên các thành phố công nghiệp gây một sức
ép lớn về các điều kiện sống. Chỗ ở đông đúc, chật chội, không có đủ lương thực
hay nước sạch khiến dịch bệnh hoành hành ở nhiều nơi, tình trạng ô nhiễm diễn ra
và các tệ nạn xã hội như nghiệp rượu, ma túy, mại dâm cũng tất yếu đi kèm.
Trong những công xưởng công nghiệp, tình trạng sống và điều kiện lao động
của tầng lớp công nhân cũng không có gì khả quan hơn. Điều kiện sống và làm việc
vô cùng cực khổ, bị các ông chủ tư sản bóc lột một cách tàn bạo, mỗi người phải
làm việc từ khoảng 12 đến 15 tiếng một ngày, thậm chí có khi lên tới 19 tiếng và

sáu ngày trong một tuần. Tình trạng thất nghiệp thêm nghiêm trọng và có xu hướng

11
Footer Page 15 of 126.


Header Page 16 of 126.

tăng cao đã khiến cả phụ nữ và thậm chí là cả trẻ em cũng phải làm việc trong các
nhà máy để kiếm sống. Từ hiện thực vô cùng khắc nghiệt này dẫn đến những cuộc
đấu tranh của công nhân mà bắt đầu là phong trào đập phá máy móc, phong trào này
diễn ra bộc phát và không đạt được nhiều thành công. Đặc biệt, vị trí và quyền lợi
của phụ nữ trong xã hội rất thấp kém, họ bị đàn áp, bóc lột và không có quyền được
tham gia vào các công việc xã hội. Nhiều nhà tư tưởng đã lên tiếng bênh vực cho
phụ nữ, đòi quyền đi bầu cho họ. Ngoài ra, tình hình đất nước sau cách mạng cũng
gặp phải rất nhiều khó khăn cho công tác tổ chức nhà nước, quản lý xã hội.
Xuất phát từ thực tiễn đời sống xã hội như vậy đã thôi thúc các nhà tư tưởng
lúc bấy giờ mong muốn tìm ra cách giải quyết những tình trạng đó và J.S. Mill là
một đại diện tiêu biểu. Với một nhà tư tưởng lớn, chưa bao giờ thỏa hiệp trong công
cuộc đấu tranh cho công bằng, tự do, dân chủ như J.S.Mill, ông suy tư, trăn trở cho số
phận những kiếp người khốn khổ, bị ức hiếp trong xã hội, những con người không có
những “quyền cơ bản” của một con người, để từ đó đã cho ra đời hàng loạt các tác
phẩm mang tính triết học, đạo đức, chính trị, xã hội vĩ đại của mình.
1.1.2. Bối cảnh văn hóa - chính trị nước Anh cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX
Muốn hiểu rõ và sâu sắc những tư tưởng và luận giải của Mill trong “Chính
thể đại diện” không thể không có cái nhìn khái quát về tình hình chính trị Anh ở
thời kỳ này.
Sau cách mạng, thắng lợi thuộc về liên minh giữa giai cấp tư sản và tầng lớp
quý tộc mới, hình thức chính thể Cộng hòa nghị viện được thiết lập mà quyền lực
tối cao được tập trung trong vào Hạ nghị viện. Nhưng chính thể này không tồn tại

được lâu do giai cấp tư sản sau cách mạng đã không giải quyết nhiệm vụ chia ruộng
đất cho nông dân dẫn đến mâu thuẫn xã hội phát triển thêm gay gắt giữa tư sản với
quần chúng nhân dân lao động.
Trước tình thế đó, giai cấp tư sản đã phải thoả hiệp với tầng lớp quý tộc mới
nhằm mục đích xoa dịu mâu thuẫn xã hội.
Hai sự kiện quan trọng thể hiện rõ sự thỏa hiệp này là:
12
Footer Page 16 of 126.


Header Page 17 of 126.

Thứ nhất, sau khi Oliver Cromwell – người lãnh đạo cuộc cách mạng tư sản
qua đời vào năm 1658, kéo theo sự sụp đổ của nền Cộng hòa, Charles II đang lưu
vong ở nước ngoài đã được mời về nước lên ngôi vua năm 1660.
Thứ hai, vào tháng 2/1689, Nghị viện Anh đã thông qua đạo luật mới có tên
là "Đạo luật thừa nhận ngôi vua và quyền hành của nghị viện". Đạo luật này là cơ
sở pháp lý cho sự ra đời nhà nước quân chủ lập hiến tồn tại cho đến ngày nay. Nội
dung chủ yếu của đạo luật này là đề cao vai trò của Nghị viện và khẳng định ngôi vua
sẽ được giữ lại nhưng chỉ mang tính biểu tượng - nhà vua trị vì mà không cai trị.
Như vậy có thể khẳng định rằng chính thể quân chủ lập hiến ở Anh ra đời là
kết quả của sự thỏa hiệp giữa giai cấp tư sản và quý tộc mới, là sản phẩm và biểu
hiện của cuộc cách mạng tư sản không triệt để.
Lúc bấy giờ, Thượng viện thuộc tầng lớp đại quý tộc chỉ định có uy lực hơn
Hạ nghị viện do quần chúng nhân dân bầu ra. Cuộc bầu cử Hạ nghị viện cũng được
tiến hành theo những quy tắc rất hạn chế quyền bầu cử. Phần lớn thành viên ở Hạ
nghị viện là những người được bầu ra từ những vùng đất ít dân cư sinh sống mà
việc bầu cử thường bị các chúa đất thao túng. Không chỉ có các ghế ở nghị viện
được mua bán bằng tiền mà cả đến các cử tri hay thậm chí là những lá phiếu bầu
cũng trở thành vật trao đổi của nhà giàu. Vấn đề này được Mill đề cập rõ nét trong

những lập luận của mình. Tầng lớp lao động và cả tầng lớp trung gian trong xã hội
cũng bị tước đoạt quyền chính trị.
Ở Thượng viện là sự tranh chấp quyền lực của Đảng Whig (nay là Đảng Dân
chủ tự do) và Đảng Tory (nay là Đảng Bảo thủ). Đảng Tory có quan hệ với giới
thượng lưu và Giáo hội Anh, trong khi đảng Whig gần gũi hơn với giới nghiệp
đoàn, tài chính và chủ đất. Hai đảng này thay nhau quản lý đất nước và tranh chấp
để giành đa số ghế trong nghị viện. Nhìn chúng, cả hai đảng đều bảo vệ quyền lợi
cho giai cấp tư sản và quý tộc thượng lưu, củng cố quyền thống trị của giai cấp tư
sản. Hình thức quân chủ lập hiến này khác hẳn so với hình thức nhà nước quân chủ
chuyên chế trước đây của Anh, ở hình thức mới, Thủ tướng và nội các chính phủ

13
Footer Page 17 of 126.


Header Page 18 of 126.

thuộc về tay đảng nào chiếm đa số ghế trong nghị viện do đảng có cử ra và ủng hộ.
Thủ tướng và nội các chỉ chịu trách nhiệm trước nghị viện chứ không thông qua
vương quyền.
Bối cảnh văn hóa tinh thần phương Tây thời Mill chứng kiến cuộc khủng
hoảng tinh thần hậu cách mạng tư sản và cách mạng công nghiệp. Hai cuộc cách
mạng to lớn đã thay đổi tận gốc rễ các điều kiện kinh tế-xã hội, văn hóa và kỹ thuật,
nó xuất phát từ nước Anh rồi sau đó lan tỏa ra toàn thế giới. Bên cạnh những tiến bộ
xã hội không thể phủ nhận của một giai đoạn lịch sử sôi động, hai cuộc cách mạng
cũng để lại những nhiệm vụ to lớn không giải quyết được – chính những nhiệm vụ
này lại là căn nguyên dẫn đến đấu tranh, phản đối trong xã hội Anh.
Cuộc cách mạng tư sản diễn ra đã mở đường cho một bước phát triển ngoạn
mục của giai cấp tư sản khi chế độ phong kiến phản động đã bị lật đổ, mọi quyền lợi
giờ đã thuộc về tay giai cấp tư sản, tuy nhiên lực lượng mạnh mẽ sát cánh và quyết

định sự thắng lợi của cuộc cách mạng tư sản Anh là giai cấp nông dân lại không có
được quyền lợi gì, nhiệm vụ đòi đất cày không thực hiện được mà tình hình rào đất
cướp ruộng còn diễn ra gay gắt hơn. Đời sống nông dân trở nên nghèo khổ, tha
hương cầu thực, phải di dân lên thành phố làm thuê, đói khổ.
Ngoài ra, cuộc cách mạng công nghiệp ở Anh đã đánh dấu một bước tiến
vượt bậc trong lịch sử về mặt cơ khí - kỹ thuật để tăng năng suất lao động và mở ra
một thời kỳ phát triển chưa từng thấy về mọi lĩnh vực đời sống xã hội Anh. Giai cấp
công nhân ra đời từ đây và nhanh chóng trở thành lực lượng đông đảo nhất trong xã
hội. Trái lại với quy mô cũng như vai trò của mình, những người công nhân bị bóc
lột thậm tệ, là tầng lớp đông đảo nhất nhưng cũng là tầng lớp đói khổ vào bậc nhất.
Các cuộc tấn công, nổi dậy chống lại các ông chủ tư sản để đòi quyền lợi diễn ra ở
khắp nơi trên nước Anh.
Tất cả những hệ quả này đã đã tạo điều kiện giải phóng con người khỏi
những sự kiềm chế độc đoán của chế độ phong kiến, dẫn đến phản kháng, đấu tranh
diễn ra khắp nơi. Đồng thời cũng giải phóng tư tưởng, con người ngày càng có ý

14
Footer Page 18 of 126.


Header Page 19 of 126.

thức về các quyền tự do, dân chủ và quyền bình đẳng. Chính mâu thuẫn giai cấp
giữa tư sản và công nhân, nhân dân lao động, sự phân biệt đối xử bất công với phụ
nữ hay tham vọng tham chính bịp dân của các chính trị gia thời kỳ này đã làm cho
những học thuyết về quyền tự do cá nhân và quyền của các dân tộc đã được hình
thành, khiến cho những cá nhân mẫn tiệp như J.S. Mill không ngừng day dứt, trăn
trở. Và chính từ bệ phóng này, ông đã viết hăng say và tạo nên một hệ thống tác
phẩm đồ sộ và giá trị về các lĩnh vực triết học, chính trị, xã hội.
1.2. Tiền đề tƣ tƣởng hình thành quan niệm của J.S. Mill về bầu cử

Nhìn chung, ảnh hưởng của các nhà tư tưởng đi trước đối với sự hình thành
hệ thống triết học chính trị - xã hội J.S. Mill có thể kể đến như: Jeremy Bentham,
James Mill, Wilhelm von Humboldt… Đặc biệt, xem xét dưới hệ thống quan điểm
của J.S. Mill trong “Chính thể đại diện” mà phạm vi nghiên cứu là quan niệm về
bầu cử của ông thì không thể không kể đến ảnh hưởng trực tiếp, sâu sắc của các nhà
tư tưởng: Jeremy Bentham (1748 – 1832), Alexis Tocqueville (1805 - 1859),
Thomas Hare (1806 – 1891). Trước hết, tác giả luận văn đi phân tích những nét tư
tưởng chính của những tư tưởng có ảnh hưởng trực tiếp đến tư tưởng của J.S. Mill
về bầu cử.
1.2.1. Thuyết công lợi của Jeremy Bentham
Jeremy Bentham (1748 – 1832) là một triết gia kiêm nhà cải cách xã hội
người Anh, ông là cha đẻ của Thuyết Công lợi (Utilitarianism), ông cho rằng lợi ích
cá nhân hoàn toàn đồng nhất với lợi ích xã hội. Ông giữ một vị trí quan trọng trong
lịch sử văn hóa tinh thần của nước Anh.
Jeremy Bentham khai triển đạo đức công lợi, theo ông, tính chất tốt hay xấu
của một hành vi được đo lường theo tính lợi ích của nó, nghĩa là theo cái gì đem lại
cho chúng ta tối đa “khoái lạc” và tối thiểu “khổ đau”. Học thuyết đạo đức và chính
trị này của Bentham bắt nguồn từ việc ông không hài lòng với những cơ sở lý
thuyết về luật pháp hiện hành và cách áp dụng luật tại các tòa án. Ông cho rằng
những cơ sở bất hợp lý và hỗn loạn của những hệ thống pháp lý và cấu trúc xã hội

15
Footer Page 19 of 126.


Header Page 20 of 126.

lúc bấy giờ là nguyên nhân gây ra bất ổn chính trị. Các tác phẩm chính của Bentham
có thể kể tới như “Những đối thoại của Chính phủ” (1776), “Về các nguyên tắc đạo
đức và pháp luật (xuất bản năm 1789), “Cải cách Nghị viện” (1817), “Đạo đức học

hay khoa học về đạo đức” (gồm hai tập, được công bố vào năm 1843)….
Bentham mở đầu Về các nguyên tắc đạo đức và pháp luật với một tiền đề cơ
bản: “Thiên nhiên đã đặt nhân loại dưới sự cai quản của hai ông chủ tối cao là đau
khổ và khoái lạc. Chúng chỉ ra những gì chúng ta nên làm và quyết định những gì
chúng ta phải làm. Bên cạnh chúng, một mặt là tiêu chuẩn đúng và sai, mặt kia là
chuỗi các nguyên nhân và hậu quả”. Như vậy, theo Bentham, dưới góc độ tâm lý,
khi tìm hiểu cội rễ hành động của con người thì đều thấy tất cả chỉ để chạy theo lạc
thú và né tránh đau khổ. Hay nói cách khác, bàn về tư cách con người, sự đau khổ
và khoái lạc quyết định việc chúng ta phải làm. Ngoài tính chất tâm lý của chủ
nghĩa khoái lạc còn có khía cạnh đạo đức, trong đó, yếu tố đúng hay sai về mặt luân
lý phụ thuộc đau khổ hoặc sung sướng nhiều hay ít. Như vậy sự đau khổ và khoái
lạc chỉ cho chúng ta biết cái nên làm là gì.
Nếu đau khổ và khoái lạc là tiêu chuẩn của đạo đức thì các hành động phải
được đánh giá bằng hậu quả của chúng. Do đó, chủ nghĩa công lợi là “thuyết đạo
đức cứu cánh”. Chủ nghĩa công lợi là nguyên tắc của lợi ích, hữu dụng. Theo
Bentham, hành động phù hợp với nguyên tắc lợi ích khi nó có xu hướng làm gia
tăng hạnh phúc của cộng đồng nhiều hơn là làm giảm. Nói khác đi, hạt nhân của
Thuyết Công lợi là “Luôn luôn hành động để đem lại hạnh phúc lớn nhất cho nhiều
người nhất”, nó hướng hành động đúng phải theo là nhằm gia tăng tối đa sự sung
sướng hoặc giảm tới mức tối thiếu đau khổ. Học thuyết này trở nên quen thuộc với
tên gọi Thuyết Công lợi, những người ủng hộ thuyết này áp dụng chúng vào đời
sống đạo đức cá nhân cũng như vào chính sách chính trị, luật pháp và xã hội. Nó có
ảnh hưởng lớn đến đến đường lối cai trị nước Anh lúc đó.
Có thể nói, một mặt Bentham là người bảo vệ chủ nghĩa cá nhân bởi ông đề
cao vai trò của mỗi cá nhân trong sự thỏa mãn hay đau khổ của họ. Mặt khác, tính

16
Footer Page 20 of 126.



Header Page 21 of 126.

công lợi theo quan niệm của Bentham không đồng nhất với mức độ thỏa mãn của cá
nhân trong sự gắn liền với các hoạt động xã hội rộng lớn. Những quan niệm số học
về khoái lạc hay coi sự thỏa mãn về thể chất cũng giống như tinh thần là những
điểm yếu ở Bentham mà sau này được Mill khắc phục. Khi còn trẻ, Mill ảnh hưởng
rất nhiều từ Bentham. Tuy nhiên, khi tiếp xúc với các nhà tư tưởng Pháp và một số
nhà tư tưởng Anh tiền bối, ông đã có những ý nghĩ khác xa so với Bentham, đặc
biệt là trong quan niệm về chất lượng khoái lạc. Mặc dù tiến bộ về nhiều mặt so với
Bentham nhưng chúng ta cũng không thể không thừa nhận ảnh hưởng mạnh mẽ từ
nhà tư tưởng này tới J.S. Mill.
1.2.2. Tư tưởng dân chủ của Alexis de Tocqueville
Alexis de Tocqueville (1805 – 1859) sinh ra ở Pháp nhưng dấu ấn cuộc đời
và sự nghiệp lại gắn chặt với nước Mỹ. Cho đến tận ngày nay, ông vẫn được coi là
“một huyền thoại” của nước Mỹ - đất nước mà ông thông hiểu hơn chính quê hương
Pháp. Tocqueville từng đảm đương những chức vụ quan trọng trong bộ máy nhà
nước Pháp như đại biểu Quốc hội (1839 – 1848), Phó Chủ tịch Quốc hội và Bộ
trưởng Bộ Ngoại giao Pháp (1849).
Sau những biến cố khi cách mạng Pháp nổ ra (1848 – 1849), Tocqueville tìm
đường sang nước Mỹ với niềm mong mỏi lớn lao sẽ học tập được nhiều điều về mô
hình chính trị kiểu mẫu của Mỹ để giúp xây dựng nền chính trị Pháp.
Không chỉ ở Mỹ, Tocqueville còn đến Anh để nghiên cứu hệ thống chính trị
ở quốc gia này. Ông đã dành nhiều thời gian để nghiên cứu hệ thống chính trị của
Hoa Kỳ và cho ra đời rất nhiều khảo luận về lĩnh vực này. Tác phẩm “Nền dân trị
Mỹ” (Nguyên bản có tên: Democracy in America) là một trong những khảo luận
đầu tiên, sâu sắc nhất và nổi tiếng nhất về lĩnh vực này. Tác phẩm được xuất bản
phần 1 vào năm 1835 và phần 2 vào năm 1840. Trong tác phẩm này, Tocqueville đã
thẳng thắn chỉ ra những nguy cơ của nền dân chủ Hoa Kỳ. Ông lo ngại ý kiến của
quần chúng có xu hướng tạo ra tình trạng chuyên chế và chế độ cai trị theo số đông số
học có thể cũng có tính chất đàn áp không khác gì một kẻ chuyên quyền (Nền dân trị


17
Footer Page 21 of 126.


Header Page 22 of 126.

Mỹ phân tích hệ thống lập pháp và hành pháp của Hoa Kỳ) cùng ảnh hưởng của những
định chế xã hội và chính trị đối với thói quen và cách hành xử của dân chúng.
Tocqueville đã cố gắng đem những gì mình học hỏi được và những ý tưởng,
mong muốn thay đổi đến Pháp song không được toại nguyện, nước Pháp không ghi nhận
những điều đó. Những tư tưởng của ông trong tác phẩm được hưởng ứng tại nước Anh,
trong đó, J.S. Mill là người thừa nhận và nghiên cứu một cách vô cùng nghiêm túc.
Những tư tưởng có giá trị mà Mill sử dụng sau này trong các luận thuyết của
mình được học tập từ Tocqueville là nguyên tắc “nhân dân tối thượng” và nguyên
tắc “tự do và bình đẳng”. Với nguyên tắc “nhân dân tối thượng” giống như các bậc
tiền bối Montesquieu và Rousseau, Tocqueville cho rằng nguồn gốc của quyền lực
xã hội nằm bên trong xã hội, nó thuộc về nhân dân và mục tiêu của nó cũng hướng
tới nhân dân, “nhân dân là nguồn gốc và mục tiêu của mọi thứ. Tất cả đều từ nhân
dân mà ra và tất cả đều tích tụ vào nhân dân” [39, tr. 113]
Theo Tocqueville sự bình đẳng chính là nguồn gốc của nguyên tắc “nhân dân
tối thượng”, bình đẳng ở đây là “bình đẳng trong những điều kiện”. Để có thể tạo
được sự bình đẳng này, thì hoặc là trao quyền lực cho mỗi công dân hoặc là không
trao cho bất kỳ ai. Việc không trao quyền cho ai đồng nghĩa với việc xóa bỏ xã hội
bởi vì con người không còn ở trong xã hội nữa, không quan tâm đến vấn đề xã hội
mà chỉ quan tâm đến những vấn đề cá nhân. Sự bình đẳng bằng cách trao quyền cho
mỗi công dân sẽ giúp thoát khỏi nạn quyền lực chuyên chế và xây dựng thành công
nguyên tắc “nhân dân tối thượng”. Chính ở tư tưởng này Mill chịu ảnh hưởng của
Tocqueville, Mill thẳng thắn chỉ ra những hệ quả của chính quyền chuyên chế khi
quyền lực không thuộc về nhân dân, nhân dân theo Mill hiểu là toàn thể chứ không

phải là số đông số học. Mill đã trăn trở rất nhiều về mối nguy hiểm của dân chủ, đó
là sự đàn áp của đa số lên cá nhân hay thiểu số. Trong “Chính thể đại diện” Mill đã
dành một dung lượng đáng kể để phân tích về vấn đề này.
Bên cạnh nguyên tắc “nhân dân tối thượng”, nguyên tắc “tự do và bình
đẳng” chính là tư tưởng nổi bật của Tocqueville có ảnh hưởng đến Mill. Tự do và

18
Footer Page 22 of 126.


Header Page 23 of 126.

bình đẳng là giá trị căn bản của con người nó dành cho tất cả mọi người trên thế
giới không phân biệt màu da, chủng tộc, tôn giáo, chính trị, văn hóa. Tự do theo
nghĩa truyền thống là các quyền tự nhiên bất khả xâm phạm nên còn gọi tự do Hiến
định nhằm bảo tính độc lập tự chủ và nhân phẩm của con người trước những chèn
ép về chính trị, xã hội, tôn giáo... J.S. Mill hiểu tự do theo nghĩa “tự do của mỗi
người tìm thấy giới hạn của mình trong tự do của người khác và tự do xã hội là ranh
giới giữa sự kiểm soát xã hội và sự độc lập cá nhân” [35, tr. 9]. Tocqueville phân
loại ra làm hai loại là tự do quý tộc và tự do dân chủ. Nếu xã hội tồn tại tự do quý
tộc, thì sự tự do này được xem như một đặc quyền dành cho một số người chứ
không thuộc về toàn bộ thành viên trong xã hội. Điều này dẫn đến sự bất bình đẳng
giữa người tự do và người không tự do. Còn trong xã hội tồn tại tự do dân chủ, sự tự do
đó có mối quan hệ mật thiết với bình đẳng, phục tùng những nguyên tắc của bình đẳng.
Ngoài hai nguyên tắc trên, Mill cũng thấm đẫm những tư tưởng độc đáo khác
của Tocqueville trong tác phẩm “Nền dân trị Mỹ”. Mill đã sử dụng khá nhiều cụm từ
mà Tocqueville đã nhắc đến trước đó là “chuyên chế của đa số”. Quyền tự do trong xã
hội dân chủ được ủng hộ mạnh mẽ, khác hẳn so với ở chế độ độc tài. Tuy nhiên, nó
cũng có mặt trái, vì không bị áp đặt dưới sự chuyên quyền nên dễ xảy ra nhiều tranh
cãi, bất đồng ý kiến mà phần thắng thường thuộc về đa số. Chính ở điểm này Mill chịu

ảnh hưởng từ Tocqueville. Bên cạnh đó, Tocqueville cũng cho rằng, những truyền
thống và sự chuyên nghiệp trong lập pháp một mặt bảo vệ vững chắc những lý do để
hình thành luật. Mặt khác, khi nó được lan rộng và thừa nhận sâu rộng trong xã hội thì
nó lại trở thành yếu tố gây trở ngại đối với những suy nghĩ độc đáo, khác biệt so với
những bộ óc bình thường và gây khó khăn để áp dụng những ý tưởng mới mẻ. Do ảnh
hưởng tử những phân tích của Tocqueville về nền văn hóa Mỹ mà sau này, Mill đã suy
nghĩ một cách nghiêm túc về mối nguy hiểm của dân chủ chính là sự khác biệt của đa
số sẽ đàn áp cá nhân hay thiểu số.
Như vậy, lập trường dân chủ với những phân tích sắc sảo của Tocqueville trong
“Nền dân trị Mỹ” đã ảnh hưởng lớn và trực tiếp đến Mill. Không chỉ hứng thú, đam mê

19
Footer Page 23 of 126.


Header Page 24 of 126.

với những vấn đề Tocqueville gợi ra mà Mill còn đưa ra lập trường riêng thể hiện
những suy nghĩ của cá nhân ông về những vấn đề cả Tocqueville và Mill cùng lưu tâm.
1.2.3. Luận thuyết về bầu cử của Thomas Hare
Thomas Hare (1806 – 1891) là một người đề xuất cải cách bầu cử ở Anh.
Hare Trong tác phẩm của mình, Mill đã nhắc rất nhiều lần đến Hare và hệ thống bầu
cử của ông.
Nói về hệ thống của Thomas Hare, ông cho rằng “đơn vị của sự đại diện, chỉ
tiêu của các cử tri được quyền có một đại biểu cho mình, sẽ được xác định bằng quá
trình lấy trung bình thông thường” [34, tr. 218]. Và như vậy, mỗi cử tri có quyền tự
do bỏ phiếu cho bất cứ ứng viên nào mặc dù ứng viên đó tranh cử ở địa phương
khác nhau trong cả nước. Vì vậy mà, có thể cử tri không ủng hộ và không muốn
ứng viên tại địa phương của họ làm đại diện cho họ thì họ vẫn tìm kiếm được người
đại diện cho mình trên địa bàn cả nước. Mill nhiệt thành ủng hộ và coi đó như một

phương cách giảm thiểu chuyên chế của đa số: “trong mức độ như vậy, điều này có
thể đem lại quyền bầu cử cho nhóm thiểu số mà nếu không thế thì những quyền ấy
đã bị tước đoạt thực sự” [34, tr. 218].
Một lợi ích khác nữa mà hệ thống của ông Hare đem lại, đó là, kể cả cử tri
bầu cho ứng viên địa phương của họ mà ứng viên đó không đủ số lá phiếu để được
đại diện thì lá phiếu của họ vẫn có thể đem lại sự đại diện đối với ứng viên nào đó ở
một địa phương khác. Bởi vì, trong lá phiếu của họ được ghi tên những ứng viên họ
bầu cho theo thứ tự ưu tiên, và “cần thiết phải để cho số phiếu được tính cho người
đắc cử không vượt quá chỉ tiêu, dù cho ứng viên có thể thu được nhiều đến đâu đi
nữa: số phiếu còn lại bầu cho anh ta có thể có phiếu bầu tính cho người tiếp theo
trong những danh sách tương ứng cần đến những phiếu ấy, và nhờ số phiếu còn lại
ấy mà người đó hoàn tất được chỉ tiêu” [34, tr.219]. Bằng cách này, bất kể cử tri nào
cũng sẽ tìm được cho mình người đại diện. Ngoài ra, tính minh bạch của bầu cử
cũng được đề cao “những lá phiếu và tất cả các yếu tố tính toán có thể đặt ở nơi lưu
trữ mà tất cả những ai quan tâm đều có thể tiếp cận được; và nếu bất cứ ai thu được

20
Footer Page 24 of 126.


Header Page 25 of 126.

chỉ tiêu mà không đắc cử một cách sai trái thì người ấy dễ dàng có thể chứng minh
được điều đó” [34, tr. 220].
Trích dẫn cuốn “Luận thuyết về Bầu cử các Đại biểu” của ông Hare, Mill
đánh giá rất cao: “Càng nghiên cứu những công trình này sâu hơn, càng có ấn tượng
mạnh mẽ hơn về tính khả thi hoàn hảo của kế hoạch và những lợi thế phi thường
của nó, tôi xin mạnh dạn dự đoán như thế” [34, tr. 221]. Mill đánh giá “kế hoạch
của ông Hare thuộc loại những cải tiến vĩ đại nhất từng được tạo nên trong lý thuyết
và thực hành chính quyền” [34, tr. 221], bởi nó đảm bảo cho sự đại diện tỷ lệ theo

số đông của bất cứ cấp bầu cử nào dựa trên các nguyên tắc công lý và bình đẳng.
Thêm nữa, các cử tri không còn bị đại diện bởi một người mà họ không lựa chọn
như thực tế ở Anh lúc đó. Với thiểu số ở địa phương không đủ để bầu cho một đại
diện thì “sẽ để ý chờ đợi xem có ứng viên nào tại đâu đó có vẻ như sẽ thu được số
phiếu bầu khác thêm vào số phiếu bầu của họ” [34, tr. 223]. Chính kiểu cách bầu cử
này sẽ có thể đánh giá đúng tài năng và trí tuệ của các ứng cử viên, nó có ích hơn
hẳn tình trạng đương thời khi một ai đó có tài năng và cá tính cũng rất khó được vào
Nghị viện. Lý do bởi “Chỉ có những người có ảnh hưởng địa phương, hay là những
người tiến thân bằng cách chịu chi tiền rộng rãi, hay là những người được một trong
hai đảng lớn cử xuống” [34, tr. 223] mới có thể đắc cử. Với những ý tưởng của ông
Hare, nếu một ai đó không được đại diện bởi người mà họ mong muốn vì sự khắt
khe trên thì họ “đều có thể điền vào lá phiếu của mình trong danh mục các ứng viên,
những người được chọn từ tất cả những người danh tiếng trong quốc gia, có nguyên
tắc chính trị chung mà họ có thiện cảm” [34, tr. 223]. Điều này mở rộng cơ hội vào
Nghị viện cho các ứng viên có tài năng và cá tính mà không chi tiền hay là người
của đảng phái nào.
Có thể đánh giá, hệ thống bầu cử theo ông Hare đáp ứng được tính đại diện
cho những nhóm thiểu số. Mặt khác, “những nhóm đa số hẳn cũng bị bắt buộc phải
chú ý tìm kiếm các nghị sĩ có tầm cỡ cao hơn nữa” [34, tr. 224]. Thêm một lợi ích
từ hệ thống này là, “một khi người được các nhà lãnh đạo đề cử cũng sẽ phải đọ sức
cạnh tranh không phải chỉ với ứng viên của nhóm thiểu số mà còn với tất cả những
21
Footer Page 25 of 126.


×