Tải bản đầy đủ (.docx) (43 trang)

Báo cáo tình hình nuôi xen ghép ở xã phú an huyện phú vang tỉnh thừa thiên huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (781.1 KB, 43 trang )


PHẦN 1. MỞ ĐẦU
Nghề nuôi tôm ở nước ta đã có từ lâu, trong đó tôm sú là đối tượng được ưa chuộng và phổ
biến ở nhiều địa phương. Nhưng do quá chú trọng đến nôi tôm sú đã làm cho môi trường ô
nhiễm, dịch bệnh bùng phát gây nhiều tổn hại cho người sản xuất.
Nuôi trồng thủy sản ở xã Phú An trong những năm gần đây trong những năm gần đây cũng
không tránh khỏi tình trạng trên, diện tích nuôi tôm thấp triều xảy ra dịch bệnh đã mang lại nợ
nần cho hàng trăm hộ nuôi. Nguyên nhân là do vùng nuôi đã qua sử dụng nhiều năm, nuôi nhiều
vụ trong năm làm cho môi trường nước bị ô nhiễm. Hơn nữa cơ sở hạ tầng, kỹ thuật và điều
kiện kinh tế của người nuôi còn hạn chế đã ảnh hưởng đến sự phát triển nuôi trồng thủy sản nơi
đây.
Trước tình hình đó, UBND xã cùng với sự giúp đỡ của phòng NN&PTNT đã chỉ đạo và
động viên bà con nông dân chuyển đổi từ nuôi hạ triều và quảng canh chắn sáo sang mô hình
nuôi xen ghép, điển hình là mô hình nuôi xen ghép tôm sú, cá dìa và cua xanh. Nuôi xen ghép
đang là một giải pháp phù hợp với năng lực và khả năng tài chính của các hộ nuôi, đặc biệt là
những hộ nghèo, cận nghèo. Bên cạnh đó, nuôi mô hình xen ghép hạn chế được rủi ro độc canh,
tỷ lệ sống cao, đồng thời không sử dụng nhiều hóa chất góp phần cải thiện vấn đề ô nhiễm
nguồn nước nuôi trồng thủy sản.
Thấy được những thuận lợi và hiệu quả kinh tế của mô hình mang lại, hiện nay xa Phú An
đã có 317 hộ tham gia nuôi xen ghép các đối tượng, trong đó nuôi xen ghép giữa tôm sú, cá dìa
và cua xanh chiếm 98% tổng số hộ nuôi với tổng diện tích nuôi là 249 ha, năng suất bình quân
đạt 5,44 tạ/ha. Tuy nhiên, tình hinh thời tiết ngày càng biến đổi thất thường, nắng hạn kéo dài,
nhiệt độ tăng, nguồn giống chưa đảm bảo chất lượng, một số ngư dân không chấp hành lịch thời
vụ,… vì vậy mootj số hộ nuôi vẫn chưa có hiệu quả cao.
Trước thực tế đó, tôi xin chọn đề tài “ Điều tra tình hình nuôi xen ghép tôm sú (Penaeus
monodon), cá dìa (Siganus gustatus), cua xanh (Scylla paramamosain) và hiệu quả kinh tế của
mô hình này tại xã Phú An- huyện Phú Vang- tỉnh Thừa Thiên Huế”.
Mục tiêu đề tài:
Thông qua điều tra, nắm được hiện trạng nuôi xen ghép các đối tượng thủy sản có giá trị
kinh tế cao ở Xã Phú An- Huyện Phú Vang- Tỉnh Thừa Thiên Huế.
Đánh giá được hiệu quả kinh tế của mô hình nuôi xen ghép.




PHẦN 2. TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1 Tình hình nuôi trồng thủy sản trên thế giới và ở nước ta.
2.1.1 Tình hình NTTS trên Thế Giới
Trên thế giới, Châu Á là nơi cho sản lượng thủy sản nuôi trồng lớn nhất, chiếm 89% tổng
sản lượng và 77% tổng giá trị sản phẩm sản nuôi trồng thế giới 2006. Năm 2006, tổng sản
lượng nuôi trồng thủy sản trên thế giới là 51 triệu tấn và sản lương khai thác là 92 triệu tấn.
Trong số này, Trung Quốc chiếm 66.7% tổng sản lượng nuôi, các nước Châu Á khác chiếm
22,8% và các nước khác còn lại ở Châu Âu, Châu Mỹ, Châu Úc... Chiếm 10,5%.[2]
Sự phát triển nhanh chóng của các ngành nghề nuôi thủy sản được bắt đầu từ những năm
1970 của thế kỷ XX. Đến nay, nghề nuôi thủy sản vẫn liên tục được phát triển đa dạng lẫn thâm
canh hóa. Nếu như năm 1970, tốc độ tăng trưởng hằng năm về sản lượng là 3,9% thì năm 2006,
tốc độ tăng trưởng là 36%. Sự phát triển nhanh chóng của nghề nuôi đã góp phần tăng tỉ lệ tiêu
dùng sản phẩm thủy sản nuôi trồng từ 0,7 kg/người/năm vào năm 1970 lên 7,8 kg/người/năm
vào năm 2006. Sản phẩm từ nuôi trồng thủy sản chiếm 46% tổng sản phẩm thủy sản tiêu dùng
hàng năm. Ở Trung Quốc, tỉ lệ này là 90%.[2]
Mười nước đứng đầu thế giới năm 2006 về sản lượng nuôi trồng thủy sản gồm: Trung
Quốc, Ấn Độ, Việt Nam, Thái Lan, Indonesia, Bangladesh, Chile, Nhật Bản, Na Uy và
Philippines. Năm 2006, sản lượng nuôi trồng thủy sản của Việt Nam là 1,7 triệu tấn, đứng thứ 5
thế giới sau Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia và Philippines.
Nghề nuôi trồng thủy sản nội địa tiếp tục đóng góp chính cho nghề nuôi trồng thủy sản nói
chung, với hơn 61% sản lượng và 53% tổng giá trị sản phẩm nuôi trồng. Nuôi thủy sản nước
ngọt chiếm 58% sản lượng và 48% giá trị, nuôi biển chiếm 34% sản lượng và 36% giá trị.
Trong khi đó, nuôi nước lợ với tỉ lệ sản lượng thấp 8% nhưng cho tỉ lệ giá trị đến 16% do nuôi
chủ yếu các loài tôm có giá trị cao.
Cơ cấu nhóm loài nuôi cho thấy năm 2006 cá nước ngọt cho sản lượng cho sản lượng cao
nhất là 27,8 triệu tấn đạt giá trị 29,5 triệu USD; động vật thân mềm và rong biển cho sản lượng
và giá trị tương đương nhau. Trong khi đó, giáp xác có sản lượng chỉ 4,5 triệu tấn nhưng đạt giá
trị đến 17,95 triệu USD.

Theo một báo cáo đánh giá xuất bản tháng 1/2009 của tạp chí BioScience, ngành sản xuất
thủy hải sản dường như sẽ tiếp tục phát triển mạnh trên toàn thế giới đến năm 2025. Bản đánh
giá do James S. Diana thuộc trường đại học Michigan thực hiện, nhận định cho dù có những
mối lo ngại về tác động xấu của sản xuất thủy hải sản tới môi trường nhưng những công nghệ
sản xuất đó, khi mà được áp dụng đúng cách sẽ không gây ảnh hưởng nhiều đến đa dạng sinh
học hơn ngành sản xuất thực phẩm.


Báo cáo cho biết tổng sản lượng đánh giá bắt thủy sản trong vòng 20 năm qua dường như
không hề thay đổi và có thể suy giảm một chút. Tuy nhiên, sản xuất nuôi trồng thủy sản tăng
8,8% mỗi năm từ 1985 chiếm 1/3 tổng sản lượng ngành thủy sản tính theo khối lượng. Những
loài cá biển, động vật thân mềm và loài giáp xác là những loài chiếm đa số trong nuôi trồng và
xuất khẩu thủy hải sản mang lại nhiều thu nhập cho các quốc gia đang phát triển nhiều hơn các
sản phẩm thịt, cà phê, chè, chuối và gạo cộng lại.
Kim ngạch xuất khẩu toàn cầu tăng 9,5% vào năm 2006, tăng 7% năm 2007, lên đến con số kỉ
lục 92 tỉ USD. Các nước đang phát triển tiếp tục khẳng định vị trí của mình trong ngành thủy
sản chiếm 50% sản lượng thương mại thủy sản toàn cầu, chiếm 27% giá trị tương đương 25 tỉ
USD. Các nước đang phát triển chiểm 80% tổng nhập khẩu thủy sản toàn cầu
Những năm gần đây việc nuôi nhiều đối tượng thủy sản trong cùng ao nuôi đã mang lại
nhiều hiệu quả đáng kể về môi trường sinh thái, cải tạo tài nguyên, kinh tế. Cơ sở của việc nuôi
xen ghép là các đối tượng này có cùng điều kiện môi trường sống và không cạnh tranh thưc ăn.
Hình thức nuôi này bắt đầu từ những hình thức truyền thống. Hầu hết những nghiên cứu đầu
tiên được thực hiện ở cá nước ngọt, là sự kết hợp giữa nhiều loại trong họ cá chép Trung Quốc.
Hình thức nuôi xen ghép được phát triển ở cá mô hình nước mặn và nước lợ nhưng muộn hơn.
Với số lượng loài lớn, có giá trị kinh tế cao dẫn đến sự phát triển mạnh theo hướng độc
canh đã làm môi trường nuôi ngày càng bị ô nhiễm trầm trọng, dịch bệnh tăng cao, đặc biệt là
trong các mô hình nuôi tôm (Lệ Thị Thu Hà và ctv, 2004). Sự suy thoái này làm cho việc nuôi
tôm gặp nhiều khó khăn.[6]
Để giải quyết vấn đề này những năm 90 nhiều nhà khoa học, ngư dân đã nghiên nuôi hỗn
hợp các đối tượng có khả năng hỗ trợ nhau trong cùng một ao, nhằm cải tạo chất lượng môi

trường, tăng tính hiệu quả sử dụng diện tích mặt nước, tăng tính bền vững trong nuôi trồng thủy
sản mặn- lợ, giảm dịch bệnh, nâng cao hiệu quả.
Việc nuôi xen ghép đag được tiến hành ở nhiều nước như Thái Lan, Việt Nam, Mỹ,
Mehico, Ecuado, Pêru và nhiều khu vực khác của Philippin cà hiện đang được nhân rộng trên
thế giới.
Ở Philippin, việc nuôi xen ghép cá rô phi và tôm đã mang lại hiệu quả kinh tế cáo, giúp
người dân tỉnh Ifugao tìm ra phương án mới tăng thu nhập. Người nuôi đã thu được 300kg tôm
với kích cỡ 12con/kg từ ao nuôi xen ghép với cá rô phi có diện tích 600m2.
Ở Hoa Kỳ, một số ngư dân đã thử nghiệm nuôi tôm Chân trắng với cá da trơn. Ông Jackson
Curie ở trong bang Arkansas (Mỹ) đã nuôi thành công mô hình này trong hai năm qua. Ông
Curie đã nuôi xen ghép tôm Chân trắng với cá da trơn ở Arkansas cách đay ba năm, đến năm
2006 bắt đầu nuôi thương mại mở ra triển vọng mới cho khu vực Đông Nam bang Arkansas.


Việc nuôi xen ghép nhiều đối tượng thủy sản đã đươc nhiều nước trên thế giới nghiên cứu
với áp dụng trong nuôi trồng thủy sản rất sớm. Mô hình này đã đem lại năng suất cao, tăng hiệu
quả kinh tế, cải tạo được môi trường nuôi và hạn chế dịch bệnh.
2.1.2 Tình hình NTTS ở Việt Nam
Viêt Nam là một quốc gia có nhiều thuận lợi cho việc phát triển ngành nuôi trồng thủy sản có bờ biển đai 3260 km kéo dài từ Bắc đến Nam, hệ thống sông ngòi phân bố dày, nhiều eo
vịnh và đầm phá, chính vì vậy mà ngành kinh tế mũi nhọn của Việt Nam. Ngành nuôi trồng
thủy sản đem lại nhiều lợi nhuận, góp phần phát triển kinh tế xã hội.
Ngành nuôi trồng thủy sản nước ta phát triển rất năng động. Nghề nuôi thủy sản truyền
thống bắt đầu từ thập niên 1960, tuy nhiên trong vòng 10 năm nay, nghề nuôi thủy sản có tốc độ
phát triển rất nhanh chóng. Theo thống kê ở các tỉnh/thành phố năm 2010 cả nước có trên 1
triệu ha mặt nước NNTS, tăng 45% so với năm 2001, bình quân giai đoạn từ năm 2001-2010
tăng 4,2% năm. Về sản lượng, năm 2010 đạt khoảng 2,47 triệu tấn thủy sản các loại tăng
286,3% so với năm 2001. Trong đó, sản lượng nuôi trồng thủy sản nước lợ- mặn là 691,5 nghìn
tấn, sản lượng nuôi nước ngọt đạt 2 triệu tấn. Hiện nay, đối tượng nuôi và mô hình nuôi thủy
sản ở Việt Nam khá phong phú. Tuy nhiên, chủ lực nhất là mô hình nuôi cá tra thâm canh ở
vùng nước ngọt và nuôi tôm ở vùng nước lợ ven biển. Đặc biệt, năm 2010 sản lượng nuôi cá tra

và basa đạt 1.038.256 tấn và sản lượng tom nuôi đạt 470.314 tấn.
Trong báo cáo vừa công bố của Tổng Cục Thống Kê cho biết, sản lượng thủy sản tháng
1/2013 ước tính đạt 376.100 tấn tăng 3,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá đạt 281.700
tấn tăng 2,1%; tôm đạt 33.200 tấn, tăng 2,5%.
Tại cuộc hội thảo quy hoạch tổng thể phát triển thủy sản Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn
2030 do Bộ NN&PTNT tổ chức ngày 22-6-2012, TS. Nguyễn Thanh Tùng, Viện trưởng Viện
Kinh tế và Quy hoạch thủy sản cho biết, ngành thủy sản Việt Nam đối mặt với rất nhiều khó
khăn như công tác tổ chức sản xuất trên biển còn quá nhiều bất cập, đầu vào và đầu ra sản phẩm
của ngư dân đều do tư thương quản lí, kể cả nguốn vốn nên tình trạng ép giá thường xuyên xảy
ra. Sản lượng khai thác thủy sản (KTTS) giá thấp vẫn chiếm tỉ trọng cao, trên 70% là cá tạp các
loại dùng trong chế biến thức ăn và tiêu dùng nội địa. Việc sử dụng các hóa chất bị cấm trong
NTTS vẫn xảy ra, dẫn tới những nhiều lô hàng xuất khẩu của Việt Nam bị trả lại; dịch bệnh liên
tiếp xảy ra gây thiệt hại lớn cho người nuôi.
Trong cuộc hội thảo nhiều đại biểu tham dự đã cho rằng để quy hoạch tổng thể ngành thủy
sản cho những năm tiếp theo cần phải thực hiện đồng bộ các giải pháp, cần quy hoạch vùng
nuôi theo quy mô lớn, tránh nhỏ lẻ, tự phát dẫn tới không kiểm soát dịch bênh. Đầu tư cơ sở vật
chất cho NTTS, KTTS, chế biến và xuất khẩu; đổi mới khoa học công nghệ để giảm tổn thát sau
thu hoạch xuống còn 10% trong năm 2020.


Thứ trưởng Vũ Văn Tám đã nhấn mạnh phát triển NTTS chưa thể hiện rõ sự gắn kết giữa
công tác nghiên cứu khoa học và công nghệ với thực tiễn NTTS, chưa đáp ứng yêu cầu của
người nuôi của các lĩnh vực cơ bản như con giống, công nghệ nuôi, quản lí môi trường và dịch
bệnh.
Sự phát triển NTTS chưa bền vững đã thể hiện qua tổng sản lượng thủy sản nuôi trồng
tháng 1/2013 ước tính đạt 170.600 tấn, giảm 0,8% so với cùng kì năm trước. Trong đó, đặc biệt
nuôi cá tra vẫn còn gặp khó khăn do cá tra nguyên liệu ở mất giá thấp trong khi giá cả các yếu
tố đầu vào tăng nên sản lượng các tra thu hoạch giảm 0,9% so với cùng kì năm trước.
Tỉ trọng trong xuất khẩu thủy sản: Cá tra và cá basa chiếm 50,4% về khối lượng và 32,7%
về giá trị; tốm chiếm 15,9% về khối lượng và 36,9% về giá trị; cá ngừ chiếm 4,4% về khối

lượng và 4,0% về giấ trị; mực và bạch tuộc chiếm 6,7% về khối lượng và 6,8% về giá trị, còn
lại là các loại thủy sản khác.
Năm 2009, tổng số lượng cá tra giống các tình Đồng Bằng Sông Cửu Long đã sản xuất
được 2.033 triệu con. Trong đó, tỉnh Đồng Tháp sản xuất 905 triệu con giống, An Giang sản
xuất 589 triệu con giống và tỉnh Cần Thơ sản xuất 305 triệu con giống. Giá bán cá Tra giống cỡ
2cm thời điêmt cuối năm 2009 chỉ còn 500-600đ/con, giamr 20-30% so với 2 tháng trước.
Ông Võ Văn Vân(2013) KP. Đông, phường Vĩnh Phú, TX. Thuận An - Bình Dương với mô
hình nuôi cá tai tượng trong ao đất đã đưa kinh tế gia đình thoát nghèo. Thu nhập bình quân
hằng năm từ nuôi cá tai tượng của ông khoảng 400 triệu.[15]
Ở Mỹ Thới, địa bàn ngoại thành Long Xuyên với kinh nghiệm của người nông dân nên nơi
đây có số hộ nuôi lươn nhiều nhất, với chất liệu ni-lon, diện tích mỗi bồn 40m 2 +(4m x 10m), có
thể thả lương giống 40-50/con/m2 (loại 50-60 con/kg), sau 5-6 tháng nuôi trọng lượng 150g200g/con, sản lượng đạt 150kg-250kg/bồn. Bính quân mỗi bồn người nuôi thu được lợi nhuận
khoảng 13 triệu.
Tại xã Nam Thái A thuộc huyện An Biên, tỉnh Kien Giang có khoảng 272 ha diện tích nuôi
kết tôm- cua- sò huyết tập trung ở Xẻo Quao A, Xẻo Đôi, Bảy Biển và Xẻo Vẹt với 52 hộ nông
dân thực hiện mô hình này. Với nguồn vốn đầu tư không cao, người nuôi chỉ tốn tiền mua
giống, có thể tận dụng nguồn thức ăn tự nhiên có sẵn trong ao nuôi. Mo hình nuôi ghép này đã
góp phần vào cải thiện môi trường nước ao như lọc tảo, xử lí mùn bả hữu cơ, vi sinh vật và đã
giúp nhiều hộ dân có thu nhập ổn định hơn và vươn lên làm giàu.
Ngày này, hình thức nuôi đa dạng hơn như nuôi trong ao hồ nhỏ, nuôi trông lồng bè trên
sông, nuôi luân xen canh thủy sản- lúa... Đặc biệt là khu vực Đồng Bằng Sông Cửu Long với
diện tích NTTS rông lớn phân bố trên toàn vùng. Những mô hình nuôi trồng thủy sản trên cùng
nước ngọt tập trung ở vùng ngập lũ tứ giác Long Xuyên, vùng Đồng Tháp Mười và vùng trũng
nội địa thuộc bán đảo Cà Mau, chủ yếu ở một số tỉnh thành như: Đồng Tháp, An Giang, Vĩnh


Long, Cần Thơ, Trà Vinh, Sóc Trăng, Cà Mau... Các mô hình nuôi thủy sản phổ biến hiện nay
là canh tác lúa- tôm (tôm nước ngọt và tôm càng xanh), canh tác lúa-cá (cá lóc, cá rô, cá sặc, cá
chép...), nuôi cá bè trên sông (cá basa, cá tra, cá lóc bông...), nuôi tôm/cá đăng quầng (cá linh,
cá rô, các loại tôm tự nhiên...), nuôi cá lóc trong vèo...

Việc nuôi xen ghép các đối tượng thủy sản trong cùng một ao nuôi ở nước ta xuất khảu khá
sớm. Ban đầu hình thức này chủ yếu được áp dụng trên các đối tượng cá nước ngọt như các mô
hình: nuôi xen ghéo cá Mè- cá Chép- cá Trắm Cỏ trong cùng một ao, mô hình lúa- cá kết hợp.
Nhìn chung các mô hình này đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn so với mô hình nuôi đơn.
Hình thức nuôi xen ghép đã được nhân rộng trên nhiều đối tượng thủy sản và nhiều môi
trường khác nhau.
Độc canh tôm Sú gây nhiều rủ ro, làm thiệt hại kinh tế nặng nề cho ngư dân, đồng thời làm
ô nhiễm môi trường. Để khắc phục tình trạng trên ngư dân đã nuôi xen ghép nhiều đối tượng
thủy sản trong cùng một ao nuôi.
Bùi Huy Cộng và ctv, (1997) với mô hình lúa-cá kết hợp tại tại Phú Thinh(Yên Bình, Yên
Bái), Đại Bái (Gia Lương, Bắc Ninh), Yên Chính (Ý Yên, Nam Định). Kết quả cho thấy năng
xuất lúa ở mô hình 2 vụ lúa + 1 vụ cá tăng 8,7-12% và năng xuất cá đạt 475-640kg/ha, hiệu quả
gấp 5 lần so với cây lúa đon thuần. Còn năng xuất lúa ở mô hình 1 vụ lúa + 1 vụ cá tăng 17,3%,
năng xuất cá đạt 1173-1377kg/ha, hiệu quả tăng gấp 3 lần so với cây lúa đơn thuần. Bên cạnh
những lợi ích đó thì các mô hình này còn góp phần làm sạch môi trường.[1]
Nguyễn Văn Hiền (2013) ở Ấp 10- Xã Tân Phong- Huyện Giá Rai- Tỉnh Bạc Liêu với mô
hình quản canh cải tiến, kết hợp với nuôi cá và nuôi cua. Kết quả cho thấy bình quân mỗi năm
thu nhập từ tôm, cua của ông đạt 200 triệu đồng.[4]
Ở An Giang, nhiều người nuôi xen ghép tôm Sú với cá Kèo, một đối tượng có giá trị kinh tế
cao. Việc nuôi cá Kèo bắt đầu vào mùa mưa (tháng 4 âm lịch), nên nuôi cá Kèo khi tôm Sú đã
lớn, và chọn cá khỏe mạnh thả nuôi. Ngoài ra, ở đây còn nuôi cá thát lát. Người thực hiện mô
hình này vừa cho thu hoạch 30.000 con cá thát lát sau gần 6,5 tháng thả nuôi, được trên 14 tấn
cá thương phẩm với giá 37.000 đ/kg thu về lợi nhuận trên 150 triệu đồng.[5]
Tại An Giang, vơi sự chuyển giao kĩ thuật của phòng Kinh tế Tân Châu và Hội Nông Dân
thị xã, xã Vĩnh Xương có khoảng 100 hội viên, nông dân tham gia nuôi cá lóc, lươn và ếch Thái
Lan. Trong đó, có việc ương con giống và nuôi ếch thịt được tổ chức khá thành công. Còn ở xã
Long An, từ tổ hùn vốn Long Thành đã xuất phát nhiều mô hình nuôi trồng thủy sản, hỗ trợ cho
hội viên và nông dân có hoàn cảnh khó khăn.
Cá chình là một loài hải sản có giá trị kinh tế cao. Ở Bà Rịa - Vũng Tàu, đã nuôi xen ghép
cá Chình với cá Trắm, cá Mè. Mật độ cá Trắm, cá Mè 4000-5000 con/ha.



Trên thực tế việc nuôi xen ghép tôm Sú với cá Rô Phi đã mang lại nhiều lợi ích kinh tế cao,
giảm thiểu được nhiều rủi ro, dịch bệnh, cải thiện môi trường nuôi.
2.1.3 Tình hình nuôi xen ghép ở Thừa Thiên Huế
Khu hệ đầm phá Thừa Thiên Huế có nhiều điều kiện để phát triển nghề nuôi trồng thủy sản.
Trong những năm đầu mới đưa con tôm Sú và nuôi trong khu vực đã góp phần thay đổi đáng kể
tập quán sản xuất của ngư dân ven phá đồng thời đem lại nguồn thu đáng kể, nhiều hộ đã giàu
lên nhờ nghề nuôi tôm. Tuy nhiên cùng với sự phát triển theo thời gian trên một đối tượng nuôi
chuyên canh là con tôm Sú đã làm cho môi trường ngầy càng ô nhiễm, dịch bệnh phát sinh và
hiệu quả mang lại từ việc nuôi độc canh con tôm Sú đã không còn nữa.
Từ thực trạng đó, đã nảy sinh suy nghĩ từ phía cán bộ và người dân có liên quan đến nghề
sông nước này. Việc nghiên cứu các mô hình nuôi xen ghép tôm Sú với một số đối tượng khác
(cá Kình, cá Dìa...) là một hướng đi mới, thân thiện với môi trường góp phần cho ngành thủy
sản phát triển một cách bền vững.
Năm 2007, nhóm nghiên cứu thuộc Khoa Thủy Sản trường Đại học Nông Lâm Huế đã tiến
hành đề tài nghiên cứu tác động của việc nuôi ghép một số loài thủy sản trong cùng một ao nuôi
tôm Sú đến chất lượng môi trường nước tại khu vực đầm Sam- Chuồn, huyện Phú Vang. Kết
quả nghiên cứu cho thấy biến động của các yếu tô môi trường trong các ao thi nghiệm trong
phạm vi cho phép, các đối tượng nuôi có tốc độ ăng trưởng khá nhanh chứng tỏ các đối tượng
này có thể nuôi xen ghép trong cùng một ao, sinh khối của Rong câu không tăng chứng tỏ nó đã
được cá Dìa sử dụng làm thức ăn.
Trong thời gian qua, đã có nhiều nghiên cứu về vấn đề nuôi xen ghép ở đầm phá Tam
Giang- Thừa Thiên Huế:
Công Trình nghiên cứu về nuôi xen ghép, cải tạo môi trường. Năm 1998- 1999, dự án quản
lí nguồn lợi sinh học đầm phá Tam Giang- Cầu Hai do IDRC tài trợ đã sử dụng cá Rô phi đơn
tính để cải thiện môi trường nhưng hiệu quả kinh tế chưa cao nên chưa được nhân rộng.[3]
Năm 2003- 2004, Viện nghiên cứu nuôi trồng thủy sản II Nha Trang đã triển khai mô hình
nuôi sinh thái Ốc Hương, rong Sụn, rong Câu, cá Dìa, vẹm Xanh tại đàm Lăng Cô. Bước đầu đã
hạn chế được dịch bệnh cho Ốc Hương.

Năm 2004, Tôn Thất Chất và ctv, đã tiến hành cho sinh sản thành công giống tôm Rằn, một
loài bản địa được người dân nuôi ghép với các đối tượng khác, mô hình này cũng đã đạt được
hiệu quả cao.[9]
Cùng với hướng đi đó, Trung tâm Khuyến ngư tỉnh Thừa Thiên Huế đã nghiên cứu và nhân
rộng các mô hình: tôm Sư- cá Dìa, tôm Sú- cá Kình, tôm Sú- cá Kình- cá Dìa tại một số xã vùng


đàm phá và thực tế cho thấy các mô hình trên mang lại hiệu quả tốt, giúp bà con ngư dân yên
tâm ổn định sản xuất.[2]
2.1.3.1 Nuôi tôm
Tôm sú (Penaeus monodon) là loài nuôi chính, loài phụ là tôm rảo (Metapenaeus ensis)
như ở Hương Phong và Vinh Hưng cũng có thành công. Tôm được nuôi chủ yếu bằng ao trung
bình rộng 5.000 m2. Mức độ thâm canh tăng qua các năm và năm 2005 có 53% người nuôi nuôi
bán thâm canh, 31,6% nuôi quảng canh cải tiến, số còn lại một nửa làm thâm canh một nửa làm
quảng canh. Những người nuôi không phải là nghề chính thì có xu hướng làm quảng canh cải
tiến. Mật độ thả đối với tôm sú bây giờ đã quy định nghiêm ngặt (Điều 6.2 Quyết định
3014/2005/QĐ-UBND) có lien quan đến vị trí của hồ: (i) Nuôi thấp triều là dưới 10 con
PL15/m2, (ii) Nuôi cao triều là 10- 20 con PL15/m 2 đối với nuôi bán thâm canh, và 25- 40 con
PL15/m2 đối với nuôi thâm canh.
Năng suất giao động giữa 0,5 đến 1,3 tấn/ha/vụ. Tại một số xã, người nuôi làm hai vụ một
năm, từ tháng 1 tháng 2 đến tháng 9, chẳng hạn như ở Lộc Bình và vinh Hưng. Tuy nhiên, một
số UBND xã như ở Quảng Công đã cấm nuôi hai vụ một năm vì mức độ rủi ro cao. Người dân
được phép nuôi xen tôm, cá hoặc cua, rong biển. Ở Vinh Hưng, tôm được nuôi chung với cá dìa
và các loại cá khác để tận dụng nguồi thức ăn (công nghiệp hoặc thức ăn tươi như cá con/tép)
để cải thiện độ sinh trưởng của tôm. Hồ tôm chiếm phần lớn diện tích vùng trung triều quanh
đầm phá, khoảng 48% hồ nằm vùng thấp triều và chỉ có 23,6% hồ nằm vùng trung triều và cao
triều, 21,6% hồ nằm ở các ruộng lúa chuyển đổi và 6,6% hồ ở đất cát.
2.1.3.2 Nuôi cá
Nhiều loài cá nước ngọt, nước lợ và biểu hiện được nuôi trên vùng đầm phá. Có nhiều hinh
thức nuôi: ao đất (rộng trung bình 700m2), ao vây ở phá (rộng trung bình 8.500m2), lồng chìm

hoặc nổi, và nuôi cá- lúa (rộng trung bình 4.000m2). Ở các xã Quảng Thái, Quảng Lợi và Điền
Hải, hình thức nuôi này chủ yếu là nuôi xen canh hơn là tổng hợp, và hiện nay người nuôi đang
được tập huấn để chuyển đổi hình thức nuôi. Những loài cá nước mặn nuôi gồm có cá hồng
(Lutjanus sp.), cá mú (Epinephelus sp.), cá dìa (Siganus guttatus) và cá giò đen hay cá bớp
(Rachycentron canadum), cá trắm cỏ (Ctenopharyngodon idellus), cá chép (Cyprinus carpio),
cá rô phi (Oreochromis niloticus và O. mossambicus), trê phi và lươn (Anguilla anguilla).
Khoảng 65% người nuôi có một cơ sở nuôi và một phần tư (25,6%) có hai hồ. Số lượng lồng
trung bình của một người nuôi là hai lồng, 63,9% hồ cá nước ngọt nuôi cá chép và 32,5% nuôi
cá trắm cỏ, mè trắng và cá khác. Chỉ có 3,6% nuôi cá nước mặn như cá dìa và cá hồng bằng ao.
Nuôi lồng có 55,3% nuôi cá hồng và cá mú. Cá trắm cỏ cũng thường nuôi lồng (42,1%). Nuôi
bằng ao vây chủ yếu ở vùng thấp triều (77,8%) và phần còn lại ở vùng trung triều (22,2%), 95%
nuôi lồng đặt ở đầm phá.


2.1.3.3 Nuôi cua
Gần đây, cua xanh (Scylla paramamosain) đã được nuôi ở Huế, thường nuôi xen canh với
loài khác, trong đó có tôm. Cua xanh là cá thể mang mầm bệnh cho tôm như virus đốm trắng,
cho nên có thể là nguồn gây bệnh cho tôm. Cua cũng được nuôi trong ao vây (ở Phú Xuân). Ở
Huế có một trại giống tôm thử nghiệm nhưng phần lớn cua giống được bắt từ thiên nhiên.
2.1.4 Tình hình nuôi trồng thủ sản tại xã Phú An
2.1.4.1 Đặc điểm tình hình nuôi trồng thủy sản
Đầm phá xã Phú An thuộc vùng đầm Sam Chuồn, nằm trong hệ thống đầm phá Tam
Giang- Cầu Hai có diện tích mặt nước 648 ha, chiếm 57,44% diện tích của xã..
Đây là vùng nuôi trồng thủy sản trọng điểm của xã Phú An, chủ yếu là hình thức nuôi xen
ghép, chắn sáo, hạ triều xen lẫn nò sáo đánh bắt tự nhiên, mật độ tương đối dày đặc, đan xen
chồng chéo lên nhau. Trước đây, đầm phá xã Phú an nổi tiếng giàu có về nguồn lợi thủy sản,
phong phú và đa dạng sinh học. Tuy nhiên, do khai thác quá mức đã làm cho nguồn lợi thủy sản
ngày càng cạn kiệt, môi trường nước ô nhiễm đến mức báo động dẫn đến việc khai thác và nuôi
trồng thủy sản gặp nhiều hạn chế.
Năm 2015, UBND xã tăng cường công tác quản lý, tuyên truyền vận động cho ngư dân, tổ

chức nhiều đợt ra quân tháo dỡ, cưỡng chế các hộ tái lẫn chiếm , mở các đường thủy đạo chính
để thuận tiện đi lại và tạo môi trường thông thoáng. Song đó mới chỉ là nhưng biện pháp tạm
thời trước mắt, chưa có tính khoa học để phát triển theo hướng lâu dài và bên vững.
2.1.4.2 Những thuận lợi và khó khăn


Thuận lợi

Được sự quan tâm chỉ đạo của Thường vụ huyện ủy, HĐND, UBND huyện, sự quan tâm
giúp đỡ của phòng NN&PTNT, Trung tâm khuyến nông lâm ngư tỉnh, đặc biệt là sự lãnh đạo
của Đảng ủy, HĐND, UBND xã, sự phối hợp chặt chẽ của các đoàn thể cùng với sự nổ lực của
bà con ngư dân.
Trình độ của ngư dân từng bước được nâng lên về khả năng ứng dụng khoa học kỹ thuật
vào nuôi trồng thủy sản, nâng cao hiệu quả kinh tế, bảo vệ môi trường, đa dạng hóa đối tượng
nuôi nhằm giảm thiểu rủi ro, từng bước sản xuất theo hướng bền vững, giá cả tương đối ổn
định.


Khó khăn

Tình hình thời tiết ngày càng biến đổi thất thường, nắng hạn kéo dài, nhiệt độ tăng cao, môi
trường đầm phá và các vùng nuôi ngày càng bị ô nhiễm gây thiệt hại cho việc nuôi trông thủy


sản như tôm, cá dìa, cua xanh. Đặt biệt, năm nay vào đầu vụ nuôi đã có 3 đợt không khí lạnh
lien tiếp làm ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng tôm ương.
Tổ cộng đồng nuôi trồng thủy sản của ngư dân đã được củng cố nhưng hoạt động chưa hiêu
quả nên hạn chế trong việc theo dõi, quản lý của ban chỉ đạo nuôi trồng thủy sản.
Các đường thủy đạo, đường mương xương cá đã mở rộng theo quy định nhưng vẫn còn một
số hộ nhiều lần tái lấn chiếm làm ảnh hưởng đến việc nuôi trồng thủy sản.

2.1.4.3 Công tác chỉ đạo NTTS


Về thời vụ

Căn cứ vào lịch thời vụ của tỉnh, UBND xã đã thông báo rộng rãi trên đài truyền thanh của
xã và cung cấp kịp thời khung lịch thời vụ cho các tổ ngư dân thôn Định Cư. Năm 2015, tùy
theo điều kiện tự nhiên của từng vùng mà khung lịch thời vụ cũng thay đổi để phù hợp với
những điều kiện thời tiết nắng ấm, độ mặn trên 10 0/00 thì ngư dân có thể thả nuôi dưới sự giám
sát của cán bộ chuyên môn. Tuy nhiên, vẫn còn một số hộ không chấp hành thực hiện.


Công tác quản lý giống và môi trường
Thực hiện chỉ dạo của UBND huyện, UBND xã tiếp tục triển khai quy chế quản lý các

vùng nuôi tập trung, quy chế quản lý giống từng hộ ngư dân để nâng cao nhận thức cộng đồng.
Trong công tác quản lý nuôi trông thủy sản, UBND xã đã phối hợp với phòng NN&PTNT
huyện, trung tâm khuyến nông lâm ngư thường xuyên kiểm tra các hộ đưa giống về ương, thả
phải có nguồn gốc và phải qua kiểm tra, kiểm dịch. Việc kiểm tra, kiểm dịch bằng máy PCR
được thực hiện miễn phí tại trạm thú y nhưng vẫn không có hộ nào mang mẫu đi xét nghiệm.
Việc kiểm tra nguồn giống có nhiều bất cập, đặc biệt là những hộ nuôi trồng thủy sản thả
tôm PL15, khi vào chính vụ lượng tôm mua về ào ạt từ các xã, huyện và các tỉnh lân cận, chủ
yếu đưa vào ban đêm hoặc sáng sớm nên khó kiểm tra, không kiểm soát được.


Công tác ương giống:

Năm 2016, bà con ngư dân đã ương nuôi 1000 vạn tôm giống P15 vượt 100 vạn so với kế
hoạch đề ra. Do chủ trương của địa phương là nuôi xen ghép một vụ ăn chắc nên hầu hết bà con
ngư dân chọn thời điểm thuận lợi và chọn giống tốt tại địa phương nhiều hơn các năm trước.



Bước vào vụ NTTS, UBND xã đã kiện toàn và củng cố BCĐ của xã để chỉ đạo việc nuôi
trồng kết hợp với phòng NN&NTNT huyện, trung tâm khuyến nông lâm ngư, chi cục nuôi của
tỉnh, thường xuyên kiểm tra vận động ngư dân trước khi đưa giống về thả phải rõ nguồn gốc và
phải kiểm tra qua máy PCR để đảm bảo chất lượng.






Công tác khuyến ngư
Được sự hỗ trợ của phòng NN&PTNT huyện, tổ chức tại địa phương 03 lớp tập huấn về
kỹ thuật đo các yếu tố môi trường cho 90 người ở ba thôn Trều Thủy, An Truyền và
Định Cư.
Phòng NN&PTNT huyện trình diễn mô hình nuôi xen ghép các đối tượng trong ao nuôi
tôm (cua, tôm sú, cá dìa) từ nguồn vốn xây dựng nông thôn mới với diện tích là 04 ha
của 04 hộ ở An Truyền và Triều Thủy, lãi từ 27 – 35 triệu đồng sau 04 tháng nuôi.
Công tác giải tỏa nò sáo
Trong năm 2016, UBND xã đã kết hợp với các phòng ban liên quan của huyện giải toả
cưỡng chế 01 đợt với 07 hộ lấn chiếm và mời 14 hộ lên tuyên truyền tự tháo dở.
 Tóm lại, công tác chỉ đạo NTTS năm 2016, tuy gặp nhiều khó khăn do ngư dân
thiếu vốn sản xuất, nguồn giống tôm không đảm bảo chất lượng, điều kiện thời tiết
biến đổi thất thường, ô nhiễm môi trường, nhưng dưới sự chỉ đạo của cấp ủy Đảng
và điều hành của UBND xã cùng với sự nhiệt tình của ngư dân nên vụ nuôi năm
2016 đạt 99,8% so với kế hoạch đề ra.


PHẦN 3. ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

3.1 Đối tượng, thời gian và địa điểm nghiên cứu
3.1.1 Đối tượng nghiên cứu
Các hộ nuôi xen ghép tôm sú (Penaeus monodon), cá dìa (Siganus gustatus), cua xanh
(Scylla serrata): thông tin về người nuôi, con giống, ao hồ, diện tích nuôi, hình thức nuôi, thức
ăn, chăm sóc quản lý, dịch bệnh, thị trường tiêu thụ…
3.1.2 Thời gian nghiên cứu
3.1.3 Địa điểm nghiên cứu
Xã Phú An, Huyện Phú Vang, Tỉnh Thừa Thiên Huế

3.2 Nội dung nghiên cứu
3.2.1 Tình hình cơ bản của địa phương nghiên cứu

-

Các chỉ tiêu gồm có:
Điều kiện tự nhiên (vị trí địa lý, khí hậu, thủy văn, địa hình).
Tình hình kinh tế- xã hội (dân số, lao động, sử dụng đất đai, hiện trạng cơ sở hạ tầng).

3.2.2 Tình hình nuôi xen ghép tôm sú, cá dìa, cua xanh của xã Phú An



-

Các chỉ tiêu gồm có:
Thông tin về người nuôi (trình độ, số người tham gia, quy mô, diện tích nuôi).
Đối tượng và cơ cấu giống thả nuôi (đối tượng thả nuôi, nguồn giống, mật độ nuôi, hình
thức nuôi).
Chăm sóc, quản lý.
Thức ăn trong mô hình nuôi ghép.

Tình hình dịch bệnh.
Thị trường tiêu thụ sản phẩm.

3.2.3 Hiệu quả kinh tế của mô hình nuôi xen ghép
-

Thuận lợi của mô hình nuôi xen ghép.
Lợi nhuận thu được sau vụ nuôi.

3.3 Phương pháp nghiên cứu
3.3.1 Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp
-

Tài liệu về tình hình nuôi xen ghép tôm sú, cá dìa, cua xanh được thu thập trên website.
Tài liệu liên quan về NTTS, về tình hình kinh tế- xã hội ở xã Phú An được thu thập tại
phòng nông nghiệp huyện Phú Vang.
Các tài liệu liên quan khác được thu thập qua sách báo, tạp chí, các website.

3.3.2 Phương pháp phỏng vấn

-

Kết hợp phỏng vấn chính thức và bán chính thức:
Phỏng vấn chính thức: sử dụng bảng hỏi chuẩn bị sẵn, hỏi người dân và điền các thông
tin vào bảng hỏi, không hỏi thêm các câu hỏi ngoài bảng hỏi.
Phỏng vấn bán chính thức: chuẩn bị các đề mục và hỏi các người dân để hình thành, phát
triển các câu hỏi phỏng vấn tiếp theo.

3.3.3 Phương pháp điều tra
3.3.3.1 Phương pháp chọn hộ điều tra


-

Số hộ điều tra: 30 hộ
Tiêu chí chọn hộ:
Hộ có nuôi xen ghép tôm sú, cá dìa, cua xanh ở xã Phú An
Chọn hộ ngẫu nhiên: lấy danh sách tên các hộ hiện đang nuôi ghép 3 đối tượng trên do
cán bộ xã cung cấp, sau đó chọn ngẫu nhiên ra 30 hộ trong danh sách (không phân biệt
thôn, giàu nghèo…) để điều tra.

3.3.3.2 Thiết kế bảng hỏi


-

-

Thiết kế bảng hỏi: dựa vào những yêu cầu cần điều tra để thiệt kế bảng hỏi. Bảng hỏi
được chia làm 7 phần (thông tin chung về hộ được điều tra, con giống, thức ăn, chăm sóc
quản lý, tình hình dịch bệnh và sử dụng thuốc, hiêu quả kinh tế).
Điều tra thử: chọn 5 hộ ngẫu nhiên để điều tra thử nhằm tìm ra một số câu hỏi không hợp
lý, một số thuật ngữ trong bảng hỏi người dân không hiểu hoặc khó hiểu.
Hoàn thiện bảng hỏi: chỉnh sửa những chỗ chưa hợp lý phát hiện được qua quá trình điều
tra thử , sau đó đi đến hoàn thiện bảng hỏi.

3.3.3.3 Tiến hành điều tra
-

Điều tra bằng phương pháp phỏng vấn trực tiếp các hộ dân được chọn thông qua bảng hỏi
đã được chuẩn bị sẵn.


3.3.4 Phương pháp sử lý số liệu
-

Số liệu được xử lý bằng phần mềm Excel.
PHẦN 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN

4.1 Điều kiện tự nhiên xã Phú An
(hình bản đồ xã Phú An)
Xã phú an có tổng diện tích 1128 ha, phía Đông giáp phá Tam Giang, phía Tây giáp xã Phú
Dương, phía Nam giáp xã Phú Mỹ và phía Bắc giáp thị trấn Thuận An và xã Phú Thanh.
Xã phú an nằm trong vùng có nền nhiệt cao,nhiệt độ trung bình năm từ 25,5 0C đến 27,60C.
Các tháng có nhiệt độ cao là tháng 6, 7, 8. Các tháng có nhiệt độ thấp là 1, 2, 12.
Khí hậu của xã Phú An có hai mùa rõ rệt: mùa mưa và mùa khô. Mùa khô vào các tháng 9,
10, 11, 12. Lượng mưa hằng năm rất lớn, trị số trung bình là 2636mm- 2867mm.
Chế độ gió có hai mùa: gió mùa mùa hạ và gió mùa mùa đông. Gió Tây Nam (Gió Lào)
khô nóng hoạt động từ tháng 4 đến tháng 8, đây cũng là khoảng thời gian nắng nóng, nhiệt độ
cao làm bốc hơi nước. Gió Tây Nam trùng với mùa nắng nóng nên thường gây nên hạn hán,
thiếu nước, độ mặn tăng cao,… ảnh hưởng lớn đến cây trồng vật nuôi, nhất là hoạt động nuôi
trồng thủy sản.
Bão lũ thường xuyên xuất hiện từ tháng 7 đến tháng 11. Bão, mưa lớn, nước dâng, lũ lụt là
hiện tượng thường xảy ra vào tháng 9, 10, 11 gây nhiều thiệt hại đến sản xuất của nhân dân xã
Phú An.
4.2 Kết quả điều tra, phỏng vấn bằng bảng hỏi


Chọn ngẫu nhiên 30 hộ gia đình tham gia nuôi xen ghép các đối tượng tôm sú, cá dìa, cua
xanh để phỏng vấn lấy thông tin. Kết quả điều tra, phỏng vấn các hộ theo thôn như sau:
Bảng 4.1- Số hộ chọn ngẫu nhiên để điều tra
Thôn

Định cư
Thủy Diện
An Truyền
Triều Thủy

Số hộ

4.3 Thông tin về người nuôi xen ghép ở xã Phú An
4.3.1 Trình độ của người tham gia nuôi và số người tham gia nuôi xen ghép
Trình độ của những người tham gia nuôi xen ghép ở xã Phú An được trình bày qua bảng
4.2

Bảng 4.2- Trình độ người nuôi
Trình độ
Số người
Dưới cấp 1
Cấp 1
Cấp 2
Cấp 3
Biểu đồ 4.1- Tỷ lệ về trình độ người tham gia nuôi

Tỷ lệ

Qua điều tra chúng tôi nhận thấy rằng trong 30 hộ được điều tra có tổng số 38 người tham
gia vào hoạt động nuôi trồng thủy sản.
Hầu hết các hộ dân đều là nông dân có trình độ học vấn không cao, chỉ 3 người (chiếm
8%) có trình độ cấp 3, trình độ cấp 2 có 18 người (chiếm 47%), trình độ cấp 1 có 13 người
(chiếm 34%) và dưới cấp có 4 người (chiếm 11%).
Với trình độ không đồng đều và còn ở mức trung bình như vậy, người tham gia nuôi sẽ gặp
nhiều khó khăn trong việc tập huấn kỹ thuật của cán bộ và tiếp thu kỹ thuật của người tham gia

nuôi cũng sẽ bị hạn chế.
Trong nuôi trồng thủy sản, ngoài những yếu tố tự nhiên tác động, yếu tố con người rất quan
trọng trong quá trình sản xuất, con người có khả năng điều chỉnh một số yếu tố bất lợi cho đối


tượng nuôi như: giảm các loại khí độc, điểu chỉnh pH, quản lý nguồn thức ăn,… Nếu có trình
độ nhất định đáp ứng tiếp thu kỹ thuật tốt sẽ là điều kiện thuận lợi để có vụ nuôi thành công.
Qua quá trình điều tra phỏng vấn, một số người tham gia nuôi, nhất là những người có trình
độ thấp chưa áp dụng quy trình cơ bản như cải tạo ao chưa tốt, cho ăn không đúng phương
pháp, đó đều là những tác động của yếu tố trình độ đến quá trình sản xuất và nuôi trồng thủy
sản.
4.3.2 Độ tuổi của các hộ nuôi
Theo kết quả điều tra hộ nuôi ghép có độ tuổi trẻ nhất là 42 tuổi, lớn nhất là 70 tuổi. Độ
tuổi 45-55 chiếm tỷ lệ cao nhất so với các độ tuổi khác, điều này cho thấy các chủ hộ nuôi đã
có tuổi đời khá cao, là những người có nhiều năm kinh nghiêm nuôi trồng thủy sản. Bảng Bảng
Bảng 4.3- Độ tuổi của các hộ nuôi
Tuổi

Số hộ

Tỷ lệ(%)

<45

7

23

45-55


17

57

>55

6

20

Tổng

30

Biểu đồ 4.2- Độ tuổi những người tham gia nuôi

4.3.3 Nghề nghiệp của các hộ nuôi
Bảng 4.4- Nghề nghiệp của các hộ tham gia nuôi xen ghép
Nghề nghiệp
NTTS

Nghề chính
Số hộ

Tỷ lệ (%)

Nghề Phụ
Số hộ

Tỷ lệ (%)



Làm ruộng
Buôn cá
Đánh bắt thủy sản
Không nghề phụ
Tổng

30

100

30

100

Qua bảng 4.4 cho thấy, nghề nuôi trồng thủy sản có vai trò rất quan trọng trong cơ cấu
ngành nghề của những người tham gia phỏng vấn. Trong cơ cấu ngành nghề chính, nuôi trồng
thủy sản chiếm 70%, trong cơ cấu nghề nghiệp phụ nuôi trồng thủy sản chiếm 30% và nuôi
trồng thủy sản thật sự là nghề đã đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn so với làm nông và một số
nghề khác tại xã Phú An. Nuôi trồng thủy sản đã góp phần không nhỏ đến việc nâng cao đời
sống kinh tế của người nuôi, nhất là những năm gần đây, khi mà mô hình nuôi ghéo cua tôm cá
bắt đầu hình thành và trở thành mô hình nuôi chính của bà con ngư dân xã Phú An.
4.3.4 Quy mô và diện tích nuôi
Kết quả điều tra cho thấy 30 hộ tham gia phỏng vấn có tổng diện tích mặt nước nuôi là
174000m2, không có ao chứa, ao lắng. Các ao nuôi có diện tích từ 5000- 10000m 2 trong đó có
19 ao với diện tích 5000m2, 3 ao với diện tích 6000m 2, 2 ao với diện tích 7000m 2, 4 ao với diện
tích 8000m2 và 2 ao diện tích 10000m2 (bảng 4.5).
Diện tích nuôi ghép
(m2)

5000
6000
7000
8000
10000
Tổng

174000

Số hộ

Tỷ lệ (%)

19
3
2
4
2
30

63
10
7
13
7
100

Diện tích mặt nước của các hộ nuô đều được UBND xã Phú An cấp để sản xuất, một số hộ
thuê ao của xã, diện tích mặt nước chưa đáp ứng được nhu cầu mở rộng quy mô sản xuất của đa
số người nuôi.

Những hộ tham gia phỏng vấn đều muốn có thêm diện tích để nuôi nhưng do số hộ tham gia
nuôi nhiều, diện tích mặt nước lại hạn chế nên mỗi hộ trung bình chỉ được cấp 5000m 2 để sản
xuất. Một thực tế đặt ra là tình hình dịch bệnh trên đối tượng thủy sản thường xuyên xảy ra và
rất nguy hiểm cho đối tượng nuôi những các ao nuôi lại nằm liền kề nhau. Không thấy một ao
lắng và ao xử lý nước nào trước khi đưa vào ao và sau khi đưa nước bẩn ra ngoài môi trường.
Kênh cấp và kênh thoát nước cũng không có.


4.4 Đối tượng và cơ cấu thả giống
4.4.1 Đối tượng thả giống
4.4.1.1 Tôm sú (Penaeus monodon)
Ngành: Arthropda
Lớp: Crustacea
Bộ: Decapoda
Họ: Pennaiedea
Giống: Penaeus
Loài: Monodon
Tên khoa học: Penaeus monodon (Fabricius 1798)
Tên tiếng Việt: Tôm sú
Tên tiếng Anh: Giant tiger prawn

Hình 4.1: Tôm sú


Một số đặc điểm sinh học của tôm sú:


Tôm sú sống ở các bờ biển của Úc, Đông Nam Á, Nam Á và Đông Phi. Tương tự như tất cả
tôm penaeid, chủy cũng phát triển và có răng cưa.
Tùy thuộc vào tầng nước, thức ăn và độ trong, mà màu sắc cơ thể khác nhau từ màu xanh lá

cây, nâu, đỏ, xám, xanh. Lưng xen giữa màu xanh hoặc đen và màu trắng. Tôm thành thục có
thể đạt đến 33 cm chiều dài và tôm cái thường lớn hơn tôm đực.
Phân bố tự nhiên của loài này là khi vực Ấn- Tây- Thái Bình Dương, trải từ bờ đông châu
Phi, bán đảo Ả Rập, đến tận Đông Nam Á và biển Nhật Bản. Ở Đông Úc cũng có loài này, và
một lượng nhỏ tôm sú cũng đi vào Địa Trung Hải qua kênh đào Suez. Ngoài ra còn có ở Hawaii
và bờ biển Đại Tây Dương của Mỹ(Florida, Georgia và Nam Carolina).
Khả năng thích nghi với môi trường sống:


Nền đáy thủy vực:

Nền đáy thủy vực có ảnh hưởng khá lớn đối với sự phân bố của các loài tôm trong tự nhiên.
Một số loài thích nên cát, cát bùn, thủy vực nước trong có độ mặn cao như tôm sú, tôm rằn, tôm
he, tôm gậy, tôm chì,... các loài này thường có màu sắc đa dạng.
Và nhiều vân màu xen kẻ trên thân, trong khi đó có một số loài thích thủy vực rộng, nến
đáy bùn, bùn cát, có nồng độ muối thấp như tôm thẻ, tôm đất, tép bạc,... các loài này thường có
màu không rực rỡ (ngoại trừ một số loài như tôm sắt, tôm giang,...).


Nhiệt độ:

Nhiệt độ là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến mọi hoạt động sống của tôm, khi nhiệt độ
trong nước thấp dưới mức nhu cẩu sinh lý của tôm sẽ ảnh hưởng đến quá trình chuyển hóa vật
chất bên trong cơ thể ( biểu hiện bên ngoài là sự ngừng bắt mồi, ngưng hoạt động nếu kéo dài
thời gian có nhiệt độ thấp thì tôm sẽ chết). Khi nhiệt độ quá giới hạn chịu đựng kéo dài thì tôm
bị rối loạn sinh lý và chết (biểu hiện bên ngoài là cong cơ, đục cơ, tôm ít hoạt động, nằm yên,
tăng cường hô hấp).
Các loài tôm khác nhau có sự thích ứng với sự biến đổi nhiệt độ khác nhau, khả năng thích
ứng này cũng theo các giai đoạn phát triển của tôm trong vòng đời. Tôm con có khả năng chịu
đựng về nhiệt độ kém hơn tôm trưởng thành.



Nồng độ muối:

Trong thủy vực tự nhiên, các loài tôm có khả năng chịu đựng về sự biến động nồng độ
muối khác nhau. Tôm thẻ, tôm bạc có khả năng chịu đựng sự biến động của nồng độ muối thấp
hơn so với tôm sú, tôm rằn, tôm đất... Nồng độ muối ảnh hưởng ít nghiêm trọng hơn so với
nhiệt độ. Khi nghiên cứu tỷ lệ sống của tôm, các thực nghiệm cho thấy ảnh hưởng của nồng độ


muối lên hoạt động sống của tôm là không có, chỉ có ý nghĩa ở mức ảnh hưởng lên sự tăng
trưởng của tôm.


pH:

pH của nước thường biến động theo tính chất của môi trường nước và nên đáy thủy vực,
trong tự nhiên tôm thích nghi với pH biến động từ 6.5- 8.5, trên hoặc dưới giới hạn này sẽ
không có lợi cho sự phát triển của tôm, pH thích hợp cho hoạt động của tôm là từ 7- 8.5.


Dinh dưỡng

Tập tính ăn, cơ chế tiêu hóa thức ăn, cấu trúc và chức năng của cơ quan dinh dưỡng (kể cả
phụ bộ) được nghiên cứu khá nhiều trên tôm thẻ đuôi xanh (Penaeus merguiensis). Nói chung,
họ tôm he ăn tạp thiên về động vật, tập tính ăn và loại thức ăn khác nhau theo từng giai đoạn
sinh trưởng.
(i)

(ii)


(iii)



Giai đoạn ấu trùng tôm bắt mồi thụ động bằng các phụ bộ nên thức ăn phi phù hợp với
cỡ miệng. Các loại thức ăn chúng ưu thích là tảo khuê (Skeletonema, Chaetoceros0,
luân trùng ( Brachionus plicatilis, Artemia), vật chất hữu cơ có nguồn gốc động và
thực vật.
Sang giai đoạn tôm bột, tôm sử dụng các loại thức ăn nhhư giáp xác nhỏ, (ấu trùng
Ostracoda, Copepoda, Mysidacea), các loài nhuyễn thể (Mollucs) và giun nhiều tơ
(Polychaeta). Ngoài ra, tôm cũng cps thể sử dụng thức ăn chế biến.
Giai đoạn trưởng thành tôm sử dụng thức ăn như giáp xác sống đáy (Benthic
crustacean), hai mảnh vỏ (Bivalvia), giun nhiều tơ và hậu ấu trùng các loài động vật
đáy. Hoạt động tìm kiếm thức ăn của tôm liên quan đến điều kiện môi trường.
Sinh trưởng

Tôm là loài giáp xác có vỏ kitin bao bọc bên ngoài cơ thể, cho nên sự sinh trưởng của
chúng hoàn toàn khác với cá, cá mang tính liên tục do không có vỏ bao bọc, sinh trưởng của
tôm mà tính gián đoạn và đặc trưng bởi sự gia tăng đột ngột về kích thước và trọng lượng.
Tôm muốn gia tăng kích thước (hay sinh trưởng) phải tiến hành lột bỏ lớp bỏ cũ để cơ thể
tăng kích thước. Quá trình này thường tùy thuộc vào điều kiện dinh dưỡng, môi trường nước
và giai đoạn phát triển của cá thể.


Chu kỳ lột xác:

Chu kỳ lột xác là thời gian giữa hai lần lột xác liên tiếp nhau, chu kỳ này mang tính đặc
trưng riêng biệt cho loài và giai đoạn sinh trưởng của tôm. Chu kỳ lột xác sẽ ngắn ở giai
đoạn tôm con và kéo dài khi tôm càng lớn.



Sinh học của sự lột xác:


Để lớn lên được thì tôm hay các sinh vật thuộc ngành Arthropoda phải thực hiện quá
trình loại bỏ lớp vỏ bám kitin bên ngoài bám vào lớp biểu bì của cơ thể tôm. Khi thoát khỏi
lớp vỏ bên ngoài thì tôm sẽ hút nướcđể tăng kích cỡ cơ thể khi lớp vỏ mới bên ngoài còn
mềm, sau đó lớp vỏ mới sẽ cứng nhanh nhờ các nguyên tố vi lượng và protein. Chính quá
trình này làm cho tăng trưởng của tôm mang tính giai đoạn. Ở mỗi lần lột xác tôm có sự tăng
kích thước và chiều cao. Giữa hai lần lột xác thì các phần chiếm chỗ bởi nước trong lúc gia
tăng đột ngột sẽ dần thay thế các tế bào mới hình thành.
Sự lột xác là sự hoàn chỉnh của một tiến trình phức tạp mà được bắt đầu vài ngày hay
một tuần trước đó, tất cả các tế bào đều tham gia vào quá trình chuẩn bị cho sự lột vỏ sắp
xảy ra. Các mỡ dự trữ sẽ chuyển hóa vào trong tuyến ruột giữa (được xem như là cơ quan
tiêu hóa và dự trữ). Các tế bào phân chia nhanh chóng, và các mARN được hình thành và
sau đó là sự tổng hợp của các protein mới. Tập tính của sinh vật có thay đổi, tiến trình này
kéo dài có sự phối hợp của các cơ quan quan trọng trong cơ thể và tiến hành trong môi
trường hormon. Quá trình lột vỏ của tôm trải qua nhiều giai đoạn, và mỗi giai đoạn có nhiều
giai đoạn phụ, tuy nhiên mỗi loài sẽ có số giai đoạn khác nhau. Một cách đơn giản nhất là
chia thành bpốn giai đoạn: early premolt (đầu của giai đoạn tiền lột xác); latepremolt (cuối
của giai đoạn tiền lột xác); intermolt (giữa giai đoạn lột xác); và posmolt (sau lột xác).
Giai đoạn lột vỏ của tôm chỉ xảy ra trong vài phút, bắt đầu là sự vỡ ra của lớp vỏ cũ ở
phần lưng nơi tiếp giáp giữa phần đầu ngực và phần bụng, sau đó tôm sẽ thoát ra từ vị trí hở
của vỏ.


Tuổi thọ:

Tuổi thọ của tôm có sự thay đổi theo loài và theo giới tính, Hothius (1980) cho biết tuổi

thọ của tôm sú nuôi thí nghiệm trong ao và các mẫu thu ngoài tự nhiên là 1.5 năm đối với
tôm đực và 2 năm đối với tôm cá.


Sinh sản
Tôm sú là loài dị phái tính. Con đực nhỏ hơn và trưởng thành trước con cái.

Vào mùa giao vĩ, con cái lột xác không bơi mà nằm sát đáy, con đực tiến hành giao vĩ.
Tinh trùng của con đực chuyển sáng túi chứa tinh của con cái, sau đó buồng trứng của con
cái phát triển nhanh.
Sau khi giao vĩ con cái hầu như không lột xác, không phát triển kích thước, con đực có
khả năng tạo túi tinh mới nên có khả năng giao vĩ nhiều lần.
Tôm thường đẻ trứng vào ban đêm lúc gần sáng. Sức sinh sản của tôm sú ngoài tự nhiên
là 300.000- 1.200.000 trứng/tôm mẹ. Trứng thụ tinh nở thành ấu trùng, sau nhiều lần lột xác
ấu trùng biến thái qua các giai đoạn:


-

Trứng.
Nauplius (N): giai đoạn ấu trùng không đốt trải qua 6 lần lột xác thành 6 thời kì N1N6 kéo dài 37- 51h.
Protozoea (Z): qua 3 lần lột xác chia làm thời Z1, Z2, Z3: kéo dài 105- 120h.
Mysis (M): 3 thời kì kéo dài 72h.
Postlarvae (P): cấu hình hoàn toàn giống tôm trưởng thành.
Tiền trưởng thành: phát triển mạnh.
Trưởng thành: bắt đầu sinh sản.

Ở tự nhiên tôm sú sinh sản quanh năm nhưng tập trung vào 2 thời kỳ: thấng 3- 4 và tháng
7- 10 hàng năm.
/>4.4.1.2.Cua xanh (Scylla paramamosain)

Ngành: Arthropoda
Lớp: Crustacea
Bộ: Decapoda
Họ: Portunidea
Giống: Scylla
Loài: Scylla Paramamosain
Tên tiếng Việt: Cua xanh
Tên tiếng Anh: Green crab


Hình 4.2 Cua xanh


Một số đặc điểm sinh học của cua xanh

Cơ thể cua được chia thành hai phần phần đầu ngực và phần bụng.
Phần đầu ngực: là sự liên hợp của 5 đốt đầu và 8 đốt ngực nằm phía dưới mai. Do ranh giới
giữa các đốt không rõ ràng nên việc phân biệt các đốt có thể dựa vào số phụ bộ trên các đốt:đầu
gồm có mắt, anten, và phần phụ miệng. Mai cua to và phía trước có nhiều răng. Trước mai có
hai hốc mắt chứa mắt có cuống và hai cặp râu nhỏ (a1) và râu lớn (a2). Trên mai chia thành
nhiều vùng bằng những rãnh trung gian, mỗi vùng là vị trí của mỗi cơ quan
Mặt bụng của phần đầu ngực có các tấm bụng và làm thành vùng lõm ở giữa để chứa phần bụng
gập vào. Cua đực có 2 lỗ sinh dục nằm ở gốc của đôi chân bò thứ 5 và dính vào đó một dương
vật ngắn. Cua cái có 2 lỗ sinh dục nằm ở gốc đôi chân bò thứ 3.
Phần bụng: Phần bụng của cua gấp lại phía dưới phần đầu ngực và tao cua có thân hình rất
gọn. Phần bụng phân đốt và tùy từng giới tính, hình dạng và sự phân đốt cũng không giống
nhau. (i) con cái trước thời kỳ thành thục sinh dục phần bụng (yếm) có hình hơi vuông khi
thành thục yếm trở nên phình rộng với 6 đốt bình thường; (ii) con đực có yếm hẹp hình chữ V,
chỉ có các đốt 1,2 và 6 thấy rõ còn các đốt 3, 4, 5 liên kết với nhau.
Đuôi có một đốt nhỏ nằm ở tận cùng của phần bụng với một lỗ là đầu sau của ống tiêu hóa.

Bụng cua dính vào phần đầu ngực bằng 2 khuy lõm ở mặt trong của đốt 1, móc vào 2 nút lồi
bằng kitin nằm trên ức cua.
Tập tính sống


Vòng đời cua biển trãi qua nhiều giai đoạn khác nhau và mỗi giai đoạn có tập tính sống, cư
trú khác nhau.
Ấu trùng Zoea và Mysis: sống trôi nổi và nhờ dòng nước đưa vào ven bờ biến thái thành
cua con.
Cua con: bắt đầu sống bò trên đáy và đào hang để sống hay chui rúc vào gốc cây, bụi rậm
đồng thời với việc chuyển từ đời sống trong môi trường nước mặn sang nước lợ ở rừng ngập
mặn, vùng cửa sông hay ngay cả vùng nước ngọt trong quá trình lớn lên.
Cua đạt giai đoạn thành thục: có tập tính di cư ra vùng nước mặn ven biển sinh sản. Cua có
khả năng bò lên cạn và di chuyển rất xa. Đặc biệt, vào thời kỳ sinh sản cua có khả năng vượt cả
rào chắn để ra biển sinh sản.
Ấu trùng Zoea thích hợp với độ muối từ 25-30%o, cua con và cua trưởng thành thích nghi
và phát triển tốt trong phạm vi 2-38 %o. Tuy nhiên, trong thời kỳ đẻ trứng đòi hỏi độ mặn từ
22-32 %o. Cua biển là loài phân bố rộng, tuy nhiên, nhiệt độ thích hợp nhất từ 25-30 oC. Cua
chịu đựng pH từ 7.5-9.2 và thích hợp nhất là 8.2-8.8. Cua thích sống nơi nước chy nhẹ, dòng
chảy thích hợp nhất trong khong 0.06 – 1.6m/s.
2. Tính ăn
Tính ăn của cua biến đổi tùy theo giai đoạn phát triển. Giai đoạn ấu trùng cua thích ăn thực
vật và động vật phù du. Cua con chuyển dần sang ăn tạp như rong to, giáp xác, nhuyển thể, cá
hay ngay cả xác chết động vật. Cua con 2-7cm ăn chủ yếu là giáp xác, cua 7-13cm thích ăn
nhuyễn thể và cua lớn hơn thường ăn cua nhỏ, cá…
Cua có tập tính trú ẩn vào ban ngày và kiếm ăn vào ban đêm. Nhu cầu thức ăn của chúng
khá lớn nhưng chúng có kh năng nhịn đói 10-15 ngày.
Cảm giác, vận động và tự vệ.
Cua có đôi mắt kép rất phát triển có kh năng phát hiện mồi hay kẻ thù từ bốn phía và có kh
năng hoạt động mạnh về đêm. Khứu giác cũng rất phát triển giúp phát hiện mồi từ xa. Cua di

chuyển theo lối bò ngang. Khi phát hiện kẻ thù, cua lẩn trốn vào hang hay tự vệ bằng đôi càng
to và khỏe.
3. Lột xác và tái sinh
Quá trình phát triển cua trãi qua nhiều lần lột xác biến thái để lớn lên. Thời gian giữa các
lần lột xác thay đổi theo từng giai đoạn. ấu trùng có thể lột xác trong vòng 2-3 hoặc 3-5 ngày
/lần. Cua lớn lột xác chậm hơn nửa tháng hay một tháng một lần. Sự lột xác của cua có thể bị
tác động bởi 3 loại kích thich tố: kích thích tố ức chế lột xác, kích thích tố thúc đẩy lột xác và
kích thích tố điều khiển hút nước lột xác.
Đặc biệt, trong quá trình lột xác cua có thể tái sinh lại những phần đã mất như chân, càng…
Cua thiếu phụ bộ hay phụ bộ bị tổn thương thường có khuynh hướng lột xác sớm hơn nên có
thể ứng dụng đặc điểm này vào trong kỷ thuật nuôi cua lột.
4. Sinh trưởng của cua
Tuổi thọ trung bình của cua từ 2-4 năm qua mỗi lần lột xác trọng lượng cua tăng trung bình
20-50%. Kích thước tối đa của cua biển có thể từ 19-28cm với trọng lượng từ 1-3kg/con. Thông
thường trong tự nhiên cua có kích cỡ trong khoảng 7.5-10.5 cm. Với kích cỡ tương đương nhau
về chiều dài hay chiều rộng carapace thì cua đực nặng hơn cua cái.
4.4.1.3. Cá dìa (Siganus gustatus)


×