Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Quá trình du nhập và phát triển của pháp môn tịnh độ ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.33 MB, 95 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VƯƠNG ĐẶNG THẢO VÂN

QUÁ TRÌNH DU NHẬP VÀ PHÁT TRIỂN
CỦA PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ Ở VIỆT NAM

Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số

: 60.22.03.13

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ VIỆT NAM

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. ĐINH QUANG HẢI

HÀ NỘI, 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học của
riêng tôi. Các tài liệu, tư liệu nêu trên trong luận văn là trung thực. Luận văn có
sự kế thừa các công trình nghiên cứu của những người đi trước và có sự bổ sung
thêm tư liệu mới và chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Vương Đặng Thảo Vân



LỜI CẢM ƠN

Đến nay, trải qua hơn hai năm học tập phấn đấu, luận văn đã hoàn
thành. Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tôi xin gửi lời cảm ơn đến
người Thầy, người hướng dẫn khoa học cho tôi, Phó giáo sư, Tiến sĩ Đinh
Quang Hải - Thầy đã trực tiếp định hướng nghiên cứu cho luận văn này,
đồng thời chỉ dạy tận tình cho tôi ngay từ cách tiếp cận vấn đề nghiên cứu
cho đến khi luận văn này hoàn thành.
Xin được bày tỏ lòng biết ơn tới các thầy giáo, cô giáo trong khoa Sử học,
cùng với các thầy cô giáo, các phòng ban của Học viện Khoa học xã hội; các
thầy cô của Viện Nghiên cứu Tôn giáo, phòng Nghiên cứu Phật giáo đã quan
tâm, giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập và
nghiên cứu tại Học viện.
Do khả năng và thời gian học tập, nghiên cứu chưa nhiều, mặc dù bản
thân đã có nhiều cố gắng, song cũng không tránh khỏi những thiếu sót, tôi rất
mong nhận được sự chỉ dẫn và những ý kiến góp ý của thầy cô, đồng nghiệp để
luận văn được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cám ơn!
Hà Nội, ngày 10 tháng 01 năm 2017
Tác giả luận văn

Vương Đặng Thảo Vân


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
Chương 1: QUÁ TRÌNH DU NHẬP VÀ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP MÔN
TỊNH ĐỘ Ở VIỆT NAM TỪ THẾ KỶ V ĐẾN THẾ KỶ XVI........................ 10
1.1. Khái quát về Pháp môn Tịnh Độ............................................................. 10

1.2. Quá trình du nhập và sự phát triển của Pháp môn Tịnh Độ ở Việt Nam
trước thế kỷ X................................................................................................. 16
1.3. Quá trình phát triển của Pháp môn Tịnh Độ ở Việt Nam từ thế kỷ X đến
thế kỷ XVI ...................................................................................................... 21
Tiểu kết chương 1........................................................................................... 33
Chương 2: SỰ HƯNG KHỞI CỦA PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ Ở VIỆT NAM TỪ
THẾ KỶ XVI ĐẾN NĂM 1981.............................................................................. 35
2.1. Pháp môn Tịnh Độ thời Lê Trung Hưng (thế kỷ XVI-XVIII) ................ 35
2.2. Pháp môn Tịnh Độ từ cuối thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XIX .............. 40
2.3. Pháp môn Tịnh Độ từ giữa thế kỷ XIX đến năm 1981. .......................... 44
Tiểu kết chương 2........................................................................................... 52
Chương 3: PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ SAU KHI THÀNH LẬP GIÁO HỘI
PHẬT GIÁO VÀ SỰ TÁC ĐỘNG ĐẾN ĐỜI SỐNG XÃ HỘI VIỆT NAM . 54
3.1. Pháp môn Tịnh Độ từ năm 1981 đến năm 2011. .................................... 54
3.2. Đặc điểm của Pháp môn Tịnh độ ở Việt Nam. ....................................... 61
3.3. Vai trò và sự tác động của Pháp môn Tịnh Độ đến đời sống xã hội Việt
Nam

............................................................................................................ 66

Tiểu kết chương 3........................................................................................... 71
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 73
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 73
PHỤ LỤC .......................................................................................................... 81


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tư tưởng Tịnh Độ xuất hiện đầu tiên ở Ấn Độ. Sau khi các bộ kinh có nội
dung chuyển tải tư tưởng Tịnh Độ được dịch và lưu hành ở Trung Quốc được

các nhà tu hành đạo Phật và nhân dân đón nhận nồng nhiệt. Mặc dù tư tưởng
Tịnh Độ, những giáo lý Tịnh Độ hình thành ở Ấn Độ, nhưng khi được truyền
vào Trung Quốc thì tư tưởng Tịnh Độ và giáo lý Tịnh Độ mới được các nhà tu
hành quan tâm và phát triển thành một tông phái, gọi là Tịnh Độ tông. Tịnh Độ
tông lấy ba bộ kinh làm nền tảng là kinh Vô lượng thọ, kinh Quán vô lượng thọ,
kinh A di đà. Ba bộ kinh này đã đề cập trực tiếp nguồn gốc tư tưởng, giáo lý và
phương pháp tu tập Tịnh Độ.
Theo các nhà nghiên cứu thì tư tưởng Tịnh Độ đã truyền nhập vào Việt
Nam khá sớm, khoảng từ thế kỷ thứ V và phát triển mạnh mẽ cho đến tận ngày
nay. Sau khi truyền nhập vào Việt Nam, tư tưởng Tịnh độ ở nước dẫu có quá
trình du nhập và phát triển lâu dài nhưng lại không tự thân phát triển thành một
tông phái, không có vị trí độc lập, tách biệt với các môn phái khác như Thiền
Tông hay Mật Tông mà chỉ là một “Pháp môn”. Tùy thuộc vào các giai đoạn
lịch sử mà Pháp môn Tịnh Độ phát triển song song với Thiền Tông hay Mật
Tông. Tiêu biểu là xu hướng Thiền - Tịnh song tu hầu như xuyên suốt trong lịch
sử phát triển của Phật giáo ở Việt Nam.
Mặc dù trên phương diện lịch sử và tôn giáo đã có rất nhiều công trình
nghiên cứu về Pháp môn Tịnh Độ nhưng chủ yếu là về các đặc điểm, giáo lý,
phương pháp tu tập cũng như vai trò,… của của Pháp môn này. Còn trên phương
diện lịch sử lại chưa được quan tâm nghiên cứu nhiều. Trên cơ sở tiếp thu, kế
thừa kết quả nghiên cứu của các thế hệ nghiên cứu đi trước, đồng thời áp dụng
phương pháp tiếp cận sử học kết hợp với các phương pháp nghiên cứu liên

1


ngành khác, chúng tôi chọn đề tài “Quá trình du nhập và phát triển của Pháp
môn Tịnh Độ ở Việt Nam” làm luận văn tốt nghiệp thạc sĩ, chuyên ngành Lịch
sử Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Từ trước cho đến nay, Pháp môn Tịnh Độ ở Việt Nam đã được nghiên
cứu trên các bình diện khác nhau.
Trước hết, về nguồn gốc tư tưởng: Pháp môn Tịnh Độ lấy ba bộ kinh làm
nền tảng là kinh Vô lượng thọ, kinh Quán vô lượng thọ, kinh A di đà. Ba bộ kinh
này đã đề cập trực tiếp đến nguồn gốc tư tưởng, giáo lý và phương pháp tu tập
Tịnh Độ.
Về sự hình thành và phát triển của tư tưởng Tịnh Độ. Trong các công
trình nghiên cứu về lịch sử Phật giáo thế giới đã đề cập đến sự hình thành và
phát triển của tư tưởng Tịnh Độ, đáng chú ý là cuốn Lược sử Phật giáo do
Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải (Nxb Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh)
cho biết, vào thời Hán, tín ngưỡng thờ Phật A Di Đà đã phổ biến nhờ vào các
bản dịch của An Thế Cao vào năm 150 sau Công nguyên; cuốn Lịch sử Phật
giáo do Nguyễn Tuệ Chân biên dịch (Nxb Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh) lại
cho biết trên bình diện khác, đó là việc Tông Hiểu (1151 - 1214) viết bộ Lạc
bang văn loại để tuyên dương Pháp môn Tịnh Độ, và chính ông là người suy tôn
Đông Tấn Lô Sơn Huệ Viễn là vị Tổ đầu tiên của Tịnh Độ tông. Cuốn Lịch sử
Phật giáo Trung Quốc do Pháp sư Thánh Nghiêm viết, bản dịch của Thích Tâm
Trí (Nxb Phương Đông) đã giới thiệu khái quát toàn bộ lịch sử Phật giáo Trung
Quốc từ thời Hán cho đến thời Dân quốc, trong đó có nêu mối quan hệ giữa Phật
giáo, Tịnh Độ tông với Nho giáo, Đạo giáo và sự hưng thịnh của từng hệ phái...
Như vậy, qua các công trình nêu trên, có thể thấy, nguồn gốc tư tưởng Tịnh Độ,
phương pháp tu tập, sự hình thành và phát triển của Tịnh Độ tông đã được đề

2


cập trên các bình diện khác nhau nhưng chưa được làm rõ trong mối liên hệ, qua
lại với các tông phái Phật giáo khác ở Trung Quốc và Ấn Độ.
Trong các công trình nghiên cứu về lịch sử Phật giáo Việt Nam, chúng
tôi đặc biệt quan tâm các bộ lịch sử Phật giáo trong thời gian gần đây như: Lịch

sử Phật giáo Việt Nam do Nguyễn Tài Thư chủ biên (Nxb Khoa học Xã hội,
1988); Lịch sử đạo Phật Việt Nam của PGS. Nguyễn Duy Hinh (Nxb Tôn giáo
và Nxb. Từ điển Bách Khoa); Lịch sử Phật giáo Việt Nam của GS. Lê Mạnh
Thát (Nxb Thuận Hóa. Huế 1999); Việt Nam Phật giáo sử lược của Thượng tọa
Mật Thể (Nxb Tôn giáo, 2004)... Hay các công trình chuyên khảo như: Tư tưởng
Phật giáo Việt Nam, Triết học Phật giáo Việt Nam của PGS. Nguyễn Duy Hinh
(Nxb Khoa học Xã hội; Nxb. Văn hóa Thông tin và Viện Văn hóa), Nghiên cứu
về Thiền uyển tập anh của GS. Lê Mạnh Thát (Nxb Thành phố Hồ Chí Minh)…
đã giới thiệu khá đầy đủ về quá trình truyền nhập và phát triển của Phật giáo
Việt Nam.
Trong các công trình này, các học giả này đã dẫn khá nhiều chi tiết có liên
quan đến tư tưởng Tịnh Độ. Chẳng hạn như PGS. Nguyễn Duy Hinh đã dẫn các
tác phẩm Lý Hoặc Luận của Mâu Tử, Lục độ tập kinh của Khương Tăng Hội và
cho rằng, nội dung bố thí từ bi nhẫn nhục tuy là lý luận Đại thừa, thuộc tư tưởng
Đại thừa nhưng phần nào đó có tư tưởng Tịnh độ và ta vẫn thấy được những
sinh hoạt Phật giáo thời kỳ này khá phong phú, ngoài những tư tưởng Phật giáo
Đại thừa còn thấy tín ngưỡng Tịnh Độ… như một bằng chứng về phương pháp
tu tập Tịnh Độ và được đề cập đến trong các công nghiên cứu lịch sử Phật giáo
Việt Nam nêu trên.
Hơn nữa, các bộ sử Việt Nam khi đề cập đến các giai đoạn trong lịch sử
Phật giáo Việt Nam đã ít nhiều đề cập đến tư tưởng Tịnh Độ và biểu hiện của
nó. Như trong một số công trình nghiên cứu về lịch sử Việt Nam như bộ Đại

3


Việt sử ký toàn thư, Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim, Việt sử lược do Trần
Quốc Vượng dịch…
Gần đây nhất, bộ Lịch sử Việt Nam (15 tập) - bộ Lịch sử Việt Nam đồ sộ
nhất cho đến nay, được NXB Khoa học xã hội xuất bản năm 2013, 2014. Trong

các tập của bộ sử có đề cập không nhiều đến sự phát triển của Phật giáo nói
chung hay từng khía cạnh của Phật giáo Việt Nam nói riêng qua các thời kỳ lịch
sử. Tuy nhiên, các tác phẩm này mặc dù có nội dung chính là viết về lịch sử Việt
Nam nhưng phần nào cũng đề cập đến sự du nhập và phát triển của các tôn giáo,
trong đó có đạo Phật và một phần nhỏ Tịnh Độ tông ở Việt Nam trong từng thời
kỳ lịch sử.
Chẳng hạn vào thời thời Đinh - Tiền Lê, thời Lý - Trần, ngoài những sử
liệu mà các học giả trưng dẫn liên quan đến Thiền tông, Thiền tông kết hợp với
tín ngưỡng bản địa, kết hợp với Đạo giáo mang nhiều yếu tố Mật tông, còn có
những sử liệu được các học giả nghiên cứu và đánh giá thời kỳ này cả chính
quyền phong kiến và nhân dân đã đề cao sự cứu vớt của Phật A Di Đà cùng các
vị Bồ tát, đặc biệt là Quan Thế Âm bồ tát. Vì vậy, tư tưởng Tịnh Độ vẫn tồn tại,
phát triển và được bảo lưu trong sự dung hoà với Thiền tông, Mật tông. Vào thời
Trần, dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử được vua Trần Nhân Tông kiến lập, mang
đậm tính dân tộc, dù tư tưởng mang đậm dấu ấn của Mã Tổ Đạo Nhất nhưng vẫn
có sự kết hợp hài hòa nhuần nhuyễn giữa Thiền tông và Tịnh Độ, đạo và đời…
Ngoài ra, vào thời Hậu Lê, bên cạnh sự phát triển của Nho giáo chiếm vị trí độc
tôn. Phật giáo bị hạn chế nhưng là hạn chế sự phát triển của Thiền tông và Mật
tông, còn Pháp môn Tịnh Độ vẫn luôn hiện hữu và được đông đảo tín đồ Phật tử
tu tập. Như vậy, qua các nguồn tư liệu trên đã cho thấy phần nào sự phát triển
của tư tưởng Tịnh Độ trong Phật giáo Việt Nam tuy nhiên còn chưa cụ thể.
Về luận văn, luận án, đã có công trình nghiên cứu về Pháp tu Tịnh độ và
tượng Phật A di đà trong các ngôi chùa Việt ở vùng đồng bằng Bắc Bộ của Đinh
4


Viết Lực; và công trình Tịnh Độ tông và biểu hiện của nó trong Phật giáo Việt
Nam hiện nay của Nguyễn Văn Quý. Trong luận án tiến sĩ Pháp tu Tịnh độ và
tượng Phật A di đà trong các ngôi chùa Việt ở vùng đồng bằng Bắc Bộ đã đề
cập đến pháp tu Tịnh Độ, quá trình du nhập và phát triển của pháp môn Tịnh Độ

và tượng Phật A Di Đà cùng hệ thống tượng bài trí trong các cơ sở thờ tự, nhưng
công trình này chỉ đề cập trong phạm vi ở vùng đồng bằng Bắc Bộ. Còn trong
luận văn thạc sĩ Tịnh Độ tông và biểu hiện của nó trong Phật giáo Việt Nam hiện
nay, bên cạnh việc đề cập đến sự du nhập và phát triển của Pháp môn Tịnh Độ,
luận văn chủ yếu nghiên cứu về một số nội dung cơ bản của Tịnh Độ Tông, tư
tưởng Tịnh Độ ở Việt Nam và biểu hiện cơ bản của nó trong Phật giáo Việt Nam.
Từ đó cho thấy vai trò của Tịnh Độ Tông trong quá trình hình thành một số tôn
giáo nội sinh ở Nam Bộ thế kỷ XIX-XX; và vai trò của tu tập Tịnh Độ đối với tín
đồ Phật giáo Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, đây là hai công trình nghiên cứu về
pháp tu Tịnh Độ chủ yếu trên bình diện tôn giáo học, cho nên cũng chỉ đề cập rất
sơ lược đến quá trình du nhập và phát triển của Pháp môn Tịnh Độ ở Việt Nam.
Ngoài ra, còn có một số luận văn, luận án nghiên cứu về Phật giáo như
Luận án Tiến sĩ sử học về Thiền phái Trúc Lâm thời Trần của Thích Thanh Đạt,
Luận án Tiến sĩ sử học về sự ra đời và phát triển Đạo Cao Đài ở Việt Nam của
Nguyễn Thanh Xuân. Cả hai luận án tiến sĩ đó đã được bảo vệ thành công tại cơ
sở đào tạo Viện Sử học.
Bên cạnh đó, còn có rất nhiều những công trình nghiên cứu về Pháp môn
Tịnh Độ trong việc hình thành một số tôn giáo nội sinh ở Nam Bộ cuối thế kỷ
XIX, đầu thế kỷ XX, đáng chú ý là các công trình như Tư tưởng Phật giáo Việt
Nam của PGS. Nguyễn Duy Hinh (Nxb Khoa học Xã hội, 1999), Phật giáo Nam
bộ từ thế kỷ XVIII đến năm 1975 của Trần Hồng Liên (Nxb Thành phố Hồ Chí
Minh), Bước đầu tìm hiểu đạo Cao Đài do GS. Đặng Nghiêm Vạn chủ biên, (Nxb
Khoa học Xã hội,1995)… đã đề cập đến sự xuất hiện của đạo Cao Đài, Phật giáo

5


Hòa Hảo, Tứ Ân Hiếu Nghĩa… Trong các công trình như Đặc điểm và vai trò của
Phật giáo thế kỷ XX của TS. Nguyễn Quốc Tuấn (Nxb Từ điển Bách khoa),
Phong trào chấn hưng Phật giáo ở miền Bắc Việt Nam (1924 – 1954) của Lê Tâm

Đắc (Nxb Chính trị Quốc gia) đã cho chúng tôi những điểm nhìn tham chiếu về
Pháp môn Tịnh Độ ở miền Bắc về các khía cạnh nguyên nhân, nội dung cơ bản,
đặc điểm và vai trò của phong trào chấn hưng Phật giáo và những ảnh hưởng của
nó đến Phật giáo Việt Nam. Trong đó, tư tưởng Tịnh Độ đã được phát triển theo
lộ trình mới qua việc xuất bản sách báo, như bài viết “Đôi điều về Tịnh Độ Cư Sỹ
Phật Hội ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Chơn Lý (Nghiên cứu Tôn giáo, số 4
năm 2000) đã giới thiệu khái quát lịch sử ra đời của pháp môn này ở Việt Nam.
Trong bài viết này, tác giả đã đưa ra một cách lý giải mới khá thú vị về nguồn gốc
Tịnh Độ ở Nam Bộ. Trên cơ sở phân tích các thiền phái Lâm Tế, Tào Động trước
đó và dựa vào đặc điểm trong tính cách người Nam Bộ nên tác giả cho rằng Phật
giáo ở Nam Bộ phần lớn là Tịnh Độ được biến đổi từ Thiền trước đó.
Như vậy, Phật giáo nói chung và Pháp môn Tịnh Độ nói riêng đã được
nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu và có nhiều
công trình có giá trị đã được công bố và xuất bản. Đối với Tịnh Độ, ở Trung
Quốc hay Nhật Bản đã hình thành và phát triển thành một tông phái, nhưng ở
Việt Nam tư tưởng Tịnh Độ không phát triển thành một “tông phái” mà chỉ phát
triển thành một “Pháp môn”. Tại sao lại như vậy? Và Tịnh Độ du nhập vào nước
ta thời kỳ nào, quá trình phát triển ra sao? Khảo sát các công trình cơ bản nêu
trên, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện về
những vấn đề mà chúng tôi nêu trên. Vì vậy, trên cơ sở kế thừa những thành tựu
mà thế hệ người nghiên cứu đi trước đã đạt được và áp dụng những phương
pháp nghiên cứu cùng các hướng tiếp cận đa chiều, chúng tôi hy vọng có được
kết quả nghiên cứu tốt nhất và đạt được mục tiêu nghiên cứu của đề tài đặt ra.

6


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài làm rõ hơn quá trình du nhập và phát triển của Pháp môn Tịnh Độ
ở Việt Nam nhằm hiểu rõ hơn về Pháp mônTịnh Độ và tác động của Pháp môn

Tịnh Độ đến đời sống kinh tế cũng như văn hóa xã hội của nhân dân Việt Nam
từ khi truyền nhập cho đến năm 2011 với sự kỷ niệm 30 năm ngày thành lập
Giáo hội Phật giáo Việt Nam (1981-2011).
Đề tài có nhiệm vụ làm rõ quá trình du nhập và phát triển của Pháp môn
Tịnh Độ vào Việt Nam từ khi truyền nhập đến năm 2011 và phân tích những tác
động ảnh hưởng của Pháp môn này đến đời sống kinh tế văn hóa xã hội của
nhân dân Việt Nam.
Như vậy, trong luận văn này tác giả tập trung nghiên cứu một số nội dung
chính sau:
- Trình bày khái quát các bình diện: cơ sở tư tưởng, sự hình thành đường lối tu
tập và những nội dung cơ bản trong giáo lý Tịnh Độ.
- Trình bày quá trình du nhập của Pháp môn Tịnh Độ từ thế kỷ V.
- Trình bày quá trình phát triển của Pháp môn Tịnh Độ qua các thời kỳ từ
khi bắt đầu du nhập vào Việt Nam đến năm 2011
- Làm rõ những đặc điểm cũng như vai trò của Pháp môn Tịnh Độ đối với
tín đồ, Phật tử Phật giáo Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là Pháp môn Tịnh Độ ở Việt Nam.
Phạm vi nội dung:
- Phạm vi không gian: Đề tài tập trung nghiên cứu Pháp môn Tịnh Độ ở
Việt Nam. Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu, thông qua đề cập đến tư tưởng
Tịnh Độ ở một số nước khác để có thể so sánh, đối chiếu với Pháp môn Tịnh Độ
ở Việt Nam nhằm làm rõ hơn về một số nội dung cơ bản và những biểu hiện của
7


nó trong Phật giáo Việt Nam hiện nay.
- Phạm vi thời gian: Đề tài nghiên cứu từ khi Pháp môn Tịnh Độ được du
nhập vào Việt Nam cho đến năm 2011 với Đại lễ kỷ niệm 30 năm ngày thành
lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam (1981-2011).

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận: Đề tài được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời
quán triệt quan điểm đường lối đổi mới của Đảng, Nhà nước về Tôn giáo nói
chung, về Phật giáo nói riêng.
Để tiến hành nghiên cứu đề tài này luận văn sử dụng phương pháp cứu chủ
yếu là phương pháp lịch sử và phương pháp logic. Bên cạnh đó chúng tôi còn kết
hợp sử dụng các phương pháp liên ngành như phương pháp Tôn giáo học, Xã hội
học, phương pháp đối chiếu so sánh, phương pháp phân tích tổng hợp…để đánh
giá một cách khách quan khoa học đối với các vấn đề nghiên cứu, nhằm đảm bảo
tính chính xác khoa học của đề tài và làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Ý nghĩa lý luận của luận văn: Luận văn góp phần làm rõ quá trình du nhập và
phát triển của Pháp môn Tịnh Độ ở Việt Nam từ khi bắt đầu du nhập đến năm 2011
cũng như những tác động của Pháp môn Tịnh Độ đến đời sống xã hội Việt Nam.
Ý nghĩa thực tiễn của luận văn: Luận văn lược sử lại quá trình du nhập và
phát triển của Pháp môn Tịnh Độ ở Việt Nam. Đồng thời làm sáng tỏ thực trạng
của Pháp môn Tịnh Độ ở nước ta trước đây và hiện nay.
Từ những căn cứ khoa học, luận văn nhằm thể hiện rõ quá trình du nhập
và phát triển của Pháp môn Tịnh Độ qua các giai đoạn lịch sử. Từ đó, luận văn
có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong việc tìm hiểu, nghiên cứu về
Pháp môn Tịnh Độ.
8


7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo luận
văn gồm 3 chương:
Chương 1: Quá trình du nhập và sự phát triển của Pháp môn Tịnh Độ ở
Việt Nam từ thế V thế kỷ XVI

Chương 2: Sự hưng khởi của Pháp môn Tịnh Độ ở Việt Nam từ thế kỷ
XVI đến năm 1981
Chương 3: Pháp môn Tịnh Độ ở Việt Nam sau khi thành lập Giáo hội
Phật giáo và sự tác động đến đời sống xã hội Việt Nam.

9


Chương 1
QUÁ TRÌNH DU NHẬP VÀ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP MÔN
TỊNH ĐỘ Ở VIỆT NAM TỪ THẾ KỶ V ĐẾN THẾ KỶ XVI
1.1. Khái quát về Pháp môn Tịnh Độ
1.1.1. Cơ sở hình thành Pháp môn Tịnh Độ
Đạo Phật ra đời tại Ấn Độ vào khoảng thế kỷ thứ V trước Công nguyên
do Thái tử Tất Đạt Đa sáng lập. Giáo lý cơ bản nhất trong Đạo Phật là Tứ diệu
đế, Bát chính đạo và Thập nhị nhân duyên. Tất cả đều dựa trên thuyết Duyên
khởi mà phân tích những hiện tượng “sinh, trụ, di, diệt” nhân sinh. Đạo Phật
phát triển đến thế kỷ III trước Công nguyên, đến dưới thời vương triều vua A
Dục (Ashoka) đã trở thành quốc giáo và đồng thời phát triển ra ngoài phạm vi
của Ấn Độ.
Sự phát triển của Phật giáo gắn liền với sự hoàn thiện kinh tạng. Có thể
nói, kinh tạng Phật giáo phần lớn xa vời, khó hiểu, khó tiếp cận với đa phần tín
đồ. Bởi nó được viết bằng những trải nghiệm của đời sống tinh thần sâu sắc, hay
sự thâm diệu của các nhà tư tưởng Phật giáo… Tuy vậy, đạo Phật trong quá
trình phát triển đã có khá nhiều nhà tư tưởng Phật giáo cố gắng, thậm chí nhấn
mạnh tính chất lý trí và gần gũi với khoa học của đạo Phật với những viện dẫn
ngôn từ do chính đức Phật thuyết giảng.
Đạo Phật trong quá trình phát triển của mình đã dần hình thành xu hướng
thể hiện rõ sự khác biệt giữa Phật giáo Nguyên thủy (hay Phật giáo Tiểu Thừa)
và Phật giáo Đại thừa. Nếu như các tín đồ theo Phật giáo Nguyên thủy tôn thờ

đức Phật Thích Ca Mâu Ni như một nhân vật lịch sử, thì các tín đồ Phật giáo Đại
thừa lại nhìn nhận đức Phật có mọi quyền lực, là hiện thân của sự sáng suốt,
vĩnh cửu và bất tận. Phương pháp tu tập Tịnh Độ là một trong nhiều pháp môn
tu tập thuộc Phật giáo Đại thừa. Pháp môn này nhấn mạnh vào đức tin cùng sự
10


cứu độ của Phật A Di Đà dựa trên nền tảng giáo lý hình thành từ ba bộ kinh tạng
là Vô lượng thọ, Quán Vô lượng thọ và A di đà. Phương pháp tu tập chủ yếu là
xưng niệm hay tâm niệm Di Đà lục tự với mục đích mong cầu được vãng sinh
Cực lạc [57, tr.15].
Khái niệm “Pháp môn” do các Tổ sư Trung Quốc đặt ra, nghĩa đen của nó
là “cánh cửa đi vào Phật pháp”. Người Trung Quốc đã dùng hình ảnh của một
ngôi nhà có cửa chính và các cửa sổ. Thông thường, người ta có thói quen đi vào
nhà bằng cửa chính chứ không ai chui qua cửa sổ. Bằng hình ảnh này, các vị lập
tông nghĩ rằng: kinh pháp môn được chọn lựa và truyền bá chính là cửa ngõ đi
vào Phật pháp... Còn khái niệm “Tịnh độ” được hiểu là một nơi hoàn toàn trong
sạch, đầy đủ an vui, trái ngược lại với những gì gọi là uế độ. Tịnh độ trong Phật
giáo còn được hiểu là nơi giáo hóa của một vị Phật nào đó, vì vậy Tịnh độ là cõi
có Phật nên cũng được gọi là “Phật quốc độ”. Tịnh độ trong kinh tạng Phật giáo
có khi gọi là Phật sát, Phật giới, Phật quốc, hoặc gọi là Phật độ, có khi gọi là
Tịnh sát, Tịnh giới, Tịnh quốc, Tịnh độ. Có thể nói, những đặc điểm của cõi
Tịnh độ, theo các kinh Tịnh độ như kinh A di đà, Vô lượng thọ… đã trình bày là
một thế giới thật lý tưởng tốt đẹp, nơi đó chỉ có sự an lạc nên gọi là Tịnh độ
(Sukhāvatī). Như vậy, “Pháp môn Tịnh Độ” là pháp môn chủ trương niệm

Phật, lấy việc thờ Phật A Di Đà, tụng niệm “Nam mô A di đà Phật” làm
phương tiện lên cõi Tịnh độ của Phật A di đà. Pháp môn Tịnh độ dựa vào tha
lực, tức sự cứu vớt của Phật hơn là khổ công tu tập. Tư tưởng Tịnh độ rất phát
triển ở Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên. Sau khi được truyền vào


Trung Quốc và Nhật Bản, Pháp môn Tịnh Độ phát triển mạnh mẽ thành một
tông phái, gọi là Tông Tịnh Độ (hay Tịnh Độ Tông). Còn ở Việt Nam, như đã
nói ở trên, tư tưởng Tịnh Độ không phát triển thành một “tông” mà chỉ phát triển
thành Pháp môn Tịnh Độ.

11


Cụ thể, ở Ấn Độ không chỉ có một dòng tư tưởng Tịnh Độ do Phật A Di Đà
làm chủ, mà còn có hai dòng tư tưởng Tịnh Độ khác cùng tồn tại, đó là Tịnh Độ ở
cõi trời Đâu Suất, nơi Phật Di Lặc (Maitreya - Từ Thị) đang giáo hóa chúng sinh,
và cõi Tịnh Độ Diệu Hỷ của Phật A Sơ (Aksobhya - Bất Động Phật) ở phương
Đông. Nhưng hai dòng Tịnh Độ này không phát triển như dòng Tịnh độ Cực lạc
của Phật A di đà (Amitaba, Amitayus - Vô Lượng Quang, Vô Lượng Thọ). Như
vậy, tư tưởng, phương pháp tu tập Tịnh Độ ở Ấn Độ mới chỉ là nền tảng, đặt nền
móng vững chắc cho sự phát triển của nó sau này. Cho nên, khi nói về lịch sử
hình thành và phát triển của Tịnh Độ Tông thì Trung Quốc mới chính là nơi để tư
tưởng, phương pháp tu tập Tịnh Độ phát triển và trở thành một tông phái.
Phật giáo du nhập, truyền bá vào Trung Quốc vào cuối thế kỷ thứ I đến
đầu thế kỷ thứ II sau Công nguyên. Điểm khởi đầu được cho là trong khoảng
thời gian từ năm 70-50 TCN đến khoảng những năm 148-170 SCN, một cao
tăng người An Tức là An Thế Cao và một người xứ Nguyệt Chi, tên An Huyền
đến Trung Quốc lập tự viện ở Lạc Dương. Sau khi nhà Hán sụp đổ, đến thế kỷ
thứ VI, Phật giáo đã phát triển vững chắc ở Trung Hoa với nhiều tự viện, đền
thờ, động đá trang trí chư Phật, Bồ tát... Tư tưởng Tịnh Độ gắn bó chặt chẽ với
sự tôn thờ Phật A Di Đà của nhân dân Trung Quốc đã tồn tại từ thời Hán và dần
dần tín ngưỡng này trở lên phổ biến hơn nhờ “vào các bản dịch của một vị
hoàng tử nước An Tức là An Thế Cao vào năm 150” [46, tr.174]. Nhưng về kinh
tạng thì phải đến thế kỷ thứ III trở đi mới dần xuất hiện trọn vẹn. Trong đó ba bộ

kinh tạng được coi là nền tảng là Vô lượng thọ, Quán Vô lượng thọ và kinh A di
đà, sau thêm bộ Vãng sinh Tịnh Độ luận được dịch thì Tịnh Độ tông đã hoàn
chỉnh xét trên hai phương diện chính là giáo lý và phương pháp tu tập.
Tuy nhiên, ở ngay trong chính Phật giáo Trung Quốc, việc phân chia để
hình thành tông phái, cùng sự truyền thừa thích hợp phần nào đó cũng đem đến
sự phát triển. Theo lịch sử Phật giáo Trung Quốc, những tông phái phát triển
12


mạnh nhất là Hoa Nghiêm tông và Thiên Thai tông, đến khi Thiền tông xuất
hiện thì cả ba tông này biểu trưng cho sự phát triển cao độ của Phật giáo Trung
Quốc. Edward Conze cho rằng “khoảng thời gian ba thế kỷ từ năm 500 đến năm
800 là những năm hưng thịnh nhất và sáng tạo nhất của Phật giáo Trung Hoa.
Phật giáo lúc bấy giờ hòa nhập và trở thành một phần trong đời sống dân tộc”
[89, tr.210].
Ở Việt Nam, nhìn chung, Pháp môn Tịnh Độ là một hình thức tu tập của
đạo Phật, nó khác với các tông phái khác một phần ở phương pháp tu tập giản
đơn, thích hợp với hầu hết các tầng lớp trong xã hội. Thêm vào đó, lịch sử
truyền thừa của Pháp môn Tịnh Độ không được rõ ràng như Hoa Nghiêm tông,
Thiên Thai tông hay Thiền tông ở Trung Quốc. Sau này, các cao tăng đời sau
thường căn cứ vào sự đóng góp trong công cuộc xiển dương giáo lý Tịnh Độ,
thậm chí căn cứ vào sự linh ứng lúc viên tịch của các cao tăng tiền bối để suy
tôn và từ đó hình thành nên mối quan hệ truyền thừa của Pháp môn Tịnh Độ. Kể
từ Huệ Viễn cho đến Đàm Loan, Đạo Xước và Thiện Đạo thì giáo lý, phương
pháp tu tập Tịnh Độ ở Trung Quốc đã hoàn chỉnh và có những bước phát triển
vững chắc. Về khuynh hướng phát triển, khuynh hướng Thiền Tịnh song tu được
đại sư Từ Mẫn khai mở, nhưng phải đến Vĩnh Minh Diên Thọ thì khuynh hướng
này mới phát triển, nhất là vào thời Minh. Sau này, khuynh hướng Thiền Tịnh
song tu rất rõ trong Phật giáo Việt Nam.
Về cơ sở phương pháp tu tập của Pháp môn Tịnh Độ. Đạo Phật trong quá

trình phát triển của mình đã dần hình thành xu hướng thể hiện rõ sự khác biệt
giữa Phật giáo Nguyên thủy và Phật giáo Đại thừa. Bên cạnh các tín đồ theo
Phật giáo Nguyên thủy tôn thờ đức Phật Thích Ca Mâu Ni như một nhân vật lịch
sử, thì các tín đồ Phật giáo Đại thừa lại nhìn nhận đức Phật có mọi quyền lực, là
hiện thân của sự sáng suốt, vĩnh cửu và bất tận. Có thể nói, phương pháp tu tập
Tịnh Độ là một trong nhiều Pháp môn tu tập thuộc Phật giáo Đại thừa. Pháp
13


môn này nhấn mạnh vào đức tin cùng sự cứu độ của Phật A Di Đà dựa trên nền
tảng giáo lý hình thành từ ba bộ kinh tạng là Vô lượng thọ, Quán Vô lượng thọ
và A di đà. Phương pháp tu tập chủ yếu của pháp môn này là niệm “Nam Mô A
Di Đà Phật” với mục đích cầu mong được vãng sinh nơi Cực lạc.
Hầu hết các tông phái của đạo Phật đều chú trọng đến sự tự tu tâm, dưỡng
tính của chính người tu hành để có được sự giải thoát, tương lai của người tu hành
phụ thuộc vào chính sự cố gắng của chính bản thân họ, tức dựa vào “tự lực”. Còn
người tu hành theo tư tưởng Tịnh Độ lại dựa vào “tha lực”, dựa vào sự cứu rỗi
bằng sức mạnh của Phật trên cơ sở niềm tin và sự tôn thờ Phật A Di Đà. Do vậy,
phương pháp tu tập Tịnh Độ với tư tưởng và phương pháp tu tập mới đã đáp ứng
được nhu cầu của mọi người, mọi giai tầng trong xã hội, không phân biệt người
giàu người nghèo, bậc thượng căn hay hạ căn về một đời sống an vui vĩnh cửu
trong thế giới Cực lạc do chính Phật A Di Đà làm chủ. Cho đến nay, phương pháp
tu tập Tịnh Độ phổ biến tại nhiều nước, trong đó có Việt Nam.
1.1.2. Giáo lý cơ bản của Pháp môn Tịnh Độ
Phương pháp tu tập Tịnh Độ lấy ba bộ kinh tạng, còn gọi là Tịnh độ tam
kinh gồm Phật thuyết A di đà kinh; Phật thuyết Vô lượng thọ kinh và Phật thuyết
Quán Vô lượng thọ kinh cùng Vãng sinh Tịnh độ luận của Thế Thân làm lý luận.
Đây là ba bộ kinh và một bộ luận miêu tả sự trang nghiêm của thế giới Cực lạc
và phương pháp tu hành để có thể được vãng sinh về thế giới đó. Như vậy, ngay
trong giáo lý kinh tạng đã cho thấy Pháp môn Tịnh độ chủ trương tha lực, tức

nhờ vào Phật lực, nhờ sự cứu giúp của A di đà mà được vãng sinh.
Về thế giới Cực lạc (hay Tịnh Độ). Như đã nói ở trên, đây là cõi hoàn
toàn trong sạch, tràn ngập an vui và trái ngược với những gì gọi là uế độ. Trong
Đại thừa, mỗi cõi Tịnh độ thuộc về một đức Phật, vì có vô số chư Phật nên có vô
số cõi Tịnh độ. Muốn được vãng sinh về cõi Tịnh độ nào thì người tu hành
nguyện cầu đức Phật ở cõi đó cứu độ.
14


Về điều kiện tu tập: Muốn tu tập để được vãng sinh về cõi Tây phương
cực lạc, Pháp môn Tịnh độ đòi hỏi người tu hành phải chuẩn bị ba yếu tố là Tín,
Nguyện và Hạnh. Ba yếu tố này thường được gọi là ba món Tư lương (Lương
phạn đi đường) và không thể thiếu bất kỳ một yếu tố nào trong ba yếu tố trên,
bởi nếu thiếu một trong ba yếu tố thì không thể vãng sinh về miền Cực lạc.
Trong đó, Tín tức là niềm tin. Bao gồm: Thứ nhất là tin ở mình, tin ở
mình chính là tin ở cái tâm tính chân thực trong mình; Thứ hai là tin ở người,
tức tin Phật Thích Ca Mâu Ni không nói dối, tin rằng Phật A Di Đà không nói
lời nguyện suông, những tôn chỉ mà Phật nói ra ở kinh này là chân thực, do đó
không có chỗ cho sự nghi hoặc; Thứ ba là tin ở Nhân, tức tin sâu người niệm
Phật nếu còn tâm tán loạn nhưng ít nhất đã tạo ra “hạt giống” để thành Phật mai
sau; Thứ tư là tin vào Quả, tức tin rằng ở cõi Tịnh Độ đều là các vị thiện nhân,
những người đã tin theo phép niệm Phật mà được vãng sinh về nơi ấy; Thứ năm
là tin ở sự thật, đó là tin ở thế giới Cực lạc là có thật, thanh tịnh, trang nghiêm
chứ không phải là thế giới tưởng tượng; Thứ sáu là tin ở lý, nghĩa là cõi Tịnh Độ
tuy xa nhưng thực ra ngay trong tâm tính của mình khi niệm Phật, tin rằng cõi
Tịnh Độ là tịnh thân của vị giáo chủ A Di Đà và cũng là Tịnh Độ của mỗi người
nếu một lòng niệm Phật [57, tr.35].
Như vậy có thể khẳng định rằng Tín điều kiện căn bản, quan trọng hàng
đầu trong tu tập Tịnh Độ, bởi không có niềm tin hay niềm tin không đủ mạnh thì
không thể tu Tịnh độ được, cần phải tin tưởng tuyệt đối và chuyên tâm niệm

Phật tha thiết được vãng sinh Tịnh độ. Nhưng tin không có nghĩa là tin mù
quáng mà phải là niền tin sau khi đã tìm hiểu và áp dụng giáo pháp của Phật,
hay trong kinh Hoa Nghiêm đã nói rằng tín là ngọn nguồn công đức của đạo,
nuôi dưỡng hết thẩy mọi căn lành. Bên cạnh Tín, Nguyện là lời hứa, sự ước ao,
lòng thiết tha mong muốn quyết sinh về cõi Cực lạc. Do vậy, nguyện là động cơ
thúc đẩy để người tu hành vững vàng, luôn luôn kiên tâm, trì chí tu tập theo
15


Pháp môn niệm Phật, ngày đêm chuyên niệm Phật không dừng, thiết tha mong
cầu được sinh về cõi Tịnh độ của Phật A di đà. Còn Hạnh là thực hành, làm
theo, là niệm hồng danh, là trì danh hiệu Nam mô A di đà Phật. Do đó bỏ được
ác làm việc thiện, bố thí tu tập thiện nghiệp. Bởi vậy Tín, Nguyện, Hạnh là ba
yếu tố căn bản, bao giờ cũng phải có đủ, không thể thiếu để vãng sinh Tịnh độ.
Ngoài ba món Tư lương nêu trên, người tu hành theo Pháp môn Tịnh độ còn
phải lưu ý tu tập 10 hành động thiện gọi là Thập thiện, có nghĩa là mười việc
thiện thực hiện qua Thân, Khẩu, Ý.
Khi đã chuẩn bị đầy đủ, chu đáo ba yếu tố Tín, Nguyện, Hạnh, người tu
hành theo Pháp môn Tịnh độ phải có phương pháp tu tập thích hợp, có nghĩa là
muốn sự tu tập của mình có hiệu quả thì phải cần hiểu rõ phương pháp tu hành.
Tuy mọi người thường cho rằng Pháp môn Tịnh độ là dễ tu, dễ chứng nhất trong
tất cả các Pháp môn tu tập của đạo Phật, chỉ cần niệm Phật là đủ, nhưng cũng có
người suốt cả một đời không biết cách phép niệm Phật hay không bao giờ niệm
Phật. Phép niệm Phật huyền diệu sâu xa, để hiểu rõ không phải là dễ dàng, mà
để có thể tin chắc lại càng khó khăn hơn. Do đó phải có niềm tin chắc chắn, có
quan điểm cho rằng, phép niệm Phật gồm bốn điểm chắc chắn tin, đó là các kinh
tạng làm bằng chứng, có các đại Bồ tát tu theo phép niệm Phật (như Văn Thù bồ
tát, Phổ Hiền bồ tát, Di Lặc bồ tát…), các vị tổ sư như Mã Minh, Long Thọ, Thế
Thân, Vô Trước… vẫn thường niệm A di đà Phật và phát nguyện vãng sinh về
nơi Cực lạc và cuối cùng là phép niệm Phật từ xưa đến nay.

1.2. Quá trình du nhập và sự phát triển của Pháp môn Tịnh Độ ở Việt
Nam trước thế kỷ X
1.2.1. Bối cảnh lịch sử Việt Nam trước thế kỷ X
Việt Nam nằm giữa đường giao lưu của hai nước lớn, giữa hai nền văn
minh cổ xưa nhất của châu Á là Ấn Độ và Trung Quốc. Trong điều kiện như
vậy, Việt Nam có nhiều điều kiện thuận lợi trong giao lưu gặp gỡ các nền văn

16


minh trong khu vực. Đối với Phật giáo, trong việc giao lưu, tiếp xúc với Ấn Độ
thì Việt Nam có điều kiện thuận lợi hơn so với Trung Quốc, do vậy có thể Phật
giáo ở Ấn Độ đã du nhập vào Việt Nam sớm hơn Trung Quốc, và sau đó tiếp thu
ảnh hưởng của Phật giáo Trung Quốc. Nhưng thời điểm nào Phật giáo du nhập
vào Việt Nam, tông phái nào đã chi phối Phật giáo Việt Nam. Với giai đoạn đầu,
chúng ta chỉ có thể tạm xác nhận đường đi của Phật giáo Đại thừa theo các nhà
sư Ấn Độ từ đường biển trực tiếp truyền vào Việt Nam tạo nên một trung tâm
Phật giáo ở Luy Lâu.
Quốc gia Âu Lạc đã bị Nam Việt của Triệu Đà thôn tính vào năm 179
TCN, và lập thành quận Giao Chỉ. Năm 110 TCN, Nam Việt trở thành nội thuộc
của nhà Hán, Giao Châu theo đó mà cũng quy về và được chia thành hai quận là
Giao Chỉ và Cửu Chân. Trên lãnh thổ thuộc nhà Hậu Hán, sau đó đã tồn tại ba
trung tâm Phật giáo là Luy Lâu, Lạc Dương và Bành Thành. Sử liệu cổ của
Trung Hoa cũng không ghi nhận được rõ ràng sự hình thành của hai trung tâm
Lạc Dương và Bành Thành, chỉ có Luy Lâu thuộc Giao Chỉ là được xác định rõ
ràng và sớm nhất, và còn là bàn đạp cho việc hình thành hai trung tâm kia.
Nhiều nhà nghiên cứu Phật học cho rằng Trung tâm Phật giáo Luy Lâu hình
thành sớm hơn hai trung tâm Bành Thành và Lạc Dương. Thậm chí, có người
còn cho rằng Phật giáo từ Luy Lâu truyền sang Bành Thành rồi từ Bành Thành
truyền sang Lạc Dương [74, tr.489].

Vào đầu công nguyên, Ấn Độ đã có được sự giao thương mạnh mẽ với
Trung Đông, và gián tiếp với vùng Địa Trung Hải, do đó họ cần có một nguồn
cung cấp nguyên vật liệu, vật phẩm cho sự giao thương này. Họ dong buồm,
theo gió mùa Tây Nam và đi về phía Đông. Họ đến Giao Chỉ, rồi có thể từ Giao
Chỉ mà lại theo tiếp đường biển hay đường bộ vào trong nội địa Trung Hoa.
Trong khi đợi gió mùa Đông Bắc để quay về Ấn Độ, sự lưu trú của số thương
gia này đã lan truyền dần những nét văn hóa Ấn Độ, trong đó có việc thờ Phật,
17


tụng kinh,… Có thể nói rằng chính những thương gia Ấn Độ là những người đầu
tiên góp phần đem Phật giáo vào nước ta [41, tr.23-24].
Cụ thể hơn, với mục đích cầu nguyện và cúng dường tam bảo, thương
nhân thường thỉnh một vị tăng sĩ đi theo thương thuyền. Những tăng sĩ này làm
công việc cầu khấn sự phù trợ của đức Phật. Và chính họ là những người đã trực
tiếp truyền bá Phật học và lập nên trung tâm Phật giáo Luy Lâu tại Giao Chỉ [41,
tr.25]. Từ nửa sau thế kỷ thứ II, Luy Lâu đã tồn tại như một trung tâm Phật giáo
quan trọng và phồn thịnh. Luy Lâu (hay Liên Lâu) là vùng đất trung tâm chính
trị, hành chính hàng đầu của Giao Chỉ dưới thời Hậu Hán (25-220). Chính nơi
đây đã thành hình một trung tâm Phật giáo vào thời điểm đầu Công nguyên. Luy
Lâu ngày nay thuộc huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh [40, tr.22]. Vào cuối thế
kỷ II, tại Luy Lâu đã xuất hiện các chùa Pháp Vân (Dâu), Pháp Vũ (Đậu), Pháp
Lôi (Dàn) và Pháp Điện (Tướng). Và “thời điểm hình thành Trung tâm Phật giáo
Luy Lâu rất có thể do chịu ảnh hưởng của tư trào Đại thừa giáo ở Ấn Độ, bắt
đầu vào thế kỷ II tr.Cn. Đây là một tư trào Phật giáo rất năng động và tích cực
kết hợp nhuần nhuyễn tính phóng khoáng, không cố chấp, không giáo điều với
một tinh thần truyền đạo không quản ngại gian khổ, hi sinh” [74, tr.490].
1.2.2. Pháp môn Tịnh Độ ở Việt Nam từ khi truyền nhập đến thế kỷ X
Vào thời Sỹ Nhiếp cầm quyền khoảng năm 187 - 226, đạo Phật đã có chỗ
đứng khá vững chắc tại Luy Lâu, nhiều cao tăng đến đây truyền đạo như Khâu

Đà La, Ma Ha Kỳ Vực,… mà trong một bức thư Viên Huy gửi Tuân Úc nói về
Sỹ Nhiếp cho biết người Hồ đốt hương theo hầu Sỹ Nhiếp là nhà sư Ấn Độ đã
cho thấy điều đó [26, tr.174]. Liên quan đến vấn đề này còn thấy theo truyện
Man Nương trong Lĩnh Nam chích quái thì ngay từ buổi đầu Phật giáo đã kết
hợp với tín ngưỡng bản địa để cho một số thần linh nông nghiệp hóa thân thành
Phật và như vậy “Sơn môn Dâu trội về tín ngưỡng hơn triết lý và sau này đó là
cái nền chung của Phật giáo Việt Nam” [29, tr.391].
18


Như đã nói ở trên, Phật giáo được truyền nhập vào nước ta (Luy Lâu) sớm
hơn Trung Quốc (Bành Thành), nhưng câu hỏi được đặt ra là Pháp môn Tịnh độ
được truyền vào Việt Nam khi nào? Trong những tư liệu có tư tưởng về Pháp
môn Tịnh độ hiện còn, có lẽ sớm nhất là Lý hoặc Luận của Mâu Tử. Đây là tác
phẩm lý luận của Đại thừa, nhưng nội dung bố thí từ bi nhẫn nhục phần nào đó
có tư tưởng Tịnh độ. Tiếp sau đó là Lục độ tập kinh do Khương Tăng Hội (?280) dịch vào thời Tam Quốc. Nội dung gồm 91 tập gồm các kinh truyện Phật
giáo lưu hành từ thời Hùng Vương đến thời Hai Bà Trưng, về cơ bản “trình bày
các khái niệm Đại thừa về triết học” nhưng ta vẫn thấy được những sinh hoạt
Phật giáo thời kỳ này khá phong phú, ngoài những tư tưởng Phật giáo Đại thừa
còn thấy đến tín ngưỡng Tịnh độ và qua Lục độ tập kinh còn “phản ánh một nét
đặc trưng của không những một đạo Phật sơ kỳ chưa tăng lữ hóa, mà còn của
chính đạo Phật Việt Nam lúc mới truyền vào” [66, tr.71]. Nhưng đến thế kỷ III
chỉ còn thấy nói về một người Việt tên Đạo Thanh (?) giúp nhà sư Ấn Độ dịch
kinh Pháp Hoa Tam Muội vào khoảng năm 255-256 [23, tr.71-92], và cũng
không thấy đề cập đến Pháp môn Tịnh độ cũng như tư tưởng về Pháp môn này.
Trong suốt thế kỷ thứ IV, không có tư liệu nào nói đến tình hình Phật giáo
ở nước ta. Và phải đến thế kỷ V, với sự có mặt của kinh Vô lượng thọ do sư
Đàm Hoằng, một vị cao tăng Trung Quốc tu hành Tịnh độ đến Tiên Sơn mới
minh chứng cho sự tu học và truyền bá Pháp môn Tịnh độ ở Việt Nam. Cao tăng
truyện của Huệ Hạo có chép: “Thích Đàm Hoằng, người Hoàng Long, nhỏ tu

giới hạnh, chuyên sành luật bộ. Trong khoảng Tống Vĩnh sơ (420 - 422) nam du
Phiên Ngung, dừng lại ở chùa Đài, sau lại đến chùa Tiên Sơn của Giao Chỉ, tụng
Vô lượng thọ và Quán kinh, lòng thề về An dưỡng. Vào năm Hiếu Kiến thứ 2
(455), nhóm củi trên núi, lén vào trong củi lấy lửa tự thiêu. Đệ tử đuổi kịp, ôm
giữ đem về, thì nửa mình đã cháy, trải tháng mới bớt chút ít. Sau đó, xóm gần có
hội, cả chùa đều phó. Hoằng vào ngày ấy lại vào trong hang núi tự thiêu. Dân

19


xóm đuổi tìm thì mạng Hoằng đã dứt. Do đó, họ chất củi thêm, đốt lửa cháy đến
ngày hôm sau mới tắt. Ngày hôm đó, dân xóm đều thấy Hoằng thân vàng sắc
vàng, cưỡi một con nai vàng, đi về phía tây rất nhanh, không nghỉ hỏi han. Tăng
và tục mới hiểu thần dị, cùng lượm xương tro, để dựng tháp thờ” [66, tr.749].
Nguyên nhân sự tự thiêu của sư Đàm Hoằng là do đâu? Như chúng ta biết,
vào thế kỷ thứ V, tại nước ta đang diễn ra một cuộc đấu tranh tư tưởng gay gắt.
Nền tư tưởng Phật giáo quyền năng được thiết định mấy thế kỷ trước tỏ ra
không còn sức thuyết phục trước bước phát triển của dân tộc, đặc biệt ở giai
đoạn đấu tranh vận động cho sự ra đời của nhà nước độc lập Vạn Xuân. Những
tranh luận này đã để lại cho chúng ta ngày nay tư liệu 6 lá thư giữa Lý Miễu và
hai vị thầy của ông là các ngài Pháp Minh (khoảng 370-460) và Đạo Cao
(khoảng 365-445), tranh luận xung quanh vấn đề tại sao nói Phật thần thông
biến hóa nhưng người Phật tử không thấy chân hình của Ngài ở đời (nạn Phật
bất kiến hình sự). Sự kiện tự thiêu của sư Đàm Hoằng xảy ra vào thời điểm cao
trào của cuộc đấu tranh này và chắc chắn đó không phải là một trường hợp ngẫu
nhiên. Thêm nữa, sư Đàm Hoằng tự thiêu là một sự kiện lớn thời bấy giờ. Bởi lẽ
tiếng tăm của sự kiện đó đã vang dội vượt ra ngoài nước ta, đến cả Trung Quốc
và hàng trăm năm sau, Huệ Hạo đã ghi vào tác phẩm của mình là “Cao tăng
truyện”. Phải chăng sự tự thiêu này, cùng với những tương truyền về việc dân
làng thấy điều thần dị là một câu trả lời trong nỗ lực củng cố niềm tin đối với

nền tư tưởng Phật giáo quyền năng, mà khuynh hướng Tịnh độ cùng sư Đàm
Hoằng chuyên tâm thực hành là một trong những đại biểu.
Theo PGS Nguyễn Duy Hinh, “tự thiêu là một hiện tượng pháp thí cao
nhất đề cập trong kinh Pháp Hoa. Đàm Hoằng là nhà sư Trung Quốc đầu tiên
được biết đến sớm nhất ở nước ta song chưa phải Thiền tông mà cũng chưa thật
sự là Tịnh độ tông” [30, tr.48]. Tuy nhiên, gạt đi những điều nghi hoặc, việc
Đàm Hoằng tụng trì kinh Vô lượng thọ và Quán Vô lượng thọ với một niềm tin
20


mãnh liệt nơi Phật và việc ông tự thiêu cũng cho thấy đến thế kỷ V, tư tưởng
Tịnh độ đã được nhà sư Trung Quốc đem vào nước ta, mặt khác cũng cho thấy
khi đó ở nước ta đã có nhu cầu bức thiết về tín ngưỡng Tịnh độ. Trong khoảng
thời gian này, ngay ở Trung Quốc cũng chưa thành lập tông Tịnh độ, Bạch Liên
xã mới chỉ được xem là tiền thân của tông Tịnh độ. Phải đến thời Đường Cao
Tông (628-683), khi Đại sư Thiện Đạo (613 - 681) tuyên bố ở Quang Minh Tự
(Trung Quốc) thì tông Tịnh độ mới chính thức được hình thành.
Từ sau thế kỷ thứ V đến khoảng nửa đầu thế kỷ thứ IX thì hiện không có
tư liệu nào để lại đề cập đến Tịnh độ ở Việt Nam. Qua nguồn tư liệu được chép
trong Thiền uyển tập anh chúng ta thấy thời kỳ này đang “hình thành thượng
tầng Việt - Trung của Phật giáo Việt Nam…” [30, tr.53]. Do đó, phải đến năm
826, Vô Ngôn Thông (759?-826), học trò của Bách Trượng Hoài Hải đến Kiến
Sơ tu tập trong 6 năm, trong bài kệ nói cho đệ tử Cảm Thành (?-860) trước khi
tịch mới có đề cập đến Tịnh độ: “Tây thiên thử thổ/ Thử thổ Tây thiên” (Tây
Thiên là đất này/ Đất này là Tây Thiên). Toàn bộ bài kệ chuyển tải ý nghĩa của
Thiền tông với tính bản nhiên thanh tịnh xưa nay của một người là ở chính họ,
đất Phật chẳng đâu xa, mà chính tại đất nước họ. Như vậy, chữ Tây thiên mà Vô
Ngôn Thông nói trong bài kệ có thể hiểu là thế giới Cực lạc của Phật A di đà
hay chỉ Ấn Độ, quê hương của Phật giáo.
Như vậy, đến cuối thời kỳ Bắc thuộc, Phật giáo đã là một hiện tượng xã

hội phổ biến. “Lúc này ở Phật tử, ý thức dân tộc và ý thức đạo gắn bó với nhau,
tạo thành một trong những tiền đề cho sự trỗi dậy mạnh mẽ của dân tộc vào thế
kỷ X. Đồng thời tạo cơ sở cho Phật giáo trở thành quốc giáo khi nhà nước giành
được độc lập” [74, tr.497].
1.3. Quá trình phát triển của Pháp môn Tịnh Độ ở Việt Nam từ thế
kỷ X đến thế kỷ XVI
1.3.1. Pháp môn Tịnh Độ thời Đinh - Tiền Lê
21


×