Tải bản đầy đủ (.pdf) (63 trang)

Quyền làm chủ của nhân dân trong hệ thống sắc lệnh nước việt nam dân chủ cộng hòa giai đoạn 1945 1946 (Tóm tắt, trích đoạn)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (790.12 KB, 63 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------------------------

ĐỖ THỊ THU NGÂN

QUYỀN LÀM CHỦ CỦA NHÂN DÂN TRONG HỆ
THỐNG SẮC LỆNH NƢỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ
CỘNG HÒA GIAI ĐOẠN 1945-1946

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Chính trị học

Hà Nội - 2016


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------------------------

ĐỖ THỊ THU NGÂN

QUYỀN LÀM CHỦ CỦA NHÂN DÂN TRONG HỆ THỐNG
SẮC LỆNH NƢỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
GIAI ĐOẠN 1945-1946

Luận văn Thạc sĩ Chuyên ngành:Chính trị học

Mã số:60 31 02 01

Người hướng dẫn khoa học:TS. ĐỖ ĐỨC MINH



HÀ NỘI- 2016


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy
và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả
các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Khoa học Chính trị, Trường
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Khoa học Chính trị xem
xét để tôi có thể bảo về Luận văn
Tôi xin chân thành cảm ơn!
TÁC GIẢ

Đỗ Thị Thu Ngân


LỜI CẢM ƠN

Luận văn là kết quả quá trình học tập, nghiên cứu ở nhà trường, kết hợp
với kinh nghiệm trong quá trình thực tiễn công tác, với sự cố gắng, nỗ lực của
bản thân.
Lời đầu tiên tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành, sâu sắc tới TS. Đỗ
Đức Minh - người trực tiếp hướng dẫn khoa học, đã tận tình hướng dẫn cho
tôi cả chuyên môn, phương pháp nghiên cứu và chỉ bảo cho tôi nhiều kinh
nghiệm trong thời gian thực hiện đề tài.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo trong Khoa Khoa học

Chính trị, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia
Hà Nội và bạn bè đã giúp đỡ tôi trong quá trình học tập cũng như trong quá
trình hoàn thành luận văn này.
Sau cùng, tôi xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến gia đình đã luôn tạo điều
kiện tốt nhất cho tôi trong suốt quá trình học cũng như thực hiện luận văn.
Mặc dù với sự nỗ lực cố gắng của bản thân, luận văn không tránh khỏi
những thiếu sót nhất định. Tôi mong nhận được sự góp ý chân thành của các
Thầy Cô để Luận văn được hoàn thiện hơn.
Hà Nội, ngày 20 tháng 12 năm 2016
TÁC GIẢ

Đỗ Thị Thu Ngân


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

BMNN

Bộ máy nhà nước

CNCS

Chủ nghĩa cộng sản

CNXH

Chủ nghĩa xã hội

CNTB


Chủ nghĩa tư bản

CQĐP

Chính quyền địa phương

DCCH

Dân chủ cộng hòa

HĐND

Hội đồng nhân dân

Nxb

Nhà xuất bản

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

UBND

Ủy ban nhân dân

UBHC

Ủy ban hành chính



MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU .................................................................................................. 3
1. Lý do lựa chọn đề tài ................................................................................... 3
2. Tình hình nghiên cứu .................................................................................. 4
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu............................................................. 9
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu............................................................ 10
5. Phƣơng pháp nghiên cứu.......................................................................... 10
6. Đóng góp của luận văn.............................................................................. 11
7. Kết cấu luận văn ........................................................................................ 12
Chƣơng 1. SỰ RA ĐỜI CỦA HỆ THỐNG SẮC LỆNH NƢỚC VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA GIAI ĐOẠN 1945 - 1946 ......................... 13
1.1. Sự ra đời của nƣớc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ............................... 13
1.1.1. Bối cảnh lịch sử và sự ra đời nhà nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa ......................................................................................................... 13
1.1.2. Khái quát về tổ chức bộ máy nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa
giai đoạn 1945 - 1946 ..................................................................................... 17
1.1.3. Thực hiện quyền làm chủ của nhân dân – tư tưởng chủ đạo của nhà
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ............................................................... 18
1.2. Hệ thống Sắc lệnh nƣớc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ....................... 29
1.2.1. Một số vấn đề về “Sắc lệnh” ................................................................ 29
1.2.2. Hệ thống sắc lệnh trong một số lĩnh vực chủ yếu .............................. 33
Chƣơng 2. QUYỀN LÀM CHỦ CỦA NHÂN DÂN QUA CÁC SẮC LỆNH
NƢỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA GIAI ĐOẠN 1945 - 1946:
NỘI DUNG VÀ Ý NGHĨA ............................................................................. 59
2.1. Nội dung quyền làm chủ của nhân dân đƣợc qua hệ thống sắc lệnh
giai đoạn 1945-1946 ....................................................................................... 59
2.1.1. Nhân dân là chủ thể trong hệ thống chính trị .................................... 59
2.1.2. Nhân dân có quyền tự do bầu cử để lập ra chính quyền của mình ........ 64
1



2.1.3. Nhà nước có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ, sáng suốt - công cụ thực
hiện quyền làm chủ của nhân dân ................................................................ 72
2.2. Ý nghĩa của hệ thống sắc lệnh giai đoạn 1945 – 1946 ......................... 77
2.2.1. Ý nghĩa lịch sử của hệ thống sắc lệnh ................................................ 77
2.2.2. Ý nghĩa của hệ thống sắc lệnh giai đoạn 1945 – 1946 đối với cách
mạng Việt Nam hiện nay ............................................................................... 81
KẾT LUẬN .................................................................................................... 86
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................... 87
PHỤ LỤC ....................................................................................................... 97

2


LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Quyền làm chủ của nhân dân là nguyện vọng thiêng liêng, thiết tha và
cao đẹp nhất, muôn thuở của con người. Con người sinh ra cần phải có quyền
làm chủ. Ở các giai đoạn khác nhau thì quyền làm chủ của nhân dân được
quan niệm khác nhau. Ở Việt Nam, Cách mạng tháng Tám năm 1945 được
coi là mốc son chói lọi trong việc mở ra thời kỳ dân chủ cho nhân dân.Cách
mạng tháng Tám năm 1945 là bước nhảy vọt vĩ đại, đánh dấu một cuộc biến
đổi cực kì to lớn trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc. Nó phá tan
xiềng xích nô lệ của phong kiến, thực dân, phát xít, lập nên Nhà nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa (DCCH) – Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở
Đông Nam Á. Tạo ra một bước ngoặt lịch sử, tạo tiền đề chính trị vững chắc
để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân trên mọi phương diện. Nhà nước
Việt Nam DCCH được lập nên, điều tiết xã hội bằng hệ thống sắc lệnh có tính
nhân văn và dân chủ, thể hiện đó là một nhà nước kiểu mới của dân, do dân,

vì dân. Từng bước xây dựng, củng cố nhà nước Việt Nam DCCH trong hoàn
cảnh khó khăn và trao cho nhân dân những quyền tự do, dân chủ mà họ vốn
có. Mở đầu cho những thắng lợi tiếp theo của cách mạng Việt Nam. Sau hơn
70 năm đấu tranh giành độc lập và xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH), hiện
nay, đất nước ta ngày càng phát triển song quyền làm chủ của nhân dân được
thể hiện trong giai đoạn 1945 – 1946 vẫn tiếp tục được phát huy một cách sâu
rộng: dân chủ vừa là bản chất của xã hội chủ nghĩa (XHCN) vừa là mục tiêu,
là động lực của phát triển xã hội Hệ thống sắc lệnh của Nhà nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa (DCCH) trong giai đoạn 1945 - 1946 có ý nghĩa hết sức
quan trọng đối với thực tiễn cách mạng Việt Nam hiện nay.

3


Xuất phát từ lý do trên, tác giả lựa chọn “Quyền làm chủ của nhân
dân trong hệ thống sắc lệnh Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, giai đoạn
1945-1946” làm đề tài luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Chính trị học.
2. Tình hình nghiên cứu
Quyền làm chủ của nhân dân là đề tài được nhiều nhà khoa học quan
tâm và nghiên cứu. Tiêu biểu có thể đề cập một số công trình sau đây:
2.1. Các sách chuyên khảo, tham khảo về nhà nước thực hiện quyền
làm chủ của nhân dân, gồm có:
- GS.TSKH. Đào Trí Úc, Mô hình tổ chức và hoạt động của Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của, Nxb. Tư Pháp, 2007. Đây là tài
liệu có giá trị lý luận về nhà pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong đó
tác giả đã làm rõ thế nào là nhà nước thực hiện quyền làm chủ của nhân dân.
- Nguyễn Quang Ngọc (Chủ biên), Tiến trình lịch sử Việt Nam, Nxb.
Giáo dục Việt Nam, 2010. Công trình đã mang lại bức tranh tương đối hoàn
chỉnh về tiến trình lịch sử Việt Nam từ khi lập nước cho tới nay. Trong đó,
nhiều vấn đề về quá trình xây dựng nước Việt Nam mới, sự hình thành thể

chế nhà nước, việc soạn thảo và ban hành các sắc lệnh quan trọng,... sau Cách
mạng Tháng Tám đã được đề cập khá đầy đủ và chi tiết.
- GS.TS. Nguyễn Đăng Dung – TS. Đặng Minh Tuấn (Đồng chủ biên),
Giáo trình Luật hiến pháp Việt Nam, Nxb. ĐHQGHN, 2006. Đây là một trong
những công trình tiêu biểu ở Việt Nam nghiên cứu về vấn đề hiến pháp và
nhà nước pháp quyền. Trong công trình này, tập thể tác giả đã nghiên cứu
tương đối kỹ lưỡng về mô hình nhà nước và cơ chế phát huy quyền làm chủ
của nhân dân của nước Việt Nam DCCH. Những sắc lệnh tiêu biểu trong vấn
đề này cũng được cuốn sách đề cập với những nội dung cơ bản.
- PGS.TS. Lê Minh Thông, Đổi mới, hoàn thiện bộ máy Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở Việt Nam
hiện nay, Nxb. Chính trị Quốc gia, 2011. Trên cơ sở luận giả về về nhà nước
4


của dân, do dân, vì dân; tác giả cũng đưa ra đề xuất để hoàn thiện bộ máy nhà
nước (BMNN) nhằm thực hiện tốt quyền làm chủ của nhân dân.
- Nguyễn Tố Uyên, Công cuộc bảo vệ và xây dựng chính quyền nhân
dân ở Việt Nam trong những năm 1945 – 1946, Nxb. Khoa học xã hội, 1999.
Cuốn sách bao quát tương đối đầy đủ quá trình hình thành, xây dựng và bảo
vệ chính quyền cách mạng nước Việt Nam DCCH trong giai đoạn 1945 –
1946. Tác giả đã đầu tư công phu, tham khảo nhiều nguồn tài liệu quan trọng
để giải quyết những vấn đề nghiên cứu được đặt ra.
- TS. Trần Ngọc Liêu, Quan điểm của Chủ nghĩa Mác- Lênin về Nhà
nước với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
Nxb. Chính trị quốc gia, 2013. Tác giả đã tổng hợp, khái quát quan điểm của
chủ nghĩa Mác – Lênin về nhà nước thực hiện quyền làm chủ của nhân dân.
Từ đó có những đánh giá, nhận xét về mô hình bộ máy nhà nước (BMNN)
Việt Nam, góp phần xây dựng nhà nước thực hiện quyền làm chủ của nhân
dân.

- GS. Nguyễn Đăng Dung, Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp
quyền, Nxb. ĐHQGHN, 2007. Đây là công trình tổng hợp quan điểm của Hồ
Chí Minh về nhà nước trong giai đoạn 1945-1946.
- Nhóm tác giả: Hồ Khang, Nguyễn Quốc Hùng, Nguyễn Văn Phùng,
Việt Nam 1945 - 1946 thời điểm của những quyết định sáng suốt của Đảng,
Nxb. Chính trị quốc gia, 2015. Công trình này đã tập hợp những văn kiện của
Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ đạo cách mạng Việt Nam từ sau
Cách mạng tháng Tám 1945 đến ngày toàn quốc kháng chiến và một số bài
viết về giai đoạn lịch sử này.
2.2. Một số luận văn, luận án, gồm:
- Hoàng Thị Kim Thanh (1998), Kinh nghiệm của Đảng Cộng sản Việt
Nam trong việc bảo vệ thành quả cách mạng giai đoạn 1945 – 1946, Luận án
Tiến sĩ Lịch sử, mã số LA50316, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
5


Công trình nghiên cứu về những thành quả cách mạng Tháng Tám năm 1945
đã giành được. Tác giả đã nêu bật hoàn cảnh khó khăn của giai đoạn lịch sử
1945 – 1946, những chủ trương biện pháp cấp bách của Đảng và Chủ tịch Hồ
Chí Minh nhằm vượt qua thử thách hiểm nghèo, bảo vệ thành quả cách mạng
đồng thời đưa ra kinh nghiệm, ý thực tiễn cách mạng. Công trình là tài liệu
tham khảo bổ ích cho tác giả trong quá trình tìm hiểu về việc xây dựng và bảo
vệ thành quả cách mạng của nhà nước Việt Nam DCCH giai đoạn 1945 –
1946.
- Nguyễn Mạnh Tùng (1996), Công cuộc xóa nạn mù chữ và bổ túc văn
hóa ở Bắc Bộ (1945 – 1954), Luận án Tiến sĩ Lịch sử, Đại học Sư phạm Hà
Nội. Nghiên cứu về cuộc vận động chống thất học ở Việt Nam giai đoạn 1945
– 1954, tác giả làm rõ hơn sự quan tâm của Nhà nước Việt Nam DCCH giai
đoạn 1945 – 1946 đối với lĩnh vực giáo dục.
- Trần Thị Diệu Oanh (2012), Phân cấp quản lý và địa vị pháp lý của

chính quyền địa phương trong quá trình cải cách bộ máy nhà nước ở Việt
Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học, mã số LATS 62381001, Học viện khoa học
xã hội. Chương 3 Luận văn có khái quát về phân cấp quản lý nhà nước và địa
vị của chính quyền địa phương giai đoạn 1945 – 1992. Công trình là tài liệu
tham khảo quan trọng của tác giả trong việc đánh giá, nhìn nhận hệ thống sắc
lệnh nước Việt Nam DCCH trong việc xây dựng và củng cố chính quyền địa
phương trong thời gian nhà nước còn non trẻ, vừa mới thành lập.
- Lê Quốc Hùng (2004), Nguyên tắc giữa quyền lực nhà nước là thống
nhất có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực
hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ
Luật học, mã số LATS 50501, Khoa Luật - ĐHQGHN. Chương II Luận văn
khái quát về cách thức tổ chức quyền lực nhà nước theo Hiến pháp năm 1946
và so sánh, đối chiếu với các hiến pháp giai đoạn sau này. Đâylà tài liệu giúp
tác giả có thể hiểu được mô hình nhà nước Việt Nam DCCH giai đoạn 1946
6


sau khi có Hiến pháp. - Nguyễn Trọng Thóc (1996), Nhà nước pháp quyền
trong cơ chế phát huy quyền dân chủ của nhân dân trong thời kỳ đổi mới ở
Việt Nam hiện nay, ĐHKHXH & NV, Hà Nội. Luận văn phân tích vai trò của
việc xây dựng nhà nước pháp quyền đối với việc bảo đảm quyền làm chủ của
nhân dân và nêu ra phương hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam
để đảm bảo quyền dân chủ của nhân dân trong quá trình đổi mới.
- Nguyễn Quyết Thắng (2014), Đảng bộ Hà Tĩnh thực hiện quyền làm
chủ của nhân dân trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa đất
nước, Luận văn ThS. Khoa học chính trị, ĐHKHXH&NV, Hà Nội. Qua
nghiên cứu, bước đầu luận văn đã làm sáng tỏ những lý luận cơ bản về quyền
làm chủ của nhân dân, quyền làm chủ của nhân dân trong quá trình công
nghiệp hóa đất nước.
- Hoàng Thị Ngọc Lan (2014), Phát huy dân chủ ở cơ sở trong quá

trình xây dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay (qua khảo
sát một số xã ở huyện Yên Lạc và huyện Lập Thạch) Luận văn ThS. Triết học,
ĐHKHXH&NV, Hà Nội. Luận văn trình bày khái quát quan điểm của chủ
nghĩa Mác -Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ, các văn kiện, các chủ
trương chính sách của Đảng và Nhà nước về thực hiện và phát huy dân chủ ở
cơ sở;làm rõ được vai trò của việc phát huy dân chủ ở cơ sở trong xây dựng
nông thôn mới ở nước ta hiện nay
- Nguyễn Xuân Bé (2013), Thực thi quyền lực của nhân dân trong quá
trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Luận văn
Th.S Chính trị học, ĐHKHXH&NV, Hà Nội. Luận văn đi sâu phân tích và
làm rõ sự khác nhau giữa quyền lực và quyền lực của nhân dân. Hơn nữa, tài
liệu đã làm rõ cơ chế, nội dung và hình thức để đảm bảo thực thi quyền lực
nhân dân trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam. Và cuối cùng, luận văn đánh giá khái quát những thành tựu và hạn
chế trong quá trình thực thi quyền lực của nhân dân trong những năm qua. Từ
7


đó đề xuất các giải pháp nhằm đảm bảo thực thi tốt hơn quyền lực của nhân
dân trong thời gian tới.
2.3. Một số bài báo khoa học, gồm:
- Nguyễn Dương Hùng (2001), “Vấn đề thực hiện dân chủ theo tư
tưởng Hồ Chí Minh”, Tạp chí Khoa học chính trị, số 1. Bài viết là sự tổng
hợp về phương pháp tiếp cận, trong quan điểm, quan niệm của Hồ Chí Minh
về dân chủ và vấn đề thực hiện dân chủ theo tư tưởng Hồ Chí Minh; góp
phần giúp tác giả có cái nhìn toàn diện hơn về vấn đề dân chủ - một phần rất
quan trọng trong công trình này.
- Văn Nhiệm (2012), “Vai trò của bầu cử trong việc xây dựng Nhà
nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số
2(286). Bài viết nghiên cứu về vai trò của bầu cử trong việc xây dựng nhà

nước pháp quyền, thực hiện phổ thông đầu phiếu lần đầu tiên ở Việt Nam là
ngày 06-01-1946. Tác giả đã cho thấy vai trò hết sức quan trọng của hệ thống
sắc lệnh nước Việt Nam DCCH giai đoạn 1945 – 1946 về thực hiện Tổng
tuyển cử. .
- GS. Hoàng Chí Bảo, “Dân chủ trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam”, Tạp
chí Thông tin lí luận (1989), số 7. Tác giả nêu rõ những thành tựu và hạn chế,
thậm chí những sai lầm trong nhận thức và khuyết điểm trong xây dựng, thực
hiện nền dân chủ XHCN ở các nước XHCN nói chung và ở Việt Nam nói
riêng trong thực tế.
- Trần Quang Nhiếp,“Để thực hiện quy chế dân chủ”, Tạp chí Cộng
sản (1999), Số 2. Bài viết bổ sung những nhận thức mới và và đề xuất những
cách làm mới để xây dựng và thực hiện dân chủ phù hợp với đặc điểm lịch sử,
truyền thống của dân tộc, đặc điểm của thời kỳ quá độ cũng như đặc điểm của
từng cấp độ, từng vùng miền, nhóm dân cư... ở nước ta.
- Đoàn Minh Duệ, “Đổi mới hệ thống chính trị để phát huy dân chủ”,
Tạp chí Khoa học Xã hội Việt Nam (2007), Số 6. Tác giả đã luận chứng và
8


cho rằng, đổi mới hệ thống chính trị (HTCT) là yếu tố quan trọng để thực
hành và phát huy dân chủ ở nước ta hiện nay. Trọng tâm của đổi mới HTCT
là đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của Đảng, Nhà nước, Mặt trận
Tổ quốc và các tổ chức chính trị khác, trong đó đổi mới phương thức lãnh đạo
của Đảng là mấu chốt. Việc đổi mới hệ thống chính trị phải được đặt dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Đó cũng là nhân tố bảo đảm xây dựng và phát
triển dân chủ XHCN ở nước ta hiện nay.
- Lê Quốc Hùng, “Vấn đề hoàn thiện hành lang pháp lý để tăng cường
sự tham gia của nhân dân trong quản lý nhà nước và xã hội”, Tạp chí Khoa
học Xã hội Việt Nam (2007), Số 6, tr. 27 - 34. Bài viết bàn về việc tổ chức lấy
ý kiến nhân dân đóng góp và các dự án luật; về việc khẩn trương xây dựng

một số luật mới mở rộng hành lang pháp lý để nhân dân tham gia vào việc
quản lý nhà nước và xã hội… Đồng thời tác giả cũng đóng góp ý kiến hoàn
thiện pháp luật về xã hội hóa một số lĩnh vực quản lý nhà nước, tạo điều kiện
để nhân dân tham gia vào việc giải quyết các công việc nhà nước và xã hội.
Nhìn chung, các tài liệu trên đã đề cập tới vấn đề dân chủ và xây dựng,
củng cố nhà nước Việt Nam từ sau năm 1945 ở các phương diện và mức độ
khác nhau, song chưa có công trình nghiên cứu tập trung và chuyên sâu về vai
trò của các sắc lệnh giai đoạn đặc biệt 1945-1946 đối với việc thực hiện
quyền làm chủ của nhân dân. Vì vậy, tác giả lựa chọn đề tài “Quyền làm chủ
của nhân dân trong hệ thống sắc lệnh Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa,
giai đoạn 1945-1946” làm luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ chuyên ngành
Chính trị học.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Trên cơ sở làm rõ bối cảnh lịch sử dân tộc và khảo sát hệ thống các sắc
lệnh được ban hành trong giai đoạn 1945 - 1946, luận văn làm rõ những nội
dung quyền làm chủ của nhân dân được thể hiện qua các sắc lệnh trên các
9


phương diện của đời sống chính trị - xã hội; khẳng định giá trị và ý nghĩa của
hệ thống sắc lệnh trong giai đoạn này cũng như đối với việc đảm bảo, phát
huy quyền làm chủ của nhân dân trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt mục đích trên, luận văn thực hiện các nhiệm vụ sau:
Một là: Trình bày, làm rõ bối cảnh lịch sử và sự ra đời của Nhà nước
Việt Nam DCCH và khái quát những nội dung cơ bản về sắc lệnh.
Hai là: Nghiên cứu, khảo sát hệ thống các sắc lệnh ban hành trong giai
đoạn 1945-1946; làm rõ nội dung, ý nghĩa to lớn của quyền làm chủ của nhân
dân qua hệ thống sắc lệnh trong giai đoạn lịch sử đặc biệt 1945 – 1946.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu quyền làm chủ của nhân dân thông qua hệ thống sắc lệnh,
giai đoạn 1945 – 1946.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi không gian: Việt Nam
Phạm vi thời gian: từ 02-9-1945 đến 31-12-1946
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được tiến hành trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và quyền làm chủ của nhân
dân cũng như những quan điểm về vấn đề này trong các văn kiện, nghị quyết
của Đảng Cộng sản Việt Nam.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên nền tảng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử,
luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp logic
- lịch sử, phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp thống kê,… để giải
quyết các vấn đề đặt ra.
10


Phương pháp logic – lịch sử: được sử dụng phương pháp nhằm xâu
chuỗi, hệ thống hóa, sắp xếp một cách khoa học và logic các sự kiện lịch sử
thuộc phạm vi thời gian của đề tài. Qua đó khái quát được sự hình thành mô
hình nhà nước Việt Nam DCCH, tạo tiền đề cho sự tìm hiểu về quyền làm chủ
của nhân dân trong nhà nước Việt Nam DCCH.
Phương pháp phân tích – tổng hợp: được sử dụng phối, kết hợp để làm
sáng tỏ nhiệm vụ của mục, tiểu mục và chương trong luận văn. Phương pháp
phân tích thường được thể hiện để làm sáng tỏ các vấn đề lớn, trước hết cần
làm rõ các nội dung bên trong của nó. Từ những vấn đề nhỏ, từng nội dung,

từng tiểu mục và mục…phương pháp tổng hợp sẽ góp phần làm rõ những
nhiệm vụ đặt ra đối với từng chương và toàn bộ luận văn.
Phương pháp thống kê: được sử dụng để tập hợp, sắp xếp các sắc lệnh
giai đoạn nàytheo trình tự thời gian, phân loại các sắc lệnh theo từng chủ đề,
phân tích chúng gắn với hoàn cảnh lịch sử để làm rõ nguyên nhân, mục đích,
nội dung các sắc lệnh do Chính phủ ban hành và sự thể hiện quyền tự chủ của
nhân dân.
6. Đóng góp của luận văn
Về lý luận: luận văn góp phần làm sáng tỏquyền tự chủ của nhân dân
qua hệ thống sắc lệnh Nước Việt Nam DCCH giai đoạn 1945 - 1946; đưa ra
cách tiếp cận định tính kết hợp với so sánh có tính định lượng; sử dụng số liệu
cụ thể để làm nổi bật quyền làm chủ của nhân dân thông qua hệ thống sắc
lệnh trong giai đoạn này.
Về thực tiễn: luận văn khẳng định giá trị của hệ thống các sắc lệnh đã
ban hành và ý nghĩa đối với việc xây dựng Nhà nước Việt Nam pháp quyền
XHCN hiện nay. Luận văn cũng có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo
đối với sinh viên, học viên cao học và các cán bộ công tác trong hệ thống
chính trị hiện nay cũng như đối với việc tìm hiểu về hệ thống sắc lệnh nước
Việt Nam DCCH giai đoạn 1945 – 1946.

11


7. Kết cấu luận văn
Luận văn được chia làm 5 phần là: Lời mở đầu, Nội dung, Kết luận, Tài
liệu tham khảo và Phụ lục. Phần nội dung của luận văn được chia làm 2
chương:
Chương 1: Sự ra đời của hệ thống sắc lệnh Nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa giai đoạn 1945-1946.
Chương 2: Quyền làm chủ của nhân dân qua các sắc lệnh Nước Việt

Nam Dân chủ Cộng hòa giai đoạn 1945-1946: Nội dung và ý nghĩa.

12


Chƣơng 1.
SỰ RA ĐỜI CỦA HỆ THỐNG SẮC LỆNH
NƢỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA GIAI ĐOẠN 1945 - 1946
1.1. Sự ra đời của nƣớc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
1.1.1. Bối cảnh lịch sử và sự ra đời nhà nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa
Vào giữa thế kỷ XIX, nước Việt Nam phong kiến đứng trước một thử
thách cam go là đối diện với cuộc xâm lược của Pháp. Trong giai đoạn đầu
của cuộc kháng chiến chống xâm lược, nhân dân Việt Nam đã nhất tề đứng
lên đấu tranh. Những tên sĩ quan thực dân đã từng chỉ huy lực lượng viễn
chinh đánh chiếm Việt Nam đã phải thừa nhận rằng: “Việt Nam là một quốc
gia kiên cường gắn bó với lịch sử riêng, thể chế riêng của mình;… trong các
thế kỷ trước Việt Nam không bao giờ chịu khuất phục trước quân thù xâm
lược, họ biết đợi thời cơ… Tình trạng của chúng ta rất đỗi khủng khiếp bởi vì
chúng ta phải đương đầu với một dân tộc thống nhất và tình cảm dân tộc của
họ không phải đã bị suy yếu” [33, tr. 32].
Trong suốt giai đoạn bị thực dân Pháp đô hộ (1885 - 1945), người Việt
đã tiến hành hàng loạt cuộc khởi nghĩa1 song do không có đường lối đúng đắn
và nhiều nguyên nhân khác nhau nên tất cả các phong trào này đều bị chế độ
phong kiến và thực dân đàn áp dã man cho đến khi giành được thắng lợi toàn
vẹn với cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945.
Đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa Mác - Lênin nhanh chóng du nhập và được
đón nhận ở Việt Nam qua sự truyền bá tích cực của Nguyễn Ái Quốc. Bằng
kinh nghiệm thực tiễn phong phú của mình kết hợp với lý luận cách mạng,
khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh đã đưa ra kết luận sâu sắc

1

Như: Phong trào Cần Vương, Khởi nghĩa Yên Thế, Hà Thành đầu độc, phong trào chống sưu thuế Trung
Kỳ, phong trào Việt Nam Quang Phục Hội, khởi nghĩa Yên Bái, phong trào Xô-Viết Nghệ Tĩnh, phong trào
Bắc Sơn, binh biến Đô Lương, cao trào kháng Nhật....

13


rằng, chỉ có CNXH và chủ nghĩa cộng sản (CNCS) mới có thể giải quyết triệt
để vấn đề độc lập cho dân tộc, mới có thể đem lại cuộc sống tự do, ấm no và
hạnh phúc thực sự cho tất cả mọi người, cho các dân tộc. Từ đây, chủ nghĩa
yêu nước truyền thống Việt Nam đã bắt gặp con đường Cách mạng Tháng
Mười Nga, hòa nhập vào xu hướng tiến hóa chung của nhân loại. Cương lĩnh
đầu tiên của Đảng (1930) do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo đã khẳng
định: cách mạng Việt Nam phải trải qua hai giai đoạn là cách mạng tư sản dân
quyền và cách mạng XHCN; chủ trương “làm tư sản dân quyền cách mệnh và
thổ địa cách mệnh để đi tới xã hội cộng sản”. Từ thực tiễn đấu tranh giải
phóng ở một nước thuộc địa nửa phong kiến, Hội nghị Trung ương 6 (tháng
11-1939) đã xác định hình thức Nhà nước Cộng hòa dân chủ là Chính phủ
chung cho tất cả các tầng lớp dân chúng. Tiếp theo, Nghị quyết của Hội nghị
Trung ương 8 (tháng 5-1941) đã hoàn thiện đường lối giải phóng dân tộc và
khẳng định: “sau khi đánh đuổi được đế quốc Pháp, Nhật “sẽ thành lập một
Chính phủ nhân dân của Việt Nam DCCH lấy lá cờ đỏ ngôi sao vàng năm
cánh làm lá cờ toàn quốc. Chính phủ ấy do quốc dân đại hội cử ra” [20, tr.
150]. Từ đó, cao trào giải phóng dân tộc do Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh
lãnh đạo phát triển mạnh mẽ trên cả nước. Đầu năm 1945, tình hình thế giới
bắt đầu xoay chuyển tạo thời cơ cho Việt Nam, Ban Thường vụ Trung ương
Đảng họp ở Từ Sơn (Bắc Ninh) để đánh giá tình hình và đề ra chủ trương
mới. Ngày 12-3-1945, Đảng ta đã ra “Chỉ thị Nhật – Pháp bắn nhau và hành

động của chúng ta”, chủ trương “phát động một cao trào kháng Nhật cứu
nước mạnh mẽ làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa”đồng thời sẵn sàng
chuyển qua hình thức tổng khởi nghĩa khi có đủ điều kiện. Hồ Chí Minh nêu
rõ: Thời cơ ngàn năm có một đã đến, dù phải hy sinh đến đâu, dù phải đốt
cháy cả dãy Trường Sơn cũng kiên quyết giành cho được độc lập. Người kêu
gọi: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào
hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta” [63, tr. 596]. Nắm bắt đúng
14


thời cơ lịch sử, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ngày 14 và 15-8-1945 tại
Tân Trào (Tuyên Quang) đã quyết định Tổng khởi nghĩa giành độc lập, giành
chính quyền về tay nhân dân. Ngày 16 và 17-8-1945, cũng tại Tân Trào, Đại
hội Quốc dân, đại diện cho ý chí, nguyện vọng của toàn dân (hình thức tiền
Quốc hội) đã họp. Đại hội đã bầu Ủy ban giải phóng dân tộc là hình thức tiền
Chính phủ do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Cuộc Tổng khởi nghĩa đã diễn ra
trong nửa cuối tháng 8-1945 và hoàn toàn thắng lợi2. .
Sáng ngày 26-8-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã triệu tập và chủ trì
cuộc họp của Thường vụ Trung ương Đảng. Trong cuộc họp này, Thường vụ
quyết định một số chủ trương đối nội và đối ngoại trong tình hình mới, về
việc sớm công bố danh sách thành viên Chính phủ lâm thời. Theo đề nghị của
Chủ tịch Hồ Chí Minh, Thường vụ nhất trí mở rộng hơn nữa thành phần
Chính phủ lâm thời, chuẩn bị Tuyên ngôn độc lập và tổ chức mít tinh lớn ở
Hà Nội để Chính phủ ra mắt nhân dân, cũng là ngày nước Việt Nam chính
thức công bố quyền độc lập và thiết lập chính thể DCCH. Việc chuẩn bị ngày
Lễ Độc lập được tiến hành khẩn trương, gấp rút. Ngày 28-8-1945, Ủy ban giải
phóng dân tộc được bầu ra từ Quốc dân đại hội Tân Trào đã cải tổ, mở rộng
thành Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam DCCH. “Ngày 02-9-1945,
Chính phủ Việt Nam Dan chủ Công hòathành lập, đã tuyên bố trước thế giới
quyền độc lập của Việt Nam và thực hiện những quyền tự do dân chủ ở trong

nước” [66, tr.26]3.

2

Có một thực tế là, trong cao trào giải phóng dân tộc và hình thành khu giải phóng Việt Bắc, ở nhiều địa
phương và cơ sở tổ chức Việt Minh đã thực hiện nhiệm vụ của chính quyền cách mạng và đã xây dựng chính
quyền nhân dân. Đó là những sáng tạo trong đấu tranh cách mạng nhằm giải quyết vấn đề cơ bản là chính
quyền Nhà nước.

Ở đây, có một điểm đáng lưu ý là: Khi tổ chức Chính phủ lâm thời, có những đồng chí trong Ủy
ban Trung ương do Quốc dân đại hội bầu ra, đáng lẽ tham dự Chính phủ, song các đồng chí ấy đã
tự động xin lui, để nhường chỗ cho những nhân sĩ yêu nước nhưng còn ở ngoài Việt Minh. Đó là
một cử chỉ vô tư, tốt đẹp, không ham chuộng địa vị, đặt lợi ích của dân tộc, của đoàn kết toàn dân
lên trên lợi ích cá nhân. Đó là một cử chỉ đáng khen, đáng kính mà chúng ta phải học” [66; tr. 26].
3

15


Có thể khẳng định: Nhà nước Việt Nam DCCH là sản phẩm của Cách
mạng tháng Tám. Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra
nước Việt Nam DCCH, hiện thực hoá chủ trương của Hội nghị Trung ương
lần thứ tám, Chương trình Việt Minh và tư tưởng của Người về nhà nước
cộng hoà dân chủ trong thực tiễn. Chính phủ lâm thời thật sự là một chính phủ
quốc gia thống nhất, giữ trọng trách chỉ đạo, điều hành đất nước trước khi bầu
Quốc hội để lập ra chính phủ chính thức. Thành viên của Chính phủ đại biểu
cho nhiều giai cấp, tầng lớp thuộc ba miền Bắc, Trung, Nam, tiêu biểu cho
khối đại đoàn kết dân tộc. Do hoàn cảnh lịch sử đặc biệt, ngày 01-01-1946,
Chính phủ lâm thời đã tự cải tổ thành Chính phủ liên hiệp lâm thời, thu hút
thêm một số thành viên của Việt Quốc và Việt Cách. Chương trình đầu tiên

của Chính phủ liên hiệp lâm thời là chuẩn bị tổ chức Tổng tuyển cử bầu ra cơ
quan đại diện của toàn dân, bảo đảm địa vị pháp lý của nhà nước cách mạng.
Trên cơ sở đó, ngày 01-01-1946, Chính phủ Liên hiệp lâm thời do Chủ tịch
Hồ Chí Minh đứng đầu làm lễ ra mắt tại Nhà hát lớn Thành phố Hà Nội, trước
30.000 nhân dân Thủ đô. Thay mặt Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh công
bố danh sách nội các mới và đường lối đối nội, đối ngoại của Chính phủ [51,
tr.57]. Tiếp theo, ngày 6-1-1946 sự kiện toàn dân tham gia Tổng tuyển cử bầu
Quốc hội khóa I đã đánh dấu lần đầu tiên trong lịch sử , nhân dân Việt Nam
thực sự được làm chủ đất nước; được thực hiện quyền làm chủ, quyền dân
chủ của mình. Ngày 9-11-1946, Quốc hội khóa I, tại kỳ họp thứ 2 đã thông
qua bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam DCCH (Hiến pháp năm 1946)
với số phiếu tán thành là 240/242 tổng số phiếu. Sau đó, Quốc hội ra nghị
quyết giao nhiệm vụ cho Ban Thường trực Quốc hội “cùng với chính phủ ban
bố và thi hành hiến pháp khi có điều kiện” và “trong thời kì chưa thi hành

16


được Hiến pháp thì chính phủ phải dựa vào những nguyên tắc đã định trong
hiến pháp để ban hành các sắc luật”4.
1.1.2. Khái quát về tổ chức bộ máy nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng
hòa giai đoạn 1945 - 1946
Cách mạng tháng Tám 1945 ra đời đã thủ tiêu toàn bộ bộ máy nhà nước
của chế độ phong kiến và thực dân, lập nên nhà nước Việt Nam DCCH. Sự ra
đời của chính thể DCCH thể hiện một tư duy sáng tạo của Đảng ta và Chủ
tịch Hồ Chí Minh trong việc lựa chọn mô hình tổ chức nhà nước, vừa tiếp thu
được các giá trị phổ biến của nền dân chủ nhân loại, vừa phù hợp với các đặc
điểm, yêu cầu của đất nước.
Chính phủ của chính quyền nhân dân là một thiết chế quyền lực được
Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm xây dựng. Trong tuyên bố trước Quốc hội sau

khi Chính phủ được thành lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Tôi có thể
tuyên bố trước Quốc hội rằng, Chính phủ này tỏ rõ cái tinh thần quốc dân liên
hiệp là một Chính phủ chú trọng thực tế và sẽ nỗ lực làm việc, để tranh thủ
quyền độc lập và thống nhất lãnh thổ cùng xây dựng một nước Việt Nam mới.
Chính phủ này là Chính phủ toàn quốc, có đủ nhân tài Trung, Nam, Bắc tham
gia” [64, tr. 430]. Chính phủ đã phản ánh tinh thần đoàn kết tính dân tộc sâu sắc
vàtập hợp được nhân tài, tinh hoa trí tuệ của cả dân tộc, của mọi miền đất nước.
Với quyết tâm xây dựng một Chính phủ mạnh, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên
bố: “Chính phủ sau đây phải là một Chính phủ biết làm việc, có gan góc, quyết
tâm đi vào mục đích trong khi kiến thiết, ngoài thì tranh thủ độc lập và thống
nhất của nước nhà”[64, tr. 427].

4

Tuy nhiên, do tình hình chiến tranh (Cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ ngày 19-12-1946 nên Hiến
pháp 1946 chưa được chính thức công bố và chưa có hiệu lực về phương diện pháp lý.

17


1.1.3. Thực hiện quyền làm chủ của nhân dân – tư tưởng chủ đạo
của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
1.1.3.1. Khái quát về phạm trù “Nhân dân”
Nhân dân (còn gọi là người dân, quần chúng, dân): là thuật ngữ được
sử dụng rộng rãi trong các lĩnh vực khoa học chính trị - pháp lý, tư
tưởng chính trị để chỉ toàn thể những con người sinh sống trong một quốc gia
(tương đương với khái niệm dân tộc). Quần chúng nhân dân là một tập hợp
lớn bao gồm các thành phần, tầng lớp và giai cấp có sự thống nhất với nhau
về lợi ích căn bản, tự liên kết lại một cách tự nhiên thành một tập thể to lớn để
nhằm giải quyết những vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội của một thời đại nhất

định. Nhìn chung, quá trình vận động, phát triển của lịch sử đều diễn ra thông
qua hoạt động của đông đảo quần chúng nhân dân, dưới sự lãnh đạo của một
cá nhân, một tổ chức hay một đảng phái.
Theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin: quần chúng nhân dân là
người sản xuất ra của cải vật chất và những giá trị tinh thần cho xã hội. Là
chủ thể và là động lực của các phong trào xã hội, quần chúng nhân dân là lực
lượng quyết định vận mệnh và sự vận động, phát triển của lịch sử, thực hiện
sứ mệnh cao cả là xóa bỏ chế độ xã hội cũ và lạc hậu, xây dựng chế độ xã hội
mới, tiến bộ. Lợi ích của quần chúng là điểm khởi đầu và cũng là mục đích
cao nhất của mọi phong trào cách mạng. Vì vậy, cách mạng là sự nghiệp của
quần chúng nhân dân, do chính nhân dân thực hiện để đáp ứng lợi ích của
nhân dân. Vai trò chủ thể sáng tạo ra lịch sử, quyết định tiến trình phát triển
lịch sử của quần chúng nhân dân được thể hiện trên các giác độ sau đây:
Thứ nhất, quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản của mọi
xã hội, trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất đáp ứng nhu cầu tồn tại, phát triển
của con người và xã hội - đây là nhu cầu quan trọng bậc nhất của mọi xã hội ở
mọi thời đại, mọi giai đoạn lịch sử [10, tr.179 – 183].

18


Thứ hai, cùng với quá trình sáng tạo ra của cải vật chất, quần chúng
nhân dân đồng thời cũng là lực lượng sáng tạo ra các giá trị tinh thần của xã
hội; là lực lượng trực tiếp hay gián tiếp “kiểm chứng” các giá trị tinh thần đã
được các thế hệ và các cá nhân sáng tạo ra trong lịch sử. Hoạt động của quần
chúng nhân dân là cơ sở hiện thực có ý nghĩa quyết định và là cội nguồn phát
sinh những sáng tạo văn hóa tinh thần của xã hội. Mọi giá trị sáng tạo tinh
thần dù qua phương thức nào thì cuối cùng cũng là để phục vụ hoạt động của
quần chúng nhân dân và nó chỉ có ý nghĩa hiện thực một khi được vật chất
hóa bởi hoạt động thực tiễn của nhân dân [10, tr. 179 – 183].

Thứ ba, quần chúng nhân dân là lực lượng và động lực cơ bản của mọi
cuộc cách mạng và các cuộc cải cách trong lịch sử. Lịch sử nhân loại đã
chứng minh rằng: không có một cuộc cách mạng hay cuộc cải cách xã hội nào
có thể thành công nếu nó không xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng của đông
đảo quần chúng nhân dân. Cho nên “cách mạng là ngày hội của quần chúng”
và trong ngày hội đó, quần chúng nhân dân có thể sáng tạo ra lịch sử “một
ngày bằng hai mươi năm”. Vì vậy, những cuộc cách mạng và cải cách xã hội
cần đến lực lượng quần chúng nhân dân và sức sáng tạo của quần chúng nhân
dân cũng cần có những cuộc cách mạng và cải cách xã hội. Đó chính là biện
chứng của quá trình phát triển xã hội [10, tr. 179 – 183].
Theo quan điểm duy vật lịch sử, quần chúng nhân dân là chủ thể sáng
tạo chân chính ra lịch sử, lực lượng quyết định sự phát triển của lịch sử. Do
đó, lịch sử trước hết và căn bản là lịch sử hoạt động của quần chúng nhân dân
trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. Lý luận về vai trò sáng
tạo lịch sử của quần chúng nhân dân đã cung cấp phương pháp luận khoa học
đề các đảng cộng sản phân tích các lực lượng xã hội, tổ chức xây dựng lực
lượng quần chúng nhân dân trong công cuộc cách mạng XHCN. Đó là xây
dựng sự liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí
thức dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản, trên cơ sở đó tập hợp mọi lực lượng
19


có thể nhằm tạo ra động lực to lớn trong sự nghiệp đưa cách mạng xã hội chủ
nghĩa đi tới thẳng lợi cuối cùng [10, tr. 179 – 183].
Trong cách mạng vô sản, giai cấp công nhân là người có sứ mệnh thủ
tiêu chế độ áp bức, bóc lột tư bản chủ nghĩa (TBCN), xây dựng chế độ mới
XHCN. Nhưng cách mạng vô sản muốn thắng lợi phải được sự ủng hộ của
các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là của quần chúng nhân dân lao động
(NDLĐ). C.Mác coi sự ủng hộ của lực lượng nông dân đông đảo đối với các
phong trào vô sản là một bài đồng ca, mà nếu không có bài đồng ca đó thì

cách mạng vô sản sẽ trở thành điếu văn. Lênin coi sự đồng tình và ủng hộ của
các tầng lớp NDLĐ là điều kiện cũng là mục tiêu hoạt động của giai cấp vô
sản, không có sự đồng tình và ủng hộ của địa đa số NDLĐ đối với đội tiên
phong của mình tức là đối với giai cấp vô sản thì cách mạng vô sản không
thực hiện được. Lênin đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng mối quan hệ gắn
bó mật thiết giữa Đảng cộng sản và quần chúng nhân dân vàcoi đó là một
nguyên tắc bất di bất dịch đối với việc xây dựng một chính đảng kiểu mới của
giai cấp công nhân. Người khẳng định đảng chân chính làm tròn được sứ
mệnh lịch sử của mình một khi biết gắn bó với quần chúng và thật sự dẫn dắt
toàn thể quần chúng tiến lên [10, tr. 179 - 183].
Quần chúng nhân dân còn là một phạm trù lịch sử, vận động, biến đổi
theo sự phát triển của lịch sử xã hội. Quần chúng nhân dân không phải là một
cộng đồng bất biến mà trái lại, luôn thay đổi cùng với sự biến đổi của những
nhiệm vụ lịch sử ở mỗi thời đại, mỗi giai đoạn phát triển nhất định. Tuy
nhiên, lực lượng cơ bản nhất của mỗi cộng đồng nhân dân chính là những con
người lao động sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần cho sự sinh tồn và
phát triển của xã hội5. Trong lịch sử, khi chưa có khái niệm dân chủ thì người
dân dưới chế độ phong kiến còn được gọi là dân đen hay thảo dân (giai cấp bị
5

Ngoài ra, tùy theo mỗi điều kiện lịch sử xác định mà cộng đồng quần chúng nhân dân còn có thể bao gồm
những lực lượng giai cấp và tầng lớp xã hội khác.

20


×