Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

Công nghiệp hóa ,hiện đại hóa là con đường tất yếu dẫn đến nền công nghiệp hiện đại năm 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (114.6 KB, 8 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1.Lý

do chọn đề tài :
Công nghiệp hóa hiện đại hóa là một chủ trương lớn của Đảng, của
Chính phủ nước ta hiện nay, đang thực sự trở thành vấn đề thu hút sự
quan tâm của các nhà lãnh đạo, các nhà nghiên cứu , của mọi doanh
nghiệp và của toàn xã hội.Hơn thế nữa, chúng ta đang ở những năm đầu
của thế kỷ XXI - thế kỷ của văn minh và tiến bộ khoa học, công nghệ
mới. Thế kỷ XX đã trôi qua nhưng nó để lại những thành tựu rực rỡ về
khoa học - công nghệ cho thế giới và nước ta. Đối với một nước có nền
kinh tế kém phát triển thì vấn đề công nghiệp hóa - hiện đại hóa là con
đường tất yếu tạo ra cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội để có
thể bắt kịp sự chuyển biến của nền kinh tế trong khu vực và trên thế giới.
Đó là lý do mà em chọn đề tài trên.
2.Mục tiêu nghiên cứu :
Qua tiểu luận này, em muốn phân tích và làm rõ những yếu tố tất yếu để
đưa nước ta từ nước nông nghiệp lạc hậu trở thành nước công nghiệp thoe
hướng hiện đại vào năm 2020 theo hướng phát triển công nghiệp hóa hiện
đại hóa.
3.Phương pháp nghiên cứu:
Trong quá trình thực hiện đề tài, các phương pháp chủ yếu em sử dụng là
phương pháp lôgic, phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp,
phương pháp so sánh, phương pháp điều tra xã hội học.
CHƯƠNG 1: CON ĐƯỜNG DẪN ĐẾN QUÁ TRÌNH CÔNG
NGHIỆP HÓA HIỆN ĐẠI HÓA
1.Khái niệm công nghiệp hóa hiện đại hóa
Đường lối công nghiệp hóa đất nước đã được hình thành từ Đại hội III
của Đảng (tháng 9-1960). Ngay từ đầu quá trình công nghiệp hóa, Đảng
ta đã xác định công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm
trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Quan điểm đúng


đắn này được khẳng định nhiều lần trong tất cả các Đại hội của Đảng.
Hiện nay ở các nước phát triển thì công nghiệp hóa - hiện đại hóa là một
trong những chính sách chủ yếu và là một thách thức lớn. Tuy nhiên, các
chính sách công nghiệp hóa - hiện đại hóa trong giai đoạn này có nhiều
điểm khác so với trước kia. Chính điều đó đã làm cho chính sách ở các
nước các thời kỳ đa dạng hơn.
Cho đến Hội nghị Trung ương 7 khóa VII (tháng 1-1994), đã có bước đột
phá mới trong nhận thức về khái niệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa. “
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện
các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ
sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức
lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện
đại, hiện đại, dựa trên sự phát triển công nghiệp tiến bộ khoa học- công
nghệ tạo ra năng suất lao động xã hội cao”.


2.Bản

chất của qúa trình công nghiệp hóa hiện đại hóa
Quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa mang bản chất là cải biến nước
ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, có cơ
cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất, mức sống vật chất và tinh thần cao, quốc
phòng - an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh.
Ngoài ra, Công nghiệp hóa - hiện đại hóa phải tạo cơ sở nền tảng của sản
xuất bằng máy móc thay thế cho sản xuất nhỏ thủ công bằng chân tay,
công nghiệp hóa trong tất cả các ngành kinh tế quốc dân đều dựa trên
điện khí hóa và áp dụng rộng rãi những thành tựu khoa học, kỹ thuật mới
vào để tổ chức một cách có kế hoạch trên phạm vi cả nước. Nhằm đáp

ứng nhu cầu đầy đủ về vật chất và văn hóa tinh thần của người dân trong
xã hội .Vấn đề chủ nghĩa xã hội tạo ra một hệ thống công nghiệp hóa
nặng đặc biệt là công nghiệp điện tử chế tạo máy móc, công nghiệp nhẹ
chế biến.
Trong những năm tới, nước ta sẽ đẩy mạnh qúa trình công nghiệp hóa
hiện đại hóa nhằm đưa nước ta thoát khỏi tình trạng kém phát triển đời
sống của người dân được cải thiện hơn. Tạo nền tảng đến năm 2020 nước
ta trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực về
con người, khoa học kỹ thuật, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc
phòng - an ninh được tăng cường. Thể chế kinh tế điịnh hướng thị trường
xã hội chủ nghĩa cơ bản là hình thành, vị thế của nước ta trên thị trường
quốc tế được nâng cao.
3.Tính tất yếu của quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa
3.1. Phương diện lý luận
Tại Đại hội III của Đảng khẳng định: Muốn cải biến tình trạng kinh
tế lạc hậu của nước ta, không có con đường nào khác, ngoài con đường
công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Tức là khẳng định tính tất yếu của
công nghiệp hóa đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Trên cơ sở phân tích một cách toàn diện đặc điểm, tình hình trong
nước và quốc tế, Đại hội IV của Đảng (tháng 12-1976) đề ra đường lối
công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là : “ Đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội
chủ nghĩa, xây dựng, cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa
nền kinh tế nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Ưu
tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển
nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, kết hợp xây dựng công nghiệp và nông
nghiệp cả nước thành một cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp; vừa xây
dựng kinh tế trung ương vừa phát triển kinh tế địa phương trong một cơ
cấu kinh tế quốc dân thống nhất ”.
Đại hội III cũng chỉ rõ rằng: "Công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa
không phải chỉ là đơn thuần xây dựng công nghiệp hiện đại mà còn phải

làm cho nông nghiệp và các ngành kinh tế khác đều trở thành hiện đại.


Trong nền kinh tế quốc dân, công nghiệp và nông nghiệp là hai bộ phận
chủ yếu có quan hệ mất thiết với nhau. Chỉ có kết hợp chặt chẽ kinh tế
công nghiệp và kinh tế nông nghiệp, giải quyết đúng đắn quan hệ giữa
công nghiệp và nông nghiệp, thì mới có thể xây dựng thành công cơ sở
vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội".
Như vậy, Đại hội đã:
- Quyết định tiến hành công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa,coi đó là nhiệm
vụ trung tâm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
-Thấy rõ quan hệ gắn bó giữa công nghiệp và nông nghiệp trong công
nghiệp hoá, trong đó nông nghiệp là cơ sở phát triển của công nghiệp.
- Quan niệm công nghiệp hoá không chỉ là đơn thuần xây dựng công
nghiệp hiện đại, mà còn là phải làm cho nông nghiệp và các ngành kinh tế
khác đều trở thành hiện đại.
Lần đầu tiên xây dựng đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa trong khi
trình độ lý luận còn thấp,thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội chưa nhiều,
kinh nghiệm giải quyết quan hệ giữa phát triển công nghiệp và nông
nghiệp chưa có, v.v.., đưa ra được những điểm trong nội dung công
nghiệp hoá như vậy là một thành công lớn của Đảng ta ở Đại hội III.
3.2. Phương diện thực tiễn
Khẳng định công nghiệp và nông nghiệp quan hệ khǎng khít với nhau,
hỗ trợ cho nhau cùng phát triển, coi trọng phát triển công nghiệp, đồng
thời phải coi trọng phát triển cả nông nghiệp, v.v.; song, Hồ Chí Minh
kiên trì nhắc nhở toàn Đảng toàn dân rằng, nông nghiệp là cơ sở phát
triển của công nghiệp hay nói cách khác, nông nghiệp là nền tảng của quá
trình công nghiệp hoá. Do đó, quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa là
sự hình thành tất yếu bởi :
Thứ nhất, nước ta là nước đông dân cư sống ở nông thôn, với gần 70%

dân số sống ở nông thôn, hơn 47% lao động làm nông nghiệp; tốc độ tăng
dân số ở nông thôn hiện vẫn cao; ruộng đất bình quân đầu người thấp và
có xu hướng giảm do quá trình đô thị hóa, mở rộng xây dựng kết cấu hạ
tầng; trình độ sản xuất nông nghiệp còn thấp, kỹ thuật thủ công là chủ
yếu...
Thứ hai, nông nghiệp, nông thôn góp một phần quan trọng trong quá
trình tích lũy vốn cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa; là khu vực kinh tế xã hội có vị trí chiến lược cực kỳ quan trọng, liên quan đến việc giải
quyết những vấn đề đời sống cơ bản của đại đa số dân cư, như tạo việc
làm cho lao động dư thừa ở nông thôn, tăng thu nhập cho nông dân, tăng


sức mua của thị trường nông thôn, tăng tỷ trọng trong GDP và tăng đóng
góp vào ngân sách nhà nước.
Thứ ba, kinh tế nông nghiệp vẫn chưa ra khỏi tình trạng yếu kém, chậm
phát triển. Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới cách thức sản xuất
trong nông nghiệp còn chậm, phổ biến vẫn là sản xuất nhỏ, phân tán;
năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng nhiều mặt hàng thấp. Đời sống vật
chất và tinh thần của người dân nông thôn chưa được cải thiện đáng kể,
chưa tương xứng với thành quả của công cuộc đổi mới đất nước; tỷ lệ hộ
nghèo còn cao, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng
xa; chênh lệch giàu - nghèo giữa nông thôn và thành thị, giữa các vùng
còn lớn, phát sinh nhiều vấn đề xã hội bức xúc.
Thứ tư, thực tiễn thế giới cho thấy, đã có không ít nước đi lên bằng xuất
khẩu nông sản, như Ô-xtrây-li-a, Ác-hen-ti-na, Ca-na-đa,... Đối với một
số nước khác, phát triển nông nghiệp là biện pháp chủ yếu để hình thành
thị trường trong nước; cũng có nước lấy phát triển nông nghiệp và công
nghiệp nông thôn là biện pháp cơ bản giải quyết phần tất yếu của đời
sống kinh tế trong thời kỳ đầu công nghiệp hóa.
Thứ năm, đối với một nước đi lên chủ nghĩa xã hội từ nông nghiệp lạc
hậu thì vấn đề mấu chốt là phát triển nền nông nghiệp hàng hóa để cấu

trúc lại nền kinh tế theo hướng sản xuất lớn, hiện đại. Tình hình thực tế
của nước ta cũng như bài học của một số nước Đông Nam Á càng khẳng
định vai trò rất quan trọng của nông nghiệp và kinh tế nông thôn đối với
sự ổn định và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, nhất là các nước
đang phát triển đi lên từ nông nghiệp. Trước mắt cũng như lâu dài, phát
triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện
đại hóa là cơ sở để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thứ sáu, nông thôn là nguồn cung cấp nhân lực chủ yếu để thực hiện
công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
thôn theo hướng phát triển công nghiệp, dịch vụ đồng thời cũng là quá
trình chuyển lao động từ ngành nông nghiệp sang ngành công nghiệp và
dịch vụ theo hướng lao động công nghiệp, dịch vụ tăng tuyệt đối và
tương đối, còn lao động nông nghiệp giảm tuyệt đối và tương đối.
CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG VÀO QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA
HIỆN ĐẠI HÓA Ở NƯỚC TA
1.Thành tựu và hạn chế của quá trình công nghiệp hóa hiện đại

hóa


1.1 Thành tựu
Trong 30 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhà nước đã tích cực thể
chế hóa chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng về đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, bước đầu tạo môi trường pháp lý bình
đẳng và minh bạch cho các doanh nghiệp thuộc mọi thanh phần kinh tế
cạnh tranh, phát triển khơi thông các nguồn lực trong nước và đầu tư
nước ngoài.Từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu với 90% dân số làm
nông nghiệp, Việt Nam đã xây dựng được cơ sở vật chất-kỹ thuật, hạ tầng
kinh tế-xã hội từng bước đáp ứng cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện

đại hóa, tạo ra môi trường thu hút nguồn lực xã hội cho phát triển.
Về tăng trưởng kinh tế, trong suốt 30 năm qua, kinh tế Việt Nam đã đạt
tốc độ tăng trưởng cao hơn hẳn thời kỳ trước đổi mới. Sau giai đoạn đầu
đổi mới (1986-1990) với mức tăng trưởng GDP bình quân hàng năm chỉ
đạt 4,4%, nền kinh tế Việt Nam đã trải qua gần 20 năm với mức tăng
trưởng rất ấn tượng.
Giai đoạn 1991-1995, GDP bình quân tăng 8,2%/năm gấp đôi so với 5
năm trước đó; giai đoạn 5 năm tiếp theo 1996-2000, mặc dù cùng chịu tác
động của khủng hoảng tài chính khu vực (1997-1999), GDP vẫn duy trì
bình quân tăng 7,6%/ năm; giai đoạn 2001-2005, GDP tăng bình quân
7,34%; giai đoạn 2006-2010, do suy giảm kinh tế thế giới, Việt Nam vẫn
đạt tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 6,32%/năm.
Trong các năm tiếp theo, do chịu tác động từ cuộc khủng hoảng tài chính
toàn cầu 2008 và khủng hoảng nợ công 2010, tốc độ tăng trưởng GDP
giai đoạn 2011-2015 của Việt Nam tuy đã chậm lại nhưng vẫn đạt
5,9%/năm, là mức cao của khu vực và thế giới. Quy mô nền kinh tế tăng
nhanh.
Năm 2003, sau 16 năm đổi mới, GDP bình quân đầu người ở Việt Nam
mới chỉ đạt 471 USD/năm thì đến năm 2015, quy mô nền kinh tế đã đạt
khoảng 204 tỷ USD, thu nhập bình quân đầu người đạt gần 2.300 USD.
Lực lượng sản xuất có nhiều tiến bộ cả về số lượng và chất lượng. Chất
lượng tăng trưởng có mặt được cải thiện, trình độ công nghệ sản xuất có
bước được nâng lên. Đóng góp của yếu tố năng suất tổng hợp TFP vào
tăng trưởng nếu ở giai đoạn 2001-2005 chỉ đạt 21,4%, giai đoạn 20062010 đạt 17,2% thì trong giai đoạn 2011-2015 đã đạt 28,94%. Kinh tế vĩ
mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiểm soát.


Những nỗ lực đổi mới trong 30 năm qua đã giúp cho môi trường đầu tư
liên tục được cải thiện, nhờ đó đã thu hút ngày càng nhiều hơn vốn đầu tư
cho phát triển.

Cơ cấu kinh tế của Việt Nam đã bước đầu chuyển dịch theo hướng hiện
đại. Cơ cấu ngành kinh tế chuyển dịch theo hướng giảm khu vực nông
nghiệp, tăng khu vực dịch vụ và công nghiệp.
Kim ngạch xuất khẩu thường xuyên tăng với tốc độ hai con số, giai đoạn
2011-2015 tăng đến 18%/năm. Xuất khẩu chuyển dịch theo hướng tăng
dần tỷ trọng sản phẩm công nghiệp và giảm dần tỷ trọng sản phẩm nông
nghiệp, giảm dần sản phẩm nguyên liệu thô. Đã hình thành các vùng kinh
tế trọng điểm để làm động lực cho phát triển kinh tế vùng, miền và cả
nước. Phát triển các khu kinh tế, khu công nghiệp tập trung nhằm thu hút
vốn đầu tư phát triển, đồng thời hình thành các vùng chuyên môn hoá cây
trồng, vật nuôi gắn với chế biến công nghiệp.
Các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế đều có bước phát triển khá. Ngành
công nghiệp và xây dựng duy trì tốc độ tăng trưởng khá liên tục, tốc độ
triển khai ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ được cải thiện.
Sản phẩm công nghiệp phát triển ngày càng đa dạng và chất lượng, từng
bước nâng cao khả năng cạnh tranh, bảo đảm cung cầu của nền kinh tế,
giữ vững thị trường trong nước và mở rộng thị trường xuất khẩu; chú
trọng đầu tư phát triển một số ngành công nghiệp mới, công nghệ cao.
Các ngành dịch vụ đã phát triển đa dạng hơn, đáp ứng ngày càng tốt hơn
nhu cầu của sản xuất và đời sống. Ngành du lịch, bưu chính viễn thông
phát triển với tốc độ nhanh; các ngành dịch vụ tài chính, ngân hàng, tư
vấn pháp lý có bước phát triển theo hướng tiến bộ, hiệu quả.
Việc khai thác, sử dụng tài nguyên quốc gia và bảo vệ môi trường gắn với
yêu cầu phát triển bền vững đã được quan tâm và đem lại kết quả bước
đầu. Kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội phát triển, đặc biệt là hạ tầng giao
thông, điện, thông tin, viễn thông, thủy lợi, hạ tầng đô thị, giáo dục, y tế.
Việc ứng dụng khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ cao, đã tạo
những tiền đề để bước đầu chuyển sang xây dựng kinh tế tri thức.
Ba mươi năm đổi mới là một giai đoạn lịch sử quan trọng có ý nghĩa
trọng đại trong sự nghiệp phát triển của Việt Nam, đánh dấu sự trưởng

thành về mọi mặt của Đảng, Nhà nước và nhân dân; là quá trình cải biến
sâu sắc, toàn diện, triệt để, là sự nghiệp cách mạng to lớn của toàn Đảng,
toàn dân vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh.”


1.2. Hạn chế
Nền kinh tế Việt Nam đang ở trình độ phát triển chậm, hiệu quả và sức
cạnh tranh thấp, có nguy cơ tụt hậu xa so với các nước khác có cùng điều
kiện.
- Trong chiến lược CNH, HĐH thời gian qua đề ra quá nhiều mũi nhọn,
nhưng lại thiếu trọng tâm, trọng điểm cần thiết cho từng giai đoạn, dẫn
đến việc đầu tư bị dàn trải, kém hiệu quả trong điều kiện kinh tế và nguồn
lực hạn hẹp. Chưa xác định các “điểm then chốt” để thực hiện “3 đột
phá” chiến lược nhằm đẩy nhanh tiến trình CNH, HĐH đất nước.
- Công nghiệp vật liệu và hệ thống các sản phẩm chủ lực tham gia chuỗi
giá trị toàn cầu còn rất nhỏ bé, chưa có nhiều thương hiệu có giá trị trên
thị
trường
khu
vực

quốc
tế.
- Tỷ lệ nội địa hóa thấp, ưu thế trong xuất khẩu hiện nay thuộc về các nhà
đầu

nước
ngoài.
- Giá trị gia tăng của công nghiệp chủ yếu tăng nhờ sự phát triển theo bề

rộng, tốc độ tăng giá trị sản xuất cao hơn tốc độ tăng giá trị tăng thêm.
- Trình độ công nghệ lạc hậu so với khu vực và thế giới, tốc độ đổi mới
công
nghệ,
thiết
bị
thấp.
- CNH, HĐH chưa phát huy lợi thế của vùng, chưa có sức lan tỏa để thúc
đẩy phát triển kinh tế và huy động các nguồn lực xã hội.
- Sự phát triển của các ngành công nghiệp nền tảng, mũi nhọn, như điện,
cơ khí, tự động, vật liệu... còn thấp, chưa đủ khả năng để tham gia toàn
cầu hóa và đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, các ngành
kinh
tế,
dịch
vụ
khác.
- Mặc dù hệ thống kết cấu hạ tầng là một trong những khâu đột phá, song
tính kết nối giữa các phương thức vận tải chưa cao, còn là điểm nghẽn
của
quá
trình
phát
triển.
- Quá trình đô thị hóa diễn ra với tốc độ nhanh nhưng chất lượng cung
cấp dịch vụ kém, phân bố dân cư không đồng đều, chưa đáp ứng tốt cho
công
cuộc
CNH,
HĐH

của
đất
nước.
Trong thời gian tới, tình hình chính trị và kinh tế thế giới sẽ còn có nhiều
bất ổn gây ra tác động đa chiều, song kinh tế vẫn là vấn đề chủ đạo bảo


đảm sự ổn định và phát triển. Toàn cầu hóa với kinh tế tri thức vẫn là xu
thế chủ yếu trong phát triển kinh tế. Nền kinh tế thế giới sẽ chuyển dịch
theo theo chiều hướng từ Tây sang Đông, từ “nâu” sang “xanh” và có
nhiều biến đổi sâu sắc về thể chế lẫn trình độ công nghệ và cơ cấu sản
phẩm.

mấy
đặc
điểm
nổi
bật
sau:
- Trong quá trình toàn cầu hóa, các chuẩn mực, nguyên tắc và các định
chế quốc tế sẽ trở thành nền tảng chi phối sự vận hành của nền kinh tế thế
giới. Theo đó, sự cạnh tranh giữa các quốc gia về nguồn lực và công nghệ
ngày
càng
gay
gắt
hơn.
- Sự phụ thuộc lẫn nhau của các nước trên thế giới ở phạm vi khu vực và
toàn cầu, cũng như khoảng cách về phát triển giữa các nền kinh tế ngày
càng

lớn.
- Sự trỗi dậy của một số nền kinh tế mới nổi (nhất là Trung Quốc và Ấn
Độ) làm dịch chuyển mạnh mẽ cơ cấu kinh tế trên phạm vi toàn cầu và
theo
vùng
địa
lý.
- Tiến bộ khoa học và công nghệ cùng sự phát triển của kinh tế tri thức
tạo cơ hội cho các nước đi sau bắt nhịp, tham gia chuỗi kinh tế toàn cầu
và là thời cơ để “rút ngắn” quá trình CNH, HĐH.



×