Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

VẤN ĐỀ TỰ HỌC CỦA SINH VIÊN KHOA SƢ PHẠM NGHỆ THUẬT VÀ VAI TRÕ CỦA GIẢNG VIÊN TRONG VIỆC RÈN LUYỆN TỰ HỌC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.65 MB, 96 trang )

VẤN ĐỀ TỰ HỌC CỦA SINH VIÊN KHOA SƢ PHẠM NGHỆ THUẬT
VÀ VAI TRÕ CỦA GIẢNG VIÊN TRONG VIỆC RÈN LUYỆN TỰ HỌC
 ThS. Trƣơng Thị Kim Hạnh (*)
1. Đặt vấn đề
Tự học là hình thức học tập không thể thiếu của sinh viên đang học tập tại các
trường cao đẳng, đại học, đặc biệt là đối với sinh viên Khoa Sư phạm Nghệ thuật
Trường Đại học Đồng Tháp.
Trong quá trình hình thành và nâng cao năng lực tự học cho sinh viên, vai trò
của người thầy là rất quan trọng. Mỗi giảng viên cần giáo dục cho sinh viên xác định
động cơ học tập một cách đúng đắn. Giảng viên phải tích cực đổi mới phương pháp
dạy học, xem tự học như là một tiêu chí hàng đầu trong quá trình đào tạo để hình thành
phương pháp tự học, tạo nền tảng cho năng lực tự học trong sinh viên. Làm thế nào để
giúp sinh viên Khoa Sư phạm Nghệ thuật nâng cao năng lực tự học là vấn đề cần được
tất cả các giảng viên trong Khoa quan tâm hiện nay.
2. Nội dung
2.1. Vấn đề tự học của sinh viên Khoa Sƣ phạm Nghệ thuật
Hiện nay Khoa rất chú trọng đến việc tự học của sinh viên. Tuy các giảng viên
đã quan tâm đến việc tự học nhưng chuyển biến về chất lượng tự học của sinh viên
chưa thật sự có kết quả cao. Bởi sinh viên chỉ quen với việc học tập trên lớp, chưa thấy
được tầm quan trọng của việc tự học ngoài giờ lên lớp. Trong bài giảng của giảng viên
đều có phần định hướng, tổ chức tự học cho sinh viên nhưng nhiều sinh viên chỉ thực
hiện một cách sơ sài, chiếu lệ.
Muốn chất lượng dạy và học ngày càng nâng cao, vấn đề tự học của sinh viên
cần phải được tất cả giảng viên trong Khoa đặc biệt quan tâm và cần phải có biện pháp
tổ chức, quản lí hoạt động tự học của sinh viên.
Thực tế giảng dạy tại Trường cho thấy, nếu sinh viên không chịu khó học tập,
đào sâu nghiên cứu, mở rộng thêm kiến thức bằng cách học tập độc lập thì thầy, cô có
dạy giỏi, có kiến thức sâu rộng và trình độ nghiệp vụ vững vàng đến mấy chất lượng
học tập cũng không thể cao.
Cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ, lượng thông tin ngày càng gia
tăng. Bên cạnh đó, chương trình đào tạo được thiết kế theo hướng ngày càng tinh gọn.


Số tiết truyền đạt trực tiếp trên lớp đối với các môn thực hành giảm còn 50% so với
trước đây, trong khi yêu cầu đối với người học ngày càng cao. Do vậy, hơn lúc nào
hết, tầm quan trọng của tự học là rất cần thiết.
2.2. Vai trò của giảng viên trong việc rèn luyện tự học của sinh viên
Giảng viên đóng vai trò quan trọng hàng đầu trong việc định hướng và kích
thích ý thức tự học cho sinh viên. Không phải giảng viên chỉ có nhiệm vụ quan trọng
trong những giờ lên lớp còn những giờ tự học, tự nghiên cứu của sinh viên thì không
1
--------------(*) Trưởng Bộ môn Âm nhạc, Khoa Sư phạm Nghệ thuật


cần can thiệp. Ngược lại, đối với hoạt động tự học của sinh viên, giảng viên phải quan
tâm hơn. Giảng viên cần kịp thời tư vấn khi sinh viên cần.
Để định hướng cho sinh viên vạch ra kế hoạch tự học cá nhân, giảng viên cần
đề ra kế hoạch dạy học cụ thể toàn bộ môn học (hoặc từng chương, từng bài), cung cấp
trước cho sinh viên nghiên cứu để biết mình sẽ làm gì và làm như thế nào trong quá
trình học tập bộ môn.
Giảng viên cần hướng dẫn sinh viên hình thành phương pháp tự học hiệu
quả. Giảng viên nên tăng cường các hình thức dạy học nhóm, trao đổi thảo luận, nêu
lên chính kiến của mình. Một số nhiệm vụ chính của giảng viên đối với hoạt động tự
học của sinh viên như sau:
, nội dung chi tiết của
môn học, hình thức tổ chức và phương pháp dạy - học cho từng nội dung của môn học,
hình thức kiểm tra - đánh giá của từng hoạt động học tập… Qua đó, sinh viên chủ
động lên kế hoạch tự học, tự nghiên cứu để thực hiện được các mục tiêu của môn học.
Giảng viên cần phải tuân thủ theo đúng kế hoạch trong đề cương và yêu cầu sinh viên
nghiêm túc thực hiện đề cương này.
- Xác định rõ nội dung tự học và phương tiện để thực hiện nội dung đó.
Giảng viên cần thiết kế các nhiệm vụ tự học cụ thể để sinh viên có thể tự chiếm
lĩnh được các nội dung này, đáp ứng mục tiêu và yêu cầu của từng bài học trong một

khoảng thời gian định trước. Để giúp sinh viên thực hiện được nhiệm vụ tự học của
mình, giảng viên cần giới thiệu đầy đủ các tài liệu bắt buộc, tài liệu tham khảo, cách
thu thập, tra cứu và xử lý thông tin trong tài liệu với những hướng dẫn chi tiết, cụ thể.
Bên cạnh đó, giảng viên cần tăng cường hướng dẫn, giúp đỡ sinh viên xây dựng kế
hoạch tự học khoa học, hợp lý, phù hợp với điều kiện của mình để đạt tới đích một
cách hiệu quả nhất.
Giảng viên cần hướng dẫn cho sinh viên phương pháp học tập ngay khi bắt đầu
môn học đó. Đó là:
- Giảng viên chỉ rõ yêu cầu nội dung sách và tài liệu bắt buộc, hoặc tham khảo
của môn học và từng bài giảng để sinh viên tìm đọc. Sách đó có ở đâu, ký hiệu của
sách trong thư viện. Việc này rất cần, chỉ cần sinh viên chịu khó sẽ tiết kiệm được rất
nhiều thời gian.
- Hướng dẫn sinh viên kỹ thuật đọc sách ở các cách đọc khác nhau: đọc lướt
qua, đọc có trọng điểm, đọc toàn bộ nhưng không nghiền ngẫm kỹ, đọc nghiền ngẫm
nội dung cuốn sách, đọc nóng, đọc sâu...
- Rèn luyện cho sinh viên kỹ năng ghi chép khi đọc sách.
- Hướng dẫn phương pháp các bài tập thực hành với 3 mức độ.
+ Luyện tập tái hiện nhằm củng cố những tri thức đã học.
+ Luyện tập vận dụng nhằm di chuyển những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, từ những
tình huống quen thuộc vào các tình huống mới, từ bộ môn này sang bộ môn khác.
2


+ Luyện tập sáng tạo nhằm vận dụng những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo đã có vào
các tình huống khác nhau, gắn liền với nghề nghiệp trong tương lai của sinh viên.
2.3. Vai trò của sinh viên đối với hoạt động tự học
Bên cạnh sự hướng dẫn của giảng viên, sự quản lý của nhà trường thì hoạt
động tự học chỉ có thể thực sự đem lại hiệu quả khi có sự nỗ lực của bản thân chủ thể
tham gia, đó chính là sinh viên. Sinh viên phải thay đổi nhận thức, xóa bỏ sức ỳ để có
những phương pháp học tập tích cực, thái độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm nhằm thích

ứng với những yêu cầu học tập mới. Một số nhiệm vụ chính của sinh viên đối với hoạt
động tự học như sau:
.
- Nắm vững mục tiêu của môn học và mục tiêu của từng bài học (mà thông
thường được mô tả khá kỹ trong đề cương môn học được cung cấp khi bắt đầu học
môn học) để làm cơ sở xây dựng kế hoạch tự học phù hợp và nghiêm túc thực hiện kế
hoạch đó.
- Đảm bảo hoàn thành các nhiệm vụ tự
.
- Trong quá trình tự học, sinh viên cần suy nghĩ, sáng tạo và mạnh dạn đưa ra
những ý kiến, nhận xét, thắc mắc của mình mà không quá phụ thuộc vào tài liệu và
những bài giảng của giảng viên.
, Organ, Guitar,... sinh viên

.
3. Kết luận
Trong quá trình rèn luyện và thực hiện kế hoạch tự học của sinh viên, giảng
viên giữ vai trò quan trọng trong việc định hướng giáo dục nhằm hình thành và rèn
luyện ở sinh viên các kỹ năng tự học. Giảng viên cần đề ra kế hoạch cụ thể, thường
xuyên nhắc nhở, đôn đốc, kiểm tra và đánh giá hoạt động tự học của sinh viên. Sinh
viên phải thay đổi nhận thức, xóa bỏ sức ỳ để có những phương pháp học tập tích cực.
Có như vậy, việc tự học của sinh viên mới thực hiện tốt và đạt hiệu quả. Từ đó sẽ góp
phần nâng cao chất lượng dạy và học của thầy và trò Khoa Sư phạm Nghệ thuật trong
hiện tại và tương lai.
Tài liệu tham khảo
[1]. Hồ Phạm Minh Châu (2008), Một số biện pháp quản lí hoạt động tự học của sinh viên
Khoa Giáo dục Mầm non Trường Cao đẳng Sư phạm Nghệ An, Luận văn Thạc sĩ.
[2]. Vũ Quốc Chung - Lê Hải Yến (2003), Để tự học đạt được hiệu quả, NXB Đại học
Sư phạm Hà Nội.
[3]. Nguyễn Văn Ngọc, Vấn đề tự học của sinh viên Khoa Kinh tế và vai trò của giảng viên,

Đại học Nha Trang.
3


TỰ HỌC - YẾU TỐ CẦN PHẢI CÓ ĐỐI VỚI SINH VIÊN
TRONG MÔI TRƢỜNG CAO ĐẲNG, ĐẠI HỌC HIỆN NAY
 ThS. Châu Hoàng Trọng (*)
1. Mở đầu
Chất lượng và hiệu quả giáo dục được nâng cao khi và chỉ khi tạo ra được năng
lực sáng tạo của người học, khi biến được quá trình giáo dục thành quá trình tự giáo
dục. Luật Giáo dục đã ghi rõ: “Phương pháp giáo dục đại học phải coi trọng việc bồi
dưỡng năng lực tự học, tự nghiên cứu, tạo điều kiện cho người học phát triển tư duy
sáng tạo, rèn luyện kỹ năng thực hành, tham gia nghiên cứu, thực nghiệm, ứng dụng”.
Như vậy, phương pháp dạy và học ở các trường đại học, cần thực hiện theo ba định
hướng: Bồi dưỡng năng lực tự học, tự nghiên cứu; Tạo điều kiện cho người học phát
triển tư duy sáng tạo; Rèn luyện kỹ năng thực hành, tham gia nghiên cứu, ứng dụng.
Như thế, tự học là hình thức học tập không thể thiếu được của sinh viên đang
học tập tại các trường đại học. Tuy nhiên việc tổ chức hoạt động tự học một cách hợp
lý, khoa học, có chất lượng, hiệu quả là trách nhiệm không chỉ ở người học mà còn là
sự nghiệp đào tạo của Bộ môn, Khoa và Nhà trường. Song song đó, để lựa chọn được
phương pháp dạy học vào thực tế có hiệu quả không thể bỏ qua vấn đề tự học của sinh
viên. Quá trình dạy học thành công của giảng viên có quan hệ biện chứng với quá trình
tự học của sinh viên. Vì vậy, thước đo hiệu quả của phương pháp dạy học là kết quả
của tự học.
Trên thực tế, vẫn còn nhiều sinh viên cho rằng lên đại học chỉ cần cố gắng học
là có thể đạt kết quả tốt, nhưng thật ra, học ở đại học khác với học ở trung học rất
nhiều, và biết cách học có hiệu quả ở đại học là một điều quan trọng mà có khi chưa
được chú ý đúng mức. Hệ quả của phương pháp học không tốt là lãng phí thời gian,
thành tích học tập kém, thậm chí thi rớt dẫn đến chán nản, thất vọng và bất mãn.
Qua đó, có thể thấy rằng kỹ năng tự học là một trong những kỹ năng mềm đặc

biệt quan trọng cho sinh viên. Và quan trọng hơn hết là sinh viên cần tạo được thói
quen tự học, chủ động sáng tạo và tự mình thực hiện nhiệm vụ học tập và nghiên cứu.
Bởi lẽ, trong môi trường cao đẳng, đại học hiện nay, việc tự học là yếu tố cần phải có
đối với mỗi một sinh viên.
2. Nội dung
Trong quá trình học tập, mỗi sinh viên tự mình phải chiếm lĩnh hệ thống tri
thức, kỹ năng; có tiềm năng vươn lên thích ứng với những yêu cầu trước mắt và lâu
dài do thực tiễn xã hội đặt ra. Muốn vậy, khi tiến hành hoạt động học tập, sinh viên
không chỉ phải có năng lực nhận thức thông thường mà cần tiến hành hoạt động nhận
thức mang tính chất nghiên cứu trên cơ sở khả năng tư duy độc lập, sáng tạo phát triển
ở mức độ cao. Điều đó có nghĩa là, dưới vai trò chủ đạo của thầy, sinh viên không
nhận thức một cách máy móc chân lý có sẵn mà còn phải tự đào sâu hoặc mở rộng
kiến thức...
4
--------------(*) Giảng viên Mỹ thuật, Trợ lý hoạt động NCKH Khoa Sư phạm Nghệ thuật


2.1. Tự học và Ý nghĩa trong hoạt động dạy - học ở môi trƣờng Đại học
2.1.1. Tự học
Trong quá trình học tập bao giờ cũng có tự học, nghĩa là tự mình lao động trí óc
để chiếm lĩnh kiến thức. Trong tự học, bước đầu thường có nhiều lúng túng nhưng
chính những lúng túng đó lại là động lực thúc đẩy sinh viên tư duy để thoát khỏi “lúng
túng”, nhờ vậy mà thành thạo lên, và đã thành thạo thì hay đặt những dấu hỏi, phát
hiện vấn đề và từ đó đi đến từng ngõ ngách của vấn đề.
Hoạt động tự học của sinh viên có thể diễn ra ở mọi lúc mọi nơi. Cứ khi nào
sinh viên huy động mọi khả năng nhận thức hiện có của mình, tiến hành các hoạt động
tìm tòi, khám phá tự giác, đứng trước mọi hiện tượng của thế giới khách quan là khi đó
họ đang tiến hành tự học.
Tự học Đại học là một trong những hình thức tổ chức dạy học cơ bản có tính
độc lập cao và mang đậm nét sắc thái cá nhân nhưng có quan hệ chặt chẽ với quá trình

dạy học. Nội dung của tự học rất phong phú, bao gồm toàn bộ những công việc học tập
do cá nhân và có khi do tập thể sinh viên tiến hành ngoài giờ học chính khoá hoặc do
bản thân sinh viên độc lập tiến hành ngay trong giờ chính khoá như: Đọc sách ghi chép
theo cách riêng, làm bài tập, tham gia các hoạt động thực tế…
Như vậy cốt lõi của học tự học và khi xem xét đến mối quan hệ giữa dạy và học
thì dạy chỉ là ngoại lực, còn tự học là nhân tố quyết định đến bản thân người học – là
yếu tố nội lực. Nhưng quá trình dạy cũng có ý nghĩa rất lớn và ảnh hưởng trực tiếp đến
quá trình học. Do vậy, trò là chủ thể, trung tâm, tự mình chiếm lĩnh tri thức, chân lý
bằng hành động của mình, tự phát triển bên trong. Thầy là tác nhân, hướng dẫn, tổ
chức, đạo diễn cho trò tự học. Người thầy giỏi là người dạy cho trò biết tự học. Người
trò giỏi là người biết tự học và sáng tạo suốt đời.
2.1.2. Ý nghĩa của tự học
Hiệu quả của quá trình dạy học chính là sự tương tác của tư duy, hành động và
lời nói giữa giảng viên và sinh viên. Nhờ sự trợ giúp của ngôn ngữ mà tư duy được
củng cố và phát triển. Giao tiếp bằng lời cho phép người học nhận thức thế giới xung
quanh, nhận ra mình trong thế giới đó. Tuy nhiên, phát triển tư duy chỉ với một hệ
thống giao tiếp không thôi thì chưa đủ, cần phải có hoạt động tự học của sinh viên.
Những nỗ lực của sinh viên là nhằm làm chủ kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo tạo
điều kiện cho sự phát triển nhận thức và trí tuệ. Theo bản chất của lý luận dạy học, tự
học của sinh viên bao gồm toàn bộ môi trường học tập được tổ chức bởi giáo viên với
mục tiêu hướng đến tự đào tạo cho người học. Vì vậy, tự học là hoạt động học tập diễn
ra mà không có sự tham gia trực tiếp của người dạy.
Bên cạnh đó, chương trình đào tạo tín chỉ được thiết kế theo hướng ngày càng
tinh gọn. Số tiết truyền đạt trực tiếp trên lớp giảm so với trước đây, trong khi yêu cầu
đối với người học ngày càng cao. Do vậy, hơn lúc nào hết, tầm quan trọng của tự học
tăng nhanh.
Hiện nay, nước ta cũng như các nước trên thế giới đều quan tâm đến vấn đề tự
học không chỉ trong các trường Đại học mà ngay cả ở bậc giáo dục phổ thông. Bởi tự
5



học và học suốt đời là một trong những chìa khoá bước vào thế giới tri thức. Vì vậy ý
nghĩa cuả tự học trong hoạt động dạy học ở đại học càng trở nên quan trọng và nó
được thể hiện:
- Hoạt động học là nhân tố trung tâm mà hoạt động tự học không thể thiếu để
đảm bảo cho sinh viên hoàn thành tốt các nhiệm vụ của quá trình học tập, nên quá
trình tự học là một hệ thống.
- Hoạt động tự học giúp sinh viên thu nhận được kiến thức dưới sự hướng dẫn
trực tiếp của giáo viên trở nên vững chắc, sâu sắc, tạo ra cơ sở để vận dụng kiến thức
đó vào thực tiễn học tập.
Tự học không những giúp sinh viên không ngừng nâng cao chất lượng và hiệu
quả học tập khi còn ngồi trên ghế nhà trường mà trong tương lai, họ sẽ trở thành người
cán bộ khoa học kỹ thuật có năng lực, có thói quen và phương pháp tự học suốt đời.
Ngoài việc hoàn thành các nhiệm vụ học tập theo chương trình đào tạo, nhờ tự
học, sinh viên còn nâng cao trình độ văn hoá chung cho mình để đáp ứng yêu cầu của
cuộc sống đặt ra. Ngoài ra nếu tổ chức tốt công tác tự học sẽ giúp cho sinh viên:
- Phát triển tính tự giác, tích cực và tính độc lập nhận thức, khắc phục tính thụ
động, ỷ lại vào thầy hoặc người khác.
- Làm quen với cách làm việc độc lập- tiền đề, cơ sở để nâng cao học vấn đáp
ứng sự phát triển của khoa học kỹ thuật trong thực tiễn công tác sau này.
- Bồi dưỡng hứng thú học tập, rèn luyện ý chí phấn đấu, đức tính kiên trì, óc
phê phán, nâng cao niềm tin và năng lực bản thân.
2.2. Các hình thức của tự học trong hoạt động dạy học ở Đại học
Hình thức của tự học trong hoạt động dạy học ở đại học bao gồm:
+ Tự học trên lớp: Nghe giảng; Ghi chép; Làm bài tập.
+ Tự học ngoài lớp: Đọc sách và tài liệu tham khảo; Làm đề cương cho thảo
luận nhóm, thảo luận lớp; Thực hiện các bài tập thực hành chuyên môn; Làm đề cương
ôn tập; Hoàn thành tiểu luận, …. với sự làm việc nghiêm túc.
Tóm lại vấn đề tự học, tự đào tạo là vô cùng quan trọng được quan tâm nhiều và
khuyến khích trong học tập, bởi vì sinh viên chỉ có thể thành công trong học tập và đạt

những thành tựu nhất định trong tương lai cũng bằng quá trình tự học. Thời gian học
trong trường, trên giảng đường Đại học bao giờ cũng có hạn, trong khi đó sự phát triển
tri thức của loài người là không bờ bến. Giải quyết mâu thuẫn này không có con đường
nào khác là phải tự học và học suốt đời.
3. Kết luận
Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước cùng với sự bùng nổ của
công nghệ thông tin, của những tri thức mới, sự tăng lên gấp bội của sáng tạo công
nghệ và kỹ thuật, sự mở rộng của các ngành nghề... đòi hỏi con người phải có năng lực
tự học, tự đào tạo để thích ứng.
Trong quá trình học tập ở trường đại học của sinh viên thì tự học, tự nghiên cứu
là rất quan trọng và cái ranh giới học tập – tự nghiên cứu là gần gũi, khó phân định.
6


Học đối với sinh viên là cuộc sống, là tương lai. Vậy nên thời gian học tập vô
cùng quý giá, không thể lãng phí nó được. Do đó, ngay ngày hôm nay, các bạn hãy tạo
và phát triển cho mình một kĩ năng học tập thật sư hợp lý và hiệu quả.
Mỗi người chúng ta đều có thói quen riêng và hơn bất cứ ai, chính bạn mới là
người biết rõ bạn đang cần, có và thiếu điều gì…. để có những cách sắp xếp điều chỉnh
sao cho phù hợp. Ngoài ra, để tăng hiệu quả tự học ở nhà, người học nên sưu tầm thêm
cho mình những cách học sao cho hiệu quả. Hãy tạo cho mình những sáng tạo, mới mẻ
thú vị cho không gian riêng để có được môi trường học tập hiệu quả.
Tài liệu tham khảo
[1]. Đặng Quốc Bảo, Nguyễn Đắc Hưng (2004), Giáo dục Việt Nam hướng tới tương
lai vấn đề và giải pháp, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[2]. Thái Duy Tuyên (2001), Giáo dục học hiện đại - Những vấn đề cơ bản, Nhà xuất
bản Đại học Quốc gia, Hà Nội.

7



MỘT SỐ BIỆN PHÁP THỰC HIỆN QUÁ TRÌNH
DẠY - TỰ HỌC CHO SINH VIÊN KHOA SƢ PHẠM NGHỆ THUẬT
 ThS. Nguyễn Đắc Nguyên (*)
1. Đặt vấn đề
Quá trình dạy – tự học là thông qua quá trình dạy học tri thức, sinh viên học
được phương pháp học để tự học, tự phát triển bản thân suốt đời.
Để thực hiện được quá trình dạy- tự học, giảng viên phải thể hiện tối đa vai trò
chủ đạo trong việc thiết kế, tổ chức, điều khiển, hƣớng dẫn, cố vấn, trọng tài, cổ
động viên, bình luận viên… nhằm phát huy tối đa vai trò chủ động, tự giác, tích
cực, độc lập, sáng tạo của sinh viên. Giảng viên phải lấy hoạt động học làm trung
tâm, lấy nội lực ở người học làm yếu tố quyết định cho sự phát triển. Muốn vậy, giảng
viên phải giúp sinh viên hiểu được giá trị, ý nghĩa của việc học, xác định mục tiêu,
viễn cảnh tốt đẹp của hoạt động học và bằng cách nào để đạt được. Những yêu cầu,
nhiệm vụ học tập được thể hiện sinh động thông qua những tình huống có vấn đề lý
thú, hấp dẫn để khơi gợi, kích thích người học hoạt động nhằm phát huy nội lực, tiềm
năng trí lực của người học trong việc giải quyết vấn đề. Người thầy là tác nhân kích
thích vào nhu cầu, động cơ, hứng thú làm bùng cháy tình cảm trí tuệ, đạo đức, thẩm
mỹ ở người học. Người học là chủ thể là trung tâm, tự mình thu thập, xử lý thông tin
từ môi trường để nội tâm hóa thành tri thức, thành năng lực cá nhân, tự thể hiện và tự
làm phong phú giá trị con người mình. Phương châm của học là phải hỏi: hỏi bản
thân, sách, báo, bạn, thầy, cuộc sống… và tìm được sự giải đáp để hiểu sâu rộng điều
mình học (học một hiểu 10). Học phải lấy hiểu làm điểm tựa và hành làm sự phát
triển. Nói chung giảng viên cần dạy cho sinh viên cách học, cách hỏi, cách phân tích,
tổng hợp, bình luận đánh giá kiến thức; học cách tư duy trừu tượng, phê phán, sáng
tạo; học cách nêu và giải quyết vấn đề; học cách tham khảo trí tuệ của người khác; học
cách hợp tác để phát huy tối ưu mình, học cách vận dụng, thực hành… Quá trình dạy tự học theo GS. Nguyễn Cảnh Toàn:
- Tự nghiên cứu: thông qua mục tiêu, yêu cầu, hệ thống câu hỏi có vấn đề,
người học tự tìm tòi, quan sát, mô tả, giải thích, phát hiện, giải quyết vấn đề, tự tìm ra
kiến thức mới, tạo ra sản phẩm ban đầu hay sản phẩm thô có tính chất cá nhân.

- Tự thể hiện: người học tự thể hiện mình bằng văn bản, bằng lời nói, tự sắm vai
trong các tình huống, vấn đề, tự trình bày, bảo vệ kiến thức hay sản phẩm cá nhân ban
đầu của mình, tự thể hiện qua sự hợp tác, trao đổi, đối thoại, giao tiếp với bạn và thầy
tạo ra sản phẩm có tính chất xã hội của cộng đồng lớp học.
- Tự kiểm tra, tự điều chỉnh: sau khi tự thể hiện mình qua sự hợp tác trao đổi
với các bạn và thầy, sau khi thầy kết luận, người học tự kiểm tra, đánh giá sản phẩm
ban đầu của mình, tự sửa sai, tự điều chỉnh thành sản phẩm khoa học.
Để thực hiện quá trình dạy- tự học, giảng viên cần có phẩm chất, năng lực tốt
để khai thác phát tối đa các thành tố của quá trình dạy- tự học.
8
--------------(*) Giảng viên Mỹ thuật, Khoa Sư phạm Nghệ thuật


2. Nội dung
2.1. Những yêu cầu để thực hiện quá trình dạy - tự học
- Trước tiên, giảng viên phải là thầy học, chuyên gia về việc học, tấm gương
sáng về “học không biết chán dạy người không biết mỏi” để dạy cách học cho trò tự
học chữ, tự học nghề, tự học nên người, tự phát triển bản thân. Giảng viên phải đẩy
mạnh nghiên cứu khoa học tìm tòi giải pháp thực hiện quá trình dạy- tự học và thực
hành, vận dụng luôn đổi mới thực tiễn giảng dạy của bản thân. Nói chung là giảng viên
phải tiên phong đổi mới phương pháp. Bởi vì giữa phương pháp dạy và học có mối
quan hệ biện chứng. Phương pháp dạy của giảng viên như bánh xe trước nếu không
tiên phong chuyển bánh thì bánh xe sau - phương pháp học của sinh viên cũng ỳ lại
một chỗ. Do đối tượng SV quen cách học thụ động nên công sức lao động sư phạm
của giảng viên thực hiện quá trình dạy - tự học khó hơn gấp trăm ngàn lần kiểu dạy
thông báo thông tin tri thức. Vì vậy, giảng viên phải có tâm huyết, nhiệt tình, tận tụy
trong lao động sư phạm, trong nghiên cứu khoa học tất cả vì chất lượng đào tạo.
Người học quen lối học thụ động đã trở thành “kỹ năng, kỹ xảo”, chỉ biết trông
chờ vào kiến thức thầy cô mang đến. Sinh viên đã quen thưởng thức những buổi tiệc
tri thức do giáo viên nấu nên bây giờ giảng viên dạy cho cách đi chợ, chuẩn bị và nấu

bữa tiệc tri thức, kỹ năng… cho chính mình thì họ sẽ rất bỡ ngỡ, khó khăn, vất vả. Hơn
nữa, động cơ học tập của một số sinh viên để đạt điểm, bằng cấp, có nghề chứ chưa
xuất phát từ tình cảm trí tuệ mãnh liệt, niềm khát khao được khám phá chân lý thế
giới, niềm đam mê trong việc làm giàu có tri thức, trí tuệ… Vì thế, giảng viên phải
tuyên truyền, vận động, tư vấn mọi nơi, mọi lúc để nâng cao ý thức tự học của sinh
viên. Sinh viên cần tham gia nhiều hoạt động như: Câu lạc bộ đổi mới phương pháp
học, tọa đàm, hội thảo đổi mới phương pháp học, tổ chức cuộc thi sáng kiến kinh
nghiệm về phương pháp học, phát động, tổ chức tốt phong trào tự học. Trung tâm tư
vấn, trung tâm hỗ trợ học tập cần phát huy tối đa khả năng cùng với giảng viên thực
hiện quá trình dạy - tự học.
Hơn nữa là điều kiện, phương tiện dạy học còn hạn chế, số lượng sinh viên cho
lớp thực hành đông nên giảng viên rất khó thực hiện quá trình dạy - tự học. Do phải
giảng dạy ở lớp đông sinh viên nên giảng viên sẽ rất khó khăn trong kiểm tra, đánh giá
kết quả tự học và điều chỉnh, sửa chữa và dạy cho sinh viên cách tự học. Vì vậy, để
thực hiện quá trình dạy - tự học sinh viên cần được trang bị đầy đủ giáo trình, tài liệu
học tập cơ bản và có tài liệu tham khảo phù hợp và các phương tiện, điều kiện dạy
học…
- Kiểm tra đánh giá là yếu tố có ảnh hưởng rất lớn đến việc thực hiện quá trình
dạy - tự học. Vì vậy giảng viên cần tích cực thực hiện đổi mới quá trình kiểm tra, đánh
giá để đánh giá đúng thực chất kết quả học tập của sinh viên. Chẳng những giảng viên
kiểm tra khả năng tái hiện tri thức mà quan trọng hơn là khả năng vận dụng, thực hành,
những thành quả của tự học, sự tích cực tìm tòi, khám phá, sáng tạo. Tương lai của
những sinh viên cần cù, tích cực, tự học sẽ tốt đẹp và những sinh viên học thụ động,
lười biếng, trông chờ, ỷ lại tất yếu sẽ bị đào thảy. Hơn nữa quản lý chuyên môn cần
9


quản lý được quá trình dạy - tự học, kết quả dạy - tự học của giảng viên và sinh viên…
Giảng viên, cần có nhiều khuyến khích thành quả tự học của sinh viên. Trọng số của
môn học được ưu tiên nhiều đánh giá kết quả sinh viên tự học, tự thể hiện trong suốt

quá trình học chứ không phải ở kết quả điểm thi. Bởi vì, tài sản tri thức, kỹ năng của
sinh viên có được là do cả quá trình học tập cần mẫn theo kiểu mưa dầm thấm lâu chứ
không phải học thi mà có được.
2.2. Một số biện pháp thực hiện quá trình dạy - tự học
Trước tiên giảng viên phải giúp sinh viên nhận thức được tầm quan trọng, giá
trị, ý nghĩa của môn học đối với tương lai nghề nghiệp. Nguời dạy có thể tìm nhiều ví
dụ minh họa sinh động, gần gũi, dễ hiểu để giúp sinh viên nhận thức sâu sắc vấn đề
này. Thông qua lời giới thiệu, giáo viên phải vén được bức màn bí mật, hé mở vào kho
báu môn học với vô số những điều kỳ thú, hấp dẫn, tính hữu dụng của những điều sẽ
học để kích thích vào nhu cầu, động cơ, hứng thú của sinh viên nghiên cứu, khám phá,
chiếm lĩnh tri thức, kỹ năng của môn học.
Giảng viên thiết kế kế hoạch dạy - tự học rõ ràng, cụ thể, khoa học. Thông qua
bản kế hoạch này, sinh viên nắm được mục tiêu cần đạt đến, viễn cảnh về kết quả học
tập, những yêu cầu, nhiệm vụ cần thực hiện (thông qua hệ thống câu hỏi có vấn đề, hệ
thống bài tập… để giảng viên giao nhiệm vụ), họ được học những nội dung gì, phương
pháp thực hiện như thế nào, với những phương tiện, điều kiện gì để đạt được kết quả
tốt. Do điều kiện tài liệu tham khảo thiếu thốn, giảng viên trong quá trình đọc tài
liệu… tra cứu mạng internet nên sưu tầm tư liệu theo từng nội dung bài học và cho
sinh viên phôtô để phục vụ cho việc học tập đạt kết quả tốt, giới thiệu để sinh viên tự
tra cứu. Giảng viên chọn những tài liệu tốt và cả những quan điểm trái ngược để rèn
cho sinh viên kỹ năng xử lý thông tin biến thành tri thức của bản thân.
Các bước thực hiện quá trình dạy tự học:
- Trên cở sở nắm chắc kế hoạch, hệ thống câu hỏi, bài tập… sinh viên huy động
nội lực, ngoại lực tự nghiên cứu, giải quyết.
- Lên lớp, sinh viên tiến hành thảo luận đôi bạn, nhóm bạn… để huy động trí
tuệ tập thể để hoàn thiện sản phẩm và trình bày kết quả.
- Sau khi cá nhân, đại diện nhóm trình bày kết quả, sau đó các bạn khác góp ý,
bổ sung, đặt những câu hỏi và tình huống chất vấn để cho cá nhân hoặc đại diện nhóm
trả lời nhằm hiểu được sâu rộng tri thức. Và cuối cùng giảng viên nhận xét, đánh giá,
điều chỉnh và bổ sung nhằm đạt được mục tiêu dạy học.

Do đối tượng quen cách học thụ động, nên khi tổ chức thực hiện phải theo từng
bước một như: ban đầu, giảng viên phân công nhiệm vụ cụ thể cho những nhóm chuẩn
bị trình bày nội dung; chuẩn bị phần nhận xét, bổ sung, đặt câu hỏi chất vấn… Khi đã
quen với cách làm việc, giảng viên có thể ưu tiên xung phong và kết hợp gọi bất kỳ cá
nhân, nhóm trình bày kết quả, nhận xét đánh giá và đặt câu hỏi chất vấn để huy động
toàn lớp hoạt động và có ý thức trách nhiệm trong học tập.

10


Sau buổi học, giảng viên kiểm tra năm mười phút để biết được điều gì sinh viên
thấy tâm đắc, bổ ích qua buổi học, những gì chưa được cần rút kinh nghiệm, những
khó khăn trong học tập của sinh viên và cách khắc phục.
2.3. Hiệu quả của quá trình dạy - tự học
- Thực hiện quá trình dạy - tự học đã giúp cho sinh viên học được phương pháp
học và hình thành năng lực tự học. Bởi vì qua quá trình tự nghiên cứu, giải quyết vấn
đề bằng chính năng lực của mình, sau đó thể hiện và được bạn bè đóng góp ý kiến xây
dựng, thầy cô điều chỉnh, bổ sung, sinh viên sẽ tự kiểm tra, đánh giá rút kinh nghiệm.
Cứ thực hiện quá trình dạy học như thế, dần dần sinh viên sẽ có kỹ năng tự học, tự
mình chiếm lĩnh tri thức dựa trên bản lĩnh, kỹ năng và phương pháp sáng tạo của chính
mình.
- Rèn luyện cho sinh viên kỹ năng phân tích, nhận xét, đánh giá kết quả nhận
thức của bạn, sách… mặt được cũng như chưa và thể hiện khả năng của bản thân đóng
góp xây dựng để hoàn thiện hơn. Càng được rèn luyện, sinh viên sẽ càng tinh tế, sâu
sắc trong việc thẩm định, tiếp nhận thông tin, tri thức đồng thời phát huy khả năng
sáng tạo, bản sắc độc đáo của cá nhân trong việc tiếp thu cũng như đóng góp làm
phong phú, giàu có thêm kho tàng tri thức nhân loại.
- Thông qua hệ thống câu hỏi có vấn đề giáo viên nêu ra, sinh viên giải quyết,
trả lời sẽ nắm rõ, chiếm lĩnh tri thức (nhờ được hỏi, nhờ mình trả lời được). Từ cách
hỏi của giảng viên, sinh viên có thể bắt chước hỏi và học cách hỏi, muốn hiểu sâu rộng

cần phải hỏi. Trong quá trình chuẩn bị bài, sinh viên tự đặt câu hỏi và tự trả lời. Nếu tự
bản thân không giải đáp được sẽ đem đến lớp hỏi bạn, hỏi thầy. Chuyển dần dần quá
trình thầy hỏi trò sang trò hỏi thầy, hỏi bạn, hỏi sách, hỏi cuộc sống… Quá trình học,
chiếm lĩnh chân lý như thế, người học sẽ hình thành khả năng biết cách thắc mắc, hoài
nghi khoa học, biết cách hỏi, khám phá phát hiện ra vấn đề. Nhân loại khám phá chân
lý cũng xuất phát từ những câu hỏi, thắc mắc… và đi tìm được lời giải đáp là chân lý
được phát hiện. Đó là giá trị, ý nghĩa lớn lao của việc học cách hỏi.
- Thông qua hình thức học tập theo nhóm, sinh viên hình thành kỹ năng giao
tiếp, thiết lập những mối quan hệ tốt đẹp với bạn với thầy trong việc thực hiện những
nhiệm vụ nhận thức và hoạt động thực tiễn. Người học sẽ hình thành khả năng hợp tác,
giao lưu, đoàn kết, giúp đỡ, cùng học hỏi, phát huy sức mạnh trí tuệ tập thể để hoàn
thiện cá nhân. Nhờ thế, cá nhân có cơ hội bộc lộ, biểu hiện, thể hiện tối đa khả năng,
giá trị độc đáo của bản thân. Năng lực xã hội này rất cần thiết đối với mỗi con người
trong xu thế toàn cầu hóa, mở cửa, hội nhập, giao lưu, cùng phát triển.
- Thêm vào đó, sinh viên còn được rèn luyện toàn diện nghiệp vụ sư phạm.
Chính nhờ kỹ năng tự thu thập, xử lý thông tin, chiếm lĩnh nội dung bài học là hành
trang quý giá giúp sinh viên xác định đúng trọng tâm nội dung, cũng như biết cách làm
phong phú, hấp dẫn bài dạy của mình sau này. Giảng viên thực hiện quá trình dạy - tự
học mới đào tạo được những thầy học, chuyên gia về việc học để sau này có kinh
nghiệm, kỹ năng dạy cho học sinh biết cách tự học. Những phẩm chất và năng lực tự
học sẽ giúp sinh viên tự phát triển bản thân nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới thường
11


xuyên của sự nghiệp giáo dục. Nhờ học được cách nhận xét, đánh giá, phân tích, bình
luận, đặt được những câu hỏi, đề xuất được những vấn đề, nêu được những thắc mắc,
hoài nghi khoa học và giải quyết được, đến khi đi dạy, người giáo viên mới phát huy
được khả năng này ở người học. Sinh viên có học theo kiểu hợp tác, tham khảo trí tuệ,
học hỏi ở bạn để hoàn thành tốt nhiệm vụ học tập thì sau này mới có khả năng hợp tác,
học hỏi ở đồng nghiệp… để hoàn thành tốt nhiệm vụ dạy học và dạy được cho học

sinh của mình kỹ năng này. Hơn thế khi được trình bày kết quả học tập của mình tự
tìm hiểu, nghiên cứu, sinh viên được rèn luyện cách trình bày, lập luận, ngôn ngữ nói,
viết, tư thế, tác phong của người thầy trên bục giảng…
3. Kết luận
Trước sự bùng nổ thông tin, tri thức diễn ra như vũ bão nếu giảng viên chỉ là
người cung cấp thông tin, tri thức, sinh viên chỉ thừa kế, thừa hưởng thì trong thời gian
ngắn sinh viên sẽ “chết đói”, “chết chìm” trong biển thông tin, tri thức và sẽ bị nghề
nghiệp, xã hội đào thải. Do đó, thông qua quá trình dạy học giảng viên cần dạy cách
học để với vốn liếng tri thức ban đầu, sinh viên tự làm giàu có, trở thành “tỉ phú” sau
này.
Giữa nội lực và ngoại lực, giữa tri thức và phương pháp thì nội lực và phương
pháp quyết định sự phát triển bền vững người học. Chính phương pháp học giúp sinh
viên có khả năng tự đào tạo, tự phát triển bản thân suốt đời để luôn góp phần nâng cao
chất lượng giáo dục, cống hiến được nhiều nhất cho sự nghiệp giáo dục.
Tài liệu tham khảo
[1]. Guy Pa Lmade - Song Kha dịch (1999), Các phương pháp sư phạm, Nhà xuất bản
Thế giới, Hà Nội.
[2]. Patrice Pelpel - Nguyễn Kỳ dịch (1998), Tự đào tạo để dạy học, Nhà xuất bản
Giáo dục.
[3]. Phạm Trung Thanh (1998), Phương pháp học tập nghiên cứu của sinh viên cao
đẳng, đại học, Nhà xuất bản Giáo dục.
[4]. Nguyễn Cảnh Toàn (1997), Quá trình dạy – tự học, Nhà xuất bản Giáo dục.
[5]. Tsunesaburo Makiguchi - GS Nguyễn Ngọc Giao dịch (1994), Giáo dục vì cuộc
sống sáng tạo, Nhà xuất bản Trẻ.
[6]. Wilbert J Mckeachie, Những thủ thuật trong dạy học - các chiến lược, nghiên cứu
và lý thuyết về dạy học dành cho các giảng viên đại học và cao đẳng.
[7]. Dự án đào tạo giáo viên THCS (2003), Đổi mới phương pháp dạy học trong các
trường đại học, cao đẳng đào tạo giáo viên THCS, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.

12



BẢNG ĐEN
PHƢƠNG TIỆN TỰ HỌC TÍCH CỰC VỚI SINH VIÊN
 CN. Lƣợng Minh Trung (*)
1. Mở đầu
1.1. Thời đại công nghệ thông tin phát triển, con ngƣời đã cố tìm những
phƣơng tiện hiện đại hơn bảng đen
Không biết từ đâu và từ bao giờ, bảng đen đã hiện hữu trong nhà trường, trong
lớp học và nó là một phương tiện để người dạy truyền tải kiến thức cho người học.
Trong thời đại khoa học kỹ thuật, đặc biệt là công nghệ thông tin phát triển, với óc
sáng tạo, con người đã cho ra đời nhiều loại máy chiếu, projector, màn hình Led hoặc
bảng điện tử tương tác trong dạy học.v. v… nhằm thay thế vai trò của bảng đen.
1.2. Tính năng của bảng đen vẫn giữ vai trò quan trọng trong hoạt động
dạy học, những phƣơng tiện khác đƣợc cải tiến từ bảng đen để làm tăng tính
năng hoạt động góp phần đa dạng hoá phƣơng pháp dạy học
Những thiết bị công nghệ mới, đặc biệt là bảng điện tử dạy học tương tác đã
mang lại sự đa dạng hoá trong phương pháp dạy học mới, có những hiệu quả hết sức
tích cực như: Hệ thống tri thức logic, rút ngắn thời gian truyền tải, minh hoạ linh hoạt
phong phú, tạo được quá trình tương tác năng động giữa thầy và trò… Tuy nhiên, khó
thực hiện được phổ cập đại trà vì giá thành quá cao, không cho phép ngân sách Nhà
nước lo nổi.
1.3. Bảng đen đóng vai trò quan trọng trong quá trình tự học
Hiện tại, bảng đen vẫn giữ vai trò quan trọng hầu hết trong các trường học từ
tiểu học đến đại học; ở đâu xuất hiện bảng đen ở đó có sự học tập. Vậy vì sao sinh viên
chúng ta không chuyển phương tiện học tập này về nơi mình ở để tạo thuận lợi cho
quá trình tự học. Bảng đen không quá to, không quá nhỏ, phù hợp với túi tiền và
không gian học.
Bảng đen hay bảng xanh cũng được; Viết bằng phấn trắng hoặc tô điểm, nhấn
nhá thêm phấn màu và thêm một dụng cụ lau bảng như bông đá. Kích thước tùy điều

kiện: lớn thì 1,2m x 2,4m, vừa 1m x 1,2m hoặc nhỏ 0,6m x 0,8m. Đặt vị trí dễ viết, dễ
nhìn; vì ngoài việc học, ôn tập ta cần ghi những lịch học, công việc phải làm ngày mai
hay những điều cần nhớ; bảng đen trở thành người bạn nhắc nhở ta.
2. Nội dung
2.1. Cơ sở khoa học
2.1.1. Nghiên cứu quá trình dạy, học và xác định vị trí của bảng đen
- Quá trình dạy học: Tri thức khoa học được giảng viên dùng phương pháp dạy
học chuyển tải đến sinh viên, thường được tóm tắt trên bảng đen. Bảng đen là phương
tiện thông dụng trong phương pháp dạy học của giảng viên và sinh viên.

13
--------------(*) Phó Khoa - Phụ trách Khoa, kiêm Trưởng Bộ môn Mỹ thuật, Khoa Sư phạm Nghệ thuật


- Quá trình tự học: Sinh viên chủ động sưu tầm tri thức khoa học từ bài giảng
giáo trình của giảng viên, từ tài liệu tham khảo, từ internet… tóm lược hệ thống lại và
thao tác “Học” trên bảng đen.
- Hai bước của quá trình tự học:
+ Tóm lược hệ thống bài học: Xác định đề cương bài học, sinh viên tóm lược
bài, hoặc thầy đã làm sẵn qua bài giảng, sinh viên có thể tham khảo bổ sung thêm qua
nhiều nguồn. (nếu hoàn thành bước này ta đạt 10% của bài học nhưng là tiền đề quan
trọng cho bước sau).
+ Thao tác “HỌC”: Hãy huy động hết giác quan (thị, xúc, thính, vị, khứu giác)
vào thao tác học với bảng đen như: đọc viết lại, không phải một lần. Đọc để viết, viết
để đọc, đọc để nghe và nghe để đọc. Nhìn đọc cái dàn ý để trình bày được chính xác
nội dung. Trong lúc tự học; có thể bổ sung việc ăn uống nhẹ (ăn vặt, uống nước mát
hoặc nước trái cây) sẽ giúp cho các giác quan càng minh mẫn, tốt cho việc học và nhớ.
2.1.2. Tại sao bảng đen lại có vị trí quan trọng trong việc tự học của sinh viên
- Những nguồn tri thức: Người thầy, sách, internet... chỉ là những cửa hàng
cung cấp thực phẩm tri thức thô, muốn ăn, tiêu thụ bổ dưỡng cho tri thức của mình

phải thông qua chế biến ở nhà bếp và cách ăn. Đó chính là bảng đen và cách học. Nếu
hiểu như vậy, sinh viên mới thấy sự quan trọng của bảng đen với việc tự học của bản
thân.
2.1.3. Cần thay đổi cách nhìn với bảng đen mà hãy sử dụng nó phối hợp với các
phương tiện công nghệ thông tin hiện đại khác
- Ta có thể có nhiều cách tự học khác như: Dùng giấy viết để học - để trình bày,
có thể học theo nhóm hoặc dùng máy vi tính để trình bày, để thao tác cho việc tự học.
Những cách học đó cũng có những điểm thuận lợi. Tuy nhiên sự linh hoạt thì không
thể so với bảng đen. Từ tư thế ngồi đứng vung tay múa chân diễn đạt thay đổi, dùng
phấn trắng, phấn màu, xóa sửa trình bày; hoặc hiện hữu ở vị trí dễ nhìn dễ đọc tiện cho
1 phút ôn tập; hay thảo luận trao đổi tập thể v.v…
- Nếu kết hợp bảng đen với những phương tiện nghe nhìn khác và đặc biệt là
máy vi tính thì tuyệt vời. Thí dụ như bên máy vi tính mở và đóng bài đang học sẽ giúp
ta xác định được sự hiểu và nhớ của ta sẽ nhanh hơn; Hoặc nghe một đoạn ngoại ngữ
ta viết lại rồi kiểm tra sửa chữa, hay dùng trong các bài tập v.v…
2.2. Cách tự học với bảng đen nhƣ thế nào?
Để tự học có hiệu quả ta phải xác định mục tiêu của bài học là gì, sẽ đạt kết
quả ra sao?
Khi đã xác định, người học phải tuân thủ một nguyên tắc cơ bản là: Bắt đầu từ
khái quát đến chi tiết, từ cái chung nhất đến cái riêng.
2.2.1. Cách tự học với môn lý thuyết
- Đối với chương trình đại học, cao đẳng các chương thuộc kiến thức giáo dục
đại cương hầu như là lý thuyết. Phương pháp học có tính chất chung nhất là xây dựng
đề cương tóm tắt viết và học thuộc trên bảng đen dàn ý, sau đó đọc sâu vào các phần
và ghi lại các từ khoá trong phần nhỏ, tiếp theo sẽ tự trình bày miệng và viết phấn lên
14


bảng nội dung thông qua các từ khoá. Thực hiện từng mục nhỏ, nếu có quên, lỗi phải
thực hiện lại. Khi nắm được nội dung từng mục ta trình bày được cả chương, nhiều

chương kết lại, thực hiện thành bài .
2.2.2. Cách tự học với môn Ngoại ngữ
- Hiện nay việc học Ngoại ngữ để đạt chuẩn là yêu cầu cần thiết của sinh viên,
việc học có hiệu quả để thi đạt chuẩn Toeic là một yêu cầu tất yếu. Tùy theo yêu cầu
cần đạt của từng phân môn, từng trình độ ngoại ngữ mà sinh viên có cách học khác
nhau. Thí dụ:
+ Học từ: Viết từ lên bảng, phiên âm và nghĩa từ Việt để học (viết, đọc, nhớ).
+ Học văn phạm: viết mẫu câu và thay từ trên bảng và thuộc.
+ Học bài ứng dụng từ và văn phạm: nên đoc một đoạn, viết thuộc lòng lên
bảng và vận dụng thay từ dần thực hiện cả bài…
+ Học nghe: Nghe một đoạn văn ngắn viết lại và sửa nhiều lần trên bảng để
hoàn chỉnh.
+ Còn nhiều cách tự học nữa trên bảng; (Giảng viên chuyên ngành có thể tư
vấn thêm).
2.2.3. Cách tự học với chuyên ngành Mỹ thuật, Âm nhạc
- Ngành Mỹ thuật: như môn: luật xa gần, giải phẩu tạo hình tự học trên bảng
phải nói là quá tốt. Nghiên cứu hình hoạ hay ký hoạ cũng vậy. Bảng đen là nơi làm
phác thảo cho trang trí như: tìm mảng, cách điệu hoa lá, tìm hoạ tiết. Phác thảo cho bố
cục tranh như: tìm mảng, tìm hình…
- Ngành Âm nhạc: sử dụng không nhiều như Mỹ thuật, nhưng trong Âm nhạc có
ký xướng âm, có hoà âm…. nhưng sinh viên Âm nhạc cũng cần cho học môn chung và
Ngoại ngữ…
2.2.4. Hãy sáng tạo trong cách học với bảng đen
- Trên đây, chỉ giới thiệu một số cách học với bảng đen. Tuỳ thực tế yêu cầu
của từng môn, từng bài mà sinh viên hãy sáng tạo cách học cho hợp lý, hiệu quả.
2.2.5. Sự chuyên cần và chu kỳ thời gian tự học
- Hãy sắp xếp thời gian tự học hợp lý trong ngày, nên theo chu kỳ giờ trong
ngày và ngày trong tuần cho từng môn; vì việc lặp lại theo chu kỳ sẽ kéo theo chu kỳ
sinh học của người học đồng thời cũng tạo được một tâm lý học tập tốt. Hãy chuyên
cần và tự đặt cho mình nguyên tắc là: giờ tự học là quan trọng.

2.3. Thành tựu gì với bảng đen
2.3.1. Thành tựu với bản thân
- Khi học Tiểu học, tôi rất thích truyện tranh, những nhân vật anh hùng được tôi
thể hiện trên bảng đen để giải trí khi học chán. Khi thi đậu vào trường Đại học Mỹ
thuật TP. Hồ Chí Minh; Trong điều kiện kinh tế khó khăn mà ngành học quá tốn kém.
Bằng những năng lực đó, tôi đã thi đậu vào xưởng phim hoạt hình Bixibox của Pháp
và luôn học đứng đầu và ra sản xuất suốt 4 năm vào buổi tối để kiếm tiền lo gia đình
và trang trải cho việc học đại học; đó chính là kết quả luyện tập trên bảng đen.
2.3.2. Thành tựu của nhà khoa học Nguyễn Xuân Vinh
15


- Năm 1960, Nguyễn Xuân Vinh là phi công của quân Sài Gòn cũ; Phòng làm
việc của ông ta, bốn bức tường là bảng đen; Bạn ông ta chế giễu là “Nhà tang lễ”. Sau
giờ làm việc ông đã vùi đầu vào giải toán trên bảng. Người Mỹ biết ông giỏi đưa ông
về nhập quốc tịch Mỹ. Năm 1969, báo “Thế giới tự do” của Mỹ đã đăng hình ông
chung với một số nhà khoa học người Do Thái, vì ông là người tính quỹ đạo đường
bay của phi thuyền Appollo 11 bay đáp xuống mặt trăng thành công đầu tiên.
2.4. Đề xuất biện pháp thực hiện
- Để sinh viên có điều kiện tiếp cận bảng đen dễ dàng: Ký túc xá sinh viên nên
trang bị một phòng một bảng lớn. (1,2 m x 2,4 m).
- Các Liên chi đoàn vận động phong trào “Bảng đen cho sinh viên nghèo hiếu
học”. Quyên góp kinh phí mua bảng 1,2 m x 1,2 m để trao tặng cho sinh viên nghèo.
Tuy không đáng bao nhiêu, nhưng sẽ tạo được điểm nhấn trong phong trào tự học
bằng bảng đen.
3. Kết luận
3.1. Vì tính khoa học
Với hơn 30 năm kinh nghiệm dạy - học, tôi nhận thấy sinh viên rất lúng túng
với cách tự học, kể cả giảng viên cũng chưa chỉ cho sinh viên một cách tự học tốt nhất.
đặc biệt là việc tự học. Những học sinh đỗ cao trong kỳ thi tuyển sinh Đại học, thường

là học sinh nghèo, rất chịu khó đầu tư cho việc tự học. Có những người giàu, sẵn sàng
bỏ tiền của để đầu tư cho con ăn học, nhưng kết quả lại không như mong muốn.
Xuất phát từ cách học, mà điểm nhấn chính là cách tự học đúng. Ở đây cũng
không phủ nhận vai trò của thiết bị công nghệ hỗ trợ dạy học có từ kinh tế, nhưng phải
dùng như thế nào và cũng đừng quá lạm dụng chúng vì chúng là con dao hai lưỡi.
Những người tài năng nổi tiếng thường xuất phát từ tự học: như Trịnh Công Sơn, ... và
hơn hết lãnh tụ kính yêu của chúng ta, Bác Hồ cũng đã ghi vào lý lịch mình ở mục:
Trình độ văn hoá chuyên môn là “Tự học”.
3.2. Hợp với điều kiện kinh tế
- Chúng ta không phủ nhận, phương tiện dạy học ứng dụng công nghệ thông tin
hết sức hiện đại, tiện nghi. Nhưng chúng ta cũng không quên sinh viên chúng ta đại đa
số là còn nghèo; Nếu giàu đã đăng ký vào các trường đại học nước ngoài, đâu phải thi
vào đại học như ở Việt Nam quá khó khăn. Thậm chí có những gia đình lao động vất
vả, tiện tặn để lo cho con ăn học. Vì vậy, để đỡ gánh nặng kinh tế cho cha mẹ, cho gia
đình, sao sinh viên không chọn phương tiện học hiệu quả, tiết kiệm. Và nếu phương
tiện đó quá lạc hậu sao nhà trường vẫn sử dụng chúng trong hoạt động dạy học?
Với phương tiện và cách học đúng cộng thêm ý chí chuyên cần, chắc chắn kết
quả học tập tốt sẽ đến.
Chúc các bạn thành công!

16


PHƢƠNG PHÁP HỌC NHÓM HIỆU QUẢ ĐỐI VỚI SINH VIÊN
NGÀNH ÂM NHẠC KHOA SƢ PHẠM NGHỆ THUẬT
TRƢỜNG ĐẠI HỌC ĐỒNG THÁP
 ThS. Võ Xuân Hùng (*)
1. Đặt vấn đề
Hiện nay, hệ thống giáo dục đại học ở Việt Nam đã và đang chuyển dần từ hệ
thống đào tạo niên chế sang đào tạo tín chỉ. Trường Đại học Đồng Tháp đã đào tạo

theo hệ thống tín chỉ từ năm học 2007, và đang dần hoàn thiện theo phương thức đào
tạo này. Một trong những phương pháp học quan trọng trong đào tạo theo tín chỉ là
phương pháp học theo nhóm.
Trong đào tạo tín chỉ, sinh viên đang dần làm quen với những khái niệm như:
bài tập nhóm, thảo luận nhóm, làm việc theo nhóm… Nhưng trong thực tế, không phải
với bất kì sinh viên, hay nhóm sinh viên nào cũng hiểu được bản chất của phương
pháp này và khai thác hết được tính tích cực của phương pháp học tập này. Nguyên
nhân của tình trạng trên xuất phát từ chính những người sinh viên, hay đôi khi từ
những lí do khách quan khác.
Chính những lí do này làm cho việc học tập trên lớp, cũng như việc tự học của
sinh viên còn thụ động, dẫn đến hiệu quả học tập chưa cao. Vì thế, sinh viên cần có cái
nhìn đúng đắn về những ưu thế mà phương pháp học nhóm mang lại. Đó là: học tập
trong môi trường nhóm sẽ thúc đẩy sự tích cực học tập của cá nhân, tạo sự gắn kết
trong một cộng đồng, nâng cao khả năng tự tin trước đám đông, chủ động trong việc
xử lí các tình huống sư phạm…
Đối với ngành Âm nhạc, việc học nhóm là rất cần thiết đối với sinh viên. Đặc
thù của ngành sư phạm Âm nhạc đa phần là các môn học là thực hành (bao gồm cả
thực hành cá nhân và tập thể), khả năng bổ trợ của các thành viên trong nhóm rất cao
như các môn (Chỉ huy dàn dựng hát tập thể, Chỉ huy hợp xướng, môn Kí - Xướng âm,
môn Dàn dựng chương trình âm nhạc tổng hợp…). Vì vậy áp dụng phương pháp học
nhóm trong học tập đối với các môn học trong Âm nhạc cần được triển khai, nhân
rộng và phát huy một cách tối đa để đạt được hiệu quả cao nhất.
2. Nội dung
2.1. Làm thế nào để học nhóm tốt?
2.1.1. Xác định rõ việc học nhóm áp dụng đối với những môn học nào?
Như đã đề cập ở trên, trong các môn học của ngành Âm nhạc, đa số các môn
đều có thể áp dụng phương pháp học nhóm được. Nhưng cần xác định những môn học
đặc thù, đòi hỏi sự phối hợp của nhiều thành viên trong nhóm mới đem lại hiệu quả
cho môn học và chất lượng học tập cho từng cá nhân trong nhóm. Nhóm môn học áp
dụng phương pháp học nhóm như sau:

- Dàn dựng chương trình âm nhạc tổng hợp
17
--------------(*) Phó Khoa, Khoa Sư phạm Nghệ thuật


- Chỉ huy dàn dựng hợp xướng
- Chỉ huy dàn dựng hát tập thể
- Phương pháp dạy học Âm nhạc
- Thực hành sư phạm Âm nhạc
- Kí xướng âm
- Đệm đàn
- Thanh nhạc…
2.1.2. Xác định trách nhiệm của bản thân
Một nhóm học chỉ hiệu quả khi các thành viên có ý thức tự giác: tự giác về thời
gian, bài vở, tự giác “phát biểu”…
- Trước hết là sự phân công công việc hợp lí. Điều này phụ thuộc nhiều vào vai
trò và khả năng chỉ đạo của người nhóm trưởng. Khi công việc được phân chia rõ ràng
cho từng thành viên họ sẽ ý thức được vai trò của mình, có trách nhiệm hoàn thành
công việc.
- Một nhóm học chỉ hiệu quả khi các thành viên có ý thức tự giác: tự giác về
thời gian, bài vở, tự giác “phát biểu”,… bản thân sinh viên nên thấy trách nhiệm một
phần trong đó, và sản phẩm hoàn thành có một phần đóng góp của bản thân. Chỉ khi
nào mỗi sinh viên phát huy cao độ tinh thần độc lập, suy nghĩ về những vấn đề cần đưa
ra học tập nghiên cứu tập thể khi đó việc học nhóm, tổ mới phát huy được tác dụng.
- Tham gia, nỗ lực làm việc để hiểu quan điểm của các thành viên khác, cũng
như ý kiến của họ.
- Mỗi thành viên đều có quyền yêu cầu người khác phải thực hiện những bài tập
thực hành và lí thuyết mà nhóm đề ra.
- Phát huy tinh thần học hỏi, chịu khó lắng nghe, hết mình vì tập thể đó sẽ là
chìa khóa giúp một bài tập nhóm thành công. Học nhóm chỉ đạt hiệu suất cao khi nó

được thực hiện trên cơ sở có sự chuẩn bị chu đáo cả về mặt nội dung lẫn phương pháp
tổ chức của mọi thành viên.
2.2. Hiệu quả từ phƣơng pháp học nhóm
Hiệu quả mà phương pháp học nhóm mang lại đối với các môn thực hành Âm
nhạc là rất cụ thể. Có thể nêu ra đây một số dẫn chứng như: trong môn học Chỉ huy
dàn dựng hát tập thể và Chỉ huy hợp xướng, phương pháp này phát huy được vai trò
của từng cá nhân trong nhóm, trong việc luyện tập (hát bè, chỉ huy, đệm nhạc) cho một
ca khúc từ đơn giản đến phức tạp và sự hoán đổi vị trí cho nhau ở nhiều vai trò khác
nhau.
Trong môn đệm đàn, các thành viên trong nhóm thay đổi vị trí cho nhau từ vai
trò đệm đàn sang vai trò hát và ngược lại, phương pháp này đem lại cho người học có
những đánh giá khách quan về khả năng thực hành của từng cá nhân. Trên cơ sở đó,
các thành viên trong nhóm có những chỉnh sửa kịp thời để hoàn thiện mình hơn qua
những bài tập, rèn cho bản thân từng cá nhân trong nhóm có thêm tự tin, bản lĩnh hơn
trong quá trình xử lí tác phẩm, trình diễn trong thi cử và trong biểu diễn. Hay trong
môn học Dàn dựng chương trình âm nhạc tổng hợp, phương pháp học nhóm phát huy
18


tối đa những ý kiến tranh luận của các thành viên từ việc đưa ra ý tưởng xây dựng chủ
đề cho chương trình, góp ý cho các hình thức biểu diễn, góp ý cho nhạc công, góp ý
cho trang phục biểu diễn, góp ý cho biên đạo múa, lời giới thiệu… khi các ý kiến được
bàn bạc, thống nhất với sự nhất trí cao của nhóm, chắc chắn chất lượng nghệ thuật của
chương trình sẽ được nâng cao.
Trong môn học Kí - Xướng âm, việc học nhóm sẽ giúp sinh viên rèn luyện khả
năng đọc quãng, khả năng nghe nhạc để kí âm, luyện tập tiết tấu. Các thành viên trong
nhóm thay nhau đánh đàn để các thành viên còn lại luyện quãng, hợp âm. Trong quá
trình rèn luyện theo phương pháp học nhóm, giúp sinh viên xác định chính xác được
các giọng trưởng, giọng thứ, các quãng tăng, giảm, quãng thuận, quãng nghịch, quãng
đúng…

3. Kết luận
Trong học tập của sinh viên, có nhiều phương pháp học để đạt được kết quả cao
nhất. Tùy theo ngành học, đặc thù môn học, mà sinh viên có thể lựa chọn cho mình
những phương pháp học tập phù hợp nhất để phát huy tối đa khả năng của mình. Đối
với chuyên ngành Sư phạm Âm nhạc, với đặc thù các môn học là thực hành, thực hành
nhóm chiếm một khối lượng khá lớn trong tổng thể chương trình đào tạo. Với những
ưu thế từ phương pháp này mà chúng tôi đã nêu ở phần đầu thì phương pháp học nhóm
được xem là sự lựa chọn thích hợp cho việc học tập của sinh viên ngành Âm nhạc nói
chung và sinh viên Âm nhạc Khoa Sư phạm Nghệ thuật nói riêng.
Hiệu quả đem lại từ phương pháp học tập này là rất rõ. Nhưng trên thực tế, sinh
viên Âm nhạc Khoa Sư phạm Nghệ thuật mới chỉ áp dụng vào một số môn như: Rèn
luyện nghiệp vụ sư phạm, thực hành sư phạm Âm nhạc, chỉ huy hợp xướng; còn nhiều
môn học khác, sinh viên chưa áp dụng phương pháp hoc này. Thiết nghĩ đây là một
thiếu sót rất đáng tiếc, vấn đề này có cả yếu tố khách quan lẫn yếu tố chủ quan.
Qua những chia sẻ này, chúng tôi hi vọng sinh viên ngành Âm nhạc Khoa Sư
phạm Nghệ thuật có những tiếp cận, đánh giá, nhìn nhận vấn đề sâu hơn trong việc tìm
ra phương pháp học tập thích hợp để nâng cao chất lượng học tập của mình, trong đó
phương pháp học nhóm là một trong những sự lựa chọn phù hợp và hiệu quả, điều này
được sự kiểm chứng ở nhiều trường đại học danh tiếng trong và ngoài nước.
Để phương pháp học tập này được áp dụng rộng rãi, có hiệu quả, ứng dụng vào
thực tế cho sinh viên Âm nhạc Khoa sư phạm Nghệ thuật. Ngoài việc nỗ lực của sinh
viên, bên cạnh đó, vai trò của Ban chủ nhiệm khoa, giảng viên trực tiếp giảng dạy, cán
bộ cố vấn học tập, lớp phó học tập cần có kế hoạch triển khai, khuyến khích, động viên
sinh viên phát huy hơn nữa trong vấn đề học nhóm để ngày càng nâng cao chất lượng
dạy và học của Khoa Sư phạm Nghệ thuật trong giai đoạn hiện nay.
Tài liệu tham khảo
[1]. Hoc mai.vn (2011), Phương pháp học nhóm hiệu quả,
[2]. Quản trị viên (2011), Sinh viên và cách học nhóm hiệu quả,
hotrosinhvien.hou.edu.vn
19



CÁC YẾU TỐ TẠO NÊN CÁCH TỰ HỌC HIỆU QUẢ
ĐỐI VỚI SINH VIÊN MỸ THUẬT
 ThS. Hồ Hải Thanh (*)
1. Đặt vấn đề
Học là một quá trình trong đó dưới sự định hướng của người dạy, người học tự
giác, tích cực, độc lập tiếp thu tri thức, kinh nghiệm từ môi trường xung quanh bằng
các thao tác trí tuệ và tay chân, nhằm hình thành cấu trúc tâm lí mới để biến đổi nhân
cách của mình theo hướng ngày càng hoàn thiện. Học là công việc của người học, do
người học - không ai có thể thay thế họ và chỉ có họ mới tạo ra sự thay đổi cho chính
mình. Nếu học là quá trình tìm hiểu, thu nhận kiến thức và hình thành kỹ năng của bản
thân thì tự học là sự chủ động, tích cực, độc lập tìm hiểu, lĩnh hội tri thức và hình
thành kỹ năng cho mình. Tự học là tự mình tìm hiểu nghiên cứu, thu nhặt các kiến
thức tự luyện tập để có kỹ năng.
Hoạt động tự học của sinh viên có thể diễn ra ở mọi lúc mọi nơi. Cứ khi nào
sinh viên huy động mọi khả năng nhận thức hiện có của mình, tiến hành các hoạt động
tìm tòi, khám phá tự giác, đứng trước mọi hiện tượng của thế giới khách quan là khi đó
họ đang tiến hành tự học.
Ở nội dung bài viết này, tôi mạn phép chỉ đề cập một phần nhỏ trong quá trình
tự học của sinh viên đó là: “Các yếu tố tạo nên cách tự học hiệu quả đối với sinh
viên Mỹ thuật” nhằm giúp sinh viên nhận thức được vai trò tích cực của giảng viên và
trách nhiệm của bản thân qua quá trình tự học của mình.
2. Nội dung
2.1. Vai trò tích cực của giảng viên trong hoạt động tự học
Hiện nay, trong đào tạo theo hệ thống tín chỉ tại trường Đại học Đồng Tháp,
giảng viên đóng vai trò là người hướng dẫn để sinh viên có thể tiếp thu bài học đúng
hướng. Để phát huy năng lực tự học, tự nghiên cứu cho sinh viên ngành Mỹ thuật,
giảng viên cần phải có sự đổi mới trong phương pháp giảng dạy và cần phải đổi mới
ngay trong từng phân môn, qua từng bài học cụ thể. Để đổi mới phương pháp giảng

dạy, chúng ta cần phải có cái nhìn biện chứng đối việc lựa chọn phương pháp. Vì vậy,
trong giảng dạy các môn học lý luận và các môn chuyên ngành Mỹ thuật, giảng viên
cần áp dụng một số phương pháp thảo luận, làm việc theo nhóm, luyện tập… một cách
thường xuyên và sáng tạo trong lớp học.
Trong quá trình hình thành và nâng cao năng lực tự học cho sinh viên Mỹ thuật,
vai trò của giảng viên là rất quan trọng. Mỗi giảng viên cần giáo dục cho sinh viên xác
định động cơ học tập một cách đúng đắn. Giảng viên phải có ý thức trách nhiệm cao
trong việc rèn luyện khả năng tự học cho sinh viên và cần chú ý những đặc điểm sau:
- Lập kế hoạch nghiên cứu dạy học của từng môn học phù hợp đối tượng.
- Nội dung dạy học phải được thiết kế hướng vào các vấn đề cần giải quyết/câu
hỏi lý luận và thực tiễn cụ thể của từng môn học.
20
--------------(*) Giảng viên Mỹ thuật, Khoa Sư phạm Nghệ thuật


- Tự học được thực hiện cả trên lớp và ngoài giờ lên lớp, có hoặc không có sự
hướng dẫn của giảng viên. Quá trình tự học được tiến hành bằng nhiều phương tiện
khác nhau, đặc biệt là các phương tiện công nghệ thông tin sẽ tạo điều kiện cho quá
trình tự học và tạo nên chất lượng tự học cao;
- Giảng viên cần đề ra kế hoạch dạy học cụ thể toàn bộ môn học (phù hợp với
từng môn học lý luận hoặc thực hành mỹ thuật), cung cấp trước cho sinh viên nghiên
cứu để biết mình sẽ làm gì và làm như thế nào trong quá trình học tập bộ môn.
- Trong quá trình giảng dạy giáo viên cần có hình thức kiểm tra kiến thức của
sinh viên thông qua việc giao nhiều câu hỏi, nhiều bài tập thực hành (các bài vẽ ký
họa, chép và cách điệu hoa lá động vật,...) để sinh viên tự học, tự nghiên cứu.
- Định hướng cho sinh viên trên cơ sở những bài tập tiểu luận, những bài vẽ
chuyên môn, những vấn đề trong chương trình học tập, từ đó hình thành những kỹ
năng làm việc.
- Tổ chức các buổi thảo luận có liên quan đến chuyên môn Mỹ thuật cho sinh
viên, trao đổi và phổ biến kinh nghiệm, khuyến khích các sinh viên có phương pháp

học tập tốt, có kinh nghiệm tự học và đạt kết quả cao.
- Áp dụng nhiều phương pháp kiểm tra đánh giá khác nhau và phải thực hiện
một cách thường xuyên và liên tục (đối với các môn lý luận chuyên ngành);
- Đối với các bài thực hành, phải tổ chức chấm hội đồng nhằm đảm bảo công
bằng và nghiêm túc.
- Giáo viên cần nêu cao tinh thần trách nhiệm, có ý chí cầu tiến trong nâng cao
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ.
- Rèn luyện cho sinh viên thói quen viết báo cáo kinh nghiệm học tập.
2.2.Vai trò - trách nhiệm của sinh viên Mỹ thuật trong quá trình tự học
Tự học có vai trò rất quan trọng, quyết định kết quả học tập của sinh viên.
Chính vì vậy, đòi hỏi mỗi sinh viên cần tích cực, chủ động, độc lập tìm tòi, khám phá
để lĩnh hội tri thức bằng chính hành động của bản thân nhưng không tách rời sự tổ
chức, điều khiển của giảng viên. Hơn nữa, để tự học đạt kết quả cao, sinh viên cần xác
định rõ mục đích học tập và xây dựng động cơ học tập đúng đắn, tính kế hoạch cao, có
thái độ tích cực và có những kỹ năng tự học nhất định để hoàn thành nhiệm vụ học tập
đề ra. Ngoài những hoạt động tự học diễn ra dưới sự tổ chức, hướng dẫn trực tiếp hay
điều khiển một cách gián tiếp của giảng viên, sinh viên cần tiến hành các hoạt động tự
học nhằm thỏa mãn nhu cầu, hiểu biết riêng, theo sở thích, hứng thú của bản thân về
những tri thức nằm ngoài chương trình đào tạo quy định của nhà trường, những tri
thức mở rộng sự hiểu biết, phục vụ cuộc sống và nghề nghiệp của họ.
Bên cạnh sự hướng dẫn của giảng viên, sự quản lý của nhà trường thì hoạt động
tự học của sinh viên Mỹ thuật chỉ có thể thực sự đem lại hiệu quả khi có sự nỗ lực của
bản thân, đó chính là sinh viên. Vì vậy, sinh viên cần phải quan tâm đến những nhiệm
vụ quan trọng trong kế họach tự học của mình như sau:
- Chuẩn bị tốt về động cơ, thái độ học tập, tinh thần trách nhiệm trong học tập
một cách chủ động và hiệu quả.
21


- Nắm vững mục tiêu của môn học và mục tiêu của từng bài học để làm cơ sở

xây dựng kế hoạch tự học phù hợp và nghiêm túc thực hiện kế hoạch đó.
- Đảm bảo hoàn thành các nhiệm vụ tự học, tự nghiên cứu trước giờ lên lớp:
đọc tài liệu, thảo luận nhóm, làm các bài vẽ chuyên môn theo yêu cầu của giảng viên.
- Trong quá trình tự học, sinh viên cần suy nghĩ, sáng tạo và mạnh dạn đưa ra
những phương pháp học hay, những ý kiến, nhận xét, thắc mắc của mình mà không
quá phụ thuộc vào tài liệu và những bài giảng của giảng viên.
- Mỗi sinh viên cần xây dựng xác định rõ mục tiêu của bản thân để làm chủ
kiến thức và cuộc đời thông qua con đường học tập; phải biết quản lý các áp lực căng
thẳng của việc học cũng như quản lý được thời gian một cách hiệu quả.
- Sinh viên phải xây dựng cho mình một hệ thống kỹ năng. Muốn đi tới tri thức,
muốn làm chủ tương lai phù hợp với yêu cầu chuyên môn Mỹ thuật của mình phải có
một quá trình tổng hợp các kỹ năng, phải có phương pháp cụ thể và khoa học, học
không những ở trường, ở lớp mà phải biết học ở mọi nơi, mọi lúc, mọi điều kiện với
những ưu thế nhất định.
2.3. Đầu tƣ cơ sở vật chất đáp ứng yêu cầu tự học
- Củng cố, nâng cấp, mở rộng hệ thống phòng thực hành chuyên môn đảm bảo
yêu cầu về ánh sáng để vẽ hình họa…
- Tăng cường khả năng khai thác các tiện ích trên trang web của trường Đại học
Đồng Tháp, mở rộng nguồn tư liệu điện tử, thiết bị dạy học… bằng cách ứng dụng các
thành tựu công nghệ thông tin hiện đại.
3. Kết luận
Hoạt động tự học có ý nghĩa rất to lớn, vì vậy bản thân mỗi sinh viên cần phải
xây dựng cho mình tinh thần tự học trên nền tảng của sự say mê, đam mê, ham học,
ham hiểu biết, giàu khát vọng và kiên trì trên con đường chinh phục tri thức. Thông
qua đó, bản thân mỗi con người cần chủ động, tích cực, sáng tạo, độc lập trong học
tập. Có như vậy mới chiếm lĩnh được tri thức, nắm vững chuyên môn để vươn tới
những ước mơ, hoài bão của mình .
Tài liệu tham khảo
[1]. Phạm Việt Hà (2013), Tự học – một phương pháp học tập cơ bản của sinh viên
[2]. Trần Khải Định (2013), Sinh viên phải làm gì để tự học

[3]. Mai Nghiêm (2013), Tự học của sinh viên – yếu tố quan trọng để đổi mới phương
pháp giảng dạy.
[4]. />
22


NÂNG CAO NHẬN THỨC VÀ HIỆU QUẢ TỰ HỌC CỦA SINH VIÊN
KHOA SƢ PHẠM NGHỆ THUẬT
 ThS. Trƣơng Thị Kim Hạnh (*)
1. Đặt vấn đề
Nhận thức có tác dụng định hướng hành động của con người. Giáo dục hướng
nghiệp có tác động nhất định đến kết quả giáo dục đào tạo trong nhà trường. Muốn
nâng cao hiệu quả tự học của sinh viên việc đầu tiên là giảng viên phải nâng cao nhận
thức về vai trò của tự học. Sinh viên nhập học vào Khoa Sư phạm Nghệ thuật cần được
giáo dục để nhận thức sâu sắc về truyền thống của ngành, của Trường, của Khoa nhằm
xây dựng thái độ, trách nhiệm học tập đúng đắn để hoàn thành tốt các nhiệm vụ học
tập theo mục tiêu đào tạo của ngành. Đây là một việc làm tất yếu cần được Khoa,
Trường quan tâm tổ chức thực hiện một cách thường xuyên, liên tục.
2. Nội dung
2.1.1. Mục đích
Nâng cao nhận thức về vai trò tự học, việc hoàn thành nhiệm vụ học tập sẽ giúp
sinh viên thực hiện tự giác, tích cực, tự lực tự học và tìm kiếm phương pháp tự học
hiệu quả, phù hợp nhất với bản thân mình. Tăng cường giáo dục nâng cao nhận thức
về vai trò tự học và thường xuyên thúc đẩy hoạt động tự học của sinh viên bằng nhiều
biện pháp thích hợp. Từ đó sinh viên tích cực tham gia hoạt động tự học nhằm góp
phần nâng cao chất lượng đào tạo của Khoa và Nhà trường.
2.1.2. Nội dung
- Tổ chức cho sinh viên học chính trị đầu khoá, phổ biến mục tiêu, yêu cầu đào
tạo, các quy chế đào tạo cho sinh viên: Đây là việc làm cần thiết được tổ chức chu đáo,
nghiêm túc, cụ thể nhằm giúp sinh viên nhận thức một cách sâu sắc rõ ràng về nhiệm

vụ của mình trong quá trình học tập rèn luyện ở trường để sinh viên xác định được cái
đích cần đạt trong ba, bốn năm đào tạo, học tập, rèn luyện phấn đấu để trở thành giáo
viên dạy Âm nhạc và Mỹ thuật. Qua đợt học giúp sinh viên thấy rõ được: hoạt động tự
học là điều kiện không thể thiếu khi giảng viên áp dụng các phương pháp dạy học tích
cực trong giảng dạy, là hoạt động có tính quyết định đến kết quả học tập nói riêng và
chất lượng giáo dục - đào tạo nói chung trong Nhà trường.
- Giáo dục cho sinh viên nhận thức đúng đắn về vai trò của môn học: Qua buổi
đầu nhập môn, các buổi ngoại khoá, các buổi rèn luyện nghiệp vụ sư phạm, thực hành
kiến tập thường xuyên, giảng viên giúp sinh viên nhận thức đúng vai trò, vị trí của
môn học, đồng thời giáo dục cho các em có sự yêu thích môn học, yêu nghề. Từ đó
giúp sinh viên có ý thức tự học tốt hơn.
- Cụ thể hoá mục tiêu, yêu cầu đào tạo đối với bộ môn: Mỗi một môn học, mỗi
một chương trình đều có mục đích yêu cầu riêng, cung cấp kiến thức kỹ năng, kỹ xảo
khác nhau. Vì thế qua mỗi môn học, mỗi chương, mỗi bài, giảng viên cần nêu rõ mục
23
--------------(*) Trưởng Bộ môn Âm nhạc, Khoa Sư phạm Nghệ thuật


đích, yêu cầu để sinh viên nắm rõ chương này, bài này giúp gì cho các em trong việc
nắm tri thức cũng như kỹ năng nghề nghiệp sau này để từ đó giúp sinh viên chủ động
trong quá trình học tập. Nếu sinh viên không xác định rõ vai trò chủ thể của mình
trong giờ học, bản thân không tự vận động tiến hành hoạt động tự học cùng quá trình
truyền dạy của thầy để nắm bắt tri thức thì dù giảng viên có cố gắng đến đâu đi chăng
nữa thì việc học tập của sinh viên cũng không đạt hiệu quả. Như vậy mục tiêu, yêu
cầu, nhiệm vụ học tập nói chung và nhiệm vụ tự học nói riêng của Khoa Sư phạm
Nghệ thuật cần được tiếp tục cụ thể hoá vào mục tiêu, yêu cầu của từng môn học để
chuẩn hoá kế hoạch đào tạo toàn khoá học. Việc làm này có ý nghĩa lớn trong việc
giúp sinh viên hiểu sâu sắc về nhiệm vụ học tập của mình để từ đó xác định thái độ,
động cơ học tập đúng đắn, tự giác trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ học tập và chủ
động biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo.

2.2. Nhiệm vụ của Bộ môn và giảng viên trong việc nâng cao hiệu quả tự
học của sinh viên
* Bộ môn cần phải xác định rõ:
1) Các hướng tự học chính, nội dung, hình thức và phương pháp dạy cho sinh
viên cách tự học, tạo động lực để sinh viên tiếp thu kiến thức;
2) Xác định nội dung cụ thể, chỉ rõ tài liệu để sinh viên tự nghiên cứu theo từng môn
học phù hợp với chương trình đào tạo;
3) Xác định quỹ thời gian tự học cho sinh viên;
4) Lập kế hoạch tự học cho sinh viên;
5) Kiểm tra, đánh giá chất lượng việc tự học của sinh viên.
* Nhiệm vụ của giảng viên là:
1) Giúp sinh viên làm quen với các hình thức và phương pháp giảng dạy ở
trường đại học, cách thức tổ chức nghiên cứu khoa học, phương pháp tự học, các tiêu
chuẩn đánh giá việc tự học.
2) Giúp sinh viên hình thành khả năng ra quyết định; kỹ năng nghiên cứu khoa
học; kỹ năng đọc sách giáo khoa, tài liệu tham khảo; cố vấn về phương pháp tự học;
kiểm tra theo dõi kế hoạch tự học của sinh viên, đồng thời phân tích và đánh giá kết
quả tự học.
3. Kết luận
Tự học là một phần không thể thiếu trong quá trình đào tạo. Để hoạt động tự
học thật sự mang lại hiệu quả, bên cạnh giáo dục ý thức tự học của sinh viên thì Bộ
môn và giảng viên cần xác định rõ nhiệm vụ của mình, đồng thời phải thực hiện tốt
việc hướng dẫn lập kế hoạch tự học, thường xuyên kiểm tra, đánh giá chất lượng tự
học của sinh viên. Có như vậy năng lực và hiệu quả tự học của sinh viên sẽ ngày càng
được nâng cao.
Tài liệu tham khảo
[1]. Trương Thị Kim Hạnh (2013), Một số biện pháp quản lí hoạt động tự học của sinh
viên Khoa Sư phạm Nghệ thuật Trường Đại học Đồng Tháp, Luận văn Thạc sĩ.
24



[2]. Nguyễn Văn Ngọc, Vấn đề tự học của sinh viên Khoa Kinh tế và vai trò của giảng viên,
Trường Đại học Nha Trang.
[3]. Đinh Trung Quỳnh (2001), “Nghiên cứu các kỹ năng và biện pháp tự học của sinh
viên ĐH Sư phạm Thái Nguyên” (Đề tài NCKH cấp Bộ quản lý).
[4]. Nguyễn Khánh Tùng (1998), “Tự học, tự nghiên cứu là con đường phát triển học vấn,
nhân cách vững chắc bền lâu nhất”, Đại học Sư phạm Huế.

25


×