Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

sáng kiến xây dựng hệ thống câu hỏi đọc hiểu theo đặc trưng thể loại trong các đề kiểm tra, đánh giá

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (232.15 KB, 28 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NAM ĐỊNH
TRƯỜNG T.H.P.T CHUYÊN LÊ HỒNG PHONG
(TÊN CƠ QUAN, ĐƠN VỊ CHỦ QUẢN)
(TÊN CƠ QUAN ÁP DỤNG SÁNG KIẾN)

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM DỰ THI CẤP TỈNH

Báo cáo sáng kiến


ODỰNG
CÁO
SÁNG
ẾĐỌC
N – HIỂU
XÂY
HỆ THỐNG
CÂUKI
HỎI
THEO ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI
TRONG CÁC ĐỀ KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ

(Tên sáng kiến)
Tác giả : Vũ Thị Bích Ngọc
Trình độ chuyên môn : Thạc sĩ Ngữ văn
Chức vụ : Tổ trưởng chuyên môn
Nơi công tác : Trường THPT chuyên Lê Hồng Phong

Tác giả:...................................................................
Trình độ chuyên môn:...........................................
Nam Định, tháng 5 năm 2016


1


Thông tin chung về sáng kiến
1. Tên sáng kiến: Xây dựng hệ thống câu hỏi đọc- hiểu theo đặc trưng thể
loại trong các đề kiểm tra, đánh giá
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Dạy - học môn Ngữ văn trong trường
phổ thông trung học
3. Thời gian áp dụng sáng kiến: từ tháng 10 năm 2015 đến tháng 4 năm
2016
4. Tác giả:
- Họ và tên: Vũ Thị Bích Ngọc
- Năm sinh: 1974
- Nơi thường trú: 12 K- Ô 19 - Phường Hạ Long - TP Nam Định
- Trình độ chuyên môn: Thạc sĩ Ngữ văn
- Chức vụ công tác: Tổ trưởng chuyên môn
- Nơi làm việc: Trường THPT chuyên Lê Hồng Phong
- Địa chỉ liên hệ: Trường THPT chuyên Lê Hồng Phong
- Điện thoại: 01697299647
5. Đơn vị áp dụng sáng kiến :
- Tên đơn vị : Trường THPT chuyên Lê Hồng Phong
- Địa chỉ : 76 Vị Xuyên - TP Nam Định

2


BÁO CÁO SÁNG KIẾN
XÂY DỰNG HỆ THỐNG CÂU HỎI ĐỌC – HIỂU
THEO ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI TRONG CÁC ĐỀ KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ
I. Điều kiện, hoàn cảnh tạo ra sáng kiến

Rèn cho học sinh kĩ năng đọc - hiểu văn bản là một trong những mục tiêu
quan trọng mà chương trình Ngữ văn hướng tới ở tất cả các cấp học. Nhà trường
cần trang bị cho học sinh những kĩ năng quan trọng để khi đứng trước một văn bản
các em có kĩ năng để chiếm lĩnh được văn bản ấy. Thiết nghĩ, đây là một trong
những mục tiêu thiết thực, vô cùng cần thiết của mà mỗi người dạy và học Ngữ
văn cần hướng tới.
Trong bối cảnh hiện tại, câu hỏi đọc - hiểu xuất hiện ở hầu khắp các đề thi
môn Ngữ văn của chương trình Trung học. Đặc biệt, trong đề thi THPTQG môn
Ngữ văn (bắt đầu từ năm 2015), có riêng một phần đọc - hiểu với điểm số 3/10. Để
có thể làm tốt phần này học sinh rất cần một sự rèn luyện, ôn tập kiến thức và kĩ
năng thành thạo. Điều này, trước hết, đòi hỏi từ phía người dạy – phải có kĩ năng
xây dựng hệ thống câu hỏi đọc - hiểu.
Vậy, làm thế nào để có thể xây dựng được một hệ thống câu hỏi đọc- hiểu có
chất lượng đáp ứng được tốt nhất cho việc rèn luyện, ôn tập của giáo viên và học
sinh hướng tới việc xây dựng kĩ năng đọc –hiểu văn bản nói chung và đáp ứng
được yêu cầu của các kì thi nói riêng? Đây là điều chúng tôi trăn trở và mong
muốn đi tìm một giải pháp thực hiện mục tiêu này.
II. Mô tả giải pháp
1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến
Gắn liền với mục tiêu dạy đọc –hiểu văn bản của chương trình môn Ngữ văn
ở cấp Trung học, người dạy cũng đã ra rất nhiều câu hỏi đọc –hiểu nhằm hướng
dẫn và kiểm tra, đánh giá quá trình đọc –hiểu văn bản. Việc ra câu hỏi đọc- hiểu
3


xuất hiện thường xuyên trong các giờ dạy đọc –hiểu, trong các đề kiểm tra, đề thi ở
các khối lớp từ THCS đến THPT, từ các đề kiểm tra định kì đến các đề thi học sinh
giỏi, thi THPTQG; đã có rất nhiều những công trình nghiên cứu về đọc – hiểu văn
bản; nhiều những buổi tập huấn cho giáo viên về đọc –hiểu văn bản,… là một minh
chứng cho sự quan tâm đến mục tiêu này.

Qua việc khảo sát hệ thống câu hỏi đọc - hiểu trong một số giáo án dạy đọc
–hiểu và đề kiểm tra, đề thi, chúng tôi nhận thấy:
Hầu hết, hệ thống câu hỏi đọc - hiểu ngày càng đáp ứng được tốt hơn yêu
cầu dạy học đọc- hiểu và đánh giá được kĩ năng đọc - hiểu của học sinh; hình thức
câu hỏi phong phú hơn.
Tuy vậy, chúng tôi vẫn chưa nhận ra một hệ tiêu chí rõ ràng làm cơ sở cho
việc xây dựng hệ thống câu hỏi trong các giáo án và đề chúng tôi khảo sát. Với câu
hỏi: “ Đồng chí dựa vào đâu để ra hệ thống câu hỏi đọc –hiểu cho ngữ liệu này?”,
chúng tôi đã phỏng vấn một số giáo viên từ cấp THCS, THPT, kết quả là: một số
giáo viên lúng túng, một số giáo viên trả lời chưa thật thuyết phục. Như vậy, có thể
thấy, nhiều khi chúng ta còn khá cảm tính trong việc xây dựng hệ thống câu hỏi
đọc- hiểu. Mà một trong những đặc điểm quan trọng của câu hỏi đọc - hiểu, cả
trong câu hỏi và đáp án rất cần một sự khoa học và khách quan. Chúng tôi nghĩ,
nếu chúng ta không có một tiêu chí cụ thể cho việc này thì sẽ gặp khó khăn, lúng
túng trong giảng dạy đọc – hiểu, ra đề kiểm tra, đề thi mà cũng khó trong cả việc
rèn kĩ năng trả lời loại câu hỏi này cho học sinh một cách tốt nhất.
Một khảo sát khác, khi được đề nghị ra câu hỏi đọc – hiểu cho các văn bản
thuộc các thể khác nhau, chúng tôi nhận được rất nhiều các câu hỏi trùng nhau.
Đúng là có những câu hỏi có thể đặt ra cho tất cả các thể văn bản như các câu hỏi
liên quan đến các vấn đề tạo lập văn bản nói chung: phương thức biểu đạt, phương
pháp lập luận, biện pháp tu từ,…nhưng rất cần có những câu hỏi để rèn kĩ năng đọc
– hiểu văn bản theo thể loại để đọc thơ phải ra đọc thơ, truyện phải ra truyện, kí
4


phải có cách đọc riêng,…Điều này xuất phát từ một yêu cầu quan trọng của
chương trình Ngữ văn hiện hành, đó là: đọc – hiểu văn bản theo đặc trưng thể loại.
Theo chúng tôi, đây là một trong những cơ sở quan trọng để người dạy xây dựng
hệ thống câu hỏi đọc – hiểu. Và quan trọng hơn là với cách này, chúng ta đã góp
phần trang bị cho học sinh của mình một cách bài bản kĩ năng đọc – hiểu một văn

bản để các em có thể đọc không chỉ một văn bản trong chương trình mà còn ngoài
chương trình, không chỉ đọc bây giờ mà có cẩm nang đọc cả đời mình!
2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến
2.1. Vấn đề cần giải quyết và tính mới
Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi đã chọn giải pháp Xây dựng hệ
thống câu hỏi đọc - hiểu theo đặc trưng thể loại Điểm mới của giải pháp này là ở
chỗ: chúng tôi tìm cho mình một cơ sở để xây dựng hệ thống câu hỏi đọc – hiểu là:
căn cứ vào đặc trưng của các thể loại văn học.
2.2. Cách thức thực hiện
2.2.1. Chọn ngữ liệu đọc – hiểu:
Người xây dựng đề kiểm tra, đánh giá cần căn cứ vào yêu cầu của
ngữ liệu:
- Có thể sử dụng những đoạn văn bản trong chương trình, có thể
ngoài chương trình để làm ngữ liệu ra câu hỏi đọc- hiểu.
- Việc lựa chọn ngữ liệu vô cùng quan trọng: đảm bảo toàn diện (có
đủ các tiểu loại của thể mà HS được học trong chương trình như:
thể kí có hồi kí, phóng sự, bút kí, tùy bút,…thể nghị luận có: nghị
luận văn học, nghị luận chính trị xã hội,…; đủ các thời kì VH
(trung đại, hiện đại)
- Muốn vậy, phải:
+ Hệ thống lại các văn bản thuộc các thể loại có trong chương trình.
Có thể thống kê theo lớp:
5


VĂN BẢN THƠ / TRUYỆN/ KÍ/ KỊCH/VĂN NGHỊ LUẬN
Lớp 10

Ví dụ:
Lớp 10


Lớp 11


Lớp 12


VĂN BẢN KÍ
Lớp 11
Lớp 12
- Kí sự: Vào phủ - Tùy bút: Người lái đò
chúa Trịnh

Sông Đà

- Kí tự thuật: Cha - Bút kí: Ai đã đặt tên
tôi

cho dòng sông?

- Phóng sự: Nghệ - Hồi kí: Những năm
thuật băm thịt gà

tháng không thể nào

quên
Lưu ý: Câu hỏi đọc – hiểu trong đề thi THPTQG ngữ liệu ngoài
chương trình nhưng để làm được những ngữ liệu ngoài chương trình
ấy cần phải rèn cho HS kĩ năng làm bài từ những ngữ liệu các em
được học trong SGK.

+ Sưu tầm, lựa chọn những văn bản cùng thể loại (tiểu loại) phù hợp
với trình độ HS để làm ngữ liệu xây dựng câu hỏi đọc –hiểu. Ví dụ:
Tìm một đoạn khác trong “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” (HPNT)
không có trong SGK; một đoạn trong “Tờ hoa” (Nguyễn Tuân); một
văn bản nghị luận văn chương khác của Hoài Thanh;...Công việc này
đòi hỏi sự công phu tích lũy, lựa chọn của GV, không được tùy tiện,
cần chú ý: dung lượng (không quá 500 chữ); cùng tác giả, cùng đề tài,
cùng tiểu loại; mức độ tương đương với những gì HS được học,…
2.2.2. Căn cứ vào chuẩn kiến thức kĩ năng của Bộ GD&ĐT ban
hành
Giáo viên cần chú ý tới cấu tạo chương trình bộ môn Ngữ văn hiện
nay để thấy chương trình chú trọng đến việc dạy đọc – hiểu văn bản theo
6


đặc trưng thể loại. Vì vậy, trong quá trình tổ chức hướng dẫn học sinh đọchiểu văn bản cũng như ôn tập, giáo viên cần đặc biết chú ý đến đặc trưng
thể loại của văn bản để từ đó hình thành nội dung ôn tập cho thiết thực,
hiệu quả.
Cẩm nang để thực hiện điều này là: Tài liệu Chuẩn kiến thức và kĩ
năng môn Ngữ văn 10, 11, 12 của Bộ; Một số thể loại văn học: kịch, văn
nghị luận (SGK Ngữ văn 11, tập 2); ngoài ra có thể tham khảo thêm một
số sách Lí luận văn học về thể loại.
Sau đây là một vài tổng kết ngắn gọn của chúng tôi về đặc trưng một
số thể loại và cách đọc thể loại đó. Trên cơ sở đó, chúng tôi xây dựng hệ
thống câu hỏi đọc – hiểu theo đặc trưng thể loại.
VĂN BẢN KỊCH
*Đặc trưng văn bản kịch
- Xung đột:
+ Khi phản ánh đời sống, kịch chú trọng vào những mâu thuẫn vận động,
phát triển ngày càng gay gắt, căng thẳng, biểu hiện thành hành động, hoạt

động, đòi hỏi phải được giải quyết bằng cách này hay cách khác -> đây là
đặc trưng quan trọng của kịch so với các thể tự sự, trữ tình,…(“Tình thế
giàu xung đột là đối tượng ưu tiên của kịch” - Hê-ghen; “Xung đột tạo nên
kịch tính” - Bi-ê-lin-xki)
+ Kịch được xây dựng trên cơ sở những mâu thuẫn lịch sử, xã hội hoặc
những xung đột muôn thuở mang tính nhân loại như giữa thiện và ác, cao
cả và thấp hèn, ước mơ và hiện thực…
- Hành động kịch:
+ Là sự cụ thể hóa của xung đột kịch, đó là sự tổ chức cốt truyện với các
tình tiết, sự kiện, biến cố theo một diễn biến lôgic, chặt chẽ, nhất quán
+ Thường dồn dập, gấp gáp, quyết liệt
7


- Nhân vật kịch: Hành động kịch được thực hiện bởi các nhân vật kịch
- Ngôn ngữ kịch: các nhân vật được xây dựng bằng ngôn ngữ của họ; mang
tính hành động, thường mang tính tranh luận, biện bác; gần gũi với đời
sống (súc tích, dễ hiểu, mang tính khẩu ngữ); có các loại ngôn ngữ:
+ Đối thoại: lời của nhân vật nói với nhau
+ Độc thoại: lời của nhân vật bộc lộ tâm tư tình cảm của mình
+ Bàng thoại: lời nhân vật nói với người xem
Chú ý: văn bản kịch có thêm lời chỉ dẫn sân khấu
- Phân loại kịch
+ Theo ý nghĩa xung đột: bi kịch, hài kịch, chính kịch
+ Theo ngôn ngữ trình diễn: kịch nói, ca kịch,…
* Cách đọc văn bản kịch
- Đọc kĩ lời giới thiệu, tiểu dẫn để có hiểu biết chung về tác giả, tác phẩm,
thời đại tác phẩm ra đời, vị trí của trích đoạn trong toàn tác phẩm
- Tập trung vào lời thoại của nhân vật để xác định quan hệ của các nhân
vật, tìm hiểu đặc điểm, tính cách từng nhân vật

- Phân tích hành động kịch, xung đột kịch (diễn tiến, kết quả của từng xung
đột)
- Nêu chủ đề tư tưởng, ý nghĩa xã hội của tác phẩm.
Đặc trưng kịch và cách đọc- hiểu kịch cơ sở quan trọng để xây dựng
câu hỏi đọc- hiểu văn bản thuộc thể này. Chẳng hạn có thể ra những câu
hỏi về: xung đột kịch, ý nghĩa của hành động kịch, nhân vật kịch, ngôn
ngữ kịch,…
Ví dụ 1: Đọc đoạn văn bản và trả lời câu hỏi:
LỚP IX
Những người trên thêm một lũ quân
Ngô Hạch: - Chúng bay đi đâu
8


Lũ quân: - Bẩm tướng quân! Kinh thành phát hỏa!
Ngô Hạch: - Ai ra lệnh ấy?
Một tên quân: - Chính An Hòa Hầu!
Vũ Như Tô: - Chính An Hòa Hầu! Thế Cửu Trùng đài?
Lũ quân: - Cửu Trùng đài ư? Dã tràng xe cát! Cửu Trùng đài sắp là một
đống tro tàn!
Vũ Như Tô: - Vô lí! Vô lí!
Ngô Hạch: - Rõ quân ngu muội! Đến đầu mày chả chắc, nói chi đến Cửu
Trùng đài mà còn tin tưởng.
Vũ Như Tô: - Đời ta không quý bằng Cửu Trùng đài
Quân sĩ: - Giống vật không biết nhục.
Ngô Hạch: - Dẫn nó đi. (Chợt có ánh lửa sáng rực, cả tàn than, bụi khói
bay vào).
Vũ Như Tô (nhìn ra, rú lên)- Đốt thực rồi! Đốt thực rồi! Ôi đảng ác! Ôi
muôn phần căm giận! Trời ơi! Phú cho ta cái tài làm gì? Ôi mộng lớn! Ôi
Đan Thiềm! Ôi Cửu Trùng đài! (Có tiếng hô vui vẻ: “Cửu Trùng đài đã

cháy!”)
Quân sĩ: - Thực đáng ăn mừng.
Vũ Như Tô (chua chát) – Thôi thế là hết. Dẫn ta đến pháp trường!
(Trích hồi 5, Vũ Như Tô, Nguyễn Huy Tưởng)
Câu 1. Lớp kịch trên nói lên mâu thuẫn gì?
Câu 2. Phân tích đặc điểm ngôn ngữ kịch trong lời thoại số 4 của Vũ Như
Tô:
Vũ Như Tô (nhìn ra, rú lên)- Đốt thực rồi! Đốt thực rồi! Ôi đảng ác! Ôi
muôn phần căm giận! Trời ơi! Phú cho ta cái tài làm gì? Ôi mộng lớn! Ôi
Đan Thiềm! Ôi Cửu Trùng đài! (Có tiếng hô vui vẻ: “Cửu Trùng đài đã
cháy!”)
9


Câu 3. Lớp kịch trên giúp người đọc hiểu gì về bi kịch gì của Vũ Như Tô?
Câu 4. Theo em, vấn đề về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống mà
Nguyễn Huy Tưởng đặt ra trong đoạn trích có ý nghĩa gì với cuộc sống
ngày hôm nay. (trình bày trong khoảng 5-7 dòng)
ĐÁP ÁN
Câu 1: Xung đột được thể hiện thông qua 2 tuyến nhân vật: Vũ Như Tô ><
quân nổi dậy mà đứng đầu là Ngô Hạch, An Hòa Hầu-> đó là mâu thuẫn
giữa khát vọng nghệ thuât thuần túy của Vũ Như Tô>< đời sống của nhân
dân -> mâu thuẫn muôn đời giữa nghệ thuật >< đời sống.
Câu 2:
– Ngôn ngữ chú thích của tác giả: chỉ dẫn hành động của nhân vật ((nhìn
ra, rú lên); chỉ dẫn thái độ của nhân vật (Vũ Như Tô (chua chát)), chỉ dẫn
sân khấu (Có tiếng hô vui vẻ: “Cửu Trùng đài đã cháy!”) -> đã tạo nên môt
sân khấu kịch hoành tráng dữ dội đầy kịch tính, tâm trạng đau đớn đầy thất
vọng của Vũ Như Tô
- Lời thoại nhân vật:

+ Ngô Hạch và quân lính: hống hách, mỉa mai, đôi khi xỉ nhục, xúc phạm
người nghệ sĩ Vũ Như Tô: Rõ quân ngu muội!, Giống vật không biết nhục,
Thực đáng ăn mừng.
+ Vũ Như Tô: đau đớn đến tuyệt vọng: lặp lại nhiều lần than từ ôi/ lặp lại 2
lần câu: đốt thực rồi + câu hỏi tu từ: trời phú cho ta cái tài để làm gì?+ lời
than liên tiếp: Ôi mộng lớn! Ôi Đan Thiềm! Ôi Cửu Trùng đài -> cảm xúc
dữ dội khi khát vọng nghệ thuật tàn tành, công trình nghệ thuật thành mây
khói, tình tri kỉ lìa xa, dang dở -> Vũ Như Tô là một người nghệ sĩ đắm say
với nghệ thuật nay tuyệt vọng đau đớn.

10


Câu 3: Bi kịch của Vũ Như Tô: người nghệ sĩ say mê sáng tạo nhưng ảo
tưởng và lầm lạc, đến khi ra pháp trường ông vẫn mơ hồ không hiểu mình
tội gì.
Câu 4: Vấn đề Nguyễn Huy Tưởng đặt ra trong tác phẩm có ý nghĩa muôn
đời: không thể tồn tại thứ nghệ thuật cao siêu, thuần túy; nghệ thuật phải vì
cuộc đời mà có, phục vụ cuộc sống.
Ví dụ 2: Đọc đoạn trích sau đây và trả lời các câu hỏi :
«... HỒN TRƯƠNG BA : (sau một lát) Ông Đế Thích ạ, tôi không thể tiếp
tục mang thân anh hàng thịt được nữa, không thể được !
ĐẾ THÍCH : Sao thế ? Có gì không ổn đâu !
HỒN TRƯƠNG BA : Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo
được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn.
ĐẾ THÍCH : Thế ông ngỡ tất cả mọi người đều được là mình toàn vẹn cả
ư ? Ngay cả tôi đây. Ở bên ngoài, tôi đâu có được sống theo những điều tôi
nghĩ bên trong. Mà cả Ngọc Hoàng nữa, chính người lắm khi cũng phải
khuôn ép mình cho xứng với danh vị Ngọc Hoàng. Dưới đất, trên trời đều
thế cả, nữa là ông. Ông đã bị gạch tên khỏi sổ Nam Tào. Thân thể thật của

ông đã tan rữa trong bùn đất, còn chút hình thù gì của ông đâu !
HỒN TRƯƠNG BA : Sống nhờ vào đồ đạc, của cải người khác, đã là
chuyện không nên, đằng này đến cái thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng
thịt. Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông
chẳng cần biết !... »
(Trích Hồn Trương Ba, da hàng thịt – Lưu Quang Vũ)
Câu 1 : Hoàn cảnh nào dẫn đến đoạn hội thoại trên ?
Câu 2 : « Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi
muốn được là tôi toàn vẹn. »

11


Các câu văn trong lời thoại trên, phân loại theo mục đích nói là kiểu câu gì,
được dùng với mục đích nào ?
Câu 3 : Hãy ghi lại 2 lời thoại trong đoạn trích trên thể hiện rõ nhất quan
niệm của Hồn Trương Ba về ý nghĩa sự sống. Anh (chị) hiểu gì về quan
niệm ấy ?
Câu 4 : Trong những trường hợp sau đây đâu là biểu hiện của lối sống
« bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo » ?
A.

Trong thâm tâm, ta coi thường, khinh ghét một người nào đó
nhưng buộc phải nói cười, vồn vã, tay bắt mặt mừng

B.

Có khi bản tính mình sôi nổi, tinh nghịch nhưng buộc phải
“đóng vai” hiền hậu, nết na


C.

Khi đứng trước một sự việc, một hiện tượng - mình có cách nhìn
nhận, đánh giá khác hẳn mọi người nhưng ngại va chạm này nọ
nên đành tỏ thái độ đồng tình

D.

Cả A, B, C.
ĐÁP ÁN

Câu 1: Đoạn văn là đối thoại của Hồn Trương Ba với Đế Thích trong hoàn
cảnh : Sau một thời gian sống trong thân xác anh hàng thịt, hồn Trương Ba
cảm thấy vô cùng đau khổ, bế tắc khi phải rơi vào bi kịch. Ông quyết định
châm hương gọi Đế Thích để bày tỏ quan niệm sống của mình.
Câu 2 :
« Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được
là tôi toàn vẹn. »
Các câu văn trong lời thoại trên, phân loại theo mục đích nói là kiểu câu
tường thuật, được dùng với mục đích cầu khiến.
Câu 3 :
12


Ghi lại đúng 2 câu bày tỏ rõ nhất quan niệm của Hồn Trương Ba về ý
nghĩa sự sống và hiểu đúng ý nghĩa của quan niệm ấy. Cụ thể :
- Lời thoại Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi
muốn được là tôi toàn vẹn có ý nghĩa triết lí sâu sắc về sự sống: con
người là một thể thống nhất, tâm hồn và thể xác phải hài hoà, được sống
đúng là mình, sống thực với con người mình là một nhu cầu, một quyền lợi

thiêng liêng, là khát vọng cao đẹp của con người.
- Lời thoại Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống nhưng sống như thế nào
thì ông chẳng cần biết: sống hay không sống không phải là vấn đề mà quan
trọng là sống như thế nào, sống ra sao, sống có ý nghĩa hay không. Sống
thực sự cho ra con người là điều không dễ dàng. Khi sống nhờ, sống gửi,
sống không phải là mình thì cuộc sống ấy thật là vô nghĩa, còn khổ hơn là
cái chết.
- Hai lời thoại làm rõ tình cảnh trớ trêu, bi kịch của hồnTrương Ba trong
sự tự ý thức của nhân vật, góp phần tô đậm chủ đề tác phẩm: được sống
làm người là quý giá nhưng được sống là chính mình, sống trọn vẹn, hài
hòa giữa thể xác và tâm hồn còn quý giá hơn nhiều.
Câu 4 : phương án D.
VĂN BẢN NGHỊ LUẬN
*Đặc trưng văn nghị luận
- Nghị luận là luận bàn về một vấn đề nào đó (vấn đề chính trị, xã hội, văn
hóa, văn học, nghệ thuật, triết học,..). Luận là nêu rõ vấn đề cần xem xét,
rồi trình bày sự hiểu biết, suy nghĩ, quan điểm, thái độ, cách giải quyết của
mình đối với vấn đề đó; thông qua sự phân tích, giải thích, chứng minh,
qua sự khẳng định hoặc phê phán bằng sự kiện, lí lẽ, tình cảm. Giá trị của
tác phẩm nghị luận phụ thuộc vào ý nghĩa của vấn đề được đặt ra, vào quan
điểm xem xét và giải quyết vấn đề, vào sức thuyết phục của lập luận.
13


- Các đặc trưng chính:
+ Chủ yếu dùng lí lẽ, dẫn chứng để bàn luận về một vấn đề nào đó
+ Ngôn ngữ mang tính xã hội, tính học thuật cao
*Cách đọc văn nghị luận
- Tìm hiểu hoàn cảnh ra đời của tác phẩm nghị luận, nhận xét về vấn đề
nêu lên trong tác phẩm (xuất phát từ nhu cầu nào của thực tế, có tầm quan

trọng như thế nào với cuộc sống, với lĩnh vực luận bàn)
- Tóm lược các luận điểm và xác định mối quan hệ giữa chúng với nhau
- Cảm nhận tâm tư, tình cảm của người viết thể hiện trong sự luận bàn
- Phân tích nghệ thuật lập luận, cách nêu chứng cứ, sử dụng ngôn ngữ
- Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật biểu hiện của tác phẩm, rút ra bài
học sâu sắc từ tác phẩm
Đặc trưng và cách đọc- hiểu văn nghị luận là cơ sở quan trọng để xây
dựng câu hỏi đọc- hiểu văn bản thuộc thể này. Chẳng hạn có thể ra
những câu hỏi về: đối tượng của văn bản; mục đích của văn bản; đặc
sắc về nghệ thuật lập luận; các thao tác lập luận; tâm tư, tình cảm của
người viết;…
Ví dụ 1: Đọc đoạn văn bản sau và trả lời câu hỏi:
Hỡi đồng bào cả nước,
“Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những
quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền
được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.
Lời bất hủ ấy trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mĩ. Suy
rộng ra, câu ấy có nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra
bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự
do.

14


Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm
1791 cũng nói:
“Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn được tự
do và bình đẳng về quyền lợi”.
Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được.
(Trích Tuyên ngôn Độc lập – Hồ Chí

Minh)
Câu 1. Nêu nội dung chính của đoạn văn?
Câu 2. Trong đoạn văn tác giả đã sử dụng những thao tác lập luận nào?
Câu 3. Hồ Chí Minh trích dẫn Tuyên ngôn Độc lập (1776) của Mĩ và
Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng Pháp (1791) có ý
nghĩa gì?
Câu 4. Hãy chỉ ra những nét đặc sắc về nghệ thuật viết văn chính luận của
Hồ Chí Minh được thể hiện trong đoạn văn.
ĐÁP ÁN
Câu 1. Nội dung đoạn văn: Tác giả nêu cơ sở pháp lý và chính nghĩa của
bản tuyên ngôn.
Câu 2. Tác giả đã sử dụng trong đoạn văn các thao tác lập luận: bình luận,
chứng minh
Câu 3. Ý nghĩa của việc trích dẫn hai bản tuyên ngôn:
- Làm cơ sở tuyên bố độc lập dân tộc
- Dùng lí lẽ của chính đối thủ để bác bỏ luận điệu và hành động
của chúng
- Thể hiện niềm tự hào dân tộc khi đặt Cách mạng tháng Tám
ngang hàng với các cuộc Cách mạng của Pháp và Mĩ
Câu 4. Chỉ ra những đặc sắc của nghệ thuật viết văn chính luận được thể
hiện trong đoạn văn:
15


- Lập luận chặt chẽ
- Lí lẽ sắc bén
- Ngôn ngữ xác đáng
- Giọng điệu hùng hồn
Ví dụ 2: Đọc đoạn văn bản sau và trả lời các câu hỏi:
“Dân ta thông minh, hiếu học, chuộng tri thức, nhưng còn nghèo trí

tưởng tượng. Hãy bình tĩnh nhìn qua các kiểu nhà biệt thự mới mọc ở
thành phố thời mở cửa và dạo qua các cửa hiệu, các chợ đầy ắp hàng hóa
nước ngoài, từ quần áo đến đồ chơi trẻ em, từ đồ dùng văn phòng đến xe
đạp, quạt máy. Nhiều hàng nội của ta không cạnh tranh được vì thua kém
cả phẩm chất, hình dáng đến mẫu mã. Thật ra đã từ lâu chúng ta quen
sao chép, ít chịu khó nghĩ ra các ý tưởng mới. Nhìn lại cái giường, cái bàn
cho đến cây bút, cái cặp,…có thể nói năm mươi năm không hề thay đổi!
Có lẽ do truyền thống học tập từ chương, khoa cử, ông bà ta bị gò bó quá
nhiều, cho nên ta ít có những nhà tư tưởng lớn, ít có những công trình đồ
sộ với sức tưởng tượng phóng khoáng, diệu kì. Ngay cả những tác phẩm
văn học hay nhất cũng chủ yếu làm ta say đắm bởi văn chương mượt mà,
gợi những tình cảm sâu sắc, tha thiết, nhưng ít có hoặc không có những
pho truyện lớn với tình tiết phức tạp, ý tưởng kì lạ, tầm cỡ như Tam quốc,
Thủy hử, Hồng lâu mộng hay tiểu thuyết như của V. Huy-gô, L.Tôn-xtôi,
Ph. Đôt-xtôi-ép-xki.
Hơn bất cứ lúc nào, câu nói của Anh-xtanh cần được khẳng định :
“Tri thức mà thiếu sức tưởng tượng dễ biến thành tri thức chết, tri thức
không có tiềm năng phát triển”. Biết và hiểu là cần để làm theo, noi theo
chứ hoàn toàn chưa đủ để tạo ra những sản phẩm mới và có sức cạnh
tranh”.
(Theo Hoàng Tụy, tạp chí Tia sáng)
16


Câu 1. Theo tác giả, điểm hạn chế trong tư duy của người Việt là gì?
Câu 2. Trong đoạn văn, người viết đã chỉ ra nguyên nhân nào dẫn đến hạn
chế đó?
Câu 3. Người viết dẫn nhận định của Anh-xtanh nhằm mục đích gì?
Câu 4. Anh/chị có đồng tình với quan điểm của Anh-xtanh: “Tri thức mà
thiếu sức tưởng tượng dễ biến thành tri thức chết, tri thức không có tiềm

năng phát triển” không? Vì sao? (Viết từ 5 – 7 câu)
ĐÁP ÁN
Câu 1. Điểm hạn chế trong tư duy của người Việt là thiếu trí tưởng tượng.
Câu 2. Nguyên nhân:
- Thói quen sao chép khiến chúng ta ít tìm tòi các ý tưởng mới.
- Truyền thống học tập từ chương, khoa cử khiến tư duy bị gò bó.
Câu 3. Tác giả dẫn ý kiến của Anh-xtanh để khẳng định vai trò quan trọng
của trí tưởng tượng trong việc thúc đẩy tư duy sáng tạo và làm tăng sức
thuyết phục cho lập luận.
Câu 4. HS hiểu đúng nhận định của Anh-xtanh và nêu quan điểm bản thân
một cách hợp lí, thuyết phục; đảm bảo dung lượng.
Ví dụ 3: Đọc đoạn văn bản sau và trả lời câu hỏi.
“Ngôi sao Nguyễn Đình Chiểu, một nhà thơ lớn của nước ta, đáng lẽ
phải sáng tỏ hơn nữa trong bầu trời văn nghệ của dân tộc, nhất là trong
lúc này.
Trên trời có những vì sao có ánh sáng khác thường, nhưng con mắt của
chúng ta phải chăm chú nhìn thì mới thấy, và càng nhìn càng thấy sáng.
Văn thơ yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu cũng vậy. Có người chỉ biết
Nguyễn Đình Chiểu là tác giả của Lục Văn Tiên, và hiểu Lục Văn Tiên
khá thiên lệch về nội dung và về văn, còn rất ít biết thơ văn yêu nước của
17


Nguyễn Đình Chiểu, khúc ca hùng tráng của phong trào yêu nước chống
bọn xâm lược Pháp lúc chúng đến bờ cõi nước ta cách đây một trăm năm.”
Câu 1. Đoạn văn trên trích từ tác phẩm nào? Của tác giả nào?
Câu 2. Ví thơ văn Nguyễn Đình Chiểu với “những vì sao có ánh sáng khác
thường”, tác giả chủ yếu nhằm mục đích gì?
Câu 3. Đoạn văn sử dụng những thao tác lập luận nào?
Câu 4. Ngôi sao Nguyễn Đình Chiểu chưa sáng tỏ hơn nữa trong bầu trời

văn nghệ của dân tộc, chủ yếu là do:
A. Người đọc chỉ biết Nguyễn Đình Chiểu là tác giả của Lục
Văn Tiên.
B. Người đọc hiểu Lục Văn Tiên khá thiên lệch về nội dung và
về văn.
C. Người đọc rất ít biết thơ văn yêu nước của Nguyễn Đình
Chiểu
D. Người đọc chưa hiểu hết giá trị của thơ văn Nguyễn Đình
Chiểu
ĐÁP ÁN
Câu 1. Đoạn văn bản trên được trích trong “Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao
sáng trong văn nghệ dân tộc” của tác giả Nguyễn Đình Chiểu
Câu 2. Nhằm định hướng cách nhìn nhận đúng đắn về thơ văn Nguyễn
Đình Chiểu.
Câu 3. Thao tác: bình luận, so sánh, chứng minh.
Câu 4. Đáp án D
VĂN BẢN KÍ
*Đặc trưng của kí
Cho đến nay giới LLVH vẫn chưa đưa ra một hệ thống lí thuyết thống
nhất cho thể loại này. Có nhiều ý kiến khác nhau trong việc xác định khái
18


niệm và đặc trưng của kí song chúng tôi thấy có một số đặc trưng nổi bật
sau:
- Mang tính chất của báo chí: kí là một loại văn xuôi trần thuật người thật,
việc thật, tôn trong tính xác thực và tính thời sự của đối tượng được miêu
tả -> tiếp cận hiện thực nhanh nhạy, nắm bắt và thể hiện cuộc sống kịp
thời, mạnh dạn hướng vào những vấn đề nóng bỏng đang được xã hội quan
tâm, thông tin đa dạng, xác thực được đảm bảo bằng thực chứng có giá trị

tư liệu lịch sử quý giá, đáp ứng những nhu cầu hiểu biết thế giới của độc
giả.
- Kí có mối liên hệ chặt chẽ với thể loại trữ tình:
+ Cái tôi trữ tình trong kí được bộc lộ phong phú, trực tiếp -> người viết
phải biểu hiện độc đáo cá tính sáng tạo trong mạch cảm xúc, suy nghĩ,
trong cách bình luận và phân tích sự vật cũng như trong phương thức thể
hiện (Nguyễn Tuân- một cái tôi tài hoa, uyên bác; Vũ Bằng - một cái tôi
thao thiết nhớ thương hồn dân tộc; Hoàng Phủ Ngọc Tường - Cái tôi với
tâm linh Huế sâu thẳm)
+ Liên tưởng phóng khoáng, bất ngờ
+ Lối hành văn giàu chất thơ
+ Bố cục tự do, phóng túng;
+ Về phương diện kết cấu, tùy bút, bút kí …gần với thơ ở chỗ nó có cấu tứ
- cấu tứ gắn kết các chi tiết tưởng như không liên quan trong thực tế thành
những tín hiệu thẩm mĩ có cùng chung một nhiệm vụ nghệ thuật trong
chỉnh thể tác phẩm là bộc lộ nội dung tư tưởng. Người viết phải xâu chuỗi,
tập hợp các sự vật, hiện tượng, gắn kết những cái rời rạc thành một chỉnh
thể bằng lôgic suy nghiệm riêng độc đáo, bất ngờ. Cấu tứ qui tụ tất cả các
chi tiết trong quỹ đạo của nó
*Cách đọc- hiểu kí
19


- Đọc đối tượng của bài kí: Hiện thực được phản ánh trong tác phẩm, đánh
giá về độ chân xác, tính thời sự của các sự kiện; dung lượng thông tin…
- Đọc cái tôi của người viết kí: Hiện thực là cái cớ để nhà văn bày tỏ cảm
xúc, suy nghĩ, bình luận, triết lí
- Đọc nghệ thuật viết kí:
+ Bố cục, cấu tứ:
+ Sử dụng cái tôi

+ Khả năng liên tưởng, tưởng tượng
+ Xây dựng hình ảnh
+ Tạo nhịp điệu
+ Sử dụng ngôn ngữ
Đặc trưng kí và cách đọc- hiểu kí là cơ sở quan trọng để xây dựng câu
hỏi đọc- hiểu văn bản thuộc thể này. Chẳng hạn có thể ra những câu hỏi
về: đối tượng của đoạn trích, cái tôi người viết kí, nghệ thuật viết kí,
phong cách tác giả,…
Ví dụ 1: Đọc đoạn văn bản sau và trả lời các câu hỏi:
“ Trong những dòng sông đẹp ở các nước mà tôi thường nghe nói đến,
hình như chỉ sông Hương là thuộc về một thành phố duy nhất. Trước khi
về đến vùng châu thổ êm đềm, nó đã là một bản trường ca của rừng già,
rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn
xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn, và cũng có lúc nó trở nên dịu
dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên
rừng. Giữa lòng Trường Sơn, sông Hương đã sống một nửa cuộc đời của
mình như một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại. Rừng già đã hun
đúc cho nó một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng. Nhưng
chính rừng già nơi đây, với cấu trúc đặc biệt có thể lí giải được về mặt
khoa học, đã chế ngự sức mạnh bản năng ở người con gái của mình để khi
20


ra khỏi rừng, sông Hương nhanh chóng mang một sắc đẹp dịu dàng và trí
tuệ, trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hoá xứ sở. Nếu chỉ mải
mê nhìn ngắm khuôn mặt kinh thành của nó, tôi nghĩ rằng người ta sẽ
không hiểu một cách đầy đủ bản chất của sông Hương với cuộc hành trình
gian truân mà nó đã vượt qua, không hiểu thấu phần tâm hồn sâu thẳm
của nó mà dòng sông hình như không muốn bộc lộ, đã đóng kín lại ở cửa
rừng và ném chìa khoá trong những hang đá dưới chân núi Kim Phụng.”

Câu 1. Đoạn văn trên được trích trong tác phẩm nào? Văn bản đó thuộc thể
loại gì ?
Câu 2. Đối tượng miêu tả của đoạn kí ? Đối tượng ấy hiện lên như thế nào
qua đoạn văn ?
Câu 3. Trong đoạn văn, tác giả đã sử dụng các biện pháp nghệ thuật gì ?
Tác dụng của những biện pháp nghệ thuật ấy ?
Câu 4. Nhân vật “tôi” hiện lên như thế nào trong đoạn văn?
Câu 5. Đặc điểm Sông Hương ở đoạn này có điểm gì tương đồng với đặc
điểm sông Đà ở thượng nguồn trong Người lái đò Sông Đà của Nguyễn
Tuân?
ĐÁP ÁN
Câu 1. Đoạn văn trích trong tác phẩm “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”.
Văn bản thuộc thể kí (bút kí)
Câu 2.
- Đối tượng miêu tả của đoạn văn đoạn văn : Sông Hương ở thượng
nguồn
- Dòng sông hiện lên với vẻ độc đáo :
+ Dòng chảy phong phú: vừa mãnh liệt vừa dịu dàng, say đắm
21


+ Dòng sông mang vẻ đẹp nữ tính: từ cô gái di-gan đến người mẹ
phù sa
+ Dòng sông mang vẻ đẹp kín đáo với tâm hồn sâu thẳm
Câu 3.
- Trong đoạn văn, tác giả sử dụng biện pháp nghệ thuật: đối lập
(tương phản), so sánh, nhân hóa.
- Tác dụng:
+ Nghệ thuật đối lập (tương phản) nhằm làm nổi bật vẻ độc đáo của
dòng sông

+ Nghệ thuật so sánh, nhân hóa khiến sông Hương trở nên sinh động,
có hồn, dòng sông gần với tâm hồn của con người xứ Huế.
Câu 4. Nhân vật “tôi” hiện lên rõ nét :
- Kiến thức phong phú, am tường về Huế
- Trí tưởng tượng phong phú độc đáo, mãnh liệt
- Ngôn ngữ phong phú, tài hoa
- Tình yêu đối với xứ Huế
Câu 5. Điểm tương đồng giữa sông Hương ở đoạn này và sông Đà ở
thượng nguồn là: sự hùng vĩ
Ví dụ 2: Đọc đoạn trích sau đây và trả lời các câu hỏi:
“ Tại một công trường làm đường Tây Bắc, 1966.
Tôi nhìn ra cái tàu lăn nghiến đá mặt đường mới, nhìn ra những kíp
thợ xây dựng mở đường, nhìn ra một tổ ong của anh chị em làm đường
vừa mang được ong chúa về. Cửa sổ buồng tôi viết, lúc nào cũng nhộn
nhịp cánh tay người và những cánh ong quen dần với tổ mới. Ong bay trên
trang sổ tay tôi. Ong tua tròn trên trang giấy chữ nhật trắng, như là tàu
22


bay đảo nhiều vòng chờ lệnh hạ cánh xuống. Buồng bên có người bị ong
đốt. Bởi vì người đó hoảng hốt vừa giết ong một cách không cần thiết, và
ngửi thấy mùi máu, bọn ong cùng tổ liền xông tới đốt. Rồi ong cũng lăn ra
chết, tinh hồn xuất theo luôn với nọc đốt. Con ong bé cũng như con voi to,
vốn tính lành nhưng khiêu khích chúng thì chúng đánh lại ngay, dẫu rằng
có phải lấy bổn mạng ra mà trả lời. Anh cán bộ địa chất liền cho tôi mượn
một số tạp chí khoa học có mấy trang về nuôi ong. Giờ tôi mới biết rằng
đó là một thế giới đầy sinh thú. Đời sống con ong để lại cho người đọc nó
một bài học về kiên nhẫn, về cần lao, về tích lũy, chế tạo và sáng tạo.
Người ta đã đánh dấu con ong, theo dõi nó, và thấy rằng cái giọt mật làm
ra đó, là kết quả của 2.700.000 chuyến (bay) đi, đi từ tổ nó đến khắp các

nơi có hoa quanh vùng. Và trong một nửa lít mật ong đóng chai, phân chất
ra được 5 vạn thứ hoa. Tính ra thành bước chân người thì tổng cộng
đường bay của con ong đó là 8.000.000 cây số.
Giữa rừng Tây Bắc đầy hoa, đầy bướm, đầy ong, cái tôi thấy say say
trong chính mình là dầu không được một chuyến đi bằng một đời ong,
mình cũng là một con sinh vật đang nung một thứ mật gì. Sự tích lũy ở
mình cũng ngày ngày có giọt ra mà phần nào đem thơm thảo vào sự sống.
Đối hoa xuân lắng ong mật mà thêm ngẫm tới đàn bướm tốt mã chấp chới
bay, lộng lẫy những sắc phấn của sáo ngữ ồn ào. Bướm phù phiếm cũng
bay vào hoa, nhưng cặp cánh hào nhoáng cũng chẳng để lại gì. Từ ngày
có lịch sử tiến hóa của loài người, chưa ai dám nói đến mật bướm.”
(Trích Tờ hoa – Nguyễn Tuân)
Câu 1. Nêu nội dung của đoạn văn.
Câu 2. Trong đoạn văn trên tác giả đã sử dụng những phương thức biểu đạt
nào?
Câu 3. “Tôi nhìn…”, “Giờ tôi mới biết rằng…”, “cái tôi thấy say say…”
23


Qua các cụm từ trên anh/chị hiểu gì về cái “tôi” trong thể loại tùy
bút?
Câu 4. Hãy thể hiện sự liên tưởng của anh/chị trước hình ảnh “ngọn lửa”.
ĐÁP ÁN
Câu 1. Nội dung của đoạn văn: Từ hình ảnh của đàn ong tác giả gợi liên
tưởng tới công phu tích lũy và sự lao động bền bỉ của con người.
Câu 2. Trong đoạn văn trên tác giả đã sử dụng những phương thức biểu
đạt: tự sự, miêu tả, biểu cảm
Câu 3. Qua các cụm từ trên ta thấy được đặc sắc của cái “tôi” trong thể tùy
bút:
- Cái tôi được thể hiện đậm nét, trực tiếp

- Cái tôi chịu khó quan sát, trải nghiệm, suy tưởng.
Câu 4. Hãy thể hiện sự liên tưởng của anh/chị trước hình ảnh “ngọn lửa”
Yêu cầu: Liên tưởng hợp lí; có tính thẩm mĩ; diễn đạt rõ ràng
2.2.3. Căn cứ vào yêu cầu về cấp độ nhận thức:
- Để đáp ứng được yêu cầu của kì thi THPTQG, mỗi đoạn ngữ liệu
đọc- hiểu có 4 câu hỏi ra theo các cấp độ: nhận biết, thông hiểu,
vận dụng.
- Muốn vậy, GV cần xây dựng được bảng mô tả các cấp độ nhận
thức cho mỗi loại văn bản.
- Ví dụ: Bảng mô tả các mức độ của câu hỏi đọc - hiểu kí
Nhận biết
Thông hiểu
Vận dụng thấp
Vận dụng cao
- Nêu thông tin về - Lý giải chi tiết - Vận dụng hiểu biết - Trình bày những
tác giả, tác phẩm, nghệ thuật
hoàn

cảnh

tác, thể loại,…

về tác giả, tác phẩm kiến giải riêng về một

sáng - Lý giải ý nghĩa, để phân tích, lý giải vấn đề trong văn bản
tác dụng của các giá trị nội dung, nghệ - Giải quyết một vấn

- Nhận ra phương biện pháp
thuật
thức biểu đạt


nghệ thuật của tác phẩm;
- Khái quát đặc điểm

- Lý giải đặc điểm phong cách tác giả

24

đề trong thực tiễn


- Nhận ra đề tài, hình tượng

- Khái quát các đặc

cảm hứng chủ đạo.

điểm của thể loại

- Nhận ra nội dung

- So sánh các phương

-

Nhận

ra

diện nội dung, nghệ


hình

thuật trong một tác

tượng

phẩm/ giữa các tác

- Chỉ ra được các

phẩm.

chi tiết nghệ thuật
đặc sắc và các đặc
điểm nghệ thuật

Ví dụ 1:
Đọc đoạn văn bản sau và trả lời các câu hỏi:
“ Trong những dòng sông đẹp ở các nước… trong những hang đá dưới
chân núi Kim Phụng.”
Câu 1. Đoạn văn trên được trích trong tác phẩm nào? Văn bản đó thuộc thể
loại gì ? (Nhận biết)
Câu 2. Đối tượng miêu tả của đoạn kí ? Đối tượng ấy hiện lên như thế nào
qua đoạn văn ? (Nhận biết + thông hiểu)
Câu 3. Trong đoạn văn, tác giả đã sử dụng các biện pháp nghệ thuật gì ?
Tác dụng của những biện pháp nghệ thuật ấy? (Nhận biết + thông hiểu)
Câu 4. Nhân vật “tôi” hiện lên như thế nào trong đoạn văn? (Nhận biết)
Câu 5. Đặc điểm Sông Hương ở đoạn này có điểm gì tương đồng với đặc
điểm sông Đà ở thượng nguồn trong Người lái đò Sông Đà của Nguyễn

Tuân? (Vận dụng)
Ví dụ 2: Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi
Người ta thường hay nhắc đến mang nặng đẻ đau. Có những quá
trình không phải là hoài thai, không đẻ gì (theo nghĩa hẹp và nghĩa đen
25


×