Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

SỰ cần THIẾT PHẢI kết hợp GIỮA đổi mới KINH tế với đổi mới CHÍNH TRỊ TRONG ĐƯỜNG lối đổi mới của ĐẢNG TA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.2 KB, 23 trang )

Môn: Quá trình hình thành, phát triển đường lối cách mạng XHCN
và đường lối đổi mới ở Việt Nam của Đảng
TIỂU LUẬN
SỰ CẦN THIẾT PHẢI KẾT HỢP GIỮA ĐỔI MỚI CHÍNH TRỊ VỚI ĐỔI
MỚI KINH TẾ TRONG ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI CỦA ĐẢNG TA
MỤC LỤC

Trang
MỞ ĐẦU
I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG

1.1. Khái niệm chính trị, kinh tế
1.2. Mối quan hệ giữa chính trị và kinh tế
II. SỰ CẦN THIẾT KẾT HỢP GIỮA ĐỔI MỚI CHÍNH

2
4
4
4

TRỊ VỚI ĐỔI MỚI KINH TẾ TRONG ĐƯỜNG LỐI
ĐỔI MỚI CỦA ĐẢNG TA
9
2.1. Khái niệm đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị
9
2.2. Quan điểm của Đảng ta về đổi mới kinh tế kết hợp với đổi
mới chính trị
2.3. Những thành tựu trong quá trình đổi mới của Đảng ta
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


9
18
20
22

MỞ ĐẦU
Giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là một
nội dung cốt lõi quan trọng trong các quan điểm, đường lối, chính sách của


2
Đảng ta từ khi đổi mới đến nay. Sự nhận thức và giải quyết đúng đắn vấn đề
này của Đảng cũng là khâu đột phá trong tư duy và thực tiễn lãnh đạo sự
nghiệp đổi mới của Đảng. Thời kỳ trước đổi mới, về nhận thức, chúng ta đã
nhấn mạnh quá mức vai trò kiến trúc thượng tầng, coi chính trị là thống soái,
quyết định kinh tế và tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; chưa đánh giá
đúng vai trò của kinh tế trong quan hệ với chính trị. Về cơ chế, chúng ta cũng
nhận thức một cách đơn giản về tác động của kiến trúc thượng tầng chính trị
đối với cơ sở kinh tế. Chính trị can thiệp quá sâu vào các quá trình kinh tế - xã
hội bằng hệ thống những mệnh lệnh chủ quan của các cơ quan quản lý các
cấp. Và thiết chế, bộ máy hành chính còn quan liêu, cửa quyền, cồng kềnh,
kém hiệu quả. Từ khi đổi mới đến nay, về quan điểm Đảng ta chủ trương “Kết
hợp ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm
trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị” 1. Đây là nhận thức đúng cả
về mặt lý luận cả về mặt thực tiễn.
Sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam được chính thức bắt đầu từ 1986 với
khâu đột phá là đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế. Không thể nói một
cách đơn giản rằng, ở Việt Nam, đổi mới kinh tế trước đổi mới chính trị sau.
Trên thực tế, hai quá trình đó không tách rời nhau. Nhưng, rõ ràng là, Việt
Nam đổi mới tư duy kinh tế trước, đổi mới tư duy chính trị sau theo nghĩa đổi

mới chính trị ngay từ đầu đã không phải là trọng tâm và chủ yếu. Đổi mới tư
duy, đổi mới các quan điểm, quan niệm về phương thức phát triển đất nước
của Đảng Cộng sản Việt Nam, dù trước hết trong kinh tế thì cũng đã là đổi
mới chính trị. Đổi mới các quan điểm chính trị chính là bước khởi đầu cho đổi
mới trong kinh tế và trong các lĩnh vực khác của đời sống xã hội.
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI coi việc “đẩy mạnh
toàn diện công cuộc đổi mới” là cơ sở, là “nền tảng để đến năm 2020 nước
ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”. Nhiệm vụ đổi
mới chính trị, được Đảng ta đặt ra hết sức cấp bách trong tiến trình “đổi


3
mới toàn diện”. Xét về mặt lý luận, kinh tế hay chính trị đều được cấu
thành bởi 4 yếu tố: 1-Tư tưởng, quan điểm, tư duy, học thuyết, đường lối,
chính sách; 2-Tổ chức; 3-Hoạt động; 4- Quan hệ trong từng lĩnh vực. Vì
thế, khi nói đổi mới kinh tế hay đổi mới chính trị là phải đề cập đến cả 4
yếu tố cấu thành nói trên. Điểm lại gần 30 năm qua Đảng ta đã đổi mới hai
lĩnh vực này như thế nào?
Thành tựu nổi bật nhất trong lĩnh vực kinh tế là nước ta đã chuyển từ
kinh tế kế hoạch hóa, tập trung, quan liêu, bao cấp sang kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa; chuyển từ kinh tế đơn thành phần, đơn loại hình
sở hữu sang kinh tế đa thành phần, đa loại hình sở hữu; chuyển từ công
nghiệp hóa, trong đó ưu tiên phát triển công nghiệp nặng, sang công nghiệp
hóa gắn với hiện đại hóa, gắn với thị trường, gắn với khoa học công nghệ hiện
đại và hướng tới kinh tế tri thức; chuyển nền kinh tế chưa thật sự mở cửa sang
nền kinh tế hội nhập quốc tế ngày càng rộng và sâu.
Thành tựu bao trùm nhất về đổi mới chính trị là Đảng ta đã tự đổi mới
từ quan điểm, tư duy đến đổi mới đường lối, chủ trương, chính sách, từ đổi
mới công tác tổ chức đến công tác cán bộ, từ đổi mới nội dung lãnh đạo đến
phương thức lãnh đạo, từ đổi mới kiểm tra đến mở rộng dân chủ trong Đảng,

từ việc tự đổi mới trong Đảng đến việc lãnh đạo đổi mới cả hệ thống chính trị.
Chính sự tự đổi mới đó của Đảng, nước ta mới có những kết quả to lớn trong
đổi mới kinh tế. Đảng đã lãnh đạo đổi mới từ Nhà nước chuyên chính vô sản
chuyển sang Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân. Đồng thời, tiến hành đổi mới tổ chức và hoạt động của các
tổ chức chính trị – xã hội. Các tổ chức này đã có nhiều cố gắng khắc phục tình
trạng hành chính hóa, phô trương, hình thức và nâng cao chất lượng hoạt
động, làm tốt công tác dân vận theo phong cách trọng dân, gần dân, hiểu dân,
học dân, có trách nhiệm với dân, nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin,
đồng thời thực hiện vai trò giám sát, phản biện xã hội. Nhà nước cũng đã ban


4
hành Quy chế dân chủ ở cơ sở để Mặt trận, các đoàn thể và nhân dân tham gia
xây dựng Đảng, chính quyền. Một thành tựu quan trọng đáng chú ý nhất của
đổi mới chính trị là tạo ra bầu không khí dân chủ tiến bộ hơn trước rất nhiều.
Đảng ta đã nhận thức được rằng, một đảng cầm quyền không những phải đề
phòng sai lầm về đường lối và tổ chức, mà còn phải đề phòng tình trạng bộ
máy quan liêu hóa và đội ngũ cán bộ, đảng viên bị thoái hóa, biến chất, đề
phòng tệ sùng bái cá nhân và hình thành tầng lớp đặc quyền, đặc lợi để ảnh
hưởng xấu đến dân chủ, đến quyền làm chủ của nhân dân. Những đổi mới nói
trên có ý nghĩa rất quan trọng làm cho hệ thống chính trị ngày càng vững
mạnh và huy động sức dân vào việc phát triển kinh tế. Từ phân tích trên tôi
chọn “Sự cần thiết phải kết hợp giữa đổi mới chính trị với đổi mới kinh tế
trong đường lối đổi mới của Đảng ta” làm chủ đề tiểu luận của mình.
I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG

1.1. Khái niệm chính trị, kinh tế
Chính trị là những công việc nhà nước hay xã hội. Phạm vi hoạt động
gắn với những quan hệ giữa các giai cấp, giữa các dân tộc và các nhóm xã hội

khác nhau mà hạt nhân của nó là vấn đề giành, giữ và sử dụng quyền lực nhà
nước. Về thực chất, chính trị là quan hệ về lợi ích (trước hết và cơ bản là lợi
ích kinh tế) giữa các giai cấp, các lực lượng XH, các quốc gia, dân tộc mà
việc thực hiện lợi ích đó phải thông qua quyền lực nhà nước. Trong chính trị,
vấn đề quyền lực chính trị (mà trọng tâm là quyền lực nhà nước) luôn là mục
tiêu của các giai cấp. Khi nắm được quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước
tức là nắm được công cụ cơ bản nhất để giải quyết các vấn đề lợi ích của các
giai cấp. Do vậy, xét từ góc độ quan hệ với kinh tế thì vấn đề chính trị thực
chất cũng chính là vấn đề kinh tế bởi vì giải quyết vấn đề quyền lực chính trị
sẽ trực tiếp tác động đến động lực của sự phát triển kinh tế. Mác - Lênin đã


5
rút ra kết luận : quan hệ chính trị xét về bản chất là do quan hệ kinh tế, chính
sự ra đời và tồn tại của giai cấp, chính nhu cầu của các giai cấp quyết định nội
dung của các lợi ích chính trị…
Kinh tế được hiểu là toàn bộ các lĩnh vực, các ngành khác nhau của một
nền kinh tế quốc dân, mà cơ sở của nó là các quan hệ cơ bản: quan hệ sở hữu
về tư liệu sản xuất, quan hệ tổ chức và quản lý lao động XH, quan hệ phân
phối sản phẩm làm ra. Phạm vi kinh tế là cơ sở cần thiết và sâu xa nhất của xã
hội loài người, gần như toàn bộ các mối quan hệ khác trong xã hội đều được
quy định bởi lĩnh vực kinh tế, vì vậy nó quyết định chế độ chính trị và quyết
định quyền lực nhà nước.
1.2. Mối quan hệ giữa chính trị với kinh tế
Vai trò của kinh tế với chính trị
Quan hệ chính trị với kinh tế là mối quan hệ biện chứng luôn có sự tác
động qua lại lẫn nhau. Trong quá trình đổi mới đất nước, khi xác định đường
lối phát triển giữa chính trị và kinh tế, Đảng ta khẳng định “lấy đổi mới kinh
tế làm trọng tâm”. Điều này xuất phát từ quan điểm kinh tế là nền tảng của
chính trị, kinh tế bao giờ cũng quyết định chính trị và điều này được khẳng

định hoàn toàn trong lý luận cũng như trong thực tiễn.
Về mặt lý luận, theo chủ nghĩa Mác - Lênin thì cơ sở hạ tầng quy định
cấu trúc, tính chất của kiến trúc thượng tầng và tồn tại xã hội quyết định ý
thức xã hội. Kinh tế là nhân tố cơ bản thuộc cơ sở hạ tầng, trong khi chính trị
là nhân tố chủ yếu của kiến trúc thượng tầng, vì vậy các quan hệ kinh tế là
quy định các quan hệ chính trị. Về mặt thực tiễn: ở hình thái kinh tế xã hội
chiếm hữu nô lệ thì với quan hệ sản xuất của chế độ chiếm hữu nô lệ, thể chế
chính trị thuộc về giai cấp chủ nô, ở hình thái kinh tế xã hội TBCN thì với
quan hệ sản xuất của chế độ tư bản chủ nghĩa, thể chế chính trị thuộc về giai
cấp tư sản và ở CNXH thì thể chế chính trị thuộc về giai cấp công nhân


6
Có thể khẳng định rằng kinh tế luôn quyết định chính trị mà trước hết,
nhân tố kinh tế có tính quyết định nhất, tác động đến đời sống chính trị chính
là hệ thống các quan hệ sở hữu. Nếu quan hệ sở hữu thay đổi về căn bản và
cùng với nó là sự thay đổi các quan hệ kinh tế khác mà trước hết nó làm biến
đổi bản chất của hệ thống các quan hệ sản xuất. Hệ thống các quan hệ SX khi
đã thay đổi về căn bản sẽ dẫn đến thay đổi căn bản chế độ chính trị, mở
đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Kinh tế thay đổi sẽ kéo theo sự thay
đổi của chính trị, thậm chí một vấn đề kinh tế không lớn nhưng có thể trở
thành một vấn đề chính trị phức tạp, có thể làm đảo lộn đời sống chính trị, xã
hội. Lực lượng nào, giai cấp nào nắm kinh tế thì lực lượng đó, giai cấp đó
nắm quyền lực chính trị, chi phối đời sống xã hội. Ngược lại, nếu một giai
cấp, lực lượng XH đã làm chủ về quyền lực chính trị mà không xây dựng và
giữ được địa vị chủ đạo về kinh tế thì sớm muộn cũng sẽ không thể duy trì
được quyền lực chính trị. Chính vì vậy, Lênin viết “Chính trị là sự biểu hiện
tập trung của kinh tế”. Đằng sau các quan hệ chính trị là các quan hệ kinh tế,
các quan hệ lợi ích kinh tế.
“Chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế” xuất phát từ sự hình

thành, tồn tại, phát triển và các hình thức, hoạt động chính trị là kết quả tất
yếu của sự vận động của kinh tế và chính trị phải mang trong nó những quy
luật kinh tế khách quan. Điều đó có nghĩa là: nó phải phản ánh được lợi ích
kinh tế của giai cấp và phản ánh được bản chất của một chế độ kinh tế, nó
phản ánh cái cốt lõi (cơ bản), bền vững trong kinh tế. Bên cạnh đó chính trị
phải phản ánh một cách khái quát tất cả các khuynh hướng kinh tế nhưng nó
phải làm nổi bật khuynh hướng chủ đạo. Đồng thời chính trị cũng phải phản
ánh được ý chí sức mạnh, sự đoàn kết của một giai cấp để thực hiện được lợi
ích kinh tế của chính giai cấp mình.
“Chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế”, điều đó đòi hỏi chính
trị và hệ thống chính trị phải mang trong mình nó những quy định kinh tế
khách quan, có nghĩa là chính trị phản ánh những yêu cầu, điều kiện của kinh


7
tế khách quan, sự phản ánh đó thể hiện trong cấu trúc hệ thống chính trị, trong
phương thức hoạt động của các thành tố hệ thống chính trị, trong các quyết
sách chính trị.
Kinh tế là gốc của chính trị, ở góc độ nào đó nó là sự thể hiện tính ưu
việt của chính trị cũng như sự phù hợp của chính trị với kinh tế. Với ý nghĩa
đó, ở mọi thời đại, nếu không giải quyết thỏa đáng các quan hệ kinh tế, lợi ích
kinh tế, không phát triển được kinh tế thì sự vận động của chính trị có thể sẽ
gặp trở ngại, thậm chí đi đến thất bại. Thực tiễn cách mạng thế giới cho thấy,
một trong những nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của Liên Xô và hệ thống các
nước XHCN Đông Âu chính là do suy thoái, khủng hoảng kinh tế trầm trọng
dẫn đến những biến động lớn về chính trị, làm tan rã chế độ XHCN tại các
nước này.
Vai trò của chính trị với kinh tế
Trong quá trình đổi mới, song song với việc lấy “đổi mới kinh tế làm
trọng tâm”, Đảng xác định phải từng “đồng thời từng bước đổi mới chính trị”.

Quan điểm này xuất phát từ chính trị mặc dù bị kinh tế quyết định nhưng
chính trị lại có tính độc lập tương đối và có sự tác động trở lại kinh tế rất
mạnh mẽ sự tác động độc lập của chính trị đến kinh tế.
Về mặt lý luận : khi nhấn mạnh vai trò của cơ sở hạ tầng đối với kiến
trúc thượng tầng, quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin cũng khẳng định rằng
kiến trúc thượng tầng (chính trị) có tính độc lập tương đối và có sự tác động
trở lại rất mạnh mẽ đối với cơ sở hạ tầng (kinh tế). Về mặt thực tiễn: do nhận
thức được quy luật kinh tế khách quan, kiến trúc thượng tầng (chính trị) có
vai trò định hướng cho quy luật kinh tế, mang lại phương án tối ưu cho phát
triển kinh tế và phục vụ vì lợi ích của giai cấp. Với ý nghĩa đó, chính trị ra đời
tồn tại và phát triển trên cơ sở nó có vai trò to lớn tác động đến kinh tế theo
những quy luật kinh tế khách quan


8
Biểu hiện sự tác động của chính trị đối với kinh tế: Một là chính trị
định hướng cho kinh tế phát triển dựa trên quy luật khách quan, lựa chọn mô
hình chiến lược phát triển kinh tế, tham gia vào việc điều tiết, lựa chọn tốc độ
phát triển kinh tế. Hai là vai trò tác động của chính trị tác động đến các chủ
thể kinh tế: mỗi chủ thể kinh tế có vai trò, địa vị, lợi ích riêng, vì vậy, chính
trị phải có sự kiểm soát, tạo điều kiện tác động cho các chủ thể kinh tế phát
triển và tạo điều kiện cho họ góp phần vào việc thực hiện lợi ích chung. Ba
là vai trò của cơ cấu tổ chức và phương thức tổ chức, quản lý con người-xã
hội đối với kinh tế để phát huy được vai trò của nhân tố con người
Từ những tác động trên của chính trị đến kinh tế, Lênin cho rằng
“Chính trị không thể không giữ địa vị ưu tiên so với kinh tế”. Luận điểm này
khẳng định tính ưu tiên cho chính trị so với kinh tế, tức là kết quả đạt được về
phát triển kinh tế phải tính đến việc bảo vệ củng cố và phát triển thành quả
chính trị đạt được (củng cố và phát triển hệ thống chính trị). Khi giải quyết
các vấn đề kinh tế thì phải góp phần duy trì củng cố quyền lực chính trị. Mặt

khác, trong kinh tế dù cải tổ hay đổi mới như thế nào cũng phải luôn giữ vững
hệ tư tưởng chính trị vì hệ tư tưởng chính trị quy định phương hướng mục
tiêu, bản chất của chế độ xã hội. Trong điều kiện cách mạng XHCN, sự ưu
tiên của chính trị so với kinh tế là tất yếu để xây dựng CNXH: đó chính là
giành, giữ và sử dụng quyền lực chính trị và xây dựng nền kinh tê mới. Luận
điểm này cũng cho thấy phải có quan điểm chính trị khi giải quyết các vấn đề
kinh tế và phải bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của nhà nước đối
với phát triển kinh tế là tất yếu khách quan. Chính trị phải được ưu tiên và giữ
hàng đầu so với kinh tế vì chính trị có khả năng can thiệp một cách tự giác
vào quá trình kinh tế khách quan.
Sự tác động của chính trị đối với kinh tế có thể theo hai hướng: một là
nếu chính trị tác động cùng chiều với sự phát triển kinh tế, khi đó chính trị có


9
vai trò tích cực, thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất và phân công lao động
xã hội theo hướng chuyên môn hóa, hợp tác hóa. Hai là nếu chính trị tác động
ngược chiều với sự phát triển kinh tế, khi đó chính trị là vật cản đối với sự
phát triển kinh tế.
Vai trò tác động của chính trị đối với kinh tế không chỉ dừng lại ở đó.
Trong nhiều trường hợp dù đã có quyết sách chính trị đúng đắn (phản ánh
đúng thực trạng và qui luật khách quan của kinh tế), nhưng trình độ năng lực
tổ chức chỉ đạo thực tiễn phương thức hoạt động của hệ thống chính trị không
vươn tới ngang tầm với nhiệm vụ chính trị đề ra, thì chính trị vẫn có thể cản
trở kinh tế hoặc để cho kinh tế phát triển chệch hướng, trái với đường lối
chính trị đã lựa chọn. Vì thế chính trị cũng phải tự đổi mới, phải có cơ cấu tổ
chức, phương thức hoạt động, thiết chế vận hành phù hợp với cơ sở kinh tế.
II. SỰ CẦN THIẾT KẾT HỢP GIỮA ĐỔI MỚI CHÍNH TRỊ VỚI

ĐỔI MỚI KINH TẾ TRONG ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI CỦA ĐẢNG TA

2.1. Khái niệm đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị
Khái niệm “đổi mới kinh tế” qua các văn kiện của Đảng được hiểu là
quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế tập trung, bao cấp chủ yếu dựa trên
chế độ sở hữu toàn dân và tập thể sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần
vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam theo định hướng XHCN. Đó là bước chuyển từ
nền kinh tế cơ bản là “khép kín” sang nền kinh tế “mở” đối với khu vực và
thế giới, kết hợp tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện công
bằng xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái và từng bước đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá.
Khái niệm “đổi mới chính trị” qua các văn kiện của Đảng được hiểu là
đổi mới tư duy chính trị về CNXH; đổi mới cơ cấu tổ chức và cơ chế vận
hành của hệ thống chính trị, trước hết là đổi mới phương thức lãnh đạo của


10
Đảng; đổi mới, nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước XHCN nhằm giữ
vững ổn đinh chính trị để xây dựng chế độ XHCN ngày càng vững mạnh;
thực hiện tốt nền dân chủ XHCN nhằm phát huy đầy đủ quyền làm chủ của
nhân dân trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN và phát triển
kinh tế-xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
2.2. Quan điểm của Đảng ta về đổi mới kinh tế kết hợp với đổi mới
chính trị
Giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là một
nội dung cốt lõi quan trọng trong các quan điểm, đường lối, chính sách của
Đảng ta từ khi đổi mới đến nay. Sự nhận thức và giải quyết đúng đắn vấn đề
này của Đảng cũng là khâu đột phá trong tư duy và thực tiễn lãnh đạo sự
nghiệp đổi mới của Đảng.
Thời kỳ trước đổi mới, về nhận thức, chúng ta đã nhấn mạnh quá mức
vai trò kiến trúc thượng tầng, coi chính trị là thống soái, quyết định kinh tế và

tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; chưa đánh giá đúng vai trò của kinh tế
trong quan hệ với chính trị. Về cơ chế, chúng ta cũng nhận thức một cách đơn
giản về tác động của kiến trúc thượng tầng chính trị đối với cơ sở kinh tế.
Chính trị can thiệp quá sâu vào các quá trình kinh tế - xã hội bằng hệ thống
những mệnh lệnh chủ quan của các cơ quan quản lý các cấp. Và thiết chế, bộ
máy hành chính còn quan liêu, cửa quyền, cồng kềnh, kém hiệu quả.
Từ khi đổi mới đến nay, về quan điểm Đảng ta chủ trương “Kết hợp
ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm
trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị”1. Đây là nhận thức đúng cả
về mặt lý luận cả về mặt thực tiễn.
Trong quá trình đổi mới, Đảng ta cho rằng ổn định chính trị không có
nghĩa là bảo thủ, trì trệ, ngược lại nó có vai trò quan trọng đảm bảo điều kiện
cho các lĩnh vực khác phát triển, làm cho quá trình đổi mới trở nên toàn diện


11
hơn. Ổn định chính trị cũng đồng thời góp phần tăng cường vai trò lãnh đạo
của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân
dân trong quá trình đổi mới đất nước.
Để giữ vững ổn định chính trị, tư tưởng trong Đảng và trong nhân dân,
Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương khoá VI (3-1989) quyết định
các nguyên tắc cơ bản để chỉ đạo toàn bộ quá trình đổi mới theo đúng định
hướng XHCN: “Đổi mới tư duy là nhằm khắc phục những quan niệm không
đúng, làm phong phú những quan niệm đúng về thời đại, về chủ nghĩa xã hội,
vận dụng sáng tạo vào phát triển chứ không phải xa rời những nguyên lý của
chủ nghĩa Mác - Lênin”.
Hiện nay, công cuộc đổi mới quan điểm chính trị về kinh tế và đổi mới
kinh tế nói chung đang thực sự bước vào một giai đoạn mới. Những yêu cầu
về đổi mới quan điểm phát triển kinh tế và đổi mới kinh tế đang đòi hỏi phải
có những đột phá mới. Mặc dầu những tư tưởng, quan điểm được Đại hội VI

và các Đại hội tiếp theo của Đảng nêu ra có tính chất bước ngoặt, phá vỡ cơ
chế kế hoạch hóa tập trung, xóa bỏ bao cấp, bước đầu chấp nhận kinh tế thị
trường và sở hữu cá thể, nhưng tính chất đồng bộ, toàn diện và triệt để của
những quan điểm mới vẫn còn bị hạn chế. Đổi mới kinh tế và đổi mới chính
trị hiện nay sẽ không còn đầy đủ và triệt để, sẽ không đồng bộ và toàn diện,
nếu chỉ dừng lại ở việc đa dạng hoá các hình thức sở hữu, các khu vực kinh
tế, xoá bỏ bao cấp và thay thế cơ chế kế hoạch hoá tập trung, mệnh lệnh, bao
cấp bằng cơ chế kinh tế thị trường chưa phát triển đầy đủ và đồng bộ. Thực
tiễn đời sống xã hội đang đòi hỏi phải đổi mới mạnh mẽ hơn nữa trong các
lĩnh vực, như phân phối, quản lý và điều hành nền sản xuất, xã hội. Đòi hỏi
này được thể hiện bằng hàng loạt những vấn đề đang được đặt ra một cách
cấp thiết trên bình diện xã hội: cải cách chế độ tiền lương, thực hiện công


12
bằng xã hội, đổi mới phương thức quản lý đời sống kinh tế, xã hội (quản lý hộ
khẩu, thuế thu nhập cá nhân, bất động sản, lao động,v.v.).
Mặt khác, sự phát triển kinh tế trong hơn hai thập kỷ đổi mới vừa qua
cũng đòi hỏi phải đổi mới mạnh mẽ hơn nữa trên lĩnh vực chính trị, trong đó
có cả những lĩnh vực, những vấn đề mà, từ trước đến nay, hầu như chưa động
chạm đến nhiều. Thực tiễn đời sống xã hội đang bức xúc về những vấn đề,
như cải cách hành chính, dân chủ hoá, tổ chức lại bộ máy chính phủ và hệ
thống chính quyền các cấp, đổi mới hệ thống chính trị, đổi mới phương thức
lãnh đạo của Đảng và quan hệ Đảng – Nhà nước – các đoàn thể chính trị, xã
hội, v.v.. Tính bức xúc đòi hỏi phải đổi mới hệ thống chính trị xuất phát trước
hết từ nhu cầu phát triển và đổi mới kinh tế đã diễn ra trong hơn 28 năm qua
tích tụ lại. Sự bất cập, thiếu đồng bộ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị
đã gây ảnh hưởng kìm hãm sự phát triển và đổi mới tiếp tục tiến xa hơn nữa.
Trên một góc độ khác, mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới
chính trị, như đã nói, lại có quan hệ gắn bó với nhu cầu nội tại của sự phát

triển tiếp theo của đất nước. Thực tiễn đổi mới kinh tế đang đòi hỏi đổi mới
chính trị phải nới lỏng hơn nữa, phải tháo gỡ những trói buộc của các quan
điểm chính trị, các chính sách, thiết chế, cơ chế hoạt động, tổ chức bộ máy…
Nhu cầu đổi mới hệ thống chính trị, các tư tưởng, quan điểm, tâm lý chính trị,
những thiết chế và cơ chế hoạt động của các tổ chức chính trị, đặc biệt là của
bộ máy nhà nước, để mở đường cho kinh tế và xã hội phát triển bền vững
luôn là một nhu cầu khách quan xuất phát từ sự phát triển xã hội.
Đòi hỏi đổi mới chính trị hiện nay được tích tụ nhiều năm trong quá
trình đổi mới được thể hiện ở nhiều vấn đề, trong nhiều lĩnh vực và với các
mức độ, quy mô khác nhau. Nhưng, tựu trung lại, dưới dạng tổng quát, cô
đọng và tập trung nhất là đổi mới nhận thức về chủ nghĩa xã hội và những đặc
điểm của thời đại ngày nay. Mọi sự ràng buộc, lệ thuộc, thậm chí có thể nói,


13
tình trạng nô lệ cho những quan điểm và thể chế cũ đang là xiềng xích trói
buộc đổi mới chính trị và kìm hãm đổi mới kinh tế ở Việt Nam. Nhìn lại cuộc
thảo luận vấn đề đảng viên làm kinh tế tư nhân ngay trước Đại hội XI của
Đảng vừa qua, chúng ta có thể thấy rõ tình trạng này. Hàng loạt vấn đề khác
được thảo luận sôi nổi thời gian qua, như quản lý hộ khẩu, các thủ tục hải
quan, thuế thu nhập cá nhân, quản lý bất động sản, cải cách thủ tục hành
chính, tổ chức lại bộ máy hành pháp các cấp, cơ chế và quan hệ Đảng - Nhà
nước – các đoàn thể chính trị – xã hội,… đang là những vấn đề bức xúc của
đời sống chính trị – xã hội. Đó là những bức xúc thể hiện nhu cầu nội tại của
sự phát triển kinh tế – xã hội trong nhiều năm qua.
Trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế của Việt Nam hiện
nay, không chỉ đổi mới kinh tế, mà cả đổi mới chính trị ngày càng trở thành
nhu cầu bức xúc hơn. Toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế thúc đẩy mạnh mẽ
nhu cầu đổi mới nội tại, đồng thời tạo cơ hội cho đổi mới kinh tế và chính trị
rộng lớn hơn, đồng bộ và toàn diện hơn, sâu sắc và triệt để hơn. Sự tác động

ấy, một mặt, trực tiếp buộc chúng ta phải thay đổi một số thể chế, luật pháp,
quy trình thực hiện, quan điểm và phương pháp đánh giá các vấn đề kinh tế,
xã hội, v.v.. Mặt khác, nó thúc đẩy nhu cầu nội tại, bên trong của Việt Nam về
đổi mới một cách mạnh mẽ hơn. Đổi mới ở giai đoạn hiện nay và sắp tới gắn
bó chặt chẽ và chịu tác động của toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế lớn hơn
nhiều so với khi chúng ta bắt đầu đổi mới năm 1986. Nhu cầu đổi mới cả kinh
tế lẫn chính trị đòi hỏi phải có những đột phá căn bản. Nếu như ở giai đoạn
trước đây, đổi mới cả kinh tế lẫn chính trị đã động chạm đến phần ngoài thì
sắp tới, đổi mới buộc phải động chạm đến phần nhân lõi: hệ thống chính trị,
phương thức phân phối, công bằng xã hội, dân chủ và văn minh,…, bởi nó
trực tiếp động đến nền tảng chính trị và kinh tế của toàn xã hội và của các bộ
phận dân cư nhạy cảm nhất.


14
Điều đó khiến cho công cuộc đổi mới ở giai đoạn sắp tới phức tạp hơn,
khó khăn hơn. Trước đây, khi bắt đầu đổi mới, xã hội trong trạng thái khủng
hoảng, các tầng lớp dân cư đều có nhu cầu bức thiết về đổi mới với mức độ
tương đồng, do đó dễ dàng thống nhất mục tiêu, biện pháp. Việc khởi xướng
đổi mới tư duy, trước hết là đổi mới tư duy kinh tế, dễ dàng nhận được sự
đồng thuận xã hội rộng rãi và sâu sắc. Tình hình hiện nay không hoàn toàn
giống như hơn 20 năm trước đây. Phân tầng xã hội trong hơn 20 năm qua tạo
nên những lợi ích và nhu cầu khác nhau đối với giai đoạn tiếp theo của đổi
mới. Giai đoạn tiếp theo cũng không thể chỉ xác định trọng tâm duy nhất của
đổi mới chỉ là đổi mới kinh tế. Bối cảnh quốc tế cũng như những đòi hỏi nội
tại của xã hội đang yêu cầu đổi mới trong giai đoạn tiếp theo phải xem đổi
mới chính trị như một trong những trọng tâm quan trọng để thúc đẩy đổi mới
kinh tế. Hơn nữa, đó phải là những đổi mới quan điểm một cách căn bản, đột
phá để tạo nên bước phát triển nhảy vọt nhưng vững chắc. Đổi mới kinh tế
vẫn phải đồng hành với đổi mới chính trị, nhưng đổi mới chính trị trong giai

đoạn tới phải được chú trọng và nhấn mạnh hơn để tạo ra những bước đột phá
mới, căn bản. Nếu không có những bước đột phá căn bản, mới trong đổi mới,
Việt Nam vẫn có thể phát triển đều và ổn định, nhưng sẽ không rút ngắn được
khoảng cách tụt hậu so với các nước phát triển cao. Điều này đã được các nhà
lãnh đạo và các học giả, quần chúng nhân dân nhận thức rõ. Đây sẽ là lực
lượng và động lực quan trọng cho giai đoạn đổi mới tiếp theo.
Như vậy, trong giai đoạn tiếp theo vẫn phải là đổi mới trước hết các
quan điểm, quan niệm về con đường, phương thức phát triển nhưng không
còn thuần túy là phương thức phát triển kinh tế. Đổi mới sẽ phải là đổi mới
đồng bộ hơn, cả kinh tế lẫn chính trị, trong đó đổi mới chính trị phải được chú
trọng nhiều hơn, đụng chạm trực tiếp nhiều hơn đến những vấn đề của hệ
thống chính trị, như tổ chức bộ máy nhà nước các cấp, cơ chế hoạt động của
hệ thống chính trị, các quan điểm và cơ chế thực hiện công bằng, dân chủ,…
Đó là một đòi hỏi khách quan của xu thế phát triển chung của đất nước trong


15
bối cảnh mới nói chung và của đổi mới trong giai đoạn hiện nay nói riêng.
Đòi hỏi đó buộc chúng ta phải suy ngẫm, tìm tòi để phát hiện ra mắt xích then
chốt cần đổi mới hiện nay là gì. Đó là những nhận định chung, tổng quát, bao
trùm về những nét chung và chính yếu nhất, là bức tranh chung về quan hệ
đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, trên
thực tế, chúng ta thấy tương quan giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị
trong những nét chi tiết đang diễn biến rất đa dạng và đa chiều cả trong nhận
thức lẫn trong hiện thực.
Về mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, Hội nghị lần
6 Ban Chấp hành Trung ương khoá VI đã chỉ rõ: “Chúng ta tập trung sức làm
tốt đổi mới kinh tế, đồng thời từng bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt
động của các tổ chức chính trị. Không thể tiến hành cải cách hệ thống chính
trị một cách vội vã khi chưa đủ căn cứ, mở rộng dân chủ không có giới hạn,

không có mục tiêu cụ thể và không đi đôi với tập trung thì dẫn đến sự mất ổn
định về chính trị, gây thiệt hại cho sự nghiệp đổi mới” 2. Một bước đi cực kỳ
đứng đắn và thể hiện được bản lĩnh chính trị của Đảng ta biểu hiện bằng nghị
quyết hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương khoá VI (8-l989) về
công tác tư tưởng trong bối cảnh quốc tế vô cùng phức tạp khi đó: "Chế độ
chính trị của chúng ta là chế độ làm chủ của nhân dân lao động dưới sự lãnh
đạo của Đảng... Chúng ta không chấp nhận chủ nghĩa đa nguyên chính trị,
không để cho các tổ chức chống đối chủ nghĩa xã hội ra đời và hoạt động,
không coi việc thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần là thực hiện chủ
trương đa nguyên về kinh tế” 3.
Chủ trương giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế với đổi mới
chính trị được tiếp tục nhấn mạnh trong văn kiện Đại hội đại biểu Đảng toàn
quốc lần thứ VII: “Phải tập trung sức làm tốt đổi mới kinh tế, đáp ứng những
đòi hỏi cấp bách của nhân dân về đời sống, việc làm và các nhu cầu xã hội
khác, xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, coi đó là điều
kiện quan trọng để tiến hành thuận lợi đổi mới trong lĩnh vực chính trị. Đồng


16
thời với đổi mới kinh tế, phải từng bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt
động của hệ thống chính trị, phát huy ngày càng tốt quyền làm chủ và năng
lực sáng tạo của nhân dân trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã
hội” 4. Kinh nghiệm thành công của sự kết hợp đổi mới kinh tế và đổi mới
chính trị được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng khẳng định:
“Kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi
mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị”5.
Đó là những quan điểm đúng đắn của Đảng ta phù hợp với nhu cầu và
nguyện vọng của nhân dân lao động, những quan điểm này tiếp tục được
khẳng định trong các kỳ Đại hội IX, X với mục tiêu: “đổi mới toàn diện,
đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp. Phải đổi mới

từ nhận thức, tư duy đến hoạt động thực tiễn; từ kinh tế, chính trị, văn hóa,
đối ngoại đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; từ hoạt động lãnh đạo
của Đảng, quản lý của nhà nước đến hoạt động cụ thể trong từng bộ phận của
hệ thống chính trị”6. Đại hội XI của Đảng đã đưa ra quan điểm về đổi mới
kinh tế với đổi mới chính trị: “Đổi mới chính trị phải đồng bộ với đổi mới
kinh tế theo lộ trình thích hợp, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường xã hội chủ nghĩa, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, mở rộng dân chủ trong Đảng và
trong xã hội gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương..”7.
Như vậy, về đổi mới kinh tế, Đại hội XI của Đảng tập trung vào đổi mới
để hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường XHCN. Để hoàn thiện thể chế kinh tế
thị trường XHCN, Đại hội XI của Đảng chủ trương: Đảng ta coi hoàn thiện
thể chế kinh tế thị trường đồng bộ và hiện đại là tiền đề quan trọng thúc đẩy
quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, ổn định kinh
tế vĩ mô; đổi mới việc xây dựng và thực thi luật pháp cho cạnh tranh bình
đẳng, minh bạch, giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế; đổi


17
mới công tác quy hoạch, kế hoạch, điều hành phát triển kinh tế theo cơ chế thị
trường; chú ý đặc biệt trong việc thực hiện chính sách tài chính, tiền tệ bảo
đảm phát triển lành mạnh nền kinh tế; tạo lập đồng bộ và vận hành thông suốt
các loại thị trường: Thực hiện tốt năm giải pháp này sẽ góp phần trực tiếp
hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường XHCN. Đây là nhiệm vụ trọng tâm của
đổi mới kinh tế giai đoạn này.
Về đổi mới chính trị, Đại hội XI của Đảng tập trung 3 yếu tố cơ bản,
trọng yếu là đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; xây dựng Nhà nước
pháp quyền XHCN; mở rộng dân chủ trong Đảng và trong xã hội gắn với tăng
cường kỷ luật, kỷ cương. Đây là balĩnh vực cơ bản, trọng yếu mang tính đột
phá trong đổi mới chính trị. Trong đó, đổi mới phương thức lãnh đạo của

Đảng là cấp thiết và hàng đầu.
Về đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, Đại hội XI chủ trương: rà
soát, bổ sung, điều chỉnh, ban hành mới, xây dựng đồng bộ hệ thống các quy
chế, quy định, quy trình công tác để đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng
đối với hoạt động của hệ thống chính trị; khắc phục tình trạng Đảng bao biện
làm thay, hoặc buông lỏng lãnh đạo các cơ quan quản lý nhà nước; đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
nhân dân; đổi mới phong cách, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo của
Đảng từ trung ương đến địa phương cơ sở; cải cách thủ tục hành chính trong
Đảng; , đổi mới cách ra nghị quyết, tổ chức thực hiện nghị quyết, kiểm tra, sơ
kết, tổng kết việc thực hiện nghị quyết.
Đối với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, Đại hội XI của
Đảng chủ trương: nâng cao nhận thức về xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN; tiếp tục đối mới tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước; xây dựng
đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực đáp ứng yêu cầu trong tình
hình mới; tích cực thực hành tiết kiệm, phòng ngừa và kiên quyết chống tham
nhũng, lãng phí.


18
Đối với việc mở rộng dân chủ trong Đảng và trong xã hội gắn với tăng
cường kỷ luật, kỷ cương. Đại hội XI chủ trương: tiếp tục xây dựng và hoàn
thiện nền dân chủ XHCN, trước hết là thực hiện dân chủ trong Đảng; có cơ
chế cụ thể để nhân dân thực hiện quyền làm chủ trực tiếp của mình, chống tập
trung, quan liêu, khắc phục dân chủ hình thức; phát huy dân chủ đi đôi với đề
cao trách nhiệm công dân, kỷ luật, kỷ cương; phê phán, nghiêm trị hành vi vi
phạm quyền làm chủ của nhân dân, những hành vi lợi dụng dân chủ vì mục
đích xấu. Điều quan trọng là Đại hội XI của Đảng nhấn mạnh phải lấy mục
tiêu xây dựng nước Việt Nam XHCN dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh “làm tiêu chuẩn cao nhất để đánh giá hiệu quả của quá trình

đổi mới và phát triển”8 nói chung, đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở nước
ta nói riêng. Tiêu chí này chỉ rõ mục đích của đổi mới kinh tế và đổi mới
chính trị của Đảng ta.
2.3. Những thành tựu trong quá trình đổi mới của Đảng ta
Trong những năm đổi mới, sự kết hợp hài hòa giữa đổi mới kinh tế và
đổi mới chính trị đã đem lại bước chuyền biến tích cực đối với đời sống kinh
tế, chính trị, xã hội của đất nước, với những thành tựu nổi bật là:
Thứ nhất, thành công lớn nhất và quan trọng nhất có ý nghĩa sống còn
đối với dân tộc Việt Nam là chúng ta tiến hành quá trình đổi mới không phải
bắt đầu từ việc “đổi mới” trong lĩnh vực chính trị như ở Liên Xô và các nước
XHCN khác ở Đông Âu, cũng không đồng thời “đổi mới” ngay lập tức cả hai
lĩnh vực chính trị lẫn kinh tế. Chúng ta rất tỉnh táo và đủ bản lĩnh giữ vững ổn
định chính trị, giữ vững sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản để làm trục đỡ chính
trị cho việc điều chỉnh và đổi mới kinh tế.
Thứ hai, nhờ có định hướng chính trị rõ ràng, bằng các chính sách
chuyển đổi cơ chế và cơ cấu phù hợp với yêu cầu khách quan của thực tiễn,
kinh tế của nước ta tăng trưởng vượt bậc, đời sống của nhân dân được cải
thiện rỡ rệt. Người dân tin tưởng vào đường lối đổi mới khi nhận thấy lợi ích
của mình được đảm bảo. Nhờ có tư duy mới và dựa vào lợi ích của nhân dân


19
nên đường lối đổi mới đã gắn chặt với thực tiễn đất nước, mang “hơi thở”
cuộc sống. Bằng các chủ trương, chính sách vừa có tính định hướng, vừa cụ
thể thiết thực, đường lối đổi mới của Đảng đã đi vào cuộc sống, tạo tiền đề để
giải phóng sức sản xuất xã hội, phát huy tinh thần sáng tạo, tính tích cực
chính trị của nhân dân. Nhân dân chủ động tham gia vào đời sống kinh tế, đời
sống chính trị để xây dựng, phát triển kinh tế, bảo vệ chế độ đã, đang đảm bảo
lợi ích cho họ. Nhờ vậy, “Sau 20 năm hiện Cương lĩnh, chúng ta đã giành
được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đất nước thực hiện thành

công bước đầu công cuộc đổi mới, ra khỏi tình trạng kém phát triển; đời sống
nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn
dân tộc được củng cố, tăng cường”9.
Bên cạnh những thành công vừa nêu trên, việc vận dụng và xử lý mối
quan hệ biện chứng giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị của chúng ta
còn có nhiều đem cần phải cố gắng hoàn thiện hơn nữa. Đổi mới là cả một
quá trình lâu dài và phức tạp do thực tiễn luôn vận động và thay đổi. Đường
lối đổi mới và định hướng đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị của Đảng cần
phải khẳng định là đúng đắn, tuy nhiên vấn đề lại là hiệu quả của việc thực thi
đường lối đó trên từng giai đoạn cụ thể, trong từng cách làm cụ thể, của từng
mối quan hệ cụ thể. Đại hội XI của Đảng thắng thắn nhìn nhận về hạn chế
trong đổi mới chính trị so với đổi mới kinh tế: “Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc chưa được phát huy đầy đủ. Công tác
xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đổi mới,
nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân
chuyển biến chậm”10; “Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
chưa theo kịp yêu cầu phát triển kinh tế và quản lý đất nước”11; “công tác xây
dựng Đảng còn nhiều hạn chế, yếu kém, chậm được khắc phục”12 . Những hạn
chế của đổi mới chính trị trong mọi quan hệ với đổi mới kinh tế này đã cản
trở quá trình đổi mới kinh tế, thậm chí kìm hãm kinh tế phát triển. Vấn đề đổi


20
mới chính trị chưa thực sự có hiệu quả một phần do chúng ta chưa làm rõ và
phân định dứt khoát chức năng lãnh đạo của Đảng với chức năng quản lý của
Nhà nước. Mặt khác, trong đổi mới chính trị chúng ta mới chỉ tập trung nhấn
mạnh ý nghĩa của đổi mới tư duy về chính trị chứ chưa thực sự tiến hành đổi
mới ở con người chính trị, chủ thể hoạt động chính trị và cơ chế hoạt động có
hiệu quả của hệ thống chính trị. Do vậy, để đất nước phát triển hơn nữa cần
tiếp tục nhận thức và giải quyết tốt mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi

mới chính trị. Đây cũng là thực chất, yêu cầu, nội dung của một trong tám
mối quan hệ lớn trong thời kỳ quá độ lên CNXH nước ta mà Đảng ta đã đề ra
cần giải quyết đúng đắn.
KẾT LUẬN

Qua quá trình Đảng lãnh đạo đất nước từ trước năm 1986, chúng ta
thấy rằng tình hình nước ta nói riêng và các nước XHCN nói chung đã có thời
gian khá dài do tuyệt đối hóa vai trò của đường lối chính trị, duy trì quá lâu cơ
chế tập trung quan liêu bao cấp đã dẫn đến sự kiềm hãm sự phát triển kinh tế
và dẫn đến khủng hoảng trầm trọng. Chúng ta đã hành động trái quy luật
“kinh tế quyết định chính trị” khi cho rằng mâu thuẫn nổi lên ở đầu thời kỳ
quá độ là mâu thuẫn giữa chế độ chính trị tiên tiến với quan hệ sản xuất lạc
hậu, do đó phải đẩy mạnh cải tạo quan hệ sản xuất (mà trong đó chủ yếu là cải
tạo xóa bỏ các thành phần kinh tế phi XHCN) nhằm làm cho quan hệ sản xuất
phù hợp với chế độ chính trị tiên tiến. Từ đó nảy sinh ra mâu thuẩn chủ yếu
giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất , nhiệm vụ công nghiệp hóa
được đẩy lên một cách duy ý chí trong khi chưa có đủ các tiền đề cần thiết.
Từ những sai lầm về đường lối chỉ đạo này, dẫn đến nền kinh tế chậm phát
triển, xã hội rơi vào khủng hoảng. Rút kinh nghiệm từ những thất bại ấy, bắt
đầu từ Đại hội Đảng lần VI, Đảng ta đã vận dụng sáng tạo hài hòa giữa 2
khuynh hướng tác động của chính trị với kinh tế để đề ra công cuộc đổi mới


21
đất nước toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Thực hiện đổi
mới kinh tế và đổi mới chính trị, Đảng ta khẳng định phải “Kết hợp chặt chẽ
ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị” xuất phát từ quan điểm của
chủ nghĩa Mác-Lênin : giữa kinh tế và chính trị có mối quan hệ biện chứng,
phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị. Đổi
mới kinh tế nhằm giải phóng lực lượng sản xuất, phát huy mọi tiềm năng

trong xã hội để tạo ra năng suất cao, hàng hóa nhiều đáp ứng nhu cầu cần thiết
của nhân dân, tạo ra cơ sở vững chắc để đổi mới chính trị. Ngược lại đổi mới
chính trị sẽ củng cố và phát huy những thành tựu của đổi mới về kinh tế, tuy
bước đi của từng lĩnh vực có khác nhau nhưng trong bất kỳ trường hợp nào
cũng phải đảm bảo sự ổn định về chính trị, tránh tình trạng hỗn loạn như đã
xảy ra ở một số nước trong thời gian qua. Để làm được điều đó đòi hỏi chúng
ta phải nắm vững mối quan hệ biện chứng giữa chính trị với kinh tế và vận
dụng đúng đắn mối quan hệ đó là một trong những vấn đề có ý nghĩa quan
trọng trong công cuộc đổi mới của nước ta hiện nay. Từ những phân tích trên
ta thấy rằng bài học do Đảng ta nêu “Kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới
kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời
từng bước đổi mới chính trị” đó chính là nắm vững và vận dụng đúng đắn mối
quan hệ biện chứng giữa chính trị với kinh tế theo chủ nghĩa Mác-Lênin vào
trong thực tiễn. Chính từ sự định hướng đúng đắn ấy cho nên sau gần 30 năm
đổi mới, chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn và giữ vững sự ổn định
chính trị, tạo đà cho kinh tế phát triển nhanh, đúng hướng và bền vững.


22

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, H.1996, tr.71.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp
hành Trung ương, khóa VI.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy, Ban Chấp
hành Trung ương, khóa VI, tr.17.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VII, Nxb Chính trị quốc gia, H.1991, tr.54.



23
5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, H.1996, tr.14.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, H.2006, tr.70.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tr.99-100.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tr.100.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tr.20.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tr.179.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tr.171.
12. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tr.172.



×