Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

SỰ THỐNG NHẤT và KHÁC BIỆT GIỮA CƯƠNG LĨNH đầu TIÊN của ĐẢNG và CƯƠNG LĨNH THÁNG 10 năm 1930

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (207.14 KB, 30 trang )

1
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1.

Hoàn cảnh ra đời của Cương lĩnh chính trị đầu tiên

2
3

2.

của Đảng và Luận cương chính trị tháng 10 năm 1930.
Nội dung cơ bản của Cương lĩnh chính trị đầu tiên

8

2.1.
2.2.
3

của Đảng và Luận cương chính trị tháng 10/1930.
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
Luận cương chính trị tháng 10/1930.
Sự thống nhất và khác biệt giữa Cương lĩnh đầu tiên

8
10
12


3.1.

của Đảng và Luận cương Chính trị tháng 10/1930.
Sự thống nhất giữa Cương lĩnh đầu tiên của Đảng và

12

3.2.

Luận cương chính trị tháng 10/1930.
Sự khác biệt giữa Cương lĩnh đầu tiên của Đảng và

22

Luận cương chính trị tháng 10/1930.
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

29
30

MỞ ĐẦU

Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, phong trào yêu nước chống thực dân
Pháp xâm lược của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của ý thức hệ phong kiến và
tư sản đã hoàn toàn thất bại do thiếu một đường lối đúng đắn, một giai cấp


2
lãnh đạo tiên tiến. Nhiệm vụ lịch sử đặt ra cho các thế hệ yêu nước đương thời

là cần phải có một tổ chức cách mạng tiên phong, một đường lối cứu nước
đúng đắn để giải phóng dân tộc.
Sau quá trình chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức của đồng chí
Nguyễn Ái Quốc, ngày 3 tháng 2 năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời.
Sự kiện đó đã đưa cách mạng Việt Nam thoát khỏi sự bế tắc, khủng hoảng về
đường lối, mở ra bước ngoặt vĩ đại cho dân tộc. Tại Hội nghị thành lập Đảng
đã thông qua chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt do đồng chí Nguyễn Ái
Quốc soạn thảo (sau này gọi là cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng). Tiếp
đó tháng 10/ 1930, Hội nghị lần thứ nhất Ban chấp hành Trung ương Đảng đã
được triệu tập. Hội nghị đã thông qua Luận cương chính trị của đồng chí Trần
Phú. Tuy có sự khác biệt trên một số vấn đề nhưng cả hai văn kiện đều đã
xác định rõ con đường của cách mạng Việt Nam là con đường cách mạng vô
sản theo gương cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại. Đây là hai văn kiện đặt
nền móng cho sự hình thành đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
của Đảng. Trên cơ sở đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã từng bước bổ sung,
phát triển và hoàn thiện đường lối đó. Xuất phát từ vị trí, vai trò của hai văn
kiện tác giả chọn đề tài “Sự thống nhất và khác biệt giữa Cương lĩnh đầu
tiên của Đảng và Luận cương chính trị tháng 10/1930” làm tiểu luận. Qua
đó thấy rõ hơn tinh thần độc lập tự chủ, sáng tạo của Đảng ta trong việc vận
dụng lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin vào hoàn cảnh thực tiễn đất nước.
Đường lối đúng đắn đó đã đưa đến sự thắng lợi của dân tộc ta trước những kẻ
thù hùng mạnh là thực dân Pháp và đế quốc Mĩ, giải phóng miền Nam, thống
nhất đất nước, đưa nước ta chuyển sang giai đoạn thứ hai của cuộc cách
mạng, đó là cách mạng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
công bằng, dân chủ, văn minh.
NỘI DUNG

1. Hoàn cảnh ra đời của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng và
Luận cương chính trị tháng 10 năm 1930.



3
Vào cuối những năm 20, Bắc Kì là nơi có phong trào cách mạng phát
triển mạnh hơn cả so với các vùng khác trong cả nước. Tại đây, hai tổ chức Hội
Việt Nam cách mạng thanh niên và Việt Nam Quốc dân đảng đang ra sức hoạt
động nhằm lôi kéo và tranh giành quần chúng. Trong khi Việt Nam Quốc dân
đảng đang ngày càng tỏ ra lúng túng về phương thức hoạt động thì tổ chức Hội
Việt Nam cách mạng thanh niên hoạt động ngày càng có hiệu quả cao. Hơn thế
nữa, thông qua phong trào "vô sản hóa", và nhất là chịu tác động trực tiếp của
phong trào cộng sản qua con đường Trung Quốc dội vào, nhiều hội viên Thanh
niên tiên tiến - là những học trò xuất sắc của lãnh tụ Nguyễn Ấi Quốc - đã sớm
nắm bắt được các yêu cầu của thời cuộc và nhanh chóng nhận thấy sự cấp thiết
phải thành lập một Đảng Cộng sản để thay thế Hội Việt Nam cách mạng thanh
niên lãnh đạo và đưa phong trào cách mạng Việt Nam tiếp tục tiến lên.
Để xúc tiến chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản, tháng 3 năm 1929,
những hội viên tích cực nhất của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên Bắc Kì
đã nhóm họp tại số nhà 5D phố Hàm Long (Hà Nội), quyết định lập ra chi bộ
cộng sản đầu tiên gồm 7 người là Ngô Gia Tự, Nguyễn Đức Cảnh, Trịnh Đình
Cửu, Trần Văn Cung, Đỗ Ngọc Du, Dương Hạc Đính và Nguyễn Tuân.
Dưới sự lãnh đạo của chi bộ cộng sản, cuối tháng 3 năm 1929, Kì bộ Hội
Việt Nam cách mạng thanh niên đã họp đại hội tại Sơn Tây. Đại hội đã trao đổi
thảo luận nhiều ý kiến và đi tới thống nhất chủ trương thành lập Đảng Cộng
sản của những người lãnh đạo Kì bộ, đồng thời quyết định cử một đoàn đại
biểu gồm 4 người do Trần Văn Cung (Bí thư Ki bộ) phụ trách đi dự Đại hội lần
thứ nhất của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên sẽ tổ chức ở Hương Cảng.
Đầu tháng 5 năm 1929, tại Đại hội I của Hội Việt Nam cách mạng thanh
niên, Đoàn đại biểu Kì bộ Bắc Kì đã đưa ra đề nghị giải tán tổ chức Thanh
niên và thành lập Đảng Cộng sản. Nhưng đề nghị đó không được chấp nhận
nên Đoàn đại biểu Kì bộ Bắc Kì đã bỏ Đại hội ra về. Sau khi trở về nước, vào
ngày 1-6- 1929, Đoàn đại biểu Kì bộ Bắc Kì đã ra tuyên ngôn giải thích lí do



4
vì sao họ lại dời bỏ Đại hội, và chỉ rõ những điều kiện để thành lập một chính
đảng cách mạng của giai cấp công nhân đã chín muồi. Tuyên ngôn viết:
"1- Ở Việt Nam tư bản đã rất phát đạt và đã bắt đầu nhóm vào một số ít
người (tư bản tập trung).
2- Vô sản giai cấp ở Việt Nam càng ngày càng đông và càng giác ngộ;
nông dân nghèo cũng một ngày một nhiều.
3- Hiện nay ở Việt Nam chưa có đảng nào là đảng đại biểu cho vô sản
giai cấp".
Từ sự phân tích đó, bản Tuyên ngôn nhấn mạnh: "Phải tổ chức ngay
Đảng Cộng sản thì mới dẫn đạo cho vô sản giai cấp làm cách mệnh được”1
Tuyên ngôn của Đoàn đại biểu Kì bộ đã có sức thu hút mạnh đối với các
hội viên Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, nhiều hội viên đã hăng hái xin
gia nhập Chi bộ cộng sản. Để đáp ứng nhu cầu đó, ngày 17-6-1929 Đông
Dương Cộng sản đảng dược thành lập tại số nhà 312 phố Khâm Thiên (Hà
Nội), với sự tham dự của 20 đại biểu ưu tú của Kì bộ Thanh niên. Sau khi ra
đời, Đông Dương Cộng sản đảng cho công bố Tuyên ngôn, Điều lệ và phát
hành báo “Búa liềm” làm cơ quan tuyên truyền của Đảng. Bản Tuyên ngôn
nêu rõ Đông Dương Cộng sản đảng là Đảng đạỉ bỉểu cho giai cấp vô sản, bao
gồm những người giác ngộ và tiên tiến hơn cả. Đảng bênh vực quyền lợi cho
"toàn thể vô sản giai cấp, dân cày nghèo và tất cả những người làm lụng bị
bóc lột và đè nén"2.
Bên cạnh công tác tuyên truyền, Đông Dương Cộng sản đảng còn cử
người vào Nam Kì và đi về các địa phương để xây dựng và phát triển cơ sở
Đảng. Do đó, đến tháng 8 năm 1929, nhiều cơ sở Đảng, nhất là ở Bắc Kì đã
được thành lập.
Trước ảnh hưởng ngày càng sâu rộng của Đông Dương Cộng sản đảng,
Tổng bộ Thanh niên và Kì bộ Nam Kì đã quyết định thành lập An Nam Cộng

1
2

Các tổ chức tiền thân của Đảng, Sđd, tr. 147- 148.
Các tổ chức tiền thân của Đảng, Tuyên ngôn của Đông Dương Cộng sản Đảng, Sđd, tr. 148.


5
sản đảng vào tháng 7-1929. An Nam Cộng sản đảng xuất bản báo "Đỏ" ở
Hương Cảng, rồi gửi về nước để truyền bá trong nhân dân.
Cùng với quá trình phân hóa trong Hội Việt Nam cách mạng thanh niên
dẫn tới sự ra đời của hai tổ chức cộng sản, xu hướng xã hội chủ nghĩa ngày
càng lôi cuốn và tranh thủ được sự đồng tình ủng hộ của đại đa sổ đảng viên
Tân Việt. Các đại biểu Tân Việt chân chính họp tại Sài Gòn (9-1929), đã ra
"Tuyên đạt" chính thức lập ra Đông Dương Cộng sản liên đoàn.
Ngày 31-12-1929, một số đại biểu ưu tú của Tân Việt cách mạng đảng
như Trần Hữu Chương, Nguyễn Xuân Thanh, Nguyễn Khoa Văn, Trấn Đại
Quả, Ngô Đức Đệ, đã họp mặt trên một con thuyền trên sông Đò Trai (Đức
Thọ) để thảo luận và thông qua các văn kiện của Đông Dương Cộng sản liên
đoàn. Cuộc họp bị lộ, tất cả các đại biểu tham dự họp đều bị bắt, rồi đưa về
giam tại nhà lao Vinh. Đến đây, quá trình phân hóa trong nội bộ Tân Việt
cách mạng đảng coi như kết thúc.
Sự ra đời của ba tổ chức cộng sản vào nửa sau năm 1929 khẳng định
bước phát triển nhảy vọt của cách mạng Việt Nam. Nó chứng tỏ hệ tư tưởng
cộng sản đã giành được ưu thế trong phong trào dân tộc. Sự kiện đó cũng chỉ
ra rằng những điều kiện để thành lập Đảng Cộng sản đã hoàn toàn chín muồi
trong phạm vi cả nước.
Sau khi ra đời, ba tổ chức cộng sản đều tuyên bố ủng hộ Quốc tế Cộng sản
và đều tự nhận mình là đảng cách mạng chân chính. Tuy nhiên, trong quá trình
tuyên truyền, vận động quần chúng, các tổ chức cộng sản không tránh khỏi

tranh giành ảnh hưởng, công kích lẫn nhau. Đông Dương Cộng sản đảng cho
An Nam Cộng sản dảng là "hoạt đầu, giả cách mạng"; An Nam Cộng sản đảng
lại cho Đông Dương Cộng sản dảng chưa "thật sự là cộng sản", "chưa thật là
Bônsêvích"... Tình hình đó vừa gây tổn hại lớn cho sự phát triển của phong trào
cách mạng, vừa gây nên tâm trạng nghi ngờ hoang mang trong quần chúng.


6
Ngày 27-10-1929, Quốc tế Cộng sản đã gửi cho những người cộng sản
Đông Dương một bức thư, trong đó yêu cầu các tổ chức cộng sản phải chấm
dứt sự chia rẽ công kích lẫn nhau, đồng thời xúc tiến hợp nhất thành một
chính đảng duy nhất ở Đông Dương. Thực hiện chỉ thị của Quốc tế Cộng sản,
Đông Dương cộng sản Đảng đã cử đại diện sang Hương Cảng tiếp xúc và bàn
việc hợp nhất với An Nam cộng sản đảng. Trong các cuộc gặp gỡ, mỗi bên đã
đưa ra những yêu cầu mà bên kia không thể chấp nhận được. Kế hoạch hợp
nhất do hai đảng chủ động đề ra do đó đã không đạt kết quả.
Đúng vào thời điểm khó khăn, phức tạp ấy, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã
xuất hiện như một vị cứu tinh của cách mạng và phong trào cộng sản Việt
Nam. Sau vụ phản loạn của Tưởng Giới Thạch ở Trung Quốc, từ tháng 41927, Nguyễn Ái Quốc dời Quảng Châu sang Liên Xô và tiếp tục hoạt động
trong Quốc tế Cộng sản. Cuối năm 1927, Người qua Đức, Pháp, rồi trở về
Xiêm. Tại đây, Người ra sức tuyên truyền, giác ngộ và xây dựng các cơ sở
Hội Việt Nam cách mạng thanh niên trong kiều bào Việt Nam.
Đầu tháng Giêng năm 1930, trước nhu cầu cấp bách của phong trào cộng
sản trong nước, được sự ủy nhiệm của Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã
đến Hương Cảng để triệu tập hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản thành
một Đảng Cộng sản duy nhất ở Việt Nam.
Tại phiên họp ngày 3-2- 1930, dưới sự chủ trì của Nguyễn Ái Quốc, các
đại biểu đã nhất trí hợp nhất Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng
sản đảng thành Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng thời thông qua Chính cương
vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Điều lệ tóm tắt của Đảng.

Chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt,Chương trình tóm tắt và Điều lệ
vắn tắt do đồng chí Nguyễn Ái Quốc soạn thảo và thông qua tại Hội nghị thành
lập Đảng đã vạch ra phương hướng phát triển cơ bản của cách mạng Việt Nam,
từ cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Với ý


7
nghĩa đó, Chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt, chương trình tóm tắt và điều
lệ vắn tắt sau này được coi là cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
Vào những năm 1929- 1933, thế giới lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế
trầm trọng. Thực dân Pháp thi hành chính sách trút gánh nặng của cuộc khủng
hoảng lên vai của người dân các nước thuộc địa, trong đó có Việt Nam. Đời
sống của các giai cấp ở Việt Nam vốn đã khó khăn nay lại càng thêm khốn
đốn. Trước tình hình đó, Đảng Cộng sản Việt Nam tuy vừa mới ra đời nhưng
đã chứng tỏ khả năng lãnh đạo cách mạng bằng việc phát động một cao trào
mạnh mẽ. Đó là cao trào Xô viết Nghệ Tĩnh.
Giữa lúc phong trào cách mạng đang diễn ra sôi nổi, Ban chấp hành
Trung ương lâm thời của Đảng Cộng sản Việt Nam đã họp Hội nghị lần thứ
nhất tại Hương Cảng (Trung Quốc) vào 10/1930, chủ trì Hội nghị là đồng chí
trần Phú. Hội nghị quyết định đổi tên Đảng thành Đảng Cộng sản Đông
Dương, cử ra Ban chấp hành Trung ương chính thức do đồng chí Trần Phú
làm Tổng bí thư. Hội nghị cũng thông qua Luận cương Chính trị của Đảng
Cộng sản Đông Dương do đồng chí Trần Phú soạn thảo.
Như vậy từ Hội nghị thành lập Đảng (2/1930) đến 10/1930, Đảng đã
thông qua hai văn kiện là Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Nguyễn Ái Quốc
và Luận cương chính trị của Trần Phú. Cả hai văn kiện này đều vạch ra con
đường phát triển của cách mạng Việt Nam. Trên cơ sở của Cương lĩnh đầu
tiên và Luận cương Chính trị, cách mạng Việt Nam từng bước có sự kế thừa
và phát triển sáng tạo phù hợp với điều kiện thực tiễn Việt Nam, đưa cách
mạng đi đến thắng lợi cuối cùng.


2. Nội dung cơ bản của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng và
Luận cương chính trị tháng 10/1930.


8
2.1. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
* Chính cương vắn tắt của Đảng xác định các giai đoạn, đối tượng và
nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền ở Việt Nam:
Chính cương vắn tắt của Đảng nêu rõ chủ trương làm tư sản dân quyền
cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản. Tiến trình cách
mạng Việt Nam gồm hai giai đoạn, giai đoạn thứ nhất là tư sản dân quyền
cách mạng trong đó có nhiệm vụ thổ địa cách mạng và giai đoạn thứ hai là thế
giới cách mạng để đi tới xã hội cộng sản.
Chính cương vắn tắt khẳng định đế quốc và phong kiến đều là đối tượng
phải đánh đổ trong cách mạng dân tộc dân chủ, nhưng hai nhiệm vụ này
không thực hiện đồng loạt. Nhiệm vụ chống đế quốc, giải phóng dân tộc phải
đặt lên hàng đầu, còn nhiệm vụ chống phong kiến, đem lại ruộng đất cho dân
cày sẽ thực hiện từng bước, nhằm tập trung vào kẻ thù chính là bọn đế quốc
xâm lược và bọn phong kiến tay sai.
Chính cương vắn tắt chỉ rõ những nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam
trong giai đoạn tư sản dân quyền cách mạng về các phương diện xã hội, chính
trị và kinh tế.Chánh cương xác định, về phương diện xã hội là dân chúng
được tự do tổ chức, nam nữ bình quyền, phổ thông giáo dục theo công nông
hoá; về phương diện chính trị cách mạng Việt Nam có nhiệm vụ đánh đổ đế
quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, làm cho nước Nam được hoàn toàn
độc lập, dựng ra chính phủ công - nông binh, tổ chức ra quân đội công nông;
về phương diện kinh tế phải thu hết sản nghiệp lớn như công nghiệp, vận tải,
ngân hàng, v.v. của đế quốc Pháp giao cho Chính phủ công - nông binh quản
lý, thu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày

nghèo, v.v..
* “Sách lược vắn tắt của Đảng” đề ra đường lối tập hợp và lôi kéo quần chúng
Sách lược vắn tắt của Đảng gồm năm điểm, xác định Đảng là đội tiên
phong của giai cấp vô sản, phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình


9
và làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng. Đồng thời, Đảng phải thu
phục cho được đại bộ phận dân cày và phải dựa vào dân cày nghèo làm thổ địa
cách mạng, đánh trúc bọn đại địa chủ và phong kiến. Đảng phải hết sức liên lạc
với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, Thanh niên và Tân Việt, v.v. để kéo họ đi
vào phe giai cấp vô sản. Còn đối với bọn phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư
bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, rồi làm cho họ
đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng thì phải đánh đổ.
Xuất phát từ đường lối đã xác định trong Chánh cương vắn tắt, Sách
lược vắn tắt chủ trương thu hút rộng rãi các tầng lớp nhân dân, phát huy sức
mạnh đoàn kết rộng rãi của toàn dân tộc chống đế quốc. Đồng thời, Sách lược
vắn tắt vẫn nhấn mạnh nguyên tắc hợp tác giai cấp của Đảng, trong khi liên
lạc với các giai cấp, phải thận trọng, không nhượng bộ một chút lợi ích gì của
công nông mà đi vào con đường thoả hiệp. Đảng phải đồng thời tuyên truyền
và liên lạc với các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản thế giới, nhất là giai
cấp vô sản Pháp.
* Chương trình tóm tắt của Đảng nêu những nhiệm vụ quan trọng và
cấp bách của Đảng trong giai đoạn tư sản dân quyền cách mạng
Chương trình tóm tắt của Đảng cũng gồm năm điểm, trong đó xác định
những nhiệm vụ quan trọng và cấp bách về xây dựng Đảng; về tập hợp quần
chúng công nông chuẩn bị thổ địa cách mạng và lật đổ bọn địa chủ và phong
kiến; làm cho công nông thoát khỏi ách của tư bản; lôi kéo, tập hợp các tầng
lớp tiểu tư sản, tư sản bậc trung, trí thức và trung nông v.v., đánh đổ bọn phản
cách mạng v.v.; đoàn kết, hợp tác giai cấp nhưng không hy sinh lợi ích của

công nông; nêu khẩu hiệu "Việt Nam tự do"; đoàn kết với vô sản và các dân
tộc bị áp bức trên thế giới, nhất là vô sản Pháp.
* “Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam” quy định những vấn đề
quan trọng về mục tiêu, tổ chức, hoạt động và kỷ luật của Đảng


10
Điều lệ vắn tắt của Đảng xác định tên gọi, tôn chỉ mục đích, lệ vào Đảng,
hệ thống tổ chức, trách nhiệm đảng viên, quyền lợi đảng viên, các cấp uỷ
Đảng, kinh phí và kỷ luật của Đảng. Những vấn đề ghi trong Điều lệ vắn tắt
của Đảng đã xác định tính chất và nguyên tắc tổ chức của chính đảng mácxít
chân chính và cách mạng của giai cấp công nhân Việt Nam.
2.2. Luận cương chính trị tháng 10/1930.
Trên cơ sở phân tích một cách khoa học tình hình thế giới và trong nước,
đặc điểm xã hội và mâu thuẫn giai cấp ở Đông Dương, Luận cương chính trị
đã nêu rõ:
Một là, tính chất của cuộc cách mạng ở Đông Dương là cách mạng tư
sản dân quyền do giai cấp công nhân lãnh đạo, là thời kỳ dự bị để làm xã hội
cách mạng, bỏ qua thời kỳ tư bản chủ nghĩa phát triển tiến thẳng lên chủ
nghĩa xã hội. Nhiệm vụ của cách mạng Đông Dương thời kỳ đầu là đánh đổ
thực dân Pháp giành độc lập dân tộc và đánh đổ phong kiến mang lại ruộng
đất cho dân cày. Hai nhiệm vụ ấy quan hệ khăng khít và không thể tách rời
nhau: "có đánh đổ đế quốc chủ nghĩa mới phá được cái giai cấp địa chủ và
làm cách mạng thổ địa được thắng lợi; mà có phá tan chế độ phong kiến thì
mới đánh đổ được đế quốc chủ nghĩa".
Hai là, về lực lượng cách mạng, Luận cương xác định: Giai cấp vô sản
vừa là động lực chính vừa là giai cấp lãnh đạo nhân dân lao động đấu tranh.
Dân cày là động lực mạnh. Các phần tử lao khổ ở thành phố như người bán
rao, thủ công nghiệp nhỏ do đời sống cực khổ nên đều tham gia cách mạng.
Đối với các đảng phái quốc gia cải lương, Đảng ta kiên quyết vạch trần tính

chất nguy hiểm, lừa gạt và phá hoại phong trào cách mạng công nông của họ.
Đối với các đảng phái tiểu tư sản, Đảng có thể tạm thời hợp tác, với điều kiện
là họ phải thật sự chống đế quốc, không cản trở công tác tuyên truyền cộng
sản trong công nông.


11
Ba là, về phương pháp cách mạng, Luận cương chỉ rõ rằng, phải có
phương pháp cách mạng trong lúc bình thường và có phương pháp cách mạng
trong lúc có tình thế trực tiếp cách mạng. Khi có tình thế trực tiếp cách mạng
thì Đảng phải lãnh đạo quần chúng khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền.
"Võ trang bạo động không phải là một việc thường... phải theo khuôn phép
nhà binh".
Bốn là, về thời cơ khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền, Luận cương
viết: "Đến lúc sức cách mạng lên rất mạnh, giai cấp thống trị đã rung động,
các giai cấp đứng giữa đã muốn ngả về phe cách mạng, quần chúng công
nông thì sôi nổi cách mạng, quyết hy sinh phấn đấu thì Đảng phải lập tức lãnh
đạo quần chúng để đánh đổ chính phủ của địch và giành lấy chính quyền cho
công nông". Luận cương chính trị cũng nhắc nhở nguy cơ chiến tranh đế quốc
ngày càng gần, cho nên phải làm cho khẩu hiệu chống chiến tranh ăn sâu
trong quần chúng như khẩu hiệu: "Đổi chiến tranh đế quốc thành chiến tranh
cách mạng", "Phản đối binh bị" v.v... đồng thời tăng cường công tác vận động
binh lính địch, tổ chức đội tự vệ của công nông.
Năm là, về vai trò lãnh đạo của Đảng, Luận cương khẳng định: "Điều
kiện cốt yếu cho sự thắng lợi của cuộc cách mạng ở Đông Dương là cần phải
có một Đảng Cộng sản có một đường lối chánh trị đúng, có kỷ luật, tập trung,
mật thiết liên lạc với quần chúng, và từng trải đấu tranh mà trưởng thành.
Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp lấy chủ nghĩa Các Mác và Lênin
làm gốc mà đại biểu quyền lợi chánh và lâu dài chung cho cả giai cấp vô sản
ở Đông Dương và lãnh đạo vô sản giai cấp Đông Dương ra tranh đấu để đạt

được mục đích cuối cùng của vô sản là chủ nghĩa cộng sản".
Sáu là, Luận cương chính trị của Đảng chỉ rõ: Cách mạng Đông Dương
là một bộ phận khăng khít của cách mạng vô sản thế giới.
3. Sự thống nhất và khác biệt giữa Cương lĩnh đầu tiên của Đảng và
Luận cương Chính trị tháng 10/1930.


12
3.1. Sự thống nhất giữa Cương lĩnh đầu tiên của Đảng và Luận
cương chính trị tháng 10/1930.
* Cương lĩnh đầu tiên của Đảng và Luận cương chính trị tháng 10/1930
đều dựa trên cơ sở lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng
không ngừng của chủ nghĩa Mác- Lênin.
Sống trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, lý luận chủ
nghĩa Mác về cách mạng vô sản chỉ ra rằng: Cách mạng vô sản sẽ nổ ra và
giành thắng lợi ở những nước tư bản phát triển. Kế thừa và phát triển lý luận
của chủ nghĩa Mác trong thời đại chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn đế
quốc chủ nghĩa, V.I.Lênin khẳng định: Cách mạng vô sản có thể nổ ra và
thắng lợi ở một số nước, thậm chí là một nước riêng lẻ của chủ nghĩa đế quốc
(một mắt xích trong sợi dây chuyền). Thời V.I.Lênin, cách mạng giải phóng
dân tộc đã trở thành một bộ phận của cách mạng vô sản và ông cho rằng cuộc
đấu tranh của giai cấp vô sản ở chính quốc cần phải liên minh với cuộc đấu
tranh của các dân tộc bị áp bức ở các thuộc địa. Kế thừa và phát triển sáng tạo
quan điểm trên của C. Mác, Ăngghen, Lênin, Nguyễn Ái Quốc và Trần Phú
đã xác định con đường để giải phóng dân tộc Việt Nam không có con đường
nào khác là cách mạng vô sản. Nguyễn Ái Quốc khẳng định: Muốn cứu nước
và giải phóng dân tộc không còn con đường nào khác con đường cách mạng
vô sản. Tuy nhiên, cuộc cách mạng vô sản ở đây không phải chỉ là cuộc đấu
tranh giai cấp mà là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, cách mạng dân tộc,
dân chủ nhân dân, một phạm trù của cách mạng vô sản. Bởi vì mâu thuẫn chủ

yếu của Việt Nam lúc bấy giờ là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với chủ
nghĩa thực dân Pháp.
C. Mác- Ăngghen là những người đầu tiên nêu lên tư tưởng về cách
mạng không ngừng. Các ông quan niệm rằng: Cách mạng của giai cấp công
nhân phát triển không ngừng nhưng phải trải qua nhiều giai đoạn khác nhau
trong phạm vi một nước cũng như toàn thế giới . Mỗi giai đoạn có những yêu


13
cầu và nhiệm vụ cụ thể tạo tiền đề cho giai đoạn phát triển tiếp theo. Tư tưởng
đó thể hiện tính giai đoạn và tính liên tục của sự phát triển cách mạng.
Các ông còn chỉ ra rằng trong các quốc gia còn tồn tại chế độ quân chủ,
phong trào công nhân chưa đủ mạnh, lúc đầu giai cấp công nhân với tư cách
là lực lượng chính trị xã hội độc lập phải chủ động tích cực tham gia vào cuộc
cách mạng dân chủ do giai cấp tư sản lãnh đạo để đánh đổ chế độ quân chủ.
Sau đó giai cấp công nhân liên minh với các tầng lớp nhân dân lao động,
trước hết là nông dân chuyển sang đấu tranh chống lại giai cấp tư sản và các
thế lực đại diện cho chúng.
Trong lời kêu gọi của Uỷ ban Trung ương gửi Đồng minh những người
cộng sản năm 1850, C. Mác - Ăngghen viết: "Lợi ích của chúng ta là phải làm
cho cách mạng trở thành cách mạng không ngừng, cho đến khi tất cả các giai
cấp ít hay nhiều hữu sản đều bị gạt ra khỏi chính quyền nhà nước, cho đến khi
chẳng những ở một nước mà ở tất cả các nước thống trị trên thế giới, các hội
liên hiệp những người vô sản đã tiến bộ đến mức có thể chấm dứt sự cạnh
tranh giữa những người vô sản ở các nước đó, và ít nhất là tập trung những
lực lượng sản xuất quyết định vào tay mình"3 Hay C Mác còn nói: Chủ nghĩa
xã hội này là lời tuyên bố cách mạng không ngừng.Dựa trên tư tưởng cách
mạng không ngừng của C Mác – Ănghen, căn cứ vào điều kiện lịch sử mới:
chủ nghĩa tư bản chuyên thành chủ nghĩa đế quốc, giai cấp tư sản đã trở thành
giai cấp phản động bỏ rơi ngọn cờ dân chủ, tiến hành những cuộc chiến tranh

xâm lược, biến những nước lạc hậu thành thuộc địa của chúng. Trong phong
trào công nhân đã xuất hiện chủ nghĩa cơ hội, tư tưởng cách mạng không
ngừng của C Mác - Ăngghen đã bị họ phủ định, V. I. Lênin đã đấu tranh
chống lại những tư tưởng đó và phát triển tư tưởng cách mạng không ngừng
của C Mác - Ăngghen thành lý luận về sự chuyển biến cách mạng dân chủ tư
sản kiểu mới sang cách mạng xã hội chủ nghĩa.

3

C. Mác và Ăngghen, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.378, tập 4.


14
Xuất phát từ tình hình nước Nga vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là
nơi tập trung nhưng mâu thuẫn, là khâu yếu nhất trong dây chuyền của chủ
nghĩa đế quốc đã xuất hiện cùng một lúc tiền đề của hai cuộc cách mạng. Lênin
cho rằng: "Giai cấp công nhân Nga phải nắm lấy ngọn cờ cách mạng dân chủ
tư sản (hay còn gọi là cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới) tiến hành cách mạng
một cách triệt để, thực hiện chuyển biến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa”.
Cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới là màn mở đầu, là nhịp cầu để
chuyển lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới
và cách mạng xã hội chủ nghĩa là hai giai đoạn khác nhau nhưng cùng nằm
trong một quá trình vận động không ngừng, giữa chúng có sự gắn kết, không
có bức tường nào ngăn cách cả. Thắng lợi của cách mạng dân chủ nhân dân
tạo tiền đề cho cách mạng xã hội chủ nghĩa. Lênin còn chỉ ra những điều kiện
để thực hiện sự chuyển biến từ cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới lên cách
mạng xã hội chủ nghĩa:
Một là, giai cấp công nhân thông qua chính đảng của mình phải giữ vai
trò lãnh đạo trong suốt quá trình cách mạng
Hai là, phải củng cố, tăng cường khối liên minh công nông vững chắc

trong suốt qua trình cách mạng
Ba là, chuyên chính dân chủ cách mạng của giai cấp công nhân, nông
dân phải chuyển thực hiện nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản.
Trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin về cách mạng không ngừng,
Nguyễn Ái Quốc và Trần Phú đã vận dụng sáng tạo vào việc xác định nhiệm
vụ cho cách mạng Việt Nam. Đó là cả hai văn kiện đều chỉ rõ sau khi làm xong
cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng sẽ đi tới xã hội cộng sản.
Nghĩa là cùng một lúc cách mạng Việt Nam phải giải quyết hai vấn đề dân tộc
và dân chủ, đánh đế quốc và phong kiến giành độc lập cho dân tộc và ruộng đất
cho dân cày. Đây là điều hoàn toàn phù hợp với yêu cầu của cách mạng Việt
Nam và chứng tỏ Nguyễn Ái Quốc và những nhà cách mạng Việt Nam đã vận


15
dụng một cách sáng tạo lý luận về cách mạng không ngừng của chủ nghĩa MácLênin trong việc đề ra đường lối của cách mạng Việt Nam.
* Thống nhất về mục đích và đường lối chiến lược.
Trên cơ sở xác định rõ nước ta là một xứ thuộc địa, nửa phong kiến và
phân tích những chính sách kìm hãm sự phát triển kinh tế và thủ đoạn độc
quyền khai thác thuộc địa của tư bản Pháp, gây nên những hậu quả tai hại, cản
trở sự phát triển độc lập của kinh tế Việt Nam. Nông dân bị tước đoạt ruộng
đất, nhiều người bị lâm vào nạn thất nghiệp. Tình hình đó đưa đến mâu thuẫn
ngày càng gay gắt giữa một bên là dân tộc ta (trong đó có công nhân, nông
dân và toàn thể dân tộc) với một bên là đế quốc Pháp và tay sai của chúng.
Bên cạnh đó, còn nổi lên mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam - mà đa số là
nông dân - với bọn địa chủ phong kiến chung quanh vấn đề ruộng đất, người
dân cày hoàn toàn phụ thuộc vào địa chủ, bị trói chặt vào mảnh ruộng của giai
cấp địa chủ và bị bóc lột với tô thuế nặng nề.
Từ hai mâu thuẫn cơ bản trên cho thấy rằng nguyện vọng tha thiết và cấp
bách của dân tộc lúc này chính là đánh đổ đế quốc để giải phóng dân tộc,
giành độc lập tự do và đánh đổ phong kiến để giành dân chủ, giành ruộng đất

cho người cày. Chỉ có giải quyết 02 mâu thuẫn này thì xã hội Việt Nam mới
thoát khỏi áp bức, bóc lột, phát triển đi lên. Muốn giải quyết mâu thuẫn đó,
nhân dân Việt Nam phải làm "tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách
mạng để đi tới xã hội cộng sản". Cương lĩnh đầu tiên xác định: Đảng “chủ
trương làm tư sản dân quyền c.m và thổ địa c.m để đi tới xã hội cộng sản”.
“Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến. Làm cho nước Nam
được hoàn toàn độc lập. Dựng ra chính phủ công nông binh... Thâu hết sản
nghiệp lớn… của tư bản đế quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho Chính phủ công
nông binh quản lý. Thâu hết ruộng đất của đề quốc chủ nghĩa làm của công


16
chia cho dân cày nghèo”4. Luận cương chính trị 10/1930 cũng xác định:
“Trong lúc đầu, cuộc cách mạng Đông Dương sẽ là một cuộc cách mạng tư
sản dân quyền… Tư sản dân quyền cách mạng là thời kỳ dự bị để làm xã hội
cách mạng. Tư sản dân quyền cách mạng được thắng lợi, chánh phủ công
nông đã dựng lên rồi, thì công nghiệp được phát triển, các tổ chức vô sản
được thêm mạnh… xứ Đông Dương sẽ nhờ vô sản giai cấp chuyên chánh các
nước giúp sức cho mà phát triển, bỏ qua thời kỳ tư bổn mà tranh đấu thẳng
lên con đường xã hội chủ nghĩa”5.
Như vậy, cả hai văn kiện đã xác định rõ mục tiêu cuối cùng của cách
mạng Việt Nam không chỉ dừng lại ở giai đoạn hoàn thành cuộc cách mạng
giải phóng dân tộc mà phải thực hiện tiếp cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa,
đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản– mà thắng lợi của
Cách mạng tháng 10 Nga năm 1917 là sự mở đường cho thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội trên toàn thế giới. Về thực chất, đó là con đường cách mạng
giành độc lập dân tộc, thực hiện khẩu hiệu “người cày có ruộng” và các quyền
dân chủ chính trị, kinh tế, văn hóa… cho các tầng lớp nhân dân, bỏ qua chế
độ tư bản chủ nghĩa đi tới xã hội cộng sản mà chủ nghĩa xã hội là giai đoạn
đầu của nó. Hai cuộc cách mạng này liên quan mật thiết với nhau, ảnh hưởng

và thúc đẩy lẫn nhau, cuộc cách mạng trước thành công tạo điều kiện cho
cuộc cách mạng sau giành thắng lợi. Vì vậy, giữa hai giai đoạn cách mạng
này: giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội không có bức tường
ngǎn cách.
* Thống nhất về nhiệm vụ chiến lược
Cả hai cương lĩnh đều xác định nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt
Nam trong giai đoạn đầu, giai đoạn cách mạng tư sản dân quyền đó là đánh

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nộị, 1998, tr 2-3,
tập 2.
5 Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, tr 93-94, tập 2.
4


17
đổ đế quốc và phong kiến, làm cho nước Việt Nam được độc lập, nhân dân
được tự do, đưa ruộng đất cho dân cày nghèo.
Cương lĩnh đầu tiên ghi: “A. Về phương diện xã hội: a) Dân chúng được
tự do tổ chức; b) Nam nữ bình quyền; c) Phổ thông giáo dục theo công nông
hóa. B. Về phương diện chính trị: a) Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn
phong kiến; b) Làm cho nước Nam hoàn toàn độc lập; c) Dựng ra Chính phủ
công nông binh; d) Tổ chức ra quân đội công nông. C Về phương diện kinh
tế: a) thủ tiêu hết các thứ quốc trái; b) Thâu hết sản nghiệp lớn (như công
nghiệp, vận tải, ngân hàng…) của tư bản đế quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho
Chính phủ công nông binh quản lý; c) Thâu hết ruộng đất của đế quốc chủ
nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo…”6.
Luận cương chính trị ghi: “Nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng tư sản dân
quyền là: a) Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, phong kiến và địa chủ; b) Lập
chánh phủ công nông; g) Xứ Đông Dương hoàn toàn độc lập; h) Lập quân đội
công nông”7.

Nghĩa là cả hai cương lĩnh đều xác định cách mạng Việt Nam trong giai
đoạn đầu là tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng. Tư sản dân quyền cách
mạng là cách mạng về phương diện chính trị, thổ địa cách mạng là cách mạng
về phương diện kinh tế. Hai nhiệm vụ chiến lược ấy quan hệ mật thiết với
nhau hợp thành cách mạng tư sản kiểu mới.
* Thống nhất về lực lượng cách mạng
Cả hai cương lĩnh đều coi liên minh công nông là lực lượng chính và hết
sức quan tâm đến lợi ích của công nông. Cương lĩnh đầu tiên ghi: “Đảng phải
thu phục cho được đại bộ phận dân cày và phải dựa vào hạng dân cày nghèo
làm thổ địa c.m đánh trúc bọn đại địa chủ và phong kiến… Đảng phải hết sức
liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, Thanh Niên, Tân Việt,v.v. để kéo
họ đi vào phe vô sản giai cấp” 8. “Đảng tập hợp đa số quần chúng nông dân,
6

Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng, Sđd, tr 2-3, tập 2.
Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng, Sđd, tr 95 , tập 2.
8 Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng, Sđd, tr 4, tập 2.
7


18
chuẩn bị cách mạng thổ địa và lật đổ bọn địa chủ và phong kiến… Đảng giải
phóng công nhân và nông dân thoát khỏi ách tư bản” 9. Luận cương chính trị
ghi: Vô sản giai cấp là “một động lực chánh và rất mạnh của cách mạng ở
Đông Dương”, dân cày là “một động lực mạnh cho cách mạng tư sản dân
quyền”. “Đồng minh của giai cấp vô sản là bọn trung và bần nông”10.
Những quan điểm đó là đúng đắn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa
Mác- Lênin về vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử: quần chúng là
người sáng tạo ra lịch sử. Ở Việt Nam, nông dân và công nhân là hai tầng lớp
đông đảo nhất của xã hội; là hai giai cấp bị bóc lột nặng nề nhất do đó đây

cũng là những giai cấp có tinh thần cách mạng nhất vì cái mà họ mất trong
cuộc đấu tranh này là xiềng xích, nhưng cái được là được cả thế giới. Hơn
nữa, giai cấp công nhân phần lớn xuất thân từ giai cấp nông dân nên mối quan
hệ giữa hai giai cấp này rất tự nhiên, không gò ép. Có thể nói không có liên
minh công nông sẽ không có cách mạng Việt Nam. Mặt khác, đã là Đảng
Cộng sản thì đương nhiên phải quan tâm đến lợi ích của quần chúng lao động,
đông đảo nhất, căn bản nhất là công nông. Không quan tâm đến lợi ích của
nhân dân, trong đó cơ bản, đông đảo nhất là công nông thì đó không phải là
Đảng Cộng sản. Điều này thuộc về nguyên tắc bản chất giai cấp của Đảng
Cộng sản và quan niệm đó không trái với quan điểm coi trọng lợi ích toàn dân
tộc. Đây là điểm riêng có của Đảng Cộng sản, một đảng chính trị, có tính giai
cấp rõ ràng mà càng quan tâm đến lợi ích giai cấp mình thì càng quan tâm đến
lợi ích của mọi giai tầng xã hội khác, muốn giải phóng giai cấp mình thì phải
ra sức giải phóng tất cả các giai tầng xã hội, phải giải phóng dân tộc.
* Thống nhất về giai cấp lãnh đạo cách mạng
Hai cương lĩnh đều khẳng định lãnh đạo cách mạng Việt Nam là giai cấp
vô sản, thông qua chính đảng của mình là Đảng Cộng sản Việt Nam (Cương

9

Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng, Sđd, tr 6, tập 2.
Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng, Sđd, tr 97-98, tập 2.

10


19
lĩnh đầu tiên) và sau này đổi tên thành Đảng Cộng sản Đông Dương (Luận
cương chính trị 10/1930).
Cương lĩnh đầu tiên chỉ rõ: “Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp

phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình
lãnh đạo được dân chúng”11. “Đảng là đội tiên phong của đạo quân vô sản
gồm một số lớn của giai cấp công nhân và làm cho họ đủ năng lực lãnh đạo
quần chúng”. “Đảng tập hợp đa số quần chúng nông dân, chuẩn bị cách mạng
thổ địa và lật đổ bọn địa chủ và phong kiến”. “Đảng giải phóng công nhân và
nông dân thoát khỏi ách tư bản” 12. Hoặc “Tôn chỉ: Đảng Cộng sản Việt Nam
tổ chức ra để lãnh đạo quần chúng lao khổ làm giai cấp tranh đấu để tiêu trừ
tư bản đế quốc chủ nghĩa, làm cho thực hiện xã hội cộng sản”13.
Luận cương chính trị ghi: “Trong cuộc cách mạng tư sản dân quyền, vô
sản giai cấp và nông dân là hai động lực chánh, nhưng vô sản có cầm quyền
lãnh đạo thì cách mạng mới thắng lợi được”. “Điều kiện cốt yếu cho sự thắng
lợi của cuộc cách mạng ở Đông Dương là cần phải có một Đảng Cộng sản có
một đường lối chánh trị đúng, có kỷ luật, tập trung, mật thiết liên lạc với quần
chúng, và từng trải đấu tranh mà trưởng thành. Đảng là đội tiền phong của vô
sản giai cấp lấy chủ nghĩa Các Mác và Lênin làm gốc mà đại biểu quyền lợi
chánh và lâu dài, chung cho cả giai cấp vô sản ở Đông Dương và lãnh đạo vô
sản giai cấp Đông Dương ra tranh đấu để đạt được mục đích cuối cùng của vô
sản là chủ nghĩa cộng sản”.
* Thống nhất về phương pháp cách mạng
Cả hai cương lĩnh đều nói là phải sử dụng bạo lực cách mạng, tức là phải
sử dụng sức mạnh của nhân dân. Cương lĩnh đầu tiên xác định cần phải “đánh
đổ” chính quyền đế quốc, phong kiến và “dựng ra” chính phủ công nông
binh. Nghĩa là theo quan điểm cách mạng bạo lực, không phải bằng phương
11

Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng, Sđd, tr 4, tập 2.

12

Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng, Sđd, tr 5, tập 2.


13

Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng, Sđd, tr 7, tập 2.


20
pháp cải lương. Luận cương chính trị ghi rõ là phải có cách tranh đấu từ thấp
đến cao, từ “phần ít” đến khi có thời cơ thì thực hiện khởi nghĩa vũ trang
giành chính quyền. Lúc đó “Đảng phải lập tức lãnh đạo quần chúng để đánh
đổ chánh quyền của địch nhân và giành lấy chánh quyền cho công nông”. “Võ
trang bạo động không phải là một việc thường, chẳng những là theo hình thế
trực tiếp cách mạng, mà lại phải theo khuôn phép nhà binh”14.
Như vậy, cả Cương lĩnh đầu tiên và Luận cương chính trị đều đã nhận
thức được bạo lực cách mạng là sức mạnh nhân dân. Xác định sử dụng bạo
lực cách mạng là sử dụng sức mạnh của toàn dân, nhất là công nông. Đây là
phương pháp cách mạng đúng đắn và đã được thực tiễn cách mạng Việt Nam
chứng minh.
* Thống nhất Về việc xác định mối quan hệ giữa cách mạng Việt Nam
với cách mạng thế giới
Cả hai cương lĩnh đều nói cách mạng Việt Nam, cách mạng Đông
Dương là một bộ phận của cách mạng thế giới (cách mạng vô sản), nên phải
liên lạc với phong trào vô sản và phong trào giải phóng dân tộc các nước.
Cương lĩnh đầu tiên ghi: “…trong khi tuyên truyền cái khẩu hiệu nước An
Nam độc lập, phải đồng tuyên truyền và thực hành liên lạc với dân tộc bị áp
bức và vô sản giai cấp thế giới, nhất là vô sản Pháp”. “Đảng phổ biến khẩu hiệu
“Việt Nam tự do” và đồng thời Đảng liên kết với những dân tộc bị áp bức và
quần chúng vô sản trên thế giới nhất là với quần chúng vô sản Pháp”. Luận
cương chính trị ghi: “Vô sản Đông Dương phải liên lạc mật thiết với vô sản thế
giới, nhứt là vô sản Pháp để làm cho mặt trận vô sản “mẫu quốc” và thuộc địa

cho sức đấu tranh cách mạng được mạnh lên... Trong công tác, Đảng phải liên
lạc mật thiết với Đảng Cộng sản Pháp, Tàu và Ấn Độ”.
Quan điểm coi cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế
giới là một bước đột phá trong tư duy của những nhà lãnh đạo Đảng ta. Bởi lẽ
14

Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng, Sđd, tr 101- 102, tập 2.


21
chúng ta biết một trong những nguyên nhân dẫn đến thất bại của các phong
trào yêu nước trước khi Đảng ra đời là mang tính tự phát, rời rạc, lẻ tẻ, không
có sự gắn kết giữa các địa phương trong nước chứ chưa nói đến sự gắn kết
giữa các nước. Vì vậy đã không tranh thủ được sự ủng hộ của cách mạng thế
giới. Từ khi Đảng ra đời đã xác định cách mạng Việt Nam là một bộ phận của
cách mạng thế giới (cách mạng vô sản) điều đó cũng có nghĩa là từng đường
đi, nước bước của cách mạng Việt Nam phải tính đến tác động của sự biến
đổi tình hình thế giới. Cũng vì vậy tinh thần dân tộc của những nhà cách
mạng Việt Nam không phải là chủ nghĩa dân tộc theo phạm trù cũ mà là chủ
nghĩa dân tộc theo lập trường vô sản, là giải phóng dân tộc trong khuôn khổ
cách mạng vô sản, một bộ phận của cách mạng vô sản, thuộc cách mạng vô
sản. Đã là cách mạng vô sản thì đánh đổ đế quốc, phong kiến, thực hiện độc
lập dân tộc và người cày có ruộng không phải là mục đích cuối cùng, mà chỉ
là một bước đi cần thiết trên lộ trình phải trải qua để đi tới chủ nghĩa xã hội,
chủ nghiã cộng sản. Vì cách mạng vô sản có mục đích cuối cùng là giải phóng
giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Đây là điều khác về chất so
với cách mạng Việt Nam trong giai đoạn trước đó.
Như vậy, Cương lĩnh đầu tiên và Luận cương chính trị 10/1930 của
Đảng là thống nhất với nhau về tất cả các nội dung cơ bản.Tuy nhiên, do tác
động của các yếu tố chủ quan và khách quan nên giữa Cương lĩnh đầu tiên và

Luận cương chính trị tháng 10/1930 cũng có những điểm khác biệt. So với
cương lĩnh chính trị đầu tiên, Luận cương chính trị tháng 10/1930 có những
điểm phát triển và hạn chế nhất định.

3.2. Sự khác biệt giữa Cương lĩnh đầu tiên của Đảng và Luận cương
chính trị tháng 10/1930.
* Những điểm phát triển của Luận cương chính trị tháng 10/1930.


22
Luận cương Chính trị tiếp tục khẳng định sự đúng đắn của con đường
cách mạng Việt Nam mà Cương lĩnh đầu tiên đã đề cập. Tuy nhiên, Luận
cương bổ sung, phát triển một số nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất, Luận cương Chính trị chỉ rõ lúc đầu là cách mạng tư sản dân
quyền do giai cấp công nhân lãnh đạo, sau đó bỏ qua thời kỳ tư bản chuyển
sang giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, Luận cương xác định
cụ thể những điều kiện bỏ qua thời kỳ phát triển tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam
mà Cương lĩnh chính trị đầu tiên chưa đề cập tới. Những điều kiện đó là:
- Về chủ quan: cách mạng tư sản dân quyền đã thắng lợi, chính quyền
cách mạng do giai cấp công nhân lãnh đạo đã được thiết lập trên phạm vi toàn
quốc; khối liên minh công nông được xây dựng và củng cố vững chắc; vai trò
lãnh đạo của Đảng Cộng sản được xác lập trên thực tế.
- Về điều kiện khách quan bảo đảm cho sự chuyển biến từ cách mạng tư
sản dân quyền lên cách mạng xã hội chủ nghĩa ở mỗi nước phải có sự giúp đỡ
quốc tế của các nước xã hội chủ nghĩa anh em trên thế giới.
Luận cương cũng chỉ rõ, giai đoạn đầu đấu tranh giành độc lập dân tộc,
ruộng đất cho dân cày là mục tiêu trực tiếp, tất yếu phải đi qua, nhiệm vụ giai
đoạn này thực hiện càng triệt để càng tạo điều kiện cho giai đoạn sau phát
triển vững chắc. Giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội là phương hướng tiến
lên quyết định phát triển của cách mạng Việt Nam, đồng thời có giá trị củng

cố, giữ vững thành quả cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, quyết định tính
chất triệt để của giai đoạn đầu. Việc xác định đúng phương hướng cách mạng
có ý nghĩa hết sức quan trọng, là ngọn cờ tập hợp lực lượng cách mạng, là cơ
sở giải quyết đúng đắn các vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, định
hướng sự phát triển đúng đắn của cách mạng.
Cương lĩnh đầu tiên và Luận cương chính trị (tháng 10 năm 1930) về
con đường cách mạng Việt Nam đã được Đảng Cộng sản Việt Nam thực hiện
đối với miền Bắc sau năm 1954, tiến lên chủ nghĩa xã hội; đối với cả nước sau


23
ngày 30 tháng 4 năm 1975, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
trên phạm vi cả nước, chuyển sang giai đoạn cả nước xây dựng chủ nghĩa xã
hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Điều đó khẳng định giá trị
lý luận, ý nghĩa lịch sử, hiện thực về con đường tiến lên của cách mạng Việt
Nam mà các văn kiện đầu tiên của Đảng đã đề cập. Với ý nghĩa đó, Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (tháng 12 năm 1976) đã khẳng định:
Trong thời đại ngày nay, khi độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội không
thể tách rời nhau, ở nước ta khi giai cấp công nhân giữ vai trò lãnh đạo
cách mạng thì thắng lợi của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng là
sự bắt đầu của cách mạng xã hội chủ nghĩa, sự bắt đầu của thời kỳ quá độ
tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, sự bắt đầu của thời kỳ thực hiện
nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản.
Thứ hai, Luận cương Chính trị phát triển về phương pháp cách mạng
Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã xác định cách mạng nước ta phải được
tiến hành bằng phương pháp cách mạng bạo lực mới có thể lật đổ được chính
quyền của bọn thực dân, phong kiến; dựa vào sức mạnh của quần chúng nhân
dân được tổ chức lại dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trung thành với quan điểm
đó, Luận cương Chính trị tháng 10 năm 1930 bổ sung, phát triển phương pháp
cách mạng bạo lực giành chính quyền phải bằng khởi nghĩa vũ trang, không

thể là con đường hòa bình, cải lương. Luận cương chỉ rõ, khởi nghĩa vũ trang
giành chính quyền không phải là việc bình thường, mà là một nghệ thuật, phải
theo “khuôn phép nhà binh”; phải đề phòng, ngăn ngừa thái độ “đùa với khởi
nghĩa”; phải đặt khởi nghĩa vũ trang của quần chúng trong khuôn khổ tình thế
cách mạng và theo quy luật của đấu tranh cách mạng. Khởi nghĩa phải dựa
trên một cao trào cách mạng của quần chúng, nổ ra đúng thời cơ. Thời cơ đó
là: Khi kẻ thù hoang mang cực độ, các tầng lớp trung gian ngả về phía cách
mạng, quần chúng cách mạng và đội tiền phong đã sẵn sàng. Đồng thời, Luận
cương cũng chỉ rõ: Lúc thường, chưa có tình thế cách mạng trực tiếp chỉ sử


24
dụng những hình thức đấu tranh thấp, nhằm đấu tranh giành quyền dân sinh,
dân chủ, thực hiện “đấu tranh phần ít”, qua đó mà tập hợp, tổ chức quần chúng
và rèn luyện Đảng. Khi tình thế cách mạng xuất hiện thì khẩu hiệu và hình
thức đấu tranh phải cao hơn, từng bước đưa quần chúng ra đấu tranh từ thấp
đến cao, tiến hành khởi nghĩa toàn dân, lập Xô viết, lập hội đồng tịch ký
ruộng đất, sản nghiệp của bọn bóc lột, do giai cấp công nhân kiểm soát…
Nội dung bổ sung, phát triển về phương pháp cách mạng bạo lực trong Luận
cương đã thể hiện sự tiếp thu sâu sắc tư tưởng bạo lực cách mạng và khởi
nghĩa vũ trang của chủ nghĩa Mác - Lênin, phù hợp thực tiễn nhu cầu xã hội
Việt Nam. Phương pháp cách mạng đó đã giúp cho những người cách mạng
và quần chúng nhân dân chủ động tiến hành đấu tranh, khi tình thế, thời cơ
cách mạng xuất hiện kịp thời lãnh đạo tiến hành khởi nghĩa giành thắng lợi.
Thứ ba, Luận cương Chính trị bổ sung, phát triển lý luận về xây dựng
Đảng kiểu mới ở Việt Nam. Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ
vắn tắt khẳng định vai trò, vị trí của Đảng “là đội tiền phong của vô sản giai
cấp phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp
mình lãnh đạo được dân chúng”15. Đảng có vững, cách mạng mới thành công.
Kế thừa, phát triển tư tưởng cơ bản ấy, Luận cương Chính trị một mặt tiếp tục

khẳng định vị trí, vai trò của Đảng đối với cách mạng Việt Nam, mặt khác,
Luận cương đã chỉ ra những nguyên lý về xây dựng Đảng kiểu mới ở một nước
thuộc địa nửa phong kiến như nước ta: “Điều kiện cốt yếu cho sự thắng lợi của
cuộc cách mạng ở Đông Dương là cần phải có một Đảng Cộng sản, có một
đường lối chính trị đúng, có kỷ luật, tập trung, mật thiết liên lạc với quần
chúng, và từng trải tranh đấu mà trưởng thành. Đảng là đội tiền phong của vô
sản giai cấp lấy chủ nghĩa Các Mác và Lênin làm gốc”16. Sự phát triển về
những nguyên tắc xây dựng Đảng kiểu mới do Luận cương Chính trị nêu ra
15
16

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng, Toàn tậpNxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 4, tập 2,.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 100, tập 2.


25
đảm bảo cho Đảng luôn giữ vững bản chất giai cấp công nhân, vững mạnh về
chính trị, tư tưởng, tổ chức, đáp ứng nhu cầu nhiệm vụ chính trị của Đảng qua
các thời kì, giai đoạn cách mạng.
Lịch sử cách mạng Việt Nam hơn 80 năm qua đã chứng minh, công
tác xây dựng Đảng luôn bám sát những nguyên tắc do Luận cương Chính
trị đã chỉ ra, đảm bảo cho Đảng ta luôn là Đảng chân chính, cách mạng
lãnh đạo cách mạng nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác và
không ngừng lớn mạnh, trưởng thành.
* Những điểm hạn chế của Luận cương chính trị tháng 10/1930.
Bên cạnh những nội dung bổ sung, phát triển, Luận cương Chính trị
còn một số hạn chế so với Cương lĩnh đầu tiên được thông qua tại Hội nghị
thành lập Đảng.
Thứ nhất, Xã hội nước ta là xã hội thuộc địa, mâu thuẫn giai cấp tuy có
sâu sắc nhưng mâu thuẫn chủ yếu nhất, bức xúc nhất vẫn là mâu thuẫn giữa

dân tộc Việt Nam với bọn thực dân xâm lược Pháp cùng bọn tay sai của
chúng (đại địa chủ, đại tư sản phản cách mạng và vua quan phong kiến. Việc
xác định đúng kẻ thù chủ yếu và nhiệm vụ chủ yếu để nắm vững ngọn cờ dân
tộc để tập hợp lực lượng, phát huy cao độ sức mạnh dân tộc nhưng không coi
nhẹ những nhiệm vụ giải phóng giai cấp. Tuy nhiên, Luận cương chính trị đã
không nêu lên được mâu thuẫn chủ yếu của một nước thuộc địa nửa phong
kiến, đó là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với đế quốc Pháp, từ đó
không đặt nhiệm vụ chống đế quốc lên hàng đầu. Luận cương mới giải quyết
được về vấn đề chiến lược, chưa giải quyết đúng vấn đề sách lược với kẻ thù;
chưa xác định được nhiệm vụ, mục tiêu cụ thể trước mắt. Đó là hạn chế mang
tính “tả” khuynh, nóng vội.
Thứ hai, Luận cương đánh giá không đúng khả năng cách mạng của giai
cấp tiểu tư sản và mặt yêu nước của giai cấp tư sản dân tộc, một bộ phận địa
chủ nhỏ, chỉ thấy mặt do dự, cải lương của các giai cấp đó, từ đó không coi họ


×