1
CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA
TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI 1986 - 2006
MỞ ĐẦU
Vào thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XX, hệ thống xã hội chủ nghĩa lâm vào
khủng hoảng "toàn diện và nghiêm trọng", cuối cùng đi đến sụp đổ trên một bộ
phận lớn đã làm thay đổi cơ bản quan hệ chính trị thế giới. Bên cạnh đó cuộc
cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại đã và đang tác động đến tất cả các
quốc gia dân tộc với mức độ khác nhau. Chủ nghĩa tư bản sử dụng những thành
tựu của cách mạng khoa học - công nghệ nên thích nghi và tiếp tục phát triển.
Các quốc gia trong cộng đồng thế giới đều điều chỉnh chính sách đối ngoại để
phù hợp với tình hình mới.
Trong bối cảnh quốc tế như vậy, quan hệ quốc tế dường như đã chuyển từ
đối đầu sang đối thoại, thế hai cực bị phá vỡ, từ đó làm nảy sinh xu hướng đa
dạng hoá, đa phương hoá trong tiến trình toàn cầu hoá, phát triển và phụ thuộc
lẫn nhau. Toàn cầu hoá về kinh tế chiếm vị trí quan trọng trong quan hệ quốc tế,
được ưu tiên phát triển và trở thành vấn đề chính trong quan hệ quốc tế hiện nay.
Việt Nam nằm trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương và ASEAN là khu vực
phát triển kinh tế năng động với tốc độ cao, chính trị tương đối ổn định, đang trở
thành trung tâm kinh tế. Tiến hành đổi mới toàn diện đất nước bắt đầu từ năm
1986, Việt Nam đã thu được nhiều thắng lợi. Là một bộ phận hợp thành đường
lối đổi mới của Đảng, đường lối và chính sách đối ngoại đúng đắn của Đảng và
Nhà nước Việt Nam đã cho phép khai thác có hiệu quả các nhân tố quốc tế, kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chống chiến lược "diễn biến hoà
bình" của các thế lực thù địch, hòng phá hoại thành quả cách mạng Việt Nam
bảo vệ vững chắc tổ quốc và đưa cách mạng Việt Nam tiếp tục tiến lên.
Những biến đổi to lớn trong nước và thế giới trong những năm (1980 1990) đặt ra những vấn đề lý luận và thực tiễn đòi hỏi Đảng và Nhà nước Việt
Nam phải đưa ra những giải pháp ngang tầm với những biến đổi đó. Bằng sự
nhạy cảm chính trị, kinh nghiệm, lãnh đạo cách mạng, Đảng đề ra đường lối đổi
2
mới đất nước và tiến hành tự đổi mới để hội nhập với cộng đồng quốc tế, phấn
đấu vì hoà bình, độc lập dân tộc, hợp tác và phát triển. Trên cơ sở đổi mới chính
sách đối nội đã hình thành và phát triển chính sách đối ngoại mới giàu sức hấp
dẫn đã tranh thủ được các dân tộc trong cộng đồng thế giới hợp tác với Việt
Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam đã khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới
từ năm 1986 đến nay, đổi mới tư duy đối ngoại, đường lối đối ngoại đổi mới
được công bố tại diễn đàn Đại hội VI, Đại hội VII, Đại hội VIII, Đại hội IX và
Đại hội X đã khẳng định sự đúng đắn, sáng tạo, nhạy bén trong việc hoạch định
và thực hiện đường lối đối ngoại của Đảng. Chính sách đối ngoại của Đảng thời
kỳ đổi mới thể hiện bản sắc, truyền thống ngoại giao Việt Nam trong lịch sử và
được nâng lên tầm cao mới.
I. Mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế là
đòi hỏi khách quan của đất nước
1. Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của chính
sách đối ngoại
Chủ nghĩa Mác- Lênin chỉ rõ chính sách đối ngoại là sự tiếp nối chính
sách đối nội, là bộ phận quan trọng trong đường lối chính trị và chính sách của
mọi quốc gia, dân tộc. Mục tiêu của học thuyết là “Vô sản toàn thế giới và các
dân tộc bị áp bức đoàn kết lại”, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và giải
phóng con người. Sự nghiệp của giai cấp công nhân là sự nghiệp quốc tế. Giai
cấp công nhân sẽ không tự giải phóng mình nếu không giải phóng toàn xã hội.
Chính sách đối ngoại là một bộ phận của đấu tranh chính trị Lênin dạy
rằng đường lối đối ngoại của các nước xã hội chủ nghĩa phải nhằm "thiết lập
những quan hệ giúp cho tất cả các dân tộc bị áp bức có thể gạt bỏ được các đế
quốc chủ nghĩa"1 và tập hợp được những điều kiện thuận lợi nhất cho "việc phát
triển và củng cố cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa"2.
Quan điểm của các nhà kinh điển chỉ ra rằng một quốc gia, một dân tộc
thì tất yếu phải thực hiện chính sách đối ngoại để tập hợp bạn bè quốc tế, tranh
1
2
V.I.Lênin. Toàn tập.NXB ST, Hà Nội 1969, Tập 3 trang 589
V.I.Lênin Toàn tập, NBX Sự thật, Hà Nội 1963, tập 11 trang 507
3
thủ những điều kiện thuận lợi và sự giúp đỡ của các nước nhằm xây dựng thực
lực của đất nước, giành thắng lợi cho cách mạng và góp phần giải quyết những
vấn đề quốc tế chung.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại là hệ thống quan điểm về quốc tế, về
chiến lược, sách lược của cách mạng Việt Nam trong quan hệ với thế giới. Hệ
thống quan điểm đó được thể hiện ở những nội dung. Mục tiêu đối ngoại, tập
hợp và mở rộng lực lượng, các phương châm đối ngoại, phương pháp và nghệ
thuật đấu tranh ngoại giao nhằm giành thắng lợi cho cách mạng Việt Nam.
Thứ nhất, mục tiêu đối ngoại: là nhằm đảm bảo lợi ích của quốc gia, dân
tộc, bao gồm các quyền dân tộc cơ bản như: độc lập dân tộc, chủ quyền quốc
gia, toàn vẹn lãnh thổ, thống nhất đất nước, tự do hạnh phúc cho nhân dân. Đièu
đó được khẳng định trong tuyên ngôn độc lập của Nhà nước Việt Nam mới:
"Nước Việt Nam có quyền được hưởng tự do độc lập, toàn thể dân tộc Việt Nam
quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cái để giữ vững quyền
tự do và độc lập ấy"3. Thông qua Tuyên ngôn độc lập chủ tịch Hồ Chí Minh đã
khẳng định đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ của dân tộc Việt Nam trong quan
hệ chính trị quốc tế. Bởi vì, chỉ những quốc gia độc lập, tự do mới có quyền
quyết định đường lối đối ngoại của dân tộc mình.
Thứ hai, về mở rộng và tập hợp lực lượng. Xác định đối ngoại là một mặt
trận, Hồ Chí Minh chủ trương mở rộng quan hệ với tất cả các nước, tranh thủ
mọi lực lượng và hình thức đấu tranh nhằm đạt hiệu quả cao nhất về đối ngoại.
Người cho rằng, thắng lợi ngoại giao tuỳ thuộc vào sức mạnh của khối đại
đoàn kết toàn dân, sức mạnh về kinh tế, chính trị, quân sự và văn hoá của đất
nước. Với bên ngoài, Hồ Chí Minh chủ trương mở rộng các lực lượng theo
phương châm "thêm bầu bạn, bớt kẻ thù", tránh đối đầu "không gây thù oán" với
bất cứ nước nào; khai thác những điểm tương đồng và mọi khả năng có thể nhắp
tập hợp lực lượng, hình thành mặt trận đoàn kết ủng hộ Việt Nam một cách rộng
rãi và sâu sắc nhất.
3
Hồ Chí Minh toàn tập NBX CTQG Hà Nội, 1995, tập 9, trang 9
4
Thứ ba, về phương châm đối ngoại và phương pháp đấu tranh ngoại giao.
Nhấn mạnh quan điểm độc lập tự chủ, tự lực, tự cường, Người nói: "Độc lập
nghĩa là chúng tôi điều khiển lấy mọi công việc cảu chúng tôi, không có sự can
thiệp ở ngoài vào"4. Điều đó có nghĩa là dân tộc Việt Nam phải tự mình vạch ra
đường lối, chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ trên cơ sở lợi ích quốc gia và
phù hợp với chuẩn mực quốc tế, thích ứng với xu thế của thời đại.
2. Thực trạng đối ngoại của Đảng, Nhà nước trước đổi mới
Trên cơ sở đó xuất phát từ tình hình quốc tế, Đảng ta đã đề ra mục tiêu
của chính sách đối ngoại là: "Trong thời gian tới công tác đối ngoại phải ra sức
tranh thủ những điều kiện quốc tế thuận lợi, tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế to lớn
và nhiều mặt cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước góp phần bảo đảm
thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ lịch sử do Đại hội lần này đề ra"5.
Nổi bật trong quan hệ đối ngoại trong giai đoạn này là quan hệ Việt Nam
-Trung Quốc đang chịu ảnh hưởng của cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc
(17/2/1979). Quan hệ Việt Nam - Liên Xô được coi hòn đá tảng trong chính
sách đối ngoại của Việt Nam. Việt Nam đã coi việc: "Đoàn kết và hợp tác toàn
diện với Liên Xô luôn luôn là hòn đá tảng của chính sách đối ngoại của Đảng và
Nhà nước ta"6
Quan hệ Việt Nam- Lào - Campuchia được đánh giá cao, được coi là:
"Một quy luật phát triển giữa ba nước, là điều có ý nghĩa sống còn đối với vận
mệnh của ba dân tộc"7
Đối với các nước khác trong cộng đồng XHCN được coi trọng hợp tác và
phát triển, nhất là các nước trong Hội đồng tương trợ kinh tế. Chúng ta ủng hộ
cuộc đấu tranh của nhân dân các nước Á, Phi, Mỹ La Tinh, hợp tác với các nước
thành viên trong phong trào các nước không liên kết, quan tâm tới phong trào
các nước không liên kết, quan tâm tới phong trào đấu tranh của nhân dân các
Hồ Chí Minh toàn tập, NXB CTQG Hà Nội 1995, tập 5, trang 552
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu trên toàn quốc lần thứ V. Tập I. Nxb Sự Thật, Hà Nội,
1982, trang 143
56)
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu trên toàn quốc lần thứ V. Tập I. Nxb Sự Thật, Hà Nội,
1982, trang 114
67
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu trên toàn quốc lần thứ V. Tập I. Nxb Sự Thật, Hà Nội,
1982, trang 146
4
5
7
5
nước tư bản chủ nghĩa với các nước trong ASEAN: "Nhân dân Việt Nam chủ
trương thiết lập những quan hệ láng giềng tốt với các nước ASEAN, luôn luôn
sẵn sàng phối hợp cố gắng để xây dựng Đông Nam Á thành một khu vực hòa
bình và ổn định"8. Nhưng quan hệ đó đang bị Mỹ và Trung Quốc ngáng trở. Tựu
trung lại lúc này Việt Nam muốn: "Thiết lập và mở rộng quan hệ bình thường về
một nhà nước, về kinh tế, văn hóa và khoa học, kỹ thuật với tất cả các nước
không phân biệt chế độ chính trị, xã hội trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền,
bình đẳng và cùng có lợi"9.
Trước hết là cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội nghiêm trọng, khó khăn.
Hậu quả hơn 30 năm chiến tranh tàn phá nặng nề, 3 năm bị thiên tai bão lụt
nghiêm trọng (từ 1976 đến 1978) do Mỹ tăng cường xiết chặt cấm vận, do
những sai lầm nghiêm trọng kéo dài trên 10 năm về lãnh đạo kinh tế của Đảng
và Nhà nước (chủ quan, nóng vội duy ý chí, giản đơn, cơ chế tập trung quan liêu
bao cấp), do cuộc chiến tranh biên giới phía Nam của Pônpốt và chiến tranh biên
giới phía Bắc của Trung Quốc chống Việt Nam và do Việt Nam sử dụng quyền
tự vệ đánh trả Pônpốt, đóng quân ở campuchia trong 10 năm.
Trên thế giới xu thế đối đầu chuyển dần sang xu thế đối thoại với việc
Liên Xô và Mỹ chuyển từ chạy đua vũ trang sang chạy đua về kinh tế. Các nước
Đông Nam Á từng bước đi vào xu hướng hòa bình, độc lập và trung lập. Các
nước trên thế giới ra sức cải tổ nền kinh tế để đưa cuộc cách mạng công nghiệp
mới làm động lực cho việc phát triển kinh tế. Châu Á -Thái Bình Dương đang
trở thành khu vực phát triển kinh tế năng động nhất thế giới.
Ngoại giao Việt Nam đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới từng phần (1979 1986) đã đạt được một số thành tựu sau:
Đã tiếp tục kế thừa bài học truyền thống của ngoại giao Đại Việt như kiên
quyết giữ vững độc lập trong mọi tình huống, đặt lợi ích dân tộc lên trên hết; giữ
vững nguyên tắc nhưng có sách lược thích hợp; kết hợp quân sự với ngoại
giao… được nâng lên tầm cao mới phong cách ngoại giao Hồ Chí Minh. Là một
8
9
9
ĐCS Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V. Nxb Sự thật Hà Nội, 1982, trang 153.
ĐCS Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V. Nxb Sự thật Hà Nội, 1982, trang 154 - 155
6
bộ phận quan trọng trong trường phái ngoại giao Việt Nam hiện đại, ngoại giao
Hồ Chí Minh tiếp tục thực hiện giữ vững độc lập chủ quyền trong mọi tình
huống thấm nhuần tinh thần độc lập tự chủ; gắn dân tộc với quốc tế, kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo thành sức mạnh tổng hợp để có thể lấy
yếu thắng mạnh, lấy ít thắng nhiều, lấy nhỏ thắng lớn phát huy truyền thống hòa
hiếu của dân tộc, luôn nắm vững và giương cao ngọn cờ hòa bình, thực hiện
chính sách đối ngoại, hòa bình, hữu nghị, quan hệ tốt đẹp với các nước trong
cộng đồng quốc tế "không thù oán với ai" đặt Việt Nam trong toàn cục thế giới".
"Biết mình biết người", kiên trì nguyên tắc chiến lược với vận dụng linh hoạt
sách lược "dĩ bất biến, ứng vạn biến".
Tuy nhiên, ngoại giao còn có hạn chế là chưa gắn chặt chẽ ngoại giao về
chính trị với ngoại giao về kinh tế, phát triển kinh tế đối ngoại. Việt Nam lúc
này chưa thay đổi tư duy, chưa nắm bắt được kịp thời các biến động trong cục
diện quốc tế, thiếu sót trong việc nghiên cứu và dự báo chiến lược.
Tư duy chiến tranh lạnh vẫn bao trùm trong chính sách đối ngoại nên ta
đã để mất thời cơ, từ thuận lợi chuyển sang khó khăn, bị bao vây, cô lập về
chính trị, cấm vận về kinh tế chúng ta còn ít bạn bè. Một số nước xa lánh ta. Đây
là thời kỳ mà ngoại giao phải lo chống đỡ, góp phần phá thế cô lập và bao vây.
Mặt khác, việc xử lý quan hệ với các nước lớn lúc này vẫn theo quan
niệm cũ. Quan hệ ngả hẳn về Liên Xô, căng thẳng với Trung Quốc. Trước tình
hình như vậy, chính sách đối ngoại với Trung Quốc được khẳng định: "Đặc biệt
công tác đối ngoại phải trở thành một mặt trận chủ động, tích cực trong cuộc đấu
tranh nhằm làm thất bại chính sách của bọn bành trướng và bá quyền nước lớn
Trung Quốc câu kết với thế lực hiếu chiến Mỹ, mưu toan làm suy yếu và thôn
tính nước ta"10
Những thành tựu đạt được trong việc thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược,
sự tăng cường quan hệ đoàn kết và hợp tác toàn diện với Liên Xô, Lào,
Campuchia với các nước anh em khác trong cộng đồng các nước xã hội chủ
nghĩa, việc phát triển quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước độc lập dân tộc,
10
ĐCS Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V. Nxb Sự thật Hà Nội, 1982143
7
các lực lượng tiến bộ và hoà bình đã tạo cho sự nghiệp cách mạng nước ta
những nhân tố mới để tiếp tục tiến lên.
Đó là những thành tựu và hạn chế về đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta
trước khi bước vào thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước từ Đại hội đại biểu toàn
quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI (15-12-1986) với sự chuyển đổi chính
sách đối ngoại theo đường lối đổi mới. Mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động
hội nhập quốc tế là đòi hỏi khách quan của tình hình thế giới và trong nước.
II.Chính sách đối ngoại của Đảng và nhà nước ta trong công cuộc đổi
mới (1986 – 2006).
1. Đổi mới chính sách đối ngoại giai đoạn 1986 -1991
Cách mạng Việt Nam luôn phát triển trong sự gắn bó với bối cảnh chung
của cách mạng thế giới và khu vực. Thắng lợi của cách mạng Việt Nam không
tách rời sự giúp đỡ to lớn của cách mạng thế giới đồng thời nó cũng đóng vai trò
quan trọng trong cục diện cách mạng khu vực và thế giới.
Xuất phát từ nhận thức trên. Đại hội lần thứ VI của Đảng (12/1986) chỉ ra
"nhiệm vụ trên lĩnh vực đối ngoại của Đảng, nhà nước là ra sức kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, phấn đấu giữ vững hòa bình ở Đông
Dương, Đông Nam Á và thế giới, tăng cường hợp tác toàn diện với Liên Xô và
các nước trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa, tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi
xây dựng, bảo vệ tổ quốc, tích cực góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân
dân thế giới vì hòa bình độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội"11
Việc xác định nhiệm vụ đối ngoại là "kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại trong điều kiện mới" là việc quyết định rất đúng đắn, là nhận thức
mới của Đại hội VI là quyết định đúng đắn của Đảng, Nhà nước đã quán triệt
sâu sắc các bài học rút ra từ thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc đặc biệt từ
1975 trở lại đây.
Trong chính sách đối ngoại, Đảng chủ trương "kiên trì thực hiện chính
sách đối ngoại hòa bình… ủng hộ chính sách cùng tồn tại… giữa các nước có
11 )
Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật 1987, tr 99.
8
chế độ chính trị xã hội khác nhau"12. Đây là quan điểm học thuyết Mác -Lênin
về vai trò sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp vô sản, nó thể hiện ý chí cách
mạng không ngừng phấn đấu cho mục tiêu mới của chủ nghĩa xã hội đồng thời
nó phù hợp với lịch sử của các dân tộc, các quốc gia và nguyện vọng bức thiết
của nhân dân thế giới ngày nay. Chỉ có cùng tồn tại hòa bình, chung sống thực
sự mới tạo ra bầu không khí ổn định hữu nghị và hợp tác, là điều kiện tiên quyết
bảo đảm sự phát triển của mỗi dân tộc và nhân loại.
Nhiệm vụ phương châm chính sách đối ngoại của Đảng là tranh thủ tối đa
những điều kiện quốc tế thuận lợi để thực hiện các mục tiêu tổng quát của cách
mạng nước ta. Trước hết là giải quyết những vấn đề cấp bách: ổn định tình hình
kinh tế - xã hội và tạo ra những tiền đề cần thiết cho những chặng đường tiếp
theo, đồng thời Đảng chỉ rõ phương hướng, giải pháp đối với từng đối tác cụ thể
cho phù hợp với sự thay đổi của nó trong xu thế phát triển chung của thế giới.
* Đối với các nước xã hội chủ nghĩa và Liên Xô:
Việt Nam "tiếp tục tăng cường quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước
thành viên, hội đồng tương trợ kinh tế và mở rộng quan hệ với các nước xã hội
chủ nghĩa khác"13. Việt Nam và các nước xã hội chủ nghĩa hợp tác từ hình thức
là viện trợ kinh tế kỹ thuật tiến tới hợp tác toàn diện, trên mọi lĩnh vực kinh tế xã hội an ninh quốc phòng.
Trong chính sách đối ngoại của Việt Nam, Liên Xô là đối tác quan trọng
nhất, điều đó có ý nghĩa là quan hệ của Việt Nam đối với Liên Xô thủy chung.
Quan điểm đó luôn nhất quán trong chính sách đối ngoại của Đảng Nhà nước
trong suốt hơn 50 năm qua. Liên Xô luôn đóng vai trò quan trọng trong hệ thống
xã hội chủ nghĩa và trong cục diện thế giới, ảnh hưởng của Liên Xô trên trường
quốc tế là một nhân tố có ý nghĩa quyết định sâu sắc.
* Đối với phong trào giải phóng dân tộc:
Thái độ nhất quán của Đảng, Nhà nước là luôn ủng hộ phong trào giải
phóng dân tộc. Thực hiện Di chúc của Bác Hồ, sau ngày giải phóng miền Nam
đã đi thăm và cảm ơn các dân tộc đã giúp đỡ Việt Nam trong công cuộc kháng
12
13
Đảng Cộng sản Việt Na;: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật 1987, trang 105
Đảng Cộng sản Việt Nam; Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật 1987, trang 101.
9
chiến chống Mỹ cứu nước. Nhiều hiệp định, thông cáo chung được Việt Nam và
các nước ký kết. Điều đó chứng tỏ rằng quan hệ của Việt Nam đối với phong
trào giải phóng dân tộc luôn được Đảng, Nhà nước quan tâm, là một trong chính
sách đối ngoại của Việt Nam nhằm xoá bỏ chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, nêu cao
tinh thần quốc tế vô sản.
Việt Nam tham gia trong các tổ chức quốc tế có tác động tích cực làm biến
chuyển các quan hệ quốc tế là mục đích hoà hợp các dân tộc vì một nền hoà
bình, ổn định, hợp tác, phát triển thịnh vượng.
* Đối với Liên Hiệp Quốc:
Tổ chức này đóng vai trò quan trọng về hoà giải các vấn đề chính trị xã
hội, trên thế giới theo phương hướng hợp tác và đối thoại giải quyết bằng con
đường thương lượng hoà bình được nhiều nước trên thế giới ủng hộ trong đó có
Việt Nam, Liên Hợp Quốc sẽ trở thành diễn đàn chính trị cho tất cả các nước
trong cộng đồng quốc tế.
* Đối với phong trào không liên kết:
Đảng xác định phong trào không liên kết "có vai trò không thể thiếu được
trên thế giới…" Việt Nam "không ngừng đóng góp vào việc tăng cường đoàn
kết phong trào theo phương châm thống nhất trong đa dạng tích cực phấn đấu
thực hiện các mục tiêu của phong trào… vì lợi ích chính đáng của mỗi thành
viên và của phong trào"14.
* Đối với các nước Tư bản chủ nghĩa (Thuỵ Điển, Phần Lan, Pháp, Nhật,
Ôxtraylia) và các nước phương Tây khác, Đảng, nhà nước ta chủ trương mở
rộng quan hệ trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi.
* Đối với Trung Quốc:
Đảng, Nhà nước ta xác định "Sẵn sàng đàm phán với Trung Quốc bất cứ
lúc nào, cấp nào, nơi nào… nhằm bình thường hoá quan hệ giữa hai nước, vì lợi
ích của nhân dân hai nước, vì hoà bình ở Đông Nam Á và thế giới" (1)
Trần Quang Cơ: “Vai trò không thể thiếu được trên thế giới ngày nay”. Bài phát biểu của thứ trưởng tại Hội
nghị ngoại trưởng các nước không liên kết.
14
(1)
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, NXB Sự thật 1987, trang 107
10
Đảng ta chủ trương chấm dứt tuyên truyền chống Trung Quốc, sửa lại lời
nói đầu Hiến Pháp và Điều lệ Đảng, không coi Trung Quốc là kẻ thù.
Quan hệ Việt - Trung đã được đại hội VI xác định rõ hơn hai kỳ đại hội
trước. Sự thay đổi đó là phù hợp không chỉ đối với nguyện vọng chung của khu
vực, thế giới mà của cả nhân dân Việt - Trung. Nó góp phần nâng cao truyền
thống giúp đỡ nhau giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước.
* Đối với Mỹ: Đảng, Nhà nước ta chủ trương "bàn với Mỹ giải quyết các
vấn đề do chiến tranh để lại luôn sẵn sàng quan hệ với Mỹ vì lợi ích hoà bình, ổn
định ở Đông Nam Á "(2). Thực tế cùng với lệnh cấm vận của Mỹ, Mỹ liên kết với
các thế lực chống chủ nghĩa xã hội trong, ngoài khu vực ngăn cản sự hoà hợp
của Việt - Lào - Campuchia với các nước trong khu vực, tạo cho Việt Nam,
nhiều khó khăn trong khu vực và thế giới. Chính sách đó thể hiện thiện chí của
Việt Nam trong quan hệ Mỹ - Việt và quan hệ Việt Nam với các nước trong khu
vực vì lợi ích hoà bình ổn định phát triển chung của nhân loại.
* Đối với các nước ASEAN:
Đảng chủ trương phát triển quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước Đông
Nam Á, bày tỏ mong muốn sẵn sàng cùng các nước trong khu vực thương lượng
để giải quyết các vấn đề ở Đông Nam Á, Thiết lập quan hệ cùng tồn tại hoà
bình, phấn đấu cho một Đông Nam Á hoà bình, hữu nghị và hợp tác
* Đối với các nước có chế độ chính trị xã hội khác nhau: Đảng duy trì
chính sách quan hệ "cùng tồn tại hoà bình" thiết lập hệ thống an ninh toàn diện
(cả về chính trị, kinh tế, xã hội, quân sự) kiên quyết loại trừ xâm lược, khủng bố
Nhà nước, và khí hạt nhân… bất cứ hình thức nào.
Chính sách đối ngoại do đại hội VI đề ra là phù hợp với xu thế chuyển biến
của tình hình trong nước và thế giới. Chính sách đó thể hiện "tính mềm dẻo"
trong sách lược giải quyết các vấn đề quốc tế và khu vực. Chính sách đó được
hình thành từ trong đường lối độc lập tự chủ, sáng tạo của Đảng. Nó có tác dụng
mở rộng quan hệ kinh tế giữa Việt Nam với các nước khác trên thế giới. Nó tạo
điều kiện thuận lợi cho Việt Nam đổi mới trên việc lựa cho đối tác kinh tế cho
(2)
Đảng Cộng sản Việt Nam: văn kiện đại hội đại biểu lần thứ VI, NXB Sự thật 1987, trang 108
11
phù hợp với thực tại trong nước và xu thế phát triển kinh tế - xã hội thế giới đặc
biệt là góp phần quan trọng giữ vững chủ quyền lãnh thổ quốc gia. Trong 2 năm
(1987-1988) Đảng, nhà nước ta công bố thực hiện hai văn bản luật quan trọng là
"Luật Đầu tư nước ngoại tại Việt Nam" và "Pháp lệnh chuyển giao công nghệ
nước ngoài tại Việt Nam". Hai văn bản này đã làm cho nhiều nhà thương mại
quan tâm hợp tác với Việt Nam.
Luật Đầu tư nêu rõ: "Việt Nam hoan nghênh khuyến khích các tổ chức, cá
nhân nước ngoài đầu tư vào Việt Nam "chỉ cần" cùng tôn trọng độc lập chủ
quyền bình đẳng, tuân thủ pháp luật Việt Nam và các bên cùng có lợi. Nhà nước
Việt Nam bảo đảm quyền sở hữu đầu tư và các quyền lợi khác của cá nhân hoặc
tổ chức nước ngoài, tạo điều kiện thuận lợi và các thủ tục dễ dàng cho các tổ
chức cá nhân đầu tư vào Việt Nam" 15
Cùng với luật đầu tư, pháp lệnh đầu tư, Đảng Nhà nước tìm ra giải pháp
chính trị hiệu quả đối với vấn đề Campuchia. Suốt 3 năm 1987-1990 việc kiếm
tìm giải pháp chính trị cho vấn đề Campuchia đã lôi cuốn các nước ASEAN,
Đông Dương, 5 nước thường trực Hội đồng bảo an liên hiệp quốc (Nhật, Ấn Độ,
Ôxtraylia, các Châu và Bắc Mỹ)
Nhìn tổng quát 1986 - 1990 với những quyết sách kịp thời chính xác trong
đổi mới do Đảng lãnh đạo đã thực sự tạo ra bước ngoặt cho sự phát triển của
cách mạng Việt Nam. Những thành tựu từ sự kết hợp đổi mới chính sách đối nội
- đối ngoại đã tạo ra những tiền đề cần thiết cả về lý luận và thực tiễn giúp cho
Đảng, Nhà nước có thêm cơ sở nhận thức con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam ngày càng được xác định rõ hơn. "Chính sách đối ngoại đổi mới đã
tạo ra môi trường quốc tế thuận lợi hơn cho công cuộc đổi mới xây dựng, bảo vệ
Tổ quốc đẩy lùi một bước âm mưu bao vây cô lập Việt Nam. Tăng thêm bạn,
nâng cao uy tín Việt Nam trên trường quốc tế" 16 Tạo nên hình ảnh Việt Nam mới
của Châu Á - Thái Bình Dương và thế giới. Tuy nhiên, công tác đối ngoại còn
có khuyết điểm và những yếu kém: khi tình hình thế giới và quan hệ quốc tế
15
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.Nxb Pháp lý, Hà Nội 1989, tr 3-4
Đảng Cộng Sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự Thật, Hà Nội 1991, trang
40-41
16
12
thay đổi, có việc chưa đánh giá đầy đủ và kịp thời để có chủ chương sát đúng;
chưa tạo ra được sự thống nhất cao về nhận thức và hành động giữa một số
ngành trong một số trường hợp
2. Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta từ (1991-1995)
Tình hình quốc tế có những thay đổi lớn, tác động sâu sắc đến nước ta:
Sự sụp đổ của các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu và Liên Xô đã gây ra ảnh
hưởng không tốt về chính trị, tư tưởng.Tác động sâu sắc đối với phong trào cách
mạng thế giới và cách mạng Việt Nam. Ở nước ta một số cán bộ, đảng viên và
người dân hoài nghi đối với chủ nghĩa xã hội, làm giảm lòng tin đối với Đảng và
nhà nước. Một số cán bộ đảng viên tiếp nhận những tư tưởng sai lầm về cải tổ,
cải cách của nước ngoài một cách máy móc, giáo điều; những phần tử cơ hội,
bất mãn đẩy mạnh hoạt động chống lại sự lãnh đạo của Đảng, đòi đa nguyên
chính trị, đa đảng, đòi dân chủ không giới hạn, gây mất ổn định tình hình, cản
trở công cuộc đổi mới. Chủ nghĩa đế quốc và các lực lượng phản động quốc tế
lợi dụng tình hình để chia rẽ ba nước Đông Dương, gây sức ép hơn nữa đối với
nước ta và các nước Đông Dương, hòng giải quyết vấn đề Campuchia có lợi cho
chúng. Các thế lực thù địch ra sức lợi dụng tình hình trên, ráo riết thực hiện âm
mưu “diễn biễn hoà bình” bằng những thủ đoạn kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn
hoá và quân sự rất thâm độc. Chính quyền Mỹ vẫn thi hành chính sách bao vây,
cấm vận, ngăn cản các nước, các tổ chức kinh tế quan quan hệ kinh tế với Việt
Nam.
Đại hội VII Đảng Cộng sản Việt Nam (họp từ 17 - 22/6/1991) trên cơ sở
đánh giá những nguyên nhân tạo nên những thành tựu - hạn chế của việc thực
hiện nghị quyết Trung ương (6, 7, 8) Đại hội VII chỉ những vấn đề mới nảy sinh.
Đại hội thông qua cương lĩnh phương hướng cơ bản về thời kỳ qúa độ đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam và chiến lược ổn định phát triển kinh tế - xã hội (đến
năm 2000) của Việt Nam.
Đảng xác định nhiệm vụ đối ngoại bao trùm là: "giữ vững hoà bình, mở
rộng quan hệ hữu nghị hợp tác, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời góp phần tích cực vào
13
cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ
và tiến bộ xã hội "17
Như vậy, chính sách đối ngoại của Đảng đã phản ánh tính thống nhất giữa
nhiệm vụ đối nội và nhiệm vụ đối ngoại. Đồng thời phản ánh những bài học
kinh nghiệm của quá trình thực hiện đổi mới theo tinh thần đại hội VI của Đảng
là kiên định, quyết tâm đưa sự nghiệp đổi mới tới thành công.
Đại hội còn nhấn mạnh yêu cầu nhiệm vụ của chính sách đối ngoại là "cần
nhạy bén nhận thức và dự báo được những diễn biến phức tạp thay đổi sâu sắc
trong quan hệ quốc tế, sự phát triển mạnh của lực lượng sản xuất và xu thế quốc
tế hóa của nền kinh tế thế giới để có chủ trương đối ngoại phù hợp" 18. So với
Đại hội VI đây là bước phát triển mới của Đảng, về nhận thức chính sách đối
ngoại trước những biến chuyển của tình hình thế giới. Đặc biệt trong xác định
nhiệm vụ chính sách đối ngoại là:"Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước
trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển" mà Đại
hội VII đã đề ra. Thực chất đây là chiến lược chính sách đối ngoại của Đảng,
một dấu ấn quan trọng khẳng định chấm dứt khủng hoảng đường lối phát triển
của Việt Nam.
Trên cơ sở hợp tác bình đẳng cùng có lợi và không phân biệt chế độ chính
trị xã hội, cùng tồn tại hòa bình Đảng, Nhà nước tích cực mở rộng quan hệ hợp
tác với tất cả các nước trên thế giới.
Đối với Liên Xô, Đảng khẳng định "tăng cường đoàn kết và hợp tác toàn
diện", "đổi mới phương thức hợp tác" và "nâng cao hiệu quả" của nó để "đáp
ứng lợi ích mỗi nước"19. Chính sách này của Đảng, Nhà nước là hợp lý khi tình
hình Liên Xô, thế giới có sự thay đổi. Đồng thời nó vẫn bảo đảm: tính nhất quán
truyền thống thủy chung quan hệ Việt - Xô.
Đảng Cộng Sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự Thật, Hà Nội 1991, trang
88
18
Đảng Cộng Sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự Thật, Hà Nội 1991, trang
88
17
Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật 1991, trang 89
Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội, đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật 1991, trang 90
19
20
14
Đối với Lào - Campuchia Đảng nhấn mạnh: "Đổi mới phương thức hợp tác,
chú trọng hiệu quả theo nguyên tắc bình đẳng, tôn trọng độc lập chủ quyền và
lợi ích chính của nhau"20. Đây không chỉ là bước phát triển mới của quan hệ Việt
- Lào, Campuchia mà nó còn phù hợp với các nguyên tắc quốc tế trong đấu
tranh nhằm phát triển các quan hệ quốc tế, đồng thời nó thúc đẩy tiến trình thỏa
thuận giải quyết các vấn đề về Campuchia phù hợp với lợi ích của nhân dân
Campuchia (10/1991 Hiệp định chính thức về Campuchia được công nhận) và
các bên có liên quan trong khu vực Đông Nam Á - Châu Á Thái Bình Dương.
Đối với ASEAN: nhằm tạo môi trường thuận lợi hơn nữa cho sự tham gia
của Việt Nam vào quá trình hợp tác khu vực, nhất là vào ASEAN, tháng 2-1993,
Việt Nam tuyên bố sẵn sàng tham gia ASEAN vào thời điểm thích hợp và trong
chuyến tham chính thức Inđônêxia, Chủ tịch Lê Đức Anh tuyên bố: “Việt Nam
đang xúc tiến những công việc chuẩn bị thiết thực để sớm trở thành thành viên
đầy đủ của ASEAN”.
Xu thế quốc tế hóa trong các khu vực diễn ra nhanh theo xu hướng tự
cường quốc gia - khu vực tạo ra những tiền đề mới để chúng ta mở rộng quan hệ
với các nước trước đây chưa có điều kiện vươn tới. Việt Nam phấn đấu trở thành
bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới vì hòa bình, độc lập và phát
triển. Đây là bước phát triển quan trọng của chính sách đối ngoại của Đảng, nó
đã thu hút sự chú ý quan tâm và hợp tác của các nhà đầutư đối với chính sách
đổi mới ở nước ta, tạo ra bước phát triển mới của chính sách đối ngoại trong
những năm tiếp theo.
Sự phát triển, hoàn chỉnh đường lối đối ngoại được thể hiện trên luật pháp
của Nhà nước. Tháng 4/1992 Quốc hội đã thông qua Hiến pháp mới của Việt
Nam. Sự ra đời của Hiến pháp mới khẳng định Đảng - Nhà nước ta nhận thức rõ
vị trí, tầm quan trọng của chính sách đối ngoại.
Điều 14 Hiến pháp khẳng định: “Việt Nam thực hiện hòa bình, hữu nghị
hợp tác với tất cả các nước trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị xã hội
20
15
khác nhau… tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thỗ của nhau, không
can thiệp vào nội bộ của nhau, bình đẳng và các bên cùng có lợi”.
Chủ trương này đã làm cho chính sách đối ngoại của Đảng, nhà nước phát
triển cả về nội dung - phương hướng chỉ đạo hoạt động đối ngoại, có tính chất
quyết định trong công cuộc đổi mới đất nước; sự phát triển này làm cho "Việt
Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới" từ một định
hướng chiến lược trở thành hiện thực trong chính sách đối ngoại của Đảng - Nhà
nước.
Đa dạng hóa quan hệ đối ngoại tạo cho Việt Nam quan hệ với các nước trên
thế giới không bị ràng buộc về quan niệm chính trị - xã hội. Đa phương hóa là
cơ sở để phát triển quan hệ trong quốc gia và giữa các quốc gia với nhau và với
những tổ chức cá nhân khác mà chúng ta chưa có điều kiện thiết lập quan hệ.
Chính từ sự kết hợp giữa hoạt động đối ngoại chính thức của Đảng - Nhà nước
và hoạt động đối ngoại nhân dân là một bước phát triển mới về chất của nền
ngoại giao Việt Nam trong thời kỳ đổi mới “ làm cho Việt Nam có thể làm bạn
với tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế.
Để đẩy mạnh hơn việc cụ thể hóa các định hướng lớn của Đại hội VII đồng
thời tận dụng những cơ hội mới do tình hình quốc tế đưa lại, nâng cao hơn nữa
những thành tựu đạt được trong đổi mới. Tháng 6/1992 Hội nghị Ban chấp hành
Trung ương lần thứ 3(khoá VII) xác định: “ mục tiêu, tư tưởng chỉ đạo trong
chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta là giữ vững nguyên tắc vì độc
lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội, đồng thời phải rất sáng tạo, năng động, linh
hoạt, phù hợp với vị trí, điều kiện và hoàn cảnh của nước ta, cũng như diễn biến
tình hình thế giới và khu vực”.Trên cơ sở đánh giá "công tác đối ngoại có vị trí
ngày càng quan trọng, góp phần quyết định kết hợp sức mạnh dân tộc, với sức
mạnh thời đại, yếu tố dân tộc với yếu tố quốc tế, yếu tố truyền thống với yếu tố
hiện đại đưa đất nước tiến lên"21.
21
Đảng cộng sản Việt Nam:Văn kiện Hội nghị lần thứ III, BCHTW khóa VII, Nxb CTQG Hà Nội 1994, trang 4
16
Hội nghị đã chủ trương "Đa phương hóa và đa dạng hóa quan hệ đối ngoại
cả về chính trị, kinh tế, văn hóa và khoa học - kỹ thuật, cả về Đảng - Nhà nước
và các đoàn thể nhân dân, các tổ chức phi chính phủ"22
Hội nghị đề ra bốn phương châm xử lý các mối quan hệ đối ngoại trên các
lĩnh vực và đối với các đối tượng là:
Một là, bảo đảm lợi ích dân tộc chân chính, kết hợp nhuần nhuyễn chủ
nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân.
Hai là, giữ vững độc lập tự chủ, tự lực tự cường, đẩy mạnh đa dạng hoá, đa
phương hoá các quan hệ đối ngoại.
Ba là, nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế.
Bốn là, tham gia hợp tác khu vực đồng thời mở rộng quan hệ với tất cả các
nước.
Nổi bật trong quan hệ quốc tế là tồn đọng quan hệ Việt - Mỹ và Việt Trung. Đối với Mỹ, Đảng và Nhà nước đã kết hợp chặt chẽ giữa chính sách đối
ngoại chính thức của Đảng - Nhà nước với chính sách đối ngoại nhân dân cộng
với Hiến pháp và luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, với phương châm kiên
trì, vừa hợp tác vừa đấu tranh đã lôi cuốn nhân dân tiến bộ Mỹ - các thương
nhân kinh doanh Mỹ - các nước ASEAN… gây áp lực buộc Mỹ huỷ bỏ cấm vận
kinh tế với Việt Nam (3/2/1994) và bình thường hóa quan hệ Việt - Mỹ
(11/7/1995). Đi đôi hợp tác với Mỹ trên các lĩnh vực vì lợi ích chính đáng của
nhân dân hai nước, quan hệ Việt - Mỹ phát triển tốt sẽ tạo điều kiện cho ta mở
rộng quan hệ với các nước khác và các tổ chức quốc tế lớn khác.
Đối với Trung Quốc phương châm, chính sách đối ngoại của Việt Nam là
vừa đoàn kết hữu nghị vừa đấu tranh… nhưng đúng mức phấn đấu tạo dựng cục
diện cùng tồn tại hòa bình lâu dài.
Để có môi trường quốc tế thuận lợi cho đất nước ta tiến nhanh "mở rộng
các hình thức giao lưu hợp tác: kinh tế - chính trị - văn hóa - khoa học kỹ thuật du lịch giữa hai nước, nhưng phải làm rõ cho tất cả cán bộ nhân dân ta thấy rõ
bản chất - tham vọng của Trung Quốc. Đồng thời kiên quyết đấu tranh với
22
Đảng cộng sản Việt Nam:Văn kiện Hội nghị lần thứ III, BCHTW khóa VII, Nxb CTQG Hà Nội 1994, trang 6.
17
những hành động sai trái của Trung Quốc vi phạm chủ quyền lợi ích quốc gia
Việt Nam.
3. Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước từ (1996 - 2001)
Phân tích những thuận lợi cũng như khó khăn thách thức mới do bối cảnh
quốc tế, khu vực và thực tế đất nước. Trên cơ sở kế thừa những điểm còn phù
hợp của các kỳ Đại hội VI, VII, bổ sung phát triển những luận điểm thích ứng
với tình hình mới của đất nước và thế giới. Đảng đã chủ trương mở rộng quan hệ
quốc tế, hợp tác nhiều mặt song phương và đa phương với các quốc gia, tổ chức
quốc tế và khu vực trên nguyên tắc chỉ đạo là tôn trọng độc lập, chủ quyền, và
toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình
đẳng và cùng có lợi, giải quyết các vấn đề tồn tại và tranh chấp bằng thương
lượng hòa bình.
Nếu như Đại hội VI, Đảng chủ trương "cùng tồn tại hòa bình giữa các nước
có chế độ chính trị khác nhau", Đại hội VII Đảng mong muốn "Hợp tác bình
đẳng và cùng có lợi với tất cả các nước, không phân biệt chế độ chính trị - xã
hội khác nhau trên nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình". Thì ở đại hội VIII chủ
trương của Đảng trong vấn đề quan hệ quốc tế đã đi vào chiều sâu bằng lời
tuyên bố "Việt Nam coi trọng quan hệ với các nước phát triển và các trung tâm
kinh tế - chính trị thế giới" trên cơ sở giữ vững các mối quan hệ truyền thống,
láng giềng và khu vực. Như vậy, Đại hội VIII đã cụ thể hóa đối tượng quan hệ
quốc tế, mở rộng quan hệ của ta với các nước lớn, bảo đảm cho sự hợp tác song
phương.
Trong quan hệ quốc tế, các nước lớn và các trung tâm quyền lực kinh tế chính trị trên thế giới ngày càng có ảnh hưởng tới các quốc gia, khu vực. Việc
coi trọng quan hệ với các nước và các tổ chức này thực sự là một nhu cầu cần
thiết và cấp bách, nó có ý nghĩa vô cùng to lớn trong công cuộc xây dựng và
phát triển đất nước.
Đại hội VIII cũng đã đề ra nhiệm vụ mới cho công tác đối ngoại đó là "tăng
cường hoạt động ở liên hiệp quốc, tổ chức các nước nói tiếng Pháp, các tổ chức
tài chính tiền tệ quốc tế, tổ chức thương mại quốc tế và các tổ chức quốc tế khác
18
tích cực đóng góp cho hoạt động ở các diễn đàn quốc tế, tham gia giải quyết các
vấn đề toàn cầu". Như vậy chính sách đối ngoại tại Đại hội VIII đã khẳng định
hướng đi đúng đắn trong quan hệ với các tổ chức quốc tế bằng cách bổ sung và
phát triển luận điểm của đại hội VII đề ra. Đồng thời mở thêm chương trình mới
trong chính sách đối ngoại Việt Nam, xác định quyền và nghĩa vụ của Việt Nam
đối với các vấn đề toàn cầu, từng bước làm tăng vai trò, vị thế Việt Nam trên
diễn đàn quốc tế.
Hoạt động đối ngoại do Đại hội VIII đề ra có những định hướng chiến lược
trong công tác chỉ đạo hoạt động đối ngoại trong thời gian tiếp đó. Định hướng
này một lần nữa khẳng định và bổ sung tại Hội nghị Trung ương lần thứ 4 của
Đảng (khóa VIII) ( tháng 12/1997). Tại Hội nghị này Đảng đã nêu quan điểm về
chính sách đối ngoại, mà cụ thể là công tác hội nhập quốc tế. Một mặt tiến hành
khẩn trương, vững chắc việc đàm phán Hiệp định thương mại Việt - Mỹ, gia
nhập APEC và WTO, có kế hoạch cụ thể, chủ động thực hiện các cam kết trong
khuôn khổ AFTA. Mặt khác, mở rộng quan hệ đối ngoại để tranh thủ vốn, công
nghệ và gia nhập thị trường quốc tế nhưng phải trên cơ sở độc lập tự chủ. Đồng
thời độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường là cơ sở vững chắc để đẩy mạnh hơn nữa
đoàn kết quốc tế nhằm góp phần xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo
vệ vững chắc Tổ quốc.
Đại hội IX đánh giá: “quan hệ đối ngoại không ngừng được mở rộng, hội
nhập kinh tế quốc tế được tiến hành chủ động và đạt nhiều kết quả tốt”. Nước ta
đã tăng cường quan hệ hữu nghị, hợp tác nhiều mặt với các nước xã hội chủ
nghĩa, các nước láng giềng, các nước bạn bè truyền thống. Việt Nam đã tham
gia tích cực các hoạt động thúc đẩy sự hợp tác cùng có lợi trong hiệp hội các
nước ASEAN và diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương. Tăng
cường quan hệ với các nước phát triển và nhiều nước, nhiều tổ chức khu vực và
quốc tế khác. Lúc này Việt Nam có quan hệ thương mại với hơn 140 nước, quan
hệ đầu tư với gần 70 nước và vùng lãnh thổ, thu hút được nhiều nguồn vốn đầu
tư từ nước ngoài.
19
Chính sách đối ngoại của Đảng giai đoạn (1996 - 2001) đã đứng vững trên
hai chân đối nội và đối ngoại đồng thời nó cũng khẳng định: Chính sách "đa
phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại" của Đảng, Nhà nước phù hợp với
mục tiêu Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, nó
đánh dấu sự hoàn tất của việc đặt nền móng cho mối quan hệ giữa Việt Nam và
các nước trong khu vực Châu Á Thái Bình Dương và trên thế giới; trong bất cứ
hoàn cảnh nào Việt Nam luôn gắn lợi ích của quốc gia với lợi ích của khu vực
và lợi ích của nhân dân lao động trên thế giới phấn đấu vì một nền hòa bình, độc
lập dân tộc và phát triển.
4. Chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước từ (2001 - 2006)
Ngày 19/04/2001, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã diễn
ra tại Hà Nội. Đảng đã đề ra chính sách đối ngoại trong thời gian tới trên cơ sở
tiếp tục phát huy tinh thần của các Đại hội VI, VII, VIII. Đó là: "thực hiện nhất
quán đường lối đối ngoại tự chủ, mở rộng đa phương hóa, đa dạng hóa các quan
hệ quốc tế, Việt Nam muốn là bạn và là đối tác tin cậy của các nước trong cộng
đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”.
Đại hội IX nêu lên nguyên tắc, nhiệm vụ chung và nhiệm vụ cụ thể của
công tác đối ngoại:
* Về nguyên tắc trong quan hệ đối ngoại:
Chính sách đối ngoại gắn liền với chính sách đối nội, nhiệm vụ dân tộc và
nhiệm vụ quốc tế. Mục tiêu chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta nhằm
thực hiện mục tiêu chung là xây dựng Việt Nam dân giàu, nước mạnh xã hội
công bằng, dân chủ văn minh. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng
đề ra nguyên tắc trong quan hệ đối ngoại của Đảng Đảng và Nhà nước ta là:
- Tôn trọng độc lập, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào
công việc nội bộ của nhau, không dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực.
Đây là nguyên tắc cơ bản, là quan điểm nhất quán trong quan hệ đối ngoại
của Đảng và Nhà nước ta và phù hợp với quy luật của luật pháp quốc tế. Việt
Nam tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, quyền lựa chọn chế độ
chính trị của các nước trên thế giới không can thiệp, không dùng vũ lực và đe
20
doạ dùng vũ lực trong quan hệ với các nước khác, kiên quyết chống lại sự can
thiệp, áp đặt, xâm phạm đến độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất
nước ta.
- Bình đẳng và cùng có lợi. Quyền bình đẳng giữa các quốc gia, dù lớn
hay nhỏ đã được khẳng định trong Hiến chương Liên Hợp Quốc thực hiện quyền
bình đẳng chính là đảm quyền sống, quyền tự do, mưu cầu hạnh phúc và phát
triển của mỗi dân tộc, khẳng định tôn trọng quyền bình đẳng thể hiện tư thế và
vị trí của Việt Nam trong quan hệ quốc tế.
- Giải quyết các bất đồng tranh chấp bằng thương lượng hoà bình.
Trong bối cảnh tình hình thế giới diễn biến phức tạp, sự bất đồng và tranh
chấp giữa các nước, các khu vực về kinh tế, chính trị, dân tộc, tôn giáo, biên
giới… là khó tránh khỏi. Với tinh thần đổi mới, phương châm xử lý quan hệ quốc
tế của chúng ta là hoà bình, tôn trọng độc lập chủ quyền của mỗi nước, phát huy
những điểm tương đồng, hạn chế những điểm bất đồng, kiên quyết phản đối dùng
vũ lưc, giải quyết các tranh chấp bằng thương lượng hoà bình.
- Làm thất bại mọi âm mưu và hành động gây sức ép, áp đặt và cường
quyền. Đây là nguyện vọng chung, là yêu cầu bức xúc của nhiều nước trên thế
giới và là một nguyên tắc chỉ đạo hoạt động đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta.
Thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở với các nguyên tắc nêu trên chúng ta
tôn trọng độc lập chủ quyền của mỗi nước, bảo vệ các nước nghèo, nhỏ yếu,
chống chủ nghĩa nước lớn và chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi. Kiên quyết làm thất bại
âm mưu và hành động gây sức ép hoặc áp đặt, đe doạ đến lợi ích của dân tộc.
* Nhiệm vụ chung của công tác đối ngoại
Hiến pháp nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã khẳng định
nhiệm vụ đối ngoại là: "Thực hiện chính sách hoà bình, hữu nghị mở rộng giao
lưu và hợp tác với tất cả các nước trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị
và xã hội khác nhau, trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh
thổ của nhau, bình đẳng và các bên cùng có lợi, tăng cường tình đoàn kết hữu
nghị và quan hệ hợp tác với các nước xã hội chủ nghĩa và các nước láng giềng,
21
tích cực ủng hộ và góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì
hoà bình độc lập dân tộc dân chủ và tiến bộ xã hội"23.
Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa
phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế, Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối
tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập
và phát triển. Nhiệm vụ chung của công tác đối ngoại hiện nay là:
"Tiếp tục giữ vững môi trường hoà bình và tạo các điều kiện quốc tế
thuận lợi để phát triển kinh tế xã hội, công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước,
xây dựng và bảo vệ tổ quốc, đảm bảo độc lập chủ quyền quốc gia, đồng thời góp
phần tích cực vào cuộc đấu tránh chung của nhân dân thế giới, vì hoà bình, độc
lập dân tộc dân củ và tiến bộ xã hội”24
- Tiếp tục giữ vững môi trường hoà bình và tạo các điều kiện quốc tế
thuận lợi để phát triển kinh tế xã hội, công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước,
xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
- Đảm bảo độc lập và chủ quyền quốc gia.
Trong bối cảnh toàn cầu hoá, cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập và chủ quyền
quốc gia của chúng ta diễn ra trên tất cả các lĩnh vực. Trước hết là bảo vệ sự
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ độc lập tự chủ về đường lối và chính
sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ
độc lập tự củ về kinh tế, bản sắc văn boá dân tộc, quyền lợi quốc gia trong quan
hệ quốc tế.
- Góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì
hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Với thắng lợi của công
cuộc đổi mới, với uy tín, vị thế và kinh nghiệm, Việt Nam đã và đang góp phần
quan trọng và cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới, đồng thời cũng có
điều kiện quốc tế thuận lợi để xây dựng và phát triển đất nước. Đây vừa là trách
nhiệm vừa là nghĩa vụ quốc tế của chúng ta.
23
24
Hiến pháp năm 1992 của nước CHXHCN Việt Nam, trang 17 -18
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG Hà Nội 2001, trang 119-120
22
- Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế với khu vực Hội nhập kinh tế và khu
vực là một yêu cầu khách quan hiện nay. Xu thế toàn cầu hoá ngày càng tăng đã
tác động mạnh mẽ trên cả mặt tích cực và tiêu cực tới tất cả các nước.
Muốn hội nhập quốc tế, tiếp thu được những kinh nghiệm quý, vốn, khoa
học và công nghệ mới.. phải có tinh thần chủ động và có thực lực kinh tế đủ
mạnh để có ưu thế và lợi thế so sánh. Để tăng cường thực lực kinh tế, khả năng
cạnh tranh, tạo ra thế và lực cao hơn cần phát huy nội lực. Phát huy tối đa nội
lực và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế là điều kiện để chủ động hội nhập kinh
tế quốc tế. Thực hiện tốt nhiệm vụ chung, chủ yếu của công tác đối ngoại trên
nhất định chúng ta sẽ tạo ra sức mạnh tổng hợp, góp phần tạo ra thế và lực mới,
cả bên trong lẫn bên ngoài, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện
đại hóa đất nước.
* Nhiệm vụ cụ thể của chính sách đối ngoại:
+ Coi trọng và phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước xã hội
chủ nghĩa và các nước láng giềng.
+ Tiếp tục mở rộng quan hệ với với các nước bạn bè truyền thống, các
nước độc lập dân tộc, các nước đang phát triển. Chủ trương của Đảng và Nhà
nước ta là tiếp tục mở rộng quan hệ với các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu
và Liên Xô trước đây và một số nước khác với có quá trình lịch sử hợp tác nước
ta. Tiếp tục mở rộng quan hệ với các nước độc lập dân tộc, các nước đang phát
triển ở Châu Á, Châu Phi., Trung Đông và Mỹ La Tinh, các nước trong phong
trào không liên kết.
+ Thúc đẩy quan hệ đa dạng hóa với các nước phát triển và các tổ chức
quốc tế. Đẩy mạnh hoạt động ở các diễn đàn đa phương.
+ Tích cực tham gia giải quyết các vấn đề toàn cầu. Thế giới hiện nay
đang đứng trước những vấn đề tòan cầu mà không một quốc gia riêng lẻ nào có
thể tự giải quyết được như chiến tranh và hòa bình, bảo vệ môi trường, hạn chế
bùng nổ dân số, phòng chống ma túy và tội phạm quốc tế, đẩy lùi những bệnh
hiểm nghèo… Nhận thức đúng và tham gia tích cực giải quyết các vấn đề độc
lập, chủ quyền và lợi ích quốc gia của nước ta.
23
+ Củng cố và tăng cường quan hệ đoàn kết và hợp tác với các Đảng cộng
sản và công nhân, với các Đảng Cộng sản và công nhân với các đảng cánh tả và
các phong trào giải phóng và độc lập dân tộc, với các phong trào cách mạng và
tiến bộ trên thế giới.
+ Tiếp tục rở rộng quan hệ với các Đảng cầm quyền các Đảng cầm quyền
hiện nay đều có tiếng nói và có thể mạnh nhất định về chính trị, kinh tế và kinh
nghiệm quản lý đất nước. Việc thiết lập quan hệ với các Đảng cầm quyền và thể
hiện chính sách đối ngoại rộng mở của chúng ta.
+ Mở rộng hơn nữa công tác đối ngoại nhân dân.
Ngoại giao nhân dân có vai trò quan trọng trong việc huy động nguồn lực,
trí tuệ khoa học, vốn đầu tư xây dựng đất nước, thúc đẩy giao lưu, hiểu biết lẫn
nhau giữa Việt Nam và các nước. Thông qua đó nhân dân thế giới hiểu biết ta
hơn và tác động tích cực đến chính phủ ủng hộ, hợp tác với Việt Nam; chúng ta
có thêm mặt trận đấu tranh chống thế thực phản động và thù địch, thúc đẩy hòa
bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở khu vực và trên thế giới.
Trên cơ sở kiên định đường lối độc lập tự chủ, chính sách đối ngoại rộng
mở, đa phương hoá, đa dạng hoá công tác đối ngoại, Nghị quyết Trung ương
chín (khoá IX) đã đánh giá ưu điểm và hạn chế của 3 năm thực hiện Nghị quyết
Đại hội IX.
* Về ưu điểm:
- Đã củng cố và tăng cường quan hệ đoàn kết, hợp tác và hữu nghị với các
nước xã hội chủ nghĩa, các nước láng giềng có chung biên giới; góp phần tích
cực củng cố sự gắn kết, giữ vững những nguyên tắc cơ bản của ASEAN, thúc
đẩy hợp tác nội khối và bên ngoài.
- Tiếp tục mở rộng và tăng cường quan hệ hợp tác phát triển ổn định, lâu
dài với nhiều nước khác trên thế giới. Mở rộng quan hệ với các nước bạn bè
truyền thống: thúc đẩy quan hệ đối tác chiến lược với Nga, sự hợp tác chiến lược
với các nước SNG và Đông Âu; mở rộng thêm một bước quan hệ hợp tác với
các nước độc lập dân tộc, các nước đang phát triển ở Châu Á, Châu Phi, Trung
Đông và Mỹ La Tinh; tiếp tục thúc đẩy quan hệ hợp tác phát triển, ổn định lâu
24
dài với các nước lớn khác: Mỹ, EU, Nhật Bản. Tăng cường quan hệ với các tổ
chức quốc tế.
- Tích cực tham gia giải quyết các vấn đề toàn cầu như xoá đói, giảm
nghèo, phòng chống các bệnh dịch hiểm nghèo (HIV/AIDS, SARD), chống
khủng bố, phòng chống thiên tai, bảo vệ môi trường; ủng hộ và tích cực tham
gia vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới chống chiến tranh, chay đua vũ
trang, áp đặt và can thiệp, bảo vệ hoà bình, độc lập, chủ quyền,toàn vẹn lãnh thổ
của các nước.
- Quan hệ đối ngoại của Đảng được mở rộng, hoạt động đối ngoại nhân dân
sống động hơn. Tiếp tục củng cố và tăng cường quan hề đoàn kết và hợp tác với
các đảng cộng sản và công nhân, các đảng cầm quyền, các chính đảng, các
phong trào giải phóng và độc lập dân tộc, các phong trào cách mạng và tiến bộ
trên thế giới; duy trì và mở rông quan hệ với các đảng cầm quyền ở một số
nước.
- Xử lý kịp thời và có hiệu quả các vấn đề phức tạp nảy sinh trong quan hệ
với các nước, đấu tranh kiên quyết và khôn khéo với những âm mưu và hành
động của các thế lực bên ngoài xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất và
toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, góp phần giữ vững ổn định chính trị, an ninh của
đất nước.
* Một số hạn chế:
- Công tác nghiên cứu chiến lược, dự báo tình hình còn yếu; chưa tạo được
sự thống nhất cao trong nhận thức, nhất là chủ trương trong quan hệ với một số
nước lớn; trong một số trường hợp còn bị động đối phó với tình hình; sự phối
hợp giữa hai mặt “hợp tác” và “đấu tranh” chưa thật nhuần nhuyễn; việc xử lý
mối quan hệ giữa yêu cầu giữ vững ổn định trong nước và mở rộng quan hệ đối
ngoại còn có lúc lúng túng.
- Quan hệ hợp tác vối các nước chưa sâu và chưa vững chắc, quan hệ kinh
tế và chính trị nhiều khi chưa gắn kết với nhau; trong một số trường hợp cụ thể
còn có sơ hở. Việc xây dựng cơ chế quản lý thống nhất các hoạt động đối ngoại
còn chậm.
25
Chính sách đối ngoại đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta, là nhân tố quan
trọng góp phần giữ gìn hoà bình, cải thiện và nâng cao vị thế của nước ta trên
thế giới, tạo môi trường thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.
Đó cũng là sự đóng góp tích cực của nhân dân ta vào sự nghiệp chung của nhân
dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Nghị quyết Trung ương 9 (khoá IX) nhấn mạnh chính sách đối ngoại của
Việt Nam trong thời gian tới đứng trước những thời cơ và thách thức mới. Do
vậy, cần quán triệt và tổ chức thực hiện tốt những chủ trương và nhiệm vụ của
công tác đối ngoại.
* Về chủ trương công tác đối ngoại:
Tiếp tục củng cố và tăng cường quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa Việt Nam
và các nước láng giềng có chung biên giới, các nước xã hội chủ nghĩa và các
nước trong khu vực. Tích cực chủ động góp phần giữ vững các nguyên tắc cơ
bản của ASEAN, tăng cường gắn kết trong Hiệp hội, hạn chế tác động phân hoá
từ bên ngoài, đẩy mạnh hợp tác kinh tế.
Tiếp tục thúc đẩy quan hệ với các nước lớn trên nguyên tắc bình đẳng,
cùng có lợi, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, xử lý khôn khéo
trong quan hệ, hết sức tránh bị rơi vào thế đối đầu, cô lập hay lệ thuộc.
Thúc đẩy quan hệ với các nước đang phát triển, nâng cao vị thế của nước
ta trong phong trào Không liên kết, nhóm 77, tích cực triển khai kết quả Hội
thảo về Châu Phi để mở rộng quan hệ với Châu Phi. Tích cực tham gia các hoạt
động ngoại giao đa phương; tổ chức tốt Hội nghị cấp cao Á- Âu lần thứ
5(ASEM 5), cấp cao APEC. Nâng cao vị thế nước ta trong các tổ chức quốc tế.
Tăng cường quan hệ đoàn kết, hợp tác với các đảng cộng sản, công nhân,
duy trì quan hệ với các đảng cầm quyền, các chính đảng khác, các phong trào
cách mạng và tiến bộ trên thế giới. Tăng cường công tác đối ngoại nhân dân.
* Về Nhiệm vụ của công tác đối ngoại:
Thứ nhất, đẩy mạnh công tác thông tin nghiên cứu, dự báo tình hình khu
vực và thế giới, tăng cường hơn nữa công tác thông tin đối ngoại và văn hóa đối
ngoại.