Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO PHƯƠNG THỨC LÃNH đạo của ĐẢNG CỘNG sản VIỆT NAM cầm QUYỀN đối với hệ THỐNG CHÍNH TRỊ ở nước TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (198.53 KB, 26 trang )

“Phương thức lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền đối
với hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay”
LỜI NÓI ĐẦU
Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt
Nam, ngay từ khi ra đời đã giành được quyền lãnh đạo cách mạng Việt Nam,
trở thành nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng, được lịch sử
cách mạng và xã hội thừa nhận như một tất yếu của lịch sử. Dưới sự lãnh đạo
của Đảng, nhân dân ta đã đứng lên làm cách mạng, giành lấy quyền lực và tổ
chức ra hệ thống chính trị của mình. Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà
nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội là trụ cột của cơ chế vận
hành của cả hệ thống chính trị nước ta. Đảng là tổ chức cấu thành hệ thống
chính trị, nhưng Đảng lãnh đạo cả hệ thống ấy. Sự lãnh đạo của Đảng được
thể hiện ở nội dung lãnh đạo, phương thức lãnh đạo và lề lối làm việc, tác
phong công tác, trong đó phương thức lãnh đạo có vai trò đặc biệt quan trọng,
quyết định đến bản chất cách mạng của cả hệ thống chính trị, tạo động lực
cho các tổ chức trong hệ thống chính trị phát huy vai trò, vị trí của mình, góp
phần tạo nên thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Nhờ có phương thức lãnh đạo thích hợp mới thực hiện được sự lãnh
đạo của Đảng, chuyển tải nội dung để tác động đến đối tượng lãnh đạo nhằm
thực hiện mục đích đề ra. Phương thức lãnh đạo là một hệ thống các hình
thức, biện pháp, phương pháp mà Đảng sử dụng để tác động đến đối tượng
lãnh đạo nhằm thực hiện nhiệm vụ chính trị do Đảng đề ra. Phương thức lãnh
đạo phụ thuộc trước hết vào đối tượng lãnh đạo, vào hoàn cảnh, điều kiện lịch
sử trong nước và thế giới, vào sự phát triển khoa học và công nghệ, vào
nhiệm vụ chính trị thực tiễn của Đảng trong từng giai đoạn và vào chủ thể
lãnh đạo là Đảng. Do đó, phương thức lãnh đạo của Đảng không phải là bất
biến mà cũng thay đổi theo từng giai đoạn của cách mạng. Khi Đảng đã nắm
chính quyền, phương thức lãnh đạo của Đảng cũng có sự thay đổi so với khi
Đảng chưa giành được chính quyền.



Từ khi lãnh đạo thực hiện đường lối đổi mới đến nay, Đảng ta ngày
càng nhận thức rõ hơn ý nghĩa, tầm quan trọng của việc đổi mới phương thức
lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị. Trong các Nghị quyết của Đại
hội Đảng toàn quốc từ Đại hôi VI đến Đại hội XI đều khẳng định yêu cầu đổi
mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Trong đó, Nghị quyết số 15 -NQ/TW,
được thông qua tại Hội nghị Trung ương 5, khoá X về Tiếp tục đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị đã
khẳng định: "Những đổi mới trong phương thức lãnh đạo của Đảng đối với
hoạt động của hệ thống chính trị đã góp phần nâng cao hơn hiệu quả lãnh đạo
của Đảng, đồng thời phát huy tốt hơn vai trò quản lý của Nhà nước theo quy
định của pháp luật, nâng cao hơn chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc
và các đoàn thể, đóng góp tích cực vào những thành tựu chung của đất
nước"1. Đến Đại hội XI của Đảng tiếp tục khẳng định: “Tập trung rà soát, bổ
sung, điều chỉnh, ban hành mới, xây dựng đồng bộ hệ thống các quy chế, quy
định, quy trình công tác để tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng
đối với hoạt động của hệ thống chính trị. Khắc phục tình trạng Đảng bao biện,
làm thay hoặc buông lỏng lãnh đạo các cơ quan quản lý nhà nước”2.
NỘI DUNG
1. Một số vấn đề về hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay
1.1. Khái niệm, cấu trúc hệ thống chính trị ở nước ta
Trong mọi xã hội có giai cấp, quyền lực của giai cấp cầm quyền được
thực hiện bằng một hệ thống thiết chế và tổ chức chính trị nhất định. Đó là
một chỉnh thể các tổ chức chính trị hợp pháp trong xã hội, bao gồm các đảng
chính trị, nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội được liên kết với nhau
trong một hệ thống tổ chức, nhằm tác động vào các quá trình của đời sống xã
hội; củng cố, duy trì và phát triển chế độ chính trị phù hợp với lợi ích của giai
cấp cầm quyền.
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khoá X, Nxb.
CTQG, Hà Nội, 2007, tr.109.
2 Báo cáo Chính trị của BCHTW Đảng khóa X tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, tr46

1


Hệ thống chính trị xuất hiện cùng với sự thống trị của giai cấp, nhà nước
nhằm thực hiện đường lối chính trị của giai cấp cầm quyền. Do đó, hệ thống
chính trị mang bản chất giai cấp. Trong chủ nghĩa xã hội, giai cấp công nhân và
nhân dân lao động là chủ thể thực sự của quyền lực, tự mình tổ chức và quản lý
xã hội, quyết định nội dung hoạt động của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa.
Như vậy, hệ thống chính trị là tổ hợp có tính chỉnh thể các thể chế
chính trị (nhà nước, các đảng chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ
chức xã hội, các tổ chức xã hội nghề nghiệp...) được xây dựng trên các quyền
và các chuẩn mực xã hội, phân bố theo một kết cấu chức năng nhất định, vận
hành theo những nguyên tắc, cơ chế và quan hệ cụ thể, nhằm thực thi quyền
lực chính trị.
Ở nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời năm 1930 đã chấm dứt thời
kỳ bế tắc, khủng hoảng về đường lối cứu nước hơn hai phần ba thế kỷ, kể từ
khi nước ta bị đế quốc Pháp xâm lược; đồng thời đánh dấu một bước ngoặt
quyết định trong phong trào cách mạng và đời sống chính trị của nhân dân ta.
Dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và bằng sự tập hợp lực lượng của các tổ
chức quần chúng, cách mạng nước ta đã trải qua 15 năm đấu tranh gian khổ
hy sinh, vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách và giành được chính quyền
trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đập tan ách thống trị và xóa bỏ chính
quyền nhà nước của thực dân và phong kiến, lập nên nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa, mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử của nước ta. Sau Cách
mạng Tháng Tám năm 1945, Đảng thiết lập hệ thống chính quyền mới, đồng
thời lãnh đạo nhân dân ta tiến hành các cuộc kháng chiến chống xâm lược,
giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc, đưa nước ta bước
vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Về cấu trúc, hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay bao gồm: Đảng Cộng
sản Việt Nam; Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Quốc hội,

Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân và
Chính quyền địa phương) và các tổ chức chính trị - xã hội (Mặt trận Tổ quốc


Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ
Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội
Cựu chiến binh Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội hợp pháp khác)
hoạt dộng trên cơ sở liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân
và dội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, thực hiện
và bảo đảm quyền làm chủ đầy đủ của nhân dân.
1.2. Vị trí, vai trò của hệ thống chính trị ở nước ta
Trong hệ thống chính trị, các bộ phận cấu thành có vị trí vai trò không
ngang bằng nhau do chức năng khác nhau của nó quy định. Ở nước ta hiện
nay, giai cấp công nhân và nhân dân lao động đang là chủ thể chân chính của
quyền lực. Vì vậy, hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng là công cụ
thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động. Hệ thống chính trị của nước
ta gồm nhiều tổ chức, mỗi tổ chức có vị trí, vai trò khác nhau do chức năng,
nhiệm vụ của từng tổ chức, nhưng cùng tác động vào các quá trình phát triển
kinh tế - xã hội nhằm đảm bảo quyền lực của nhân dân.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong
của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và
của dân tộc Việt nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân,
nhân dân lao động và của cả dân tộc. Đảng là một bộ phận của hệ thống chính
trị nhưng lại là hạt nhân lãnh đạo của toàn bộ hệ thống chính trị.
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nhà nước là trụ cột của
hệ thống chính trị ở nước ta, là công cụ tổ chức thực hiện ý chí và quyền lực
của nhân dân, thay mặt nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân để quản lý
toàn bộ hoạt động của đời sống xã hội. Đó chính là Nhà nước của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân. Mặt khác, Nhà nước chịu sự lãnh đạo của giai cấp
công nhân, thực hiện đường lối chính trị của Đảng. Đảng lãnh đạo Nhà nước

thực hiện và đảm bảo đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân. Theo đó, Nhà nước
xã hội chủ nghĩa vừa là cơ quan quyền lực, vừa là bộ máy chính trị, hành chính,
vừa là tổ chức quản lý kinh tế, văn hoá, xã hội của nhân dân. Quyền lực Nhà


nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Quốc hội là cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực
Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội
do nhân dân trực tiếp bầu ra, Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập ra
Hiến pháp và luật pháp (lập hiến và lập pháp). Quốc hội quyết định những
chính sách cơ bản về đối nội, đối ngoại, nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội,
những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước, về
quan hệ xã hội và hoạt động của công dân. Quốc hội thực hiện quyền giám sát
tối cao với toàn bộ hoạt động của Nhà nước.
Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính cao
nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Chính phủ thống nhất
quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, an
ninh, quốc phòng và đối ngoại của Nhà nước. Chính phủ là cơ quan chấp
hành, chịu trách nhiệm trước Quốc hội và phải báo cáo công tác với Quốc hội.
Cơ quan tư pháp gồm: Toà án, Viện kiểm sát và các cơ quan điều tra.
Đây là những cơ quan được lập ra trong hệ thống tổ chức Nhà nước để xử lý
những tổ chức và cá nhân vi phạm pháp luật, đảm bảo việc thực thi pháp luật
một cách nghiêm minh, chính xác. Toà án các cấp là cơ quan nhân danh Nhà
nước, thể hiện thái độ và ý chí của Nhà nước trước các vụ án thông qua hoạt
động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Toà án là cơ quan duy nhất có quyền
áp dụng chế tài hình sự, không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi
chưa có bản án kết tội của toà án đã có hiệu lực pháp luật. Để đảm bảo pháp
luật được chấp hành nghiêm chỉnh, đảm bảo việc xét xử đúng người đúng tội,
Viện kiểm sát nhân dân được tổ chức thành hệ thống, tập trung thống nhất và

độc lập thực hiện thẩm quyền của mình đối với các cơ quan khác của Nhà
nước. Thực hiện các quyền khởi tố, kiểm sát các hoạt động điều tra, truy tố...
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội. Đây là những tổ chức
chính trị-xã hội hợp pháp được tổ chức để tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân


dân theo nguyên tắc tự nguyện, tự quản đại diện cho lợi ích của nhân dân,
tham gia vào hệ thống chính trị, tuỳ theo tính chất, tôn chỉ, mục đích của mình
nhằm bảo vệ quyền lợi dân chủ của nhân dân. “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
các đoàn thể nhân dân có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết
toàn dân tộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp, chính đáng của nhân dân, chăm lo lợi ích của các đoàn viên, hội
viên; thực hiện dân chủ và xây dựng xã hội lành mạnh; tham gia xây dựng
Đảng, Nhà nước; giáo dục lý tưởng và đạo đức cách mạng, quyền và nghĩa vụ
công dân, tăng cường mối liên hệ giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước”3. Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân là cơ sở chính trị của chính
quyền nhân dân, nơi thể hiện ý chí và nguyện vọng của nhân dân; phát huy
khả năng tham gia bầu cử Quốc hội và Hội đồng Nhân dân; tuyên truyền vận
động nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; thực
hiện giám sát của nhân dân với cán bộ, công chức và giải quyết những mâu
thuẫn trong nội bộ nhân dân.
Hệ thống chính trị ở nước ta được tổ chức theo một hệ thống từ Trung
ương đến cơ sở. Hệ thống chính trị ở cơ sở bao gồm: Tổ chức cơ sở Đảng,
Hội đồng Nhân dân xã, phường; Uỷ ban Nhân dân xã, phường; Mặt trận Tổ
quốc xã, phường và các tổ chức chính trị- xã hội khác như: Đoàn Thanh niên
Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh xã,
phường, thị trấn… Tất cả các tổ chức trên đều có vị trí, vai trò và nhiệm vụ
được quy định trong Luật Tổ chức của hệ thống chính trị ở nước ta và có vai
trò rất quan trọng trong việc tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường
lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tăng cường đại đoàn kết

toàn dân tộc, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, huy động mọi khả năng
phát triển kinh tế-xã hội, tổ chức cuộc sống của cộng đồng dân cư.
2. Đặc điểm, vai trò và nội dung lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam cầm quyền đối với hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ qua độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm
2011), tr9.
3


2.1. Đặc điểm chi phối hoạt động xây dựng và lãnh đạo của Đảng
trong điều kiện Đảng cầm quyền
Thứ nhất là, nhiệm vụ chính trị của Đảng thay đổi căn bản
Khi đã đấu tranh lật đổ chế độ cũ, giành được chính quyền, thiết lập
được sự thống trị của giai cấp công nhân và nhân dân lao động đối với toàn
bộ xã hội. Dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản tiến hành cuộc cách mạng xã
hội chủ nghĩa, xây dựng xã hội mới và bảo vệ những thành quả cách mạng đã
đạt được. Khi đã có chính quyền, giai cấp công nhân từ địa vị nô lệ, cùng với
nhân dân lao động lên nắm giữ vai trò làm chủ đất nước. Khi đó nhiệm vụ của
Đảng, của giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động thay đổi căn
bản so với trước khi chưa giành được chính quyền. Nhiệm vụ tổ chức xây
dựng và quản lý đất nước là một nhiệm vụ có nội dung đa dạng, phong phú,
rộng lớn và tính chất mới mẻ, phức tạp, khác với nhiệm vụ giành chính quyền.
Theo V.I Lênin, đây là thời kỳ chủ nghĩa xã hội từ lĩnh vực lý luận chuyển sang
lĩnh vực thực tiễn, nhiệm vụ quản lý đã trở thành nhiệm vụ chủ yếu và trung
tâm. Vì vậy, đòi hỏi phương thức lãnh đạo của Đảng cộng sản cũng phải đổi
mới để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới.
Đảng cầm quyền, trọng trách của Đảng trước vận mệnh của toàn dân tộc
rất to lớn, xây dựng xã hội phát triển toàn diện, đất nước giàu mạnh, nhân dân tự
do, ấm no hạnh phúc. Nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội rất khó khăn, gian
khổ, lâu dài, đặt ra những yêu cầu mới. Trước đây, nhiệm vụ hàng đầu của

Đảng là đấu tranh lật đổ chính quyền cũ của giai cấp bóc lột thì hiện nay nhiệm
vụ hàng đầu của Đảng là lãnh đạo xây dựng chính quyền mới của giai cấp công
nhân và quần chúng nhân dân lao động, phát huy vai trò của chính quyền trong
xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ và phát triển đất nước.
Thứ hai là, có nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của dân, do dân
và vì dân là công cụ để quản lý và điều hành đất nước
Nhà nước xã hội chủ nghĩa ra đời là công cụ sắc bén để Đảng thực hiện
sự lãnh đạo của mình đối với xã hội. Thông qua các hoạt động của Nhà nước


mà quan điểm, đường lối, chính sách lớn của Đảng được cụ thể hoá, thể chế
hoá và tổ chức thực hiện có hiệu quả. Để đảm bảo cho Nhà nước phát huy
hiệu lực, thực sự là Nhà nước của dân, do dân và vì dân phải có sự lãnh đạo
của Đảng đối với Nhà nước. Vì vậy, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng không
đối lập mà thống nhất với nâng cao quyền lực của Nhà nước đối với việc quản
lý và điều hành đất nước. Thông qua sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
mà Đảng củng cố và phát triển mối quan hệ giữa Đảng với giai cấp công nhân
và nhân dân lao động. Đảng lãnh đạo Nhà nước là điều kiện cơ bản khẳng
định địa vị cầm quyền của Đảng. Thông qua việc lựa chọn đội ngũ đảng viên
của Đảng bố trí vào làm việc, giữ hầu hết các cương vị chủ chốt trong các cơ
quan Nhà nước, để thực hiện vai trò lãnh đạo của Đảng cầm quyền. Tuy nhiên,
khi có chức, có quyền đội ngũ cán bộ, đảng viên nếu thiếu tu dưỡng, rèn luyện
sẽ dẫn đến quan liêu, hách dịch, xa rời quần chúng, tham ô, tham nhũng, thoái
hoá biến chất, làm suy yếu Đảng và Nhà nước.
Thứ ba là, phương pháp lãnh đạo của Đảng có sự thay đổi khác trước
Đảng cộng sản cầm quyền lãnh đạo đất nước khi mà nhiệm vụ chính trị
có sự thay đổi và sự ra đời của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, thì phương pháp
lãnh đạo của Đảng cũng có nhiều thay đổi. V.I Lênin đã chỉ rõ: “Khi tình hình
đã thay đổi và chúng ta phải giải quyết những nhiệm vụ thuộc loại khác, thì
không nên nhìn lại đằng sau và sử dụng những phương pháp của ngày hôm

qua”4. Có nghĩa là khi có chính quyền, Đảng phải biết loại trừ khỏi “cẩm
nang” của mình những phương pháp, hình thức lãnh đạo không phù hợp.
Nhiệm vụ xây dựng đòi hỏi phải sáng tạo nhiều phương pháp, hình thức mới
ngày càng phong phú như: kết hợp giáo dục chính trị tư tưởng với khuyến
khích vật chất; kết hợp giữa giáo dục với hành chính và cưỡng bức; kết hợp
giữa công tác tư tưởng, công tác tổ chức.
* Cùng với những đặc điểm chung của các Đảng cộng sản, với Đảng
Cộng sản Việt Nam còn có những đặc điểm riêng:

4

V.I Lênin, Toàn tập, tập 44, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1978, tr 398.


Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, trưởng thành, lãnh đạo chính quyền
gắn liền với chiến tranh cách mạng lâu dài
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, từ đó Đảng ta trở thành
Đảng cầm quyền. Nhưng do phải tiến hành cuộc kháng chiến chống Pháp, cho
nên từ 1954 – 1975 Đảng ta lãnh đạo toàn dân tiến hành hai nhiệm vụ chiến
lược: tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và chiến tranh giải
phóng miền Nam thống nhất đất nước. Sau 30/4/1975 Đảng ta mới có điều
kiện tập trung lãnh đạo cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, nhưng lại bị hai cuộc
chiến tranh ở biên giới Tây Nam và phía Bắc chi phối. Quá trình ra đời và
trưởng thành của Đảng ta gắn liền với chiến tranh cách mạng lâu dài. Đảng ta
được tôi luyện trong lò lửa chiến tranh cách mạng, Đảng có bản lĩnh chính trị
kiên định với mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; có nhiều tri thức và
kinh nghiệm lãnh đạo chiến tranh; có đội ngũ cán bộ và đảng viên được thử
thách và rèn luyện trong chiến tranh cách mạng. Tuy nhiên, Đảng còn thiếu kiến
thức kinh nghiệm lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội. Nghị quyết Đại hội lần
thứ X của Đảng chỉ rõ: “năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng còn

nhiều mặt chưa đáp ứng yêu cầu của tình hình mới, chưa làm sáng tỏ nhiều
vấn đề lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta, về sự lãnh đạo của Đảng và công tác xây dựng Đảng”5.
Đảng ta cầm quyền lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội từ một nền sản
xuất nhỏ, bị chiến tranh tàn phá nặng nề, nền kinh tế mất cân đối nghiêm trọng
Đảng ta lãnh đạo đất nước bước vào giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã
hội từ đặc điểm nền kinh tế nông nghiệp, lạc hậu, sản xuất nhỏ là phổ biến. Cơ
sở hạ tầng đất nước bị tàn phá nặng nề trong chiến tranh. Quá độ đi lên chủ
nghĩa xã hội nhưng lại rất khó khăn, yếu kém về cơ sở vật chất kỹ thuật của
nền sản xuất công nghiệp. Những năm 1990 của thế kỷ XX chế độ xã hội chủ
nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu tan rã, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực
thù địch bao vây cấm vận, tăng cường chống phá cách mạng Việt Nam. Vì vậy,
đòi hỏi năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng ta phải kiên cường, bền
5

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H. 2006, Tr 262


bỉ, sáng tạo mới có thể đưa sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc ta đi tới
thắng lợi. Kinh nghiệm qua hơn 25 năm đổi mới cho thấy, mọi đường lối, chủ
trương, chính sách lớn của Đảng phải khơi dậy và phát huy được tiềm năng lớn
về tài nguyên, lao động và truyền thống vốn có của dân tộc Việt Nam, phát huy
được sức mạnh toàn dân tộc, đồng thời phải nhanh chóng nắm bắt được xu thế
của thời đại, tranh thủ sự giúp đỡ và hợp tác quốc tế, nắm bắt cơ hội, vượt qua
thách thức Để lãnh đạo cách mạng Việt Nam giành thắng lợi, phát triển đất
nước theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.
2.2. Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị
Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân đã chỉ ra rằng giai cấp vô sản hiện đại là người có sứ mệnh lịch sử
đào huyệt chôn chủ nghĩa tư bản và xây dựng một xã hội mới tốt đẹp hơn chế độ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Để thực hiện thành công sứ

mệnh lịch sử của mình, giai cấp vô sản phải tiến hành đấu tranh bằng cuộc
cách mạng vô sản chống lại giai cấp tư sản. Đó là một cuộc cách mạng xã hội
sâu sắc nhất, toàn diện nhất, triệt để trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội. Cuộc cách mạng đó trải qua hai giai đoạn chủ yếu là “lật đổ sự thống trị
của giai cấp tư sản, giai cấp vô sản giành lấy chính quyền” 6 và cải tạo xã hội
cũ, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và cộng sản chủ nghĩa trên phạm vi
toàn thế giới. Cuộc đấu tranh đó muốn đi đến thắng lợi cuối cùng, giai cấp vô
sản phải có Đảng lãnh đạo. Như vậy, giành được chính quyền mới chỉ là bước
đầu trong quá trình thực hiện sứ mệnh của giai cấp công nhân. Sau khi giành
được chính quyền, giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân dân lao động phải
tiếp tục xây dựng chính quyền và sử dụng chính quyền đó để xây dựng chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Chính yêu cầu thực hiện sứ mệnh của
giai cấp công nhân đã quy định tính tất yếu khách quan Đảng phải lãnh đạo hệ
thống chính trị. Mặt khác, khi giành được chính quyền, giai cấp công nhân và
nhân dân lao động bước lên vũ đài chính trị của giai cấp cầm quyền đã làm
cho địa vị của giai cấp công nhân và nhân dân lao động tăng lên và làm cho
6

C.M¸c vµ Ph.Ang-ghen, Toµn tËp, tËp 4, Nxb CTQG, H. 1995, tr. 615.


vai trò lãnh đạo của Đảng cũng tăng lên. Do đó, Đảng không phải là một tổ
chức quyền lực đứng trên mọi tổ chức của hệ thống chính trị mà Đảng là một
bộ phận của hệ thống chính trị, nhưng Đảng là lực lượng lãnh đạo hệ thống
ấy. Vì vậy, vai trò lãnh đạo duy nhất của Đảng ta đối với cách mạng Việt
Nam là quy luật, đồng thời là vấn đề có tính nguyên tắc hiện nay.
Trong hệ thống chính trị nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng
cầm quyền. Đó là sự lựa chọn của dân tộc ta, là một tất yếu lịch sử, tất yếu
khách quan. Sự lãnh đạo ấy vừa có cơ sở đạo lý, vừa có cơ sở pháp lý.
Khi trở thành một Đảng duy nhất cầm quyền, sự lãnh đạo của Đảng

được thực hiện trong mối quan hệ khá phức tạp và nhạy cảm với cơ chế thực
hiện quyền lực Nhà nước pháp quyền và trong các điều kiện xây dựng, phát
huy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Sự tồn tại và hoạt động của Nhà nước, mà
biểu hiện tập trung nhất là bộ máy nhà nước, đòi hỏi phải phân định sự lãnh
đạo của Đảng đối với vai trò quản lý, điều hành của Nhà nước.
Trong tổ chức của hệ thống chính trị, Đảng vừa là lực lượng lãnh đạo
của toàn hệ thống, vừa là thành viên trong hệ thống chính trị. Điều đó cũng
đòi hỏi phải xác định rõ vai trò lãnh đạo của Đảng, tư cách thành viên của
Đảng và khả năng độc lập của mỗi thành viên thuộc hệ thống chính trị trong
các quan hệ chính trị và sinh hoạt dân chủ.
Vị trí cầm quyền của Đảng thể hiện quyền hạn, trách nhiệm chung của
Đảng và trách nhiệm của các tổ chức đảng trong việc quyết định các vấn đề
của đất nước, các vấn đề trong từng lĩnh vực cụ thể, từ chính trị, kinh tế đến
văn hóa, xã hội ở các cấp các ngành và trong các mối quan hệ với Nhà nước,
Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân và toàn thể xã hội.
Trong thực tiễn, vai trò và sự lãnh đạo của Đảng luôn luôn được xác
định trong từng mối quan hệ với từng thiết chế, tổ chức cụ thể trong hệ thống
chính trị. Vai trò cầm quyền và sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước khác
với sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị xã hội. Sự mơ hồ, thiếu cụ thể nào đó đều có ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống


chính trị của đất nước, hoặc là Đảng sẽ bao biện, làm thay tất cả, hình thức
hóa Nhà nước và hệ thống chính trị, hoặc là hạ thấp vai trò lãnh đạo của
Đảng, làm cho địa vị cầm quyền của Đảng chỉ nằm trên danh nghĩa.
Sự lãnh đạo của Đảng biểu hiện tập trung nhất là sự lãnh đạo về chính
trị và tư tưởng, nhằm mục tiêu tạo ra một khuôn khổ chính trị để Nhà nước,
Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân thực hiện đúng
nhiệm vụ, thẩm quyền, chức năng và vai trò của mình theo quy định của pháp
luật, theo điều lệ, mục đích, tôn chỉ của mỗi tổ chức.
Nội dung lãnh đạo của Đảng được thể hiện trong cương lĩnh chính trị,

đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, bảo đảm tính định hướng chính
trị cho sự phát triển đầt nước, tạo cơ sở cho tổ chức và hoạt động của toàn bộ
hệ thống chính trị và toàn bộ xã hội vì mục đích của Đảng là “xây dựng nước
Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh, không
còn người bóc lột người, thực hiện thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng
là chủ nghĩa cộng sản”7.
Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị hiện nay đặt trong
điều hiện mới, đó là xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
dân, do dân, vì dân, phát huy mạnh mẽ nền dân chủ trong cơ chế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế. Do vậy, để thực
hiện tốt vai trò lãnh đạo của Đảng trong hệ thống chính trị, Đảng phải tiếp tục
tự đổi mới, tự chỉnh đốn Đảng, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của các tổ chức đảng, đồng thời phải tiếp tục đổi mới phương
thức lãnh đạo và hiệu lực lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị.
2.3. Nội dung lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị
Vị trí cầm quyền của Đảng thể hiện quyền hạn trách nhiệm chung của
Đảng và trách nhiệm của các tổ chức đảng trong việc quyết định các vấn đề
của đất nước, các vấn đề trong từng lĩnh vực cụ thể, từ chính trị, kinh tế đến
văn hóa, xã hội ở các cấp, các ngành, trong các mối quan hệ với Nhà nước.
Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân và toàn thể xã hội.
7

Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, tr1.


Sự lãnh đạo của Đảng biểu hiện tập trung nhất lãnh đạo về chính trị và
tư tưởng, nhằm mục tiêu tạo ra một khuôn khổ chính trị để Nhà nước, Mặt
trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân thực hiện đúng nhiệm
vụ, thẩm quyền, chức năng và vai trò của mình theo quy định của pháp luật,
theo điều lệ, mục đích, tôn chỉ của mỗi tổ chức.

Nội dung lãnh đạo của Đảng được thể hiện trong cương lĩnh chính trị,
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, bảo đảm tính định hướng chính
trị cho sự phát triển đất nước, tạo cơ sở cho tổ chức và hoạt động của toàn bộ
hệ thống chính trị và toàn bộ xã hội định hướng tới mục tiêu: dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
3. Nội dung phương thức lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
cầm quyền đối với hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay
2.1. Khái niệm phương thức lãnh đạo của Đảng
Phương thức lãnh đạo của Đảng là một trong những vấn đề luôn được
Đảng ta coi trọng trong nhận thức lý luận cũng như trong hoạt động thực tiễn.
Là Đảng cầm quyền, vị trí đó có tính lịch sử khách quan và được Hiến pháp
ghi nhận, Đảng phải xác định mục tiêu chung và những mục tiêu cụ thể của
cách mạng nước ta, vạch ra được đường lối chính trị, các chủ trương lớn. Từ
đó, toàn bộ hoạt động của Đảng là phải biến mục tiêu, đường lối, chủ trương
đó thành hiện thực. Đó chính là nội dung cốt lõi sự lãnh đạo của Đảng đối với
Nhà nước và toàn xã hội. Nhưng để nội dung lãnh đạo của Đảng được thực
hiện, đòi hỏi Đảng phải xác lập và thực hiện cơ chế thể hiện mối liên hệ giữa
Đảng (chủ thể lãnh đạo) với các bộ phận khác của hệ thống chính trị, với xã
hội (khách thể lãnh đạo). Đó chính là vấn đề phương thức lãnh đạo của Đảng.
Nghị quyết số 15 -NQ/TW, được thông qua tại Hội nghị Trung ương 5,
khoá X về Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt
động của hệ thống chính trị đã chỉ rõ: “Phương thức lãnh đạo của Đảng đối
với hoạt động của hệ thống chính trị là cách thức, phương pháp Đảng tác
động lên hoạt động của hệ thống đó nhằm đạt mục tiêu đề ra. Trong điều kiện


ở nước ta một đảng duy nhất cầm quyền là Đảng Cộng sản Việt Nam, phương
thức lãnh đạo của Đảng tác động trực tiếp đến hoạt động của tất cả các tổ
chức trong hệ thống chính trị”8.
Như vậy, Phương thức lãnh đạo của Đảng cầm quyền là hệ thống những

phương pháp, hình thức, biện pháp, quy trình, lề lối làm việc, tác phong công
tác mà Đảng vận dụng để tác động vào các lực lượng xã hội, các tổ chức, cá
nhân nhằm biến đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng thành nhận thức
và hành động của đối tượng lãnh đạo, qua đó thực hiện các nhiệm vụ cách
mạng do Đảng đề ra. Theo đó, khái niệm “phương thức lãnh đạo” có nội dung
rất rộng, chỉ toàn bộ phương pháp chung và các phương pháp cụ thể của toàn
bộ quá trình lãnh đạo và cầm quyền của Đảng - bắt đầu từ khâu xây dựng
đường lối, chính sách cho đến khi đường lối, chính sách đó đến được với quần
chúng nhân dân và trở thành hiện thực với những chỉ số hiệu quả cụ thể.
3.2. Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị ở
nước ta hiện nay
Vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị và xã hội
được thể hiện thông qua phương thức lãnh đạo của Đảng. Nội dung cơ bản
của phương thức lãnh đạo của Đảng hiện nay được xác định trong Cương lĩnh
Chính trị: “Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước
và xã hội. Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về
chính sách và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận
động, tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng
viên. Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ,
giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động
trong các cơ quan lãnh đạo của hệ thống chính trị. Đảng lãnh đạo thông qua tổ
chức đảng và đảng viên hoạt động trong các tổ chức của hệ thống chính trị,
tăng cường chế độ trách nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu. Đảng thường
xuyên nâng cao năng lực cầm quyền và hiệu quả lãnh đạo, đồng thời phát huy
8

Ban Tuyên giáo Trung ương, Tài liệu nghiên cứu các nghị quyết Hội nghị Trung ương 5, khóa X
(Dành cho cán bộ chủ chốt và báo cáo viên), Nxb CTQG, Hà Nội, 2007, tr 81.



mạnh mẽ vai trò, tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các tổ chức khác
trong hệ thống chính trị”9.
Ngoài nội dung nêu trên, Đảng lãnh đạo Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc
và các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân từ uy tín của Đảng, từ sự đề cao
và tôn trọng vai trò của Nhà nước, các tổ chức trong hệ thống chính trị và
toàn xã hội. Sự lãnh đạo thật sự của Đảng không chỉ thông qua các quyết
định, các chỉ thị mà còn bằng uy tín, bằng khả năng thuyết phục trong lời nói,
trong hành động, trong phong cách công tác của các tổ chức đảng và của từng
cá nhân cán bộ lãnh đạo, đảng viên của Đảng. Phương thức lãnh đạo của
Đảng đối với hệ thống chính trị hiện nay thể hiện trên một số điểm sau đây:
Một là, Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị bằng định hướng chính trị
Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị bằng định hướng chính trị là việc Đảng
đề ra chủ trương, đường lối trên các lĩnh vực của đời sống xã hội để Nhà nước
thể chế hóa thành chính sách, pháp luật, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã
hội cụ thể hóa trong điều lệ và những nội dung hoạt động của mình.
Định hướng chính trị là phương thức lãnh đạo quan trọng nhất và chủ
yếu nhất của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã
hội. Định hướng chính trị của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận và các đàn
thể chính trị - xã hội chủ yếu bằng nghị quyết. Thông qua nghị quyết mà ý
chí, chí tuệ tập thể của cơ quan lãnh đạo Đảng được thể hiện một cách tập
trung, cô đọng, sáng suốt và có giá trị hiệu lực cao, làm phương tiện truyền tải
định hướng chính trị của Đảng.
Nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội, đòi hỏi trước hết của
Đảng cầm quyền là phải đề ra được định hướng chính trị cho cả nước. Còn ở
các địa phương, căn cứ vào nghị quyết của các cấp lãnh đạo Đảng cấp trên,
kết hợp với cơ sở kinh tế - xã hội của địa phương mà đề ra định hướng chính
trị cho địa phương mình. Đảng căn cứ vào chính tổ chức, hoạt động của chính
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ qua độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm
2011), tr9.

9


Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội; căn cứ vào việc đáp
ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ của Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể
chính trị - xã hội để đề ra định hướng chính trị cho tổ chức và hoạt động của
Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội. Đảng định hướng chính
trị trên các lĩnh vực của đời sống xã hội: Kinh tế; chính trị; văn hóa – xã hội;
an ninh, quốc phòng cho tổ chức, hoạt động của Nhà nước, Mặt trận và các
đoàn thể chính trị - xã hội.
Về kinh tế, Đảng đề ra định hướng phát triển kinh tế cho đất nước, làm
cơ sở lý luận cho việc tổ chức và hoạt động quản lý kinh tế của Nhà nước; làm
cơ sở lý luận để các Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội thực
hiện các cuộc vận động thành viên của mình làm kinh tế, nhằm đẩy mạnh sản
xuất nông nghiệp, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, du lịch, dịch vụ…
Về chính trị, Đảng đề ra phương hướng và những nguyên tắc cơ bản
làm cơ sở để Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội xây dựng,
hoàn thiện về tổ chức bộ máy và triển khai hoạt động nhằm thực hiện các
nhiệm vụ chính trị, luôn luôn giữ vững bản chất giai cấp công nhân.
Về văn hóa – xã hội, Đảng đề ra những chương trình, những định
hướng để Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội thực hiện trên
lĩnh vực văn hóa – xã hội như vấn đề bản sắc dân tộc, các vấn đề xã hội như
xóa đói giảm nghèo, cứu trợ xã hội…
Về an ninh, quốc phòng, Đảng đề ra những định hướng lãnh đạo trong
việc xây dựng nền quốc phòng toàn dân, trong việc bảo vệ an ninh trật tự, an
toàn xã hội…để Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội triển
khai thực hiện.
Hai là, Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị bằng công tác tư tưởng
Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị bằng công tác tư tưởng là việc Đảng
tuyên truyền, giáo dục nhằm xây dựng hệ tư tưởng mác - xít và chống lại tư

tưởng phi mác - xít đối với đảng viên, quần chúng; đặc biệt là công chức, viên
chức của Nhà nước và cán bộ, hội viên của Mặt trận và các đoàn thể chính trị


- xã hội. Nhằm tạo ra sự đồng thuận về tư tưởng và hành động trong hệ thống
chính trị khi thực hiện các nhiệm vụ cách mạng. Do vây, Đảng thường xuyên
thực hiện công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng đối với đảng viên,
quần chúng nhân dân; đặc biệt là đội ngũ công chức, viên chức của Nhà nước
và cán bộ, hội viên của các Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã
hội; đồng thời, Đảng tổ chức và động viên quần chúng nhân dân; đặc biệt là
đội ngũ công chức, viên chức của Nhà nước và cán bộ, hội viên của các Nhà
nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội trong việc thực hiện định
hướng chính trị của Đảng…
Nội dung giáo dục chính trị tư tưởng là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, chủ nghĩa
yêu nước, văn hóa Xã hội chủ nghĩa… Điều này có ý nghĩa rất quan trọng đối
với việc Đảng lãnh đạo Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội.
Bởi vì, vai trò của Đảng là lãnh đạo chính trị tư tưởng, định hướng chiến lược.
Hiệu quả công tác giáo dục chính trị tư tưởng sẽ làm cho đội ngũ công chức,
viên chức của Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội thông
suốt đường lối của Đảng, tạo ra sự thống nhất về tư tưởng giữa Đảng, Nhà
nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội. Khi đã có sự thống nhất về
tư tưởng sẽ là tiền đề cho sự thống nhất về hành động; do vậy, góp phần khắc
phục được tình trạng “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”.
Trong giai đoạn vừa qua Đảng đã sử dụng tốt phương thức giáo dục
chính trị tư tưởng để lãnh đạo Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị xã hội. Điều đó đã nâng cao trình độ lý luận chính trị cho hầu hết công chức,
viên chức của Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội, tạo nên
sự đồng thuận về tư tưởng và hành động giữa Đảng, Nhà nước, Mặt trận và
các đoàn thể chính trị - xã hội. Việc xác lập và củng cố hệ tư tưởng mác - xít
trong xã hội nước ta của Đảng là một biểu hiện rõ nét về vai trò của một đảng

cầm quyền. Vì sự thống trị của một giai cấp, một đảng chính trị được biểu
hiện không những về mặt kinh tế, chính trị mà còn về mặt tư tưởng. Do vậy,


hệ tư tưởng mác - xít phải là hệ tư tưởng thống trị trong xã hội. Điều này
không những là phương thức để Đảng lãnh đạo Nhà nước, Mặt trận và các
đoàn thể chính trị - xã hội mà còn góp phần củng cố và tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội ở
nước ta hiện nay.
Ba là, Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị bằng công tác tổ chưc, cán bộ
Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị bằng công tác tổ chức, cán bộ là việc
Đảng đưa đảng viên, tổ chức của Đảng vào trong cơ quan Nhà nước, Mặt trận
và các đoàn thể chính trị - xã hội để biến quá trình thực hiện nghĩa vụ của
công chức, viên chức Nhà nước và biến quá trình thực hiện kỷ luật của cán
bộ, hội viên Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội cũng là thực hiện
nhiệm vụ của Đảng.
Đảng lãnh đạo Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội qua
công tác tổ chức - cán bộ là thông qua những người của Đảng, tổ chức của Đảng
nằm trong các cơ quan Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội mà
Đảng thực hiện được sự lãnh đạo đối 2 đối tượng này. Đây là một phương thức
lãnh đạo quan trọng của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính
trị - xã hội. Vì phương thức này mang tính chất trực tiếp. Đối với lực lượng vũ
trang thì sự lãnh đạo của Đảng là: Trực tiếp, toàn diện và tuyệt đối.
Đảng đào tạo, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên của mình trở thành
những nhà chuyên môn giỏi trong các lĩnh vực quản lý nhà nước, hoạt động
đoàn thể rồi đưa họ ra ứng cử làm đại biểu và các cương vị lãnh đạo của cơ
quan Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội được tổ chức theo
chế độ bầu. Đó là việc đưa cán bộ, đảng viên của mình tranh cử đại biểu và
các cương vị lãnh đạo của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp; Chính phủ,
Ủy ban nhân các cấp.

Đảng giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất
vào hoạt động trong các cơ quan Nhà nước và các đoàn thể thông qua Đảng
đoàn, ban cán sự Đảng. Đối với những chức danh chủ chốt trong các cơ quan


của hệ thống chính trị thì Đảng phải giới thiệu những đảng viên có đủ tiêu
chuẩn để ứng vào các cơ quan, tổ chức đó. Tuy nhiên, Đảng tôn trọng chế độ
bầu cử, bổ nhiệm và bãi nhiệm chức danh cán bộ của cơ quan Nhà nước và
các tổ chức chính trị - xã hội. Đồng thời, Đảng giác ngộ, bồi dưỡng, kết nạp
vào đội ngũ của Đảng những nhà chuyên môn giỏi trong các cơ quan Nhà
nước, Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội; cán bộ có thành
tích xuất sắc trong hoạt động phong trào của các Nhà nước, Mặt trận và các
đoàn thể chính trị - xã hội. Qua việc đưa họ vào hàng ngũ của Đảng mà Đảng
thực hiện sự lãnh đạo của mình đối với Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể
chính trị - xã hội. Đảng xây dựng, củng cố tổ chức các cấp của Đảng. Đặc biệt
là xây dựng và củng cố các tổ chức Đảng trong cơ quan Nhà nước, Mặt trận
và các đoàn thể chính trị - xã hội, nhằm lãnh đạo đảng viên là công chức, viên
chức, lãnh đạo cơ quan Nhà nước và cán bộ hội viên của các Nhà nước, Mặt
trận và các đoàn thể chính trị - xã hội.
Tất cả những việc làm trên đây của Đảng là nhằm mục đích luôn luôn
nắm được bộ máy Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội,
nhằm biến quá trình thực hiện nghĩa vụ của công chức, viên chức thành quá
trình thực hiện nhiệm vụ của Đảng.
Bốn là, Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị bằng công tác kiểm tra, giám sát
Đảng lãnh đạo bằng công tác kiểm tra, giám sát các hoạt động của Nhà
nước và các tổ chức trong hệ thống chính trị. Nội dung kiểm tra, giám sát của
Đảng đối với Nhà nước là việc quán triệt và tổ chức thực hiện chủ trương,
quan điểm đường lối chỉ đạo của Đảng, Hiến Pháp và pháp luật của Nhà
nước. Đảng trực tiếp kiểm tra, giám sát đồng thời phối hợp với kiểm tra Đảng
với thanh tra nhà nước, thanh tra nhân dân và kiểm tra đoàn thể. Đảng thực

hiện chức năng kiểm tra, giám sát không phải bằng những quyền lực hành
chính mà bằng đường lối, chủ trương, chính sách đúng, bằng giáo dục, thuyết
phục, bằng công tác tư tưởng, công tác vận động quần chúng và bằng hành
động gương mẫu của cán bộ, đảng viên.


Thông qua hoạt động kiểm tra Đảng đối với cán bộ, đảng viên và tổ
chức Đảng nói chung; đối với cán bộ, đảng viên và tổ chức Đảng ở trong cơ
quan Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội nói riêng mà Đảng
đã phát hiện và xử lý kịp thời những sai phạm; đồng thời phát hiện và phát
huy những ưu điểm trong tổ chức và hoạt động của Đảng. Qua đó, nâng cao
năng lực và sức chiến đấu của Đảng, góp phần to lớn vào công cuộc củng cố
và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận và các đoàn
thể chính trị - xã hội. Đánh giá về vai trò, ý nghĩa của công tác kiểm tra trong
sự lãnh đạo của đảng mác - xít đối với nhà nước và xã hội, Lênin đã từng khái
quát: Lãnh đạo mà không kiểm tra thì coi như không lãnh đạo. Do vậy, công
tác kiểm tra là một phương thức chủ đạo mà Đảng sử dụng để lãnh đạo Nhà
nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội.
Từ việc kiểm tra của Đảng, đặc biệt là kiểm tra đối với cán bộ, đảng
viên và tổ chức Đảng nằm trong các cơ quan Nhà nước, Mặt trận và các đoàn
thể chính trị - xã hội, phát hiện những cán bộ, đảng viên, tổ chức Đảng có sai
phạm kịp thời sửa sai hơn nữa nhằm phát hiện đảng viên và tổ chức Đảng có
những sáng tạo trong việc thực hiện nhiệm vụ của mình để tổng kết nhân
rộng, từ đó làm cho Đảng nắm được, lãnh đạo được Nhà nước, Mặt trận và
các đoàn thể chính trị - xã hội. Đồng thời, làm cho Đảng ngày càng trong sạch
vững mạnh, đáp ứng vai trò lãnh đạo đối với hệ thống chính trị nói riêng và
đối với xã hội nói chung. Qua công tác kiểm tra, giám sát sẽ nâng cao uy tín,
năng lực và sức chiến đấu của Đảng; đúc rút được những bài học kinh nghiệm
quý báu về sự lãnh đạo đối với hoạt động của công chức, viên chức và các cơ
quan của Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội. Từ đó, củng

cố và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận và các
đoàn thể chính trị - xã hội.
Năm là, Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị bằng quy chế phối hợp công tác
và thông qua phong cách, lề lối làm việc trong các cơ quan lãnh đạo của Đảng


Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị bằng quy chế phối hợp công tác là
việc cơ quan lãnh đạo của Đảng, cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước và
Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội ở những cấp tương đương thống
nhất, quy định bằng văn bản về chế độ làm việc giữa các bên, để Nhà nước,
Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội thực hiện tốt đường lối của cơ quan
lãnh đạo Đảng cấp trên và của cấp tương đương. Cơ quan lãnh đạo của Đảng
và cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước, cơ quan lãnh đạo của Mặt trận và
các đoàn thể chính trị - xã hội cùng cấp họp và thống nhất về chế độ phối hợp
công tác giữa hai bên trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị; trong việc kiểm
tra việc thực hiện đường lối của Đảng, trong vấn đề báo cáo việc thực hiện
đường lối của Đảng. Trong đó yêu cầu phải xác định chức năng, nhiệm vụ và
giải quết tốt mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các đoàn thể; chỉ ra tình
trạng lẫn lộn chức năng, nhiệm vụ giữa cơ quan đảng với cơ quan nhà nước;
khắc phục tình trạng Đảng bao biện, làm thay, buông lỏng lãnh đạo hoặc xem
nhẹ vai trò, trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước; xác định cơ chế
Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.
Mặt khác, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị
hiện nay thể hiện thông qua phong cách, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh
đạo của Đảng. Phong cách lãnh đạo của Đảng cần được hiểu là Đảng lãnh đạo
không chỉ bằng đường lối, chủ trương mà còn bằng công tác tuyên truyền,
thuyết phục, vận động và bằng hoạt động gương mẫu của đảng viên. Đảng
lãnh đạo theo nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, khuyến khích
những mặt tốt, uốn nắn những lệch lạc, phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo
và trách nhiệm cá nhân.

Khi Đảng ta là đảng cầm quyền lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo xã hội thì
vấn đề phong cách lãnh đạo, một yếu tố của phương thức lãnh đạo rất cần
được coi trọng. Bởi vì, khác với thời kỳ chưa nắm chính quyền, với chế độ
nhất nguyên của một Đảng cầm quyền thì việc phòng ngừa và đấu tranh
chống quan liêu đã trở thành một nhiệm vụ không thể thiếu được. Do vậy, Đại


hội Đại biểu toàn quốc lần XI của Đảng khẳng định: “Đổi mới phong cách, lề
lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo của Đảng từ trung ương đến địa
phương, cơ sở. Thực hiện tốt chế độ lãnh đạo tập thể đi đôi với phát huy tinh
thần chủ động, sáng tạo và trách nhiệm cá nhân, nhất là trách nhiệm của
người đứng đầu. Phát huy vai trò, trách nhiệm của các tổ chức đảng, đảng
viên, cấp uỷ viên hoạt động trong các cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và
các đoàn thể nhân dân10”.
Sáu là, Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị bằng phát huy dân chủ
Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị bằng phát huy dân chủ là việc Đảng
quán triệt, mở rộng nguyên tắc tập trung dân chủ trong quá trình thực hiện sự
lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã
hội. Đồng thời vận động nhân dân phát huy quyền làm chủ trong việc tham
gia hoạt động của các Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội.
Trong hoạt động nội bộ của Đảng, khi thực hiện vai trò lãnh đạo của
mình đối với Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội thì nguyên
tắc tập trung dân chủ được quán triệt và thực hiện một cách đầy đủ, nghiêm
túc và triệt để. Nghĩa là khi đứng trước một vấn đề thể hiện sự lãnh đạo của
Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội thì Đảng
họp bàn một cách dân chủ, sau khi tập thể bàn bạc, thảo luận thống nhất và
biểu quyết theo đa số thì quyết nghị đó có giá trị bắt buộc thi hành trong công
tác lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị xã hội. Điều này thể hiện sự phát huy dân chủ trong Đảng đối với việc lãnh
đạo hệ thống chính trị.
Có thể nói phương thức phát huy dân chủ là một phương thức cực kỳ

tiến bộ trong việc Đảng lãnh đạo đối với Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể
chính trị - xã hội, thể hiện một cách độc đáo nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Qua phương thức này đã làm cho hiệu quả hoạt động lãnh đạo của Đảng đối

Báo cáo Chính trị của BCHTW Đảng khóa X tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng,
tr46.
10


với Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội tăng lên rất nhiều.
Vì nó là sự tác động biện chứng giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Như vậy, có thể nói, phương thức lãnh đạo của Đảng bao gồm các công
cụ lãnh đạo, hệ thống các mối liên hệ và cơ chế liên hệ giữa Đảng với xã hội,
với Nhà nước, với hệ thống chính trị bằng định hướng chính trị, bằng công tác
tư tưởng, bằng công tác tổ chưc, cán bộ và công tác kieemt tra, giám sát. Các
yếu tố này thể hiện ở tất cả các phương diện hoạt động của Đảng. Do đó, khi
chúng ta nói “Đảng lãnh đạo bằng đường lối, chủ trương”, “bằng tổ chức
kiểm tra”, “bằng hành động gương mẫu của đảng viên” v.v.. là chúng ta đã
nhấn mạnh một cách đầy đủ đến các yếu tố công cụ, phương pháp, phong
cách, tức là phương thức lãnh đạo của Đảng nhằm đưa nội dung lãnh đạo
thành kết quả hiện thực.
Trong số các vấn đề về phương thức lãnh đạo của Đảng thì việc xử lý
cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” có vị trí hết sức
quan trọng. Đặc điểm lớn nhất của chế độ pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là Nhà nước pháp quyền với sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Điều đó có
nghĩa, Đảng có vị trí lãnh đạo và cầm quyền hợp hiến và hợp pháp với đầy đủ
các quyền lãnh đạo và trách nhiệm chính trị. Trong một chế độ pháp quyền,
mọi tổ chức, cá nhân, trong đó có Đảng, Nhà nước, đều phải chịu sự ràng
buộc của pháp luật, chịu trách nhiệm pháp lý về các quyết định và hành động
của mình. Vì vậy, Điều 4 của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt

Nam năm 2013 đã ghi rõ: “Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của
giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của
dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, Nhân
dân lao động và của cả dân tộc lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ
Chí Minh làm nền tảng tư tưởng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”.
KẾT LUẬN
Hệ thống chính trị ở nước ta là một cấu trúc của xã hội, bao gồm Đảng
Cộng sản Việt Nam; Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và các tổ


chức chính trị - xã hội, hoạt dộng trên cơ sở liên minh giữa giai cấp công nhân
với giai cấp nông dân và dội ngũ trí thức, hoạt động trong khuôn khổ Hiến
pháp và pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng thực hiện vai trò lãnh đạo hệ thống
chính trị thông qua Phương thức Đảng lãnh đạo, đó là phương pháp tác động
và hình thức thể hiện mà Đảng sử dụng để lãnh đạo đối với hoạt động của
Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội. Trong giai đoạn hiện
nay, để phát huy hơn nữa vai trò lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị,
cần kết hợp một cách nhuần nhuyễn và sáng các phương thức như đã trình
bày ở trên.
Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền lãnh đạo Nhà nước và xã hội Việt
Nam là một tất yếu lịch sử. Để đảm đương được vai trò lãnh đạo, Đảng phải
vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; thường xuyên tự đổi mới, tự
chỉnh đốn, ra sức nâng cao trình độ trí tuệ, bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo
đức và năng lực lãnh đạo. Giữ vững truyền thống đoàn kết thống nhất trong
Đảng, tăng cường dân chủ và kỷ luật trong hoạt động của Đảng. Thường
xuyên tự phê bình và phê bình, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa
cơ hội, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí và mọi hành động chia rẽ, bè phái.
Đảng chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên trong sạch, có phẩm chất,
năng lực, có sức chiến đấu cao theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; quan

tâm bồi dưỡng, đào tạo lớp người kế tục sự nghiệp cách mạng của Đảng và
dân tộc.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Tuyên giáo Trung ương, Tài liệu nghiên cứu các nghị quyết Hội
nghị Trung ương 5, khóa X (Dành cho cán bộ chủ chốt và báo cáo viên), Nxb
CTQG, Hà Nội, 2007, tr
2. Báo cáo Chính trị của BCHTW Đảng khóa X tại Đại hội Đại biểu toàn
quốc lần thứ XI của Đảng, tr46.
3. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội (Bổ sung, phát triển năm 2011).
4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X, Nxb.CTQG, H.2006.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, Nxb.CTQG, H.2011.
6. Đào Trí Úc, Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối
với hoạt động của hệ thống chính trị, đăng trên Tạp chí Cộng sản, số ra ngày
26 tháng 9 năm 2007.
7. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, năm 2011.


×