Tải bản đầy đủ (.pdf) (130 trang)

Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động tư pháp ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (988.96 KB, 130 trang )


1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




ĐỖ THỊ THÙY DƯƠNG






TĂNG CƯỜNG SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG
ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP Ở NƯỚC TA HIỆN NAY





LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC









HÀ NỘI - 2012



2

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




ĐỖ THỊ THÙY DƯƠNG





TĂNG CƯỜNG SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG
ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP Ở NƯỚC TA HIỆN NAY


Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số : 60 38 01


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC





Người hướng dẫn khoa học: TS. Đinh Xuân Thảo




HÀ NỘI - 2012


3




LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính
xác và trung thực. Những kết luận khoa học của
luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN


Đỗ Thị Thùy Dương












4
MỤC LỤC

Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục

MỞ ĐẦU
1
Chương 1:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ SỰ LÃNH
ĐẠO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM ĐỐI VỚI HOẠT
ĐỘNG TƯ PHÁP

5
1.1. Vị trí, vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam trong hệ thống
chính trị - xã hội ở Việt Nam
5
1.1.1.


Hệ thống chính trị - xã hội ở Việt Nam 5
1.1.2.

Vị trí, vai trò của Đảng trong hệ thống chính trị - xã hội 9
1.2. Hoạt động tư pháp 15
1.2.1.

Cơ quan tư pháp ở Việt Nam - sự hình thành và phát triển 15
1.2.2.

Hoạt động tư pháp ở Việt Nam - quan điểm và định hướng
của Đảng
31
Chương 2:
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY DƯỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG

40
2.1. Hoạt động tư pháp ở Việt Nam những năm qua dưới sự lãnh
đạo của đảng
40
2.1.1.

Hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân 40
2.1.2.

Hoạt động kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân 53
2.1.3.


Hoạt động điều tra của cơ quan điều tra 69
2.1.4.

Thi hành án 78
2.2. Nguyên nhân của những thành tựu và tồn tại của hoạt động tư
pháp dưới sự lãnh đạo của Đảng
84

5
2.2.1.

Nguyên nhân của thành tựu 84
2.2.2.

Nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại 86
Chương 3:
CÁC GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG SỰ LÃNH ĐẠO CỦA
ĐẢNG ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP HIỆN NAY

88
3.1. Đẩy mạnh sự lãnh đạo của đảng đối với hoạt động tư pháp
trong thời kỳ mới
88
3.1.1.

Đối với Tòa án 88
3.1.2.

Đối với Viện kiểm sát 94
3.1.3.


Đối với Cơ quan điều tra 99
3.2. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng 103
3.2.1.

Đổi mới đường lối lãnh đạo của Đảng 104
3.2.2.

Đổi mới tổ chức đảng trong ngành Tư pháp 107
3.2.3.

Đổi mới trong quản lý cán bộ 109
3.2.4.

Tăng cường hoạt động kiểm tra, giám sát của Đảng 113
3.3. Chỉnh đốn đảng và tăng cường hơn nữa uy tín của đảng đối
với nhân dân
117

KẾT LUẬN
120

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
122


6
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn

Từ khi ra đời năm 1930 cho đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã
khẳng định được vai trò quan trọng của mình đối với sự nghiệp bảo vệ và xây
dựng đất nước. Từ khi có Đảng, nhân dân ta đã đi từ thắng lợi này đến thắng
lợi khác. Mục đích, lý tưởng phấn đấu của Đảng cũng là mục đích, nguyện
vọng của nhân dân, Đảng không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của nhân
dân. Đảng thực hiện sự lãnh đạo của mình trên quy mô toàn xã hội, chịu trách
nhiệm trước toàn xã hội. Điều đó có nghĩa là mọi thành công hay thất bại, ưu
điểm hay khuyết điểm trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều gắn
với trách nhiệm của Đảng. Nhân dân ta thừa nhận sự lãnh đạo của Đảng và
suy tôn Đảng là người lãnh đạo của mình.
Bằng những hình thức và phương pháp lãnh đạo của mình, Ðảng cộng
sản giữ vai trò quyết định đối với việc xác định phương hướng hoạt động của
nhà nước trên mọi lĩnh vực; trong đó không thể thiếu sự lãnh đạo của Ðảng
đối với hoạt động tư pháp. Đảng ta là Đảng cầm quyền, đại diện cho lợi ích
của nhân dân và của toàn dân tộc. Nghị quyết 08-NQ/TW của Bộ Chính trị
ngày 02/01/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời
gian tới đã chỉ rõ: "Đảng lãnh đạo các cơ quan tư pháp chặt chẽ về chính trị,
tổ chức và cán bộ, bảo đảm hoạt động tư pháp thực hiện đúng quan điểm của
Đảng, pháp luật của Nhà nước, khắc phục tình trạng cấp ủy Đảng buông lỏng
lãnh đạo hoặc can thiệp không đúng vào hoạt động tư pháp" [11].
Hiện nay chúng ta đang từng bước xây dựng Nhà nước pháp quyền
của dân, do dân và vì dân. Đó là một nhà nước đại diện cho quyền lực chân
chính của nhân dân và là biểu hiện trực tiếp sức mạnh của hệ thống chính trị
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, không chỉ các cá nhân, tổ chức mà Nhà nước cũng phải làm việc trong
khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Vì vậy, một hệ thống pháp luật đồng bộ,

7
hoàn chỉnh, bộ máy tư pháp tương đối hoàn thiện với hoạt động tư pháp ngày
càng vững mạnh, khoa học là yêu cầu cấp thiết hiện nay.

Ngay từ khi đất nước giành được độc lập, hoạt động tư pháp Việt Nam
đã được Đảng và Nhà nước chú trọng và có nhiều cải cách. Cải cách tư pháp
đã đem lại những thành tựu đáng kể, nhưng bên cạnh đó vẫn còn tồn tại
những hạn chế, bất cập. Tại Đại hội lần thứ VI (năm 1986) Đảng chủ trương
đổi mới toàn diện đất nước. Sau đổi mới bộ mặt đất nước đã có nhiều thay đổi
và có những bước đột phá lớn. Việt Nam đã và đang đang xây dựng nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế ngày một sâu
rộng, kinh tế - văn hóa - xã hội có nhiều thay đổi. Trong khi đó hệ thống pháp
luật còn nghèo, hệ thống tư pháp còn chưa hoàn thiện, cán bộ thực hiện công
tác tư pháp trình độ, chuyên môn còn hạn chế dẫn đến nhiều trường hợp bỏ lọt
tội phạm, làm oan sai người vô tội… Vì vậy, tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với hoạt động tư pháp là một đòi hỏi khách quan và cấp thiết để đáp
ứng yêu cầu của đất nước trong giai đoạn cách mạng mới.
Nhận thức được tầm quan trọng của Đảng đối với sự nghiệp to lớn
này, tác giả đã mạnh dạn chọn đề tài: "Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
đối với hoạt động tư pháp ở nước ta hiện nay" làm đề tài luận văn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm gần đây, vấn đề nghiên cứu hoạt động tư pháp và
cải cách tư pháp đã được nhiều tác giả nghiên cứu ở những khía cạnh và mức
độ khác nhau như: "Sự cần thiết và những quan điểm chỉ đạo cải cách tư
pháp ở Việt Nam" của TS. Trần Huy Liệu; "Cải cách tư pháp trong cơ cấu tổ
chức quyền lực nhà nước" của PGS.TS. Nguyễn Đăng Dung; "Phân công,
phối hợp quyền lực nhà nước và quan hệ giữa các cơ quan tố tụng" của
PGS.TS. Nguyễn Mạnh Kháng; "Cơ sở lựa chọn mô hình tố tụng hình sự đáp
ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam" của TS. Nguyễn Ngọc Chí; “Lại
bàn về nguyên tắc độc lập xét xử” của PGS.TS Nguyễn Tất Viễn; "Lịch sử
hình thành và phát triển của hệ thống Tòa án ở Việt Nam" của Quốc Khánh;

8
"Những yêu cầu của Nhà nước pháp quyền Việt Nam đối với các cơ quan tư

pháp" của Quang Huy và nhiều chuyên đề khác…
Các nghiên cứu khoa học trên đã có nhiều đóng góp quan trọng vào
việc đẩy mạnh hoạt động tư pháp ở Việt Nam, nhưng chưa có một đề tài nào
đề cập đầy đủ, toàn diện đến vấn đề tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
hoạt động tư pháp ở Việt Nam.
3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Trước tình hình nghiên cứu trên và trước yêu cầu cấp thiết của đề tài
trong giai đoạn hiện nay, mục đích của đề tài nghiên cứu nhằm đưa ra các
biện pháp tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động tư pháp ở Việt
Nam. Từ những nghiên cứu này có thể ứng dụng vào thực tiễn và góp phần
đẩy mạnh hoạt động tư pháp ở Việt Nam. Việc nghiên cứu dựa trên cơ sở lý
luận cơ bản về vị trí, vai trò của Đảng Cộng sản và thực tiễn nội dung sự lãnh
đạo của Đảng đối với hoạt động tư pháp ở Việt Nam.
Hoạt động tư pháp rất rộng, gồm nhiều lĩnh vực do nhiều cơ quan tiến
hành: điều tra - Cơ quan điều tra, truy tố - Viện kiểm sát, xét xử - Tòa án, thi
hành án - Cơ quan thi hành án Bên cạnh đó, còn có các hoạt động của các tổ
chức được nhà nước thành lập nhằm giúp cho các cơ quan tư pháp thực hiện
tốt hơn chức năng, nhiệm vụ điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án như: hoạt
động giám định tư pháp, luật sư, công chứng, trọng tài thương mại
Tuy nhiên, do khuôn khổ nghiên cứu của đề tài, trong phạm vi luận
văn, tác giả chỉ đi sâu vào nghiên cứu nội dung hoạt động của Tòa án, Viện
Kiểm sát, Cơ quan điều tra. Về hoạt động thi hành án, tác giả nghiên cứu
trong phạm vi nhỏ với tư cách là khâu khép lại quá trình tố tụng. Đồng thời
tác giả tập trung vào nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng và đổi mới phương
thức lãnh đạo của Đảng đối với những hoạt động tư pháp kể trên.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài luận văn
Việc nghiên cứu đề tài luận văn được thực hiện trên cơ sở những
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Để

9

giải quyết những vấn đề cơ bản đã được đặt ra ở trên, tác giả sử dụng phương
pháp duy vật biện chứng của triết học Mác - Lênin và những phương pháp
khác như: phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp lịch
sử, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh nhằm làm sáng tỏ nội dung
và phạm vi nghiên cứu của đề tài luận văn.
5. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Về mặt lý luận
Nghiên cứu đề tài làm rõ được vị trí, vai trò quan trọng của Đảng Cộng
sản Việt Nam đối với hoạt động tư pháp ở Việt Nam; làm rõ tổ chức bộ máy
tư pháp Việt Nam - sự hình thành và phát triển qua các thời kỳ. Đồng thời làm
rõ quan điểm của Đảng trong công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay.
Về mặt thực tiễn
Nghiên cứu đề tài góp phần bổ sung và hoàn thiện hệ thống lý luận
khoa học về vai trò của Đảng hiện nay nói chung trong hoạt động tư pháp nói
riêng. Đồng thời, kết quả nghiên cứu đề tài hoàn toàn có thể ứng dụng vào
thực tiễn để góp phần hoàn thiện tổ chức và đẩy mạnh hoạt động tư pháp ở
nước ta hiện nay.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam đối với hoạt động tư pháp.
Chương 2: Thực trạng hoạt động tư pháp ở Việt Nam hiện nay dưới
lãnh đạo của Đảng.
Chương 3: Giải pháp tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt
động tư pháp hiện nay.


10
Chương 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP

1.1. VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TRONG HỆ
THỐNG CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
1.1.1. Hệ thống chính trị - xã hội ở Việt Nam
Nhận thức sâu sắc và đầy đủ về hệ thống chính trị ở Việt Nam có ý
nghĩa rất quan trọng trong điều kiện xây dựng và phát huy nền dân chủ, xây
dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay. Bởi lẽ quyền lực chính trị
trong điều kiện hiện nay không chỉ thể hiện vai trò của các thiết chế chính trị,
chính trị - xã hội, mà nó còn có xu hướng chịu ảnh hưởng ngày càng lớn bởi
các thiết chế xã hội. Sự tác động trực tiếp, mạnh mẽ và nhiều chiều của các yếu
tố kinh tế - xã hội đến kiến trúc thượng tầng chính trị là sự tác động mang tính
quy luật và nó ảnh hưởng lớn đến quá trình xây dựng và củng cố nền dân chủ.
1.1.1.1. Khái niệm về hệ thống chính trị
Trong mọi xã hội có giai cấp, quyền lực của chủ thể cầm quyền được
thực hiện bằng một hệ thống thiết chế và tổ chức chính trị nhất định. Đó là hệ
thống chính trị.
Hệ thống chính trị là một chỉnh thể các tổ chức chính trị trong xã hội
bao gồm: các đảng chính trị, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội hợp
pháp được liên kết với nhau trong một hệ thống tổ chức nhằm tác động vào
các quá trình của đời sống xã hội, để củng cố, duy trì và phát triển chế độ
đương thời phù hợp với lợi ích của chủ thể giai cấp cầm quyền.
1.1.1.2. Hệ thống chính trị - xã hội ở Việt Nam
Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, giai cấp công nhân và nhân dân lao động
là chủ thể thực sự của quyền lực, tự mình tổ chức và quản lý xã hội, quyết định

11
nội dung hoạt động của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, có thể
hiểu hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa là liên minh các thiết chế chính trị,

chính trị - xã hội được thành lập, hoạt động trong mối liên hệ chặt chẽ mà vai
trò lãnh đạo thuộc về đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động nhằm
thực hiện triệt để quyền lực nhân dân, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Ở Việt Nam, giai cấp công nhân và nhân dân lao động là chủ thể chân
chính của quyền lực. Bởi vậy, hệ thống chính trị ở nước ta là cơ chế, là công
cụ thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam.
Trong thực tế đời sống chính trị - xã hội ở nước ta, thời gian qua có
một số tổ chức xã hội - nghề nghiệp đã phát triển thành tổ chức chính trị - xã
hội - nghề nghiệp. Nhưng cho đến nay, giới khoa học pháp lý và chính trị
nước ta mới chỉ đề cập tới hệ thống chính trị với ý nghĩa là hệ thống các thiết
chế chính trị và chính trị - xã hội bao gồm: Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam,
Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Cựu chiến
binh Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội hợp pháp khác của nhân dân
được thành lập, hoạt động trên cơ sở liên minh giữa giai cấp công nhân với
giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức làm nền tảng, dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam, thực hiện và đảm bảo đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân.
1.1.1.3. Bản chất và đặc điểm của hệ thống chính trị - xã hội ở Việt Nam
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam - đội tiên phong của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động, nhân dân đã thực hiện cuộc cách
mạng thành công, giành lấy quyền lực và tổ chức ra hệ thống chính trị của
mình. Vì vậy, hệ thống chính trị ở nước ta mang bản chất sau:
Hệ thống chính trị mang bản chất công nhân. Điều này có nghĩa là,
các tổ chức trong hệ thống chính trị đều đứng vững trên lập trường quan điểm

12
của giai cấp công nhân, từ đó quy định chức năng, nhiệm vụ, phương hướng
hoạt động của toàn bộ hệ thống chính trị, đảm bảo quyền làm chủ và lợi ích

của giai cấp công nhân và nhân dân lao động và toàn thể dân tộc.
Hệ thống chính trị mang bản chất dân chủ. Điều này thể hiện ở chỗ
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Nhà nước là của dân, do dân và vì dân,
dưới sự lãnh đạo của đảng - đại biểu trung thành cho lợi ích của cả dân tộc.
Hệ thống chính trị không đối kháng về lợi ích. Bản chất này dựa trên
chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, sự thống nhất giữa các lợi ích
căn bản của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể dân tộc. Trong
tính thống nhất về lợi ích quốc gia, dân tộc vẫn có sự đa dạng và phong phú
về lợi ích của các nhóm xã hội khác, và lợi ích vẫn là động lực chính quy định
và thúc đẩy hoạt động của mỗi nhóm xã hội. Mặc dù vậy, hệ thống chính trị
nước ta không hề đối lập về lợi ích và Đảng - một thành viên của hệ thống
chính trị luôn giữ vai trò lãnh đạo - một tất yếu lịch sử không thể phủ nhận.
Từ bản chất đã quy định đặc điểm của hệ thống chính trị. Hệ thống
chính trị ở nước ta mang những đặc điểm sau:
Một là, các tổ chức trong hệ thống chính trị ở nước ta đều lấy chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ
nam cho hành động. Các quan điểm và nguyên tắc của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đều được tổ chức trong hệ thống chính trị ở
nước ta vận dụng, ghi rõ trong hoạt động của từng tổ chức.
Hai là, hệ thống chính trị ở nước ta đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Đảng là một tổ chức trong hệ thống chính trị nhưng có
vai trò lãnh đạo các tổ chức trong hệ thống chính trị. Trong điều kiện cụ thể ở
nước ta, do những phẩm chất của mình - Đảng là đại biểu cho ý chí và lợi ích
thống nhất của các dân tộc; do truyền thống lịch sử mang lại và do những
thành tựu rất to lớn đạt được trong hoạt động thực tiễn cách mạng Việt Nam
làm cho Đảng ta trở thành Đảng chính trị duy nhất có khả năng tập hợp quần

13
chúng lao động đông đảo để thực hiện lý tưởng của Đảng, nhân dân tự nguyện
đi theo Đảng, thừa nhận vai trò lãnh đạo của Đảng trong thực tế. Đây là đặc

trưng cơ bản của hệ thống chính trị ở nước ta.
Ba là, hệ thống chính trị ở nước ta được tổ chức và hoạt động theo
nguyên tắc tập trung dân chủ. Nguyên tắc này được tất cả các tổ chức trong hệ
thống chính trị ở nước ta thực hiện.
Việc quán triệt và thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ là nhân tố
cơ bản đảm bảo cho hệ thống chính trị có được sự thống nhất về tổ chức và
hành động nhằm phát huy sức mạnh đồng bộ của toàn hệ thống cũng như của
mỗi tổ chức trong hệ thống chính trị.
So với hệ thống chính trị - xã hội truyền thống trước đây, ngày nay hệ
thống chính trị - xã hội có điểm mới đáng chú ý đó là có sự hiện diện của các tổ
chức xã hội rộng lớn của nhân dân. Đặc biệt là các hội đoàn trong trong lĩnh vực
kinh tế - xã hội, các tổ chức hiệp hội nghề nghiệp, kinh doanh, dịch vụ xã hội…
tuy không trực tiếp thực hiện các nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước,
nhưng trong điều kiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, các tổ chức này có tác động
ngày càng lớn đến đời sống kinh tế - chính trị của đất nước. Đường lối, chính
sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước có được xây dựng và thực thi hiệu quả
hay không không thể không tính đến vai trò và sự tác động tích cực của các tổ
chức xã hội. Và như vậy, có thể coi các tổ chức xã hội là hệ thống "phản biện
xã hội" đối với đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước. Từ đó,
hoạt động tư vấn, giám định, phản biện xã hội đối với đường lối, chính sách,
pháp luật của Đảng và Nhà nước phải được coi là hoạt động cơ bản và tích
cực của các tổ chức xã hội. Điều đó còn cho thấy mối liên hệ chặt chẽ giữa hệ
thống chính trị và hệ thống xã hội trong điều kiện mới ở nước ta hiện nay.
1.1.1.4. Các thiết chế trong tổ chức xã hội ở nước ta
Trong cấu trúc của hệ thống chính trị - xã hội ở Việt Nam hiện nay có
thể phân biệt thành ba loại thiết chế:

14
Tổ chức chính trị: Đảng Cộng sản Việt Nam; Nhà nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam: Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Cơ quan tư pháp.

Tổ chức chính trị - xã hội: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Đoàn Thanh
niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Tổng Liên
đoàn Lao động Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt
Nam và một số tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp như Liên hiệp các hội
khoa học kĩ thuật Việt Nam (VUSTA), Hội Nhà báo Việt Nam, Liên hiệp các
tổ chức hữu nghị Việt Nam, Hội Chữ thập đỏ Việt Nam
Tổ chức xã hội: các hiệp hội kinh tế, các tổ chức xã hội nghề nghiệp
và các tổ chức xã hội khác…
1.1.2. Vị trí, vai trò của Đảng trong hệ thống chính trị - xã hội
1.1.2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của Đảng cộng sản
Vào thế kỷ thứ XIX, các nhà sáng lập ra chủ nghĩa cộng sản khoa học
là người mở đầu một con đường thật sự giải phóng người lao động khỏi ách
áp bức, bóc lột. Bằng việc đưa ra quan điểm duy vật về lịch sử và phát hiện ra
quy luật giá trị thặng dư, Các Mác đã tìm được lực lượng và vũ khí để giải
phóng người lao động, từ đó, chủ nghĩa cộng sản mới trở thành một trong
những khoa học giải phóng loài người. C.Mác và Ph.Ăng-ghen đi từ giải
phóng các tầng lớp lao động mà thấy sự cần thiết phải giải phóng dân tộc, bởi
vì các ông quan niệm "xóa bỏ nạn người bóc lột người thì nạn dân tộc này áp
bức dân tộc khác cũng sẽ bị xóa bỏ. Khi mà sự đối kháng giữa giai cấp trong
nội bộ dân tộc không còn nữa, thì đồng thời quan hệ thù địch giữa các dân
tộc cũng mất theo" [20, tr. 48]. Chính vì thế, trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng
sản, C.Mác và Ph.Ăng-ghen đã khẳng định giai cấp vô sản mỗi nước trước hết
phải giành lấy chính quyền, phải tự mình xây dựng thành giai cấp dân tộc.
Vận dụng và phát triển lý luận của C.Mác về giải phóng giai cấp vô
sản vào nước Nga, Lênin thấy rõ hơn mối quan hệ giữa giai cấp và dân tộc,
giữa cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp vô sản và cuộc đấu tranh giải phóng

15
các dân tộc bị áp bức. V.I.Lê-nin đề ra khẩu hiệu vô sản tất cả các nước và
các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại. Cách mạng Tháng Mười Nga, mở đầu cho

việc thủ tiêu chế độ người bóc lột người, thủ tiêu nạn áp bức dân tộc, và bằng
chính sách dân tộc đúng đắn.
Áp dụng vào điều kiện lịch sử Việt Nam, tư tưởng Hồ Chủ Minh thể
hiện rõ hơn hai vấn đề:
Thứ nhất: cần phải có một chính đảng của giai cấp vô sản để giải phóng
dân tộc và giải phóng con người. Đến với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tìm thấy ở học
thuyết này con đường cứu dân, cứu nước. Bác khẳng định: "Chỉ có chủ nghĩa
cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và
nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm
cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hòa bình, hạnh phúc" [22, tr. 461].
Người nói:
Lúc đầu chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ không phải là chủ
nghĩa cộng sản đưa tôi tin theo Lê-nin, tin theo Quốc tế III. Từng
bước một trong cuộc đấu tranh, vừa làm công tác thực tế, dần dần
tôi hiểu được rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới
giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động
trên thế giới khỏi ách nô lệ [25, tr. 474].
Người cho thấy sự cần thiết phải có Đảng lãnh đạo - nhân tố quyết
định thắng lợi của sự nghiệp cách mạng. Người khẳng định:
"Muốn thắng lợi, thì cách mạng phải có một đảng lãnh đạo.
Đảng phải làm cho quần chúng giác ngộ vì đâu mà họ bị áp bức
bóc lột; phải dạy cho quần chúng hiểu các quy luật phát triển của
xã hội, để họ nhận rõ vì mục đích gì mà đấu tranh; chỉ rõ con
đường giải phóng cho quần chúng, cổ động cho quần chúng kiên
quyết cách mạng; làm cho quần chúng tin chắc cách mạng nhất
định thắng lợi [24, tr. 228].

16
Bởi vì theo Người: cách mạng là sự nghiệp chung của toàn thể dân
chúng. Song, sức mạnh đó chỉ có được khi dân chúng được thức tỉnh, giác

ngộ và tổ chức, lãnh đạo. Đảng chính là người có nhiệm vụ thức tỉnh, lãnh
đạo nhân dân đứng lên làm cách mạng.
Thứ hai: Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân,
của nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam. Phát biểu tại Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ II của Đảng (1951), Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định:
"Trong giai đoạn hiện nay, quyền lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động và của dân tộc là một. Chính vì Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên nó phải là Đảng của dân
tộc Việt Nam" [23, tr. 175].
Bản chất của Đảng ta là bản chất giai cấp công nhân nhưng Người
quan niệm rằng, Đảng không những là Đảng của giai cấp công nhân mà còn
của nhân dân lao động và của toàn dân tộc. Trong thành phần đảng viên,
ngoài thành phần giai cấp công nhân còn có các thành phần khác, đó là những
người ưu tú trong giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức và các thành phần khác.
Đường lối chính trị của Đảng phản ánh lập trường của giai cấp công nhân,
hướng tới thực hiện mục tiêu, lý tưởng của giai cấp công nhân. Đảng Cộng
sản Việt Nam trước hết đại biểu cho lợi ích của giai cấp công nhân. Song, vì
sự thống nhất giữa lợi ích giai cấp công nhân và nhân dân lao động và toàn
thể dân tộc, vì vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam đại biểu cho lợi ích của giai cấp
công nhân, nhân dân lao động và toàn thể dân tộc. Hồ Chí Minh đã khẳng
định: ngoài lợi ích của giai cấp, của nhân dân, của dân tộc, Đảng ta không có
lợi ích nào khác. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, vấn đề giai cấp và vấn đề dân
tộc luôn gắn bó chặt chẽ, không tách rời nhau. Mọi hoạt động cách mạng của
Đảng đều đồng thời giải quyết cả vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc. Vì vậy,
Đảng không chỉ là Đảng của giai cấp công nhân mà còn là Đảng của nhân dân
lao động và của cả dân tộc Việt Nam.

17
1.1.2.2. Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với cách mạng Việt Nam
Từ khi được thành lập - năm 1930 cho đến nay đã hơn 8 thập kỷ, với

vai trò là đội tiên phong, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo sự nghiệp
cách mạng của dân tộc ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác: đánh đổ chế
độ thực dân 80 năm của Pháp, hàng ngàn năm của chế độ phong kiến, đánh bại
các cuộc xâm lăng của các cường quốc, lập ra nhà nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa đến nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện công
cuộc xây dựng, đổi mới và hội nhập thành công. Nhìn lại những bước đường
phấn đấu đầy gian khổ hy sinh đã qua và những thắng lợi, thành tựu vẻ vang
đã giành được của toàn dân ta, chúng ta có thể tự hào về vai trò lịch sử của
Đảng ta, người lãnh đạo và tổ chức mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Sức mạnh vô địch của Đảng chính là ở chỗ Đảng ta tuyệt đối trung thành với
lợi ích của nhân dân, đứng vững trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, phát huy được sức mạnh lòng yêu nước của toàn dân tộc.
Vai trò lãnh đạo của Đảng không những được kiểm chứng bởi lịch sử
đấu tranh bảo vệ và xây dựng tổ quốc của dân tộc mà còn được đạo luật cao
nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Hiến pháp ghi nhận.
Trong Hiến pháp năm 1946, mặc dù không có một điều khoản riêng quy định
về sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và hệ thống chính trị, nhưng thông
qua chế định Chủ tịch nước và với vị trí, vai trò đặc biệt của Chủ tịch nước
đầu tiên - Hồ Chí Minh - người sáng lập ra Đảng Cộng sản, thì các quan điểm,
chủ trương, đường lối của Đảng đã được tổ chức và thực hiện thắng lợi. Hiến
pháp năm 1959 để thể hiện quyền lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với Nhà
nước và hệ thống chính trị trong "Lời nói đầu" của Hiến pháp. Hiến pháp năm
1980 đã thể chế hóa vai trò lãnh đạo của Đảng một cách cụ thể trong cả "Lời
nói đầu" và Điều 4 của Hiến pháp. Lần đầu tiên, thuật ngữ mới "Hiến pháp
thể chế hóa đường lối của Đảng" được sử dụng. Hiến pháp năm 1992, được
sửa đổi, bổ sung năm 2001 đã thể hiện ngắn gọn chặt chẽ và đầy đủ hơn vai trò
lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và hệ thống chính trị:

18
Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công

nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác -
Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo nhà nước và
xã hội. Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp
và pháp luật [32, Điều 4].
Nội dung sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và toàn xã hội đã
được Đại hội lần thứ VI của Đảng đề ra một cách cụ thể và các Đại hội lần
thứ VII, VIII, IX, X, XI tiếp tục khẳng định và phát triển, bao gồm những mặt
cơ bản sau:
Đảng đề ra đường lối chủ trương, chính sách lớn định hướng cho sự
phát triển của toàn xã hội trong từng thời kỳ phát triển của đất nước trên tất cả
các lĩnh vực.
Đảng vạch ra phương hướng và nguyên tắc cơ bản làm cơ sở cho việc
xây dựng và hoàn thiện Nhà nước, củng cố và phát triển hệ thống chính trị,
thiết lập chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Đảng đề ra những quan điểm và chính sách về công tác cán bộ; phát
hiện, lựa chọn, bồi dưỡng những đảng viên ưu tú và những người ngoài đảng
có phẩm chất và năng lực giới thiệu vào các cơ quan nhà nước, các tổ chức
chính trị - xã hội thông qua cơ chế bầu cử, tuyển chọn để bố trí vào làm việc
trong cơ quan nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội.
Đảng thực hiện sự lãnh đạo của mình thông qua các đảng viên và tổ
chức Đảng bằng cách giáo dục đảng viên nêu cao vai trò tiên phong, gương
mẫu, qua đó tập hợp, giáo dục, động viên quần chúng tham gia quản lý nhà
nước, xã hội, ủng hộ và tích cực thực hiện đường lối, chính sách của Đảng,
tôn trọng và thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật của Nhà nước.
Đảng thực hiện công tác kiểm tra việc chấp hành và tổ chức thực hiện
đường lối chính sách, nghị quyết của Đảng đối với các đảng viên, các tổ chức

19
Đảng, cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội. Phát hiện và uốn nắn kịp thời

những sai lầm lệch lạc. Đồng thời, Đảng tiến hành tổng kết thực tiễn, rút kinh
nghiệm để không ngừng bổ sung và hoàn thiện các đường lối, chính sách trên
tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Về thực chất, Đảng là tổ chức chính trị, phương pháp lãnh đạo của Đảng
không phải là phương pháp hành chính - mệnh lệnh. Phương thức lãnh đạo của
Đảng là giáo dục, thuyết phục và nêu gương. Sự lãnh đạo của Đảng mang tính
định hướng, tạo điều kiện cho Nhà nước và hệ thống chính trị có cơ sở để chủ
động sáng tạo trong tổ chức và hoạt động. So với các đảng chính trị cầm quyền
trong các nhà nước khác, vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
có những đặc trưng riêng: Quyền lãnh đạo của Đảng được ghi nhận trong Hiến
pháp; cơ sở chính trị xã hội của Đảng rất rộng rãi, sự lãnh đạo của Đảng được
tất cả các tổ chức chính trị xã hội thừa nhận; Đảng là đại biểu trung thành lợi
ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động và của cả dân tộc… Vì vậy,
những chủ trương và quan điểm lớn của Đảng được mọi tầng lớp nhân dân
quan tâm, tham gia ý kiến, tích cực ủng hộ và tổ chức thực hiện trên thực tế.
Như vậy, lịch sử cách mạng Việt Nam hơn 80 năm qua khẳng định
không thể tách rời sự lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị. Không có
hệ thống chính trị nào mà không có sự lãnh đạo, không có một chính đảng,
một lực lượng chính trị chi phối. Hiện nay, trên thế giới có khoảng hơn ba
mươi đảng duy nhất cầm quyền, chi phối, dẫn dắt hệ thống chính trị của từng
nước. Để phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị, vấn đề có tính chất
quyết định là phải tiếp tục thực hiện đổi mới, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy truyền thống cách mạng,
bản chất giai cấp và tính tiên phong của Đảng; xây dựng Đảng ta thật sự trong
sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, đoàn kết nhất trí cao,
gắn bó mật thiết với nhân dân, có phương thức lãnh đạo khoa học, có đội ngũ
cán bộ đảng viên đủ phẩm chất và năng lực. Đây là nhiệm vụ then chốt, có ý
nghĩa sống còn đối với Đảng và sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.

20

1.2. HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP
1.2.1. Cơ quan tư pháp ở Việt Nam - sự hình thành và phát triển
Bất kỳ một quan điểm nào về cơ quan tư pháp cũng xuất phát từ các
học thuyết pháp lý - chính trị khác nhau. Việt Nam là nước xã hội chủ nghĩa
nên quan điểm mác-xít về Nhà nước và pháp luật luôn được coi là kim chỉ
nam cho việc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.
Trong hệ thống pháp luật của nước ta hiện nay không có quy định nào
về cơ quan tư pháp. Các quan niệm khác nhau về cơ quan tư pháp cũng tùy
theo cách tiếp cận của người nghiên cứu và các chính trị gia. Có quan niệm
cho rằng cơ quan tư pháp không chỉ được dùng cho Tòa án, mà còn cả các cơ
quan nhà nước khác thực hiện chức năng có liên quan đến xét xử như là Viện
kiểm sát, Cơ quan điều tra, thi hành án - đây cũng là quan niệm khá phổ biến
trong giới nghiến cứu khoa học pháp lý và các chính trị gia hiện nay. Trong
hệ thống pháp luật của Việt Nam, lần đầu tiên cơ quan tư pháp được ghi nhận
một cách rõ ràng tại Hiến pháp năm 1946 - đó thuần túy là Tòa án. Các Hiến
pháp sau này và hiện nay không quy định rõ ràng như Hiến pháp năm 1946,
nhưng tinh thần là thừa nhận và mở rộng các cơ quan tư pháp ở Việt Nam,
bên cạnh Tòa án nhân dân còn có Viện kiểm sát nhân dân, Cơ quan điều tra.
1.2.1.1 Tổ chức bộ máy tư pháp Việt Nam những năm đầu độc lập
Quan điểm đầu tiên về cơ quan tư pháp ở nước ta được thể hiện trong
bản Hiến pháp đầu tiên năm 1946. Cơ quan tư pháp của nước Việt Nam Dân
chủ cộng hòa gồm: Tòa án tối cao; các Tòa phúc thẩm, các Tòa đệ nhị cấp và
sơ cấp. Ngày 24/01/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh tổ chức các tòa
án và các ngạch thẩm phán gồm tòa án sơ cấp (ở các quận, huyện); tòa đệ nhị
cấp (cấp tỉnh) và Tòa Thượng thẩm ở cả ba kỳ Bắc, Trung, Nam. Thẩm phán
được tuyển chọn từ những người có hạnh kiểm tốt, chưa can án, có bằng tú tài
(phổ thông trung học). Trong điều kiện cụ thể của cuộc cách mạng dân tộc,
dân chủ thì phần đông các thẩm phán là những viên chức của chế độ cũ. Ở

21

Tòa án sơ cấp, thẩm phán thực hiện cả hai nhiệm vụ buộc tội và xét xử. Ở Tòa
đệ nhị cấp, có thêm thẩm phán buộc tội hay còn gọi là thẩm phán công tố. Ở
Tòa thượng thẩm có Công tố Chưởng lý đứng đầu và dưới quyền là các viên
chức làm công tác công tố chuyên trách. Các công tố viên có quyền tư pháp
cảnh sát - điều tra các vụ án hình sự, điều khiển công việc và giám sát hoạt
động điều tra của tư pháp cảnh sát và thực hành quyền công tố (buộc tội).
Như vậy, có thể nói, quan điểm đương thời về cơ quan tư pháp được hiểu theo
nghĩa rộng, nó không chỉ là cơ quan xét xử mà còn là cơ quan buộc tội phục
vụ cho công tác xét xử. Cơ quan tư pháp thời kỳ này được đặt dưới sự quản lý
của Bộ Tư pháp - thành viên của Chính phủ.
Do yêu cầu củng cố sức mạnh của quân đội trong hoàn cảnh toàn quốc
kháng chiến, Tòa án Quân sự và Tòa án binh được củng cố và mở rộng để kịp
thời xét xử các tội phạm trong quân đội và trừng trị những người xâm hại đến
sức chiến đấu của quân đội. Hệ thống Tòa án binh trong thời kì này bao gồm:
Tòa án binh mặt trận, tòa án binh khu, Tòa án binh tối cao và Tòa án khu
trung ương.
Ngày 22/5/1950 Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 85 cải cách bộ
máy tư pháp và Luật Tố tụng. Đây còn gọi là bước "tạm cải cách" trong khi
chờ cải tổ toàn thể bộ máy với tinh thần: bộ máy tư pháp cần được dân chủ
hóa, thành phần nhân dân cần được đa số trong việc xét xử; Hội thẩm nhân
dân được xử cả việc hình lẫn việc hộ và có biểu quyết; lập Hội đồng hòa giải
ở huyện có mục đích giao cho nhân dân trực tiếp phụ trách việc hòa giải tất cả
các việc hộ kể cả việc ly dị. Việc lập Hội đồng hòa giải ở huyện chính là để
giảm bớt kiện tụng. Bước "tạm cải cách" có mục đích làm nhẹ bộ máy tư
pháp để công việc xét xử được nhanh chóng, gần dân hơn và thủ tục tố tụng
hợp lý, đơn giản hơn.
Cơ quan điều tra cũng có những thay đổi. Nha công an Việt Nam được
đổi thành Thứ bộ công an và hệ thống cơ quan điều tra của Thứ bộ công an

22

được thành lập gồm có: Vụ chấp pháp và lao cải ở trung ương; Ban chấp pháp
ở các tỉnh, thành phố và Phòng chấp pháp ở các liên khu (theo Sắc lệnh
141/SL ngày 16/12/1953)
Năm 1959, Hiến pháp của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được ban
hành, đánh dấu một mốc son cho cả tiến trình phát triển ngày càng đi lên của
xã hội Việt Nam. Hiến pháp đã dành hẳn một chương - Chương VIII quy định
về những nguyên tắc, quy định chung về tổ chức và hoạt động của các Tòa án
nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân. Đến năm 1960, trên cơ sở Hiến pháp, Luật
Tổ chức Tòa án nhân dân, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân được ban
hành. Các Cơ quan tư pháp mà cụ thể là Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát
nhân dân được tổ chức theo mô hình khá phổ biến ở các nước xã hội chủ
nghĩa thời đó. Các tòa án được tổ chức theo các đơn vị hành chính - lãnh thổ:
Cấp huyện, cấp tỉnh, trung ương, tòa án hoạt động theo nguyên tắc xét xử độc
lập và chỉ tuân theo pháp luật. Các Viện kiểm sát có chức năng kiểm sát việc
tuân theo pháp luật đối với các cá nhân, cơ quan, tổ chức; quyền bào chữa
được bảo đảm, các Bộ luật tố tụng dân chủ được ban hành. Như vậy, trong
thời kỳ này, các cơ quan Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân đã hình
thành một hệ thống thống nhất từ trung ương xuống địa phương và không trực
thuộc Hội đồng Chính phủ mà trực thuộc Quốc hội và Hội đồng nhân dân
cùng cấp.
Mặc dù về cơ bản, các cơ quan tư pháp ở Việt Nam giai đoạn này
được tổ chức theo mô hình khá phổ biến ở các nước xã hội chủ nghĩa. Nhưng
vẫn có những đặc thù riêng: Cơ quan Điều tra vẫn thuộc Bộ Công an, Viện
kiểm sát đứng ngoài Chính phủ và được đặt dưới sự lãnh đạo của cơ quan
quyền lực nhà nước cao nhất - Quốc hội. Từ đó tới nay, Viện kiểm sát nhân
dân luôn tồn tại với tư cách là một bộ phận hợp thành của nhánh quyền lực
thứ ba - quyền tư pháp. Đây chính là nét đặc thù cơ bản làm cho quy trình tố
tụng hình sự ở nước ta hình thành ba giai đoạn rõ rệt: điều tra - Cơ quan điều
tra thuộc Bộ Công an thực hiện, truy tố - Viện kiểm sát thực hiện và xét xử -


23
Tòa án thực hiện. Ở một số nước trên thế giới, các Điều tra viên thuộc biên
chế các Viện Công tố, chịu sự chỉ đạo trực tiếp của các Công tố viên. Các
Công tố viên đóng vai trò chủ động, tích cực tham gia vào quá trình điều tra,
và duy trì công tố trước tòa khi tham gia tố tụng. Ở nước ta hiện nay, Viện
kiểm sát gần như tách khỏi hoạt động điều tra, phải đến khi có kết luận điều
tra do Cơ quan điều tra chuyển sang thì kiểm sát viên mới thực sự vào cuộc và
duy trì công tố trước tòa.
Hệ thống Viện kiểm sát nhân dân được thành lập thống nhất từ trung
ương xuống địa phương, bao gồm: Viện kiểm sát nhân dân tối cao; các Viện
kiểm sát nhân dân địa phương. Trong giai đoạn này, nếu như Tòa án được xác
định là "những cơ quan xét xử của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ", thì đối
với Viện kiểm sát nhân dân, Hiến pháp chưa đề cập đến chức năng công tố
mà chỉ được giao chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Trong khi chức
năng công tố lại hết sức cần thiết và rất quan trọng của quá trình tố tụng. Việc
Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân quy định các Viện kiểm sát nhân dân
thi hành nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật bằng 6 cách, trong đó có
điều tra những việc phạm pháp về hình sự và truy tố trước tòa án nhân dân
những người phạm pháp về chính trị, hiểu như vậy thì công tố chỉ là 1 trong 6
cách thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật chứ không phải là
chức năng cơ bản hàng đầu của Viện kiểm sát.
Đối với các Tòa án, chủ trương cải cách chính thức chỉ được đặt ra một
lần năm 1950 với tên gọi "Tạm cải cách", nhưng trên thực tế, từ tổ chức bộ
máy, thẩm quyền đến chức năng quản lý về mặt tổ chức trong suốt thời gian
từ năm 1945 đến năm 1992 được đặt ra và được tiến hành liên tục. Hiến pháp
năm 1946, ở Trung ương, Tòa án nhân dân tối cao phải được thành lập, nhưng
do điều kiện chiến tranh Tòa án tối cao chưa ra đời, nên trong suốt 15 năm, từ
1945 đến 1959 Bộ Tư pháp là cơ quan quản lý các tòa án địa phương không
chỉ về tổ chức mà cả về mặt chuyên môn, nghiệp vụ.


24
Năm 1960, Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
bị giải thể theo Luật Tổ chức Hội đồng Chính phủ (ngày 14/7/1960). Trong thời
kỳ này, Bộ Tư pháp bị giải thể, Tòa án nhân dân tối cao được thành lập và chịu
sự quản lý của Hội đồng Chính phủ. Các chức năng, nhiệm vụ mà Bộ Tư pháp
thực hiện đối với Tòa án địa phương được chuyển giao cho Tòa án nhân dân tối
cao, Tòa án nhân dân tối cao có cơ cấu tổ chức gồm: Ủy ban Thẩm phán; các tòa
chuyên trách (Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa phúc thẩm); Hội đồng toàn thể
Thẩm phán và bộ máy giúp việc. Tòa án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao
nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, có thẩm quyền: Xét xử sơ thẩm các
vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân tối cao và những vụ án của Tòa
án nhân dân cấp dưới mà Tòa án nhân dân tối cao lấy lên để xử; phúc thẩm
những bản án, quyết định của tòa án nhân dân cấp dưới bị kháng án hoặc bị
kháng nghị; giám đốc thẩm việc xét xử của các tòa án nhân dân địa phương,
Tòa án quân sự và Tòa án đặc biệt; Hội đồng toàn thể Thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao có nhiệm vụ duyệt lại các bản án tử hình của Tòa án nhân
dân các cấp trước khi các bản đó được đem thi hành. Cùng với chức năng xét
xử, Tòa án nhân dân tối cao còn có các chức năng khác: có quyền trình các dự
án luật, pháp lệnh về những vấn đề thuộc phạm vi công tác chuyên môn của
mình; quản lí các Tòa án nhân dân địa phương về mặt tổ chức; hướng dẫn các
Tòa án nhân dân cấp dưới áp dụng pháp luật; huấn luyện cán bộ Tòa án;
nghiên cứu khoa học và tuyên truyền giáo dục pháp luật trong nhân dân.
Tòa án nhân dân cấp tỉnh có cơ cấu tổ chức gồm: Chánh án, các phó
Chánh án, các thẩm phán (do Hội đồng nhân cùng cấp bầu ra và bãi miễn với
nhiệm kì 4 năm) và bộ máy giúp việc. Tòa án nhân dân cấp tỉnh chỉ có Hội
đồng Thẩm phán, không có các tòa chuyên trách. Tòa án nhân dân cấp huyện
có cơ cấu tổ chức gồm: Chánh án, các Thẩm phán và bộ máy giúp việc; trong
trường hợp cần thiết có thể có phó Chánh án. Tòa án nhân dân cấp huyện xét
xử các vụ án dân sự và những vụ án hình sự có hình phạt tù từ 2 năm tù trở
xuống; hòa giải các việc tranh chấp về dân sự và phân xử những việc hình


25
nhỏ mà theo luật định không phải mở phiên tòa. Tòa án nhân dân cấp huyện
còn có nhiệm vụ xây dựng tổ chức tư pháp và hướng dẫn công tác hòa giải ở
xã, phường, thị trấn, khu phố và tuyên truyền, giáo dục pháp luật.
Hệ thống Tòa án quân sự cũng có bước phát triển mới, Tòa án quân sự
được thành lập mới ở Miền Bắc (theo Quyết định số 165/TM ngày 21/2/1961
của Bộ tổng tham mưu quân đội nhân dân Việt Nam) thay thế cho các Tòa án
quân sự và Tòa án binh được thành lập trước đây, gồm có: Tòa án quân sự
trung ương và các Tòa án quân sự quân khu, quân binh chủng, sư đoàn trực
thuộc Bộ quốc phòng và tương đương. Tại miền Nam, các Tòa án quân sự
mới cũng được thành lập (theo Chỉ thị số 51/H của Bộ Chỉ huy Miền) gồm có:
Tòa án quân sự miền Tây Nam bộ, Tòa án quân sự miền Đông Nam bộ và các
Tòa án quân sự cấp sư đoàn ở các mặt trận. Sau ngày giải phóng miền Nam,
thống nhất đất nước, hệ thống Tòa án quân sự được xây dựng thống nhất về
mặt tổ chức và hoạt động, gồm có: Tòa án quân sự Trung ương và 16 Tòa án
quân sự quân khu, quân chủng và tương đương.
Hệ thống cơ quan điều tra trong thời kì này gồm có: Các cơ quan điều
tra hình sự của Bộ Công an và Bộ Quốc phòng và các cơ quan điều tra thuộc
Viện kiểm sát nhân dân các cấp. Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân
có nhiệm vụ trực tiếp điều tra một số loại tội phạm kinh tế và trị an mà kẻ
phạm pháp và hành vi phạm tội đã tương đối rõ; cơ quan điều tra của Công an
điều tra tất cả những vụ án phản cách mạng và những tội phạm phức tạp; còn
cơ quan điều tra của quân đội thực hiện việc điều tra các vụ án hình sự thuộc
thẩm quyền xét xử của tòa án quân sự. Nhìn chung, hệ thống cơ quan điều tra
trong thời kì này đã có sự phát triển và có sự phối hợp hoạt động, bảo đảm tốt
việc điều tra, truy tố, phục vụ cho việc xét xử của tòa án.
1.2.1.2. Tổ chức bộ máy tư pháp Việt Nam sau thời kỳ đổi mới
Đổi mới là một chương trình cải cách kinh tế và xã hội do Đảng Cộng
sản Việt Nam khởi xướng vào những năm 80, nhưng chính sách đổi mới

×