Tải bản đầy đủ (.doc) (62 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO LỊCH sử ĐẢNG ôn tập môn TRUYỀN THỐNG và NHỮNG vấn đề đặc sắc TRONG LỊCH sử tư TƯỞNG văn hóa VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (539.24 KB, 62 trang )

NỘI DUNG ÔN TẬP
MÔN TRUYỀN THỐNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶC SẮC TRONG LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG VĂN
HÓA VIỆT NAM
1. Phân tích những nội dung cơ bản của truyền thống yêu nước, quật cường bất khuất đánh giặc giữ
nước của dân tộc Việt Nam? Giá trị lịch sử và hiện thực?
2. Phân tích nội dung “Cả nước chung sức đánh giặc” trong truyền thống đánh giặc giữ nước của
dân tộc Việt Nam. Giá trị hiện thực?
3. Phân tích những nội dung cơ bản của nghệ thuật quân sự truyền thống Việt Nam. Vận dụng
những giá trị nghệ thuật đó trong thời kỳ đổi mới?
4. Phân tích nội dung : “Cần cù, kiên nhẫn, thông minh sáng tạo” trong truyền thống lao động sản
xuất của người Việt Nam. Những giá trị cần được kế thừa, phát huy trong công cuộc đổi mới?
5. Phân tích cơ sở hình thành, nội dung và giá trị hiện thực của truyền thống dân chủ làng xã của
người Việt Nam. Ý nghĩa hiện thực?
6. Trên cơ sở truyền thống lao động sản xuất và xây dựng kinh tế của người Việt Nam, đồng chí
phân tích những tác động tích cực và tiêu cực trong cơng cuộc đổi mới hiện nay?
7. Phân tích những truyền thống nổi bật của giai cấp nông dân Việt Nam. Những vấn đề cần đấu
tranh, phê phán?
8. Từ lịch sử hình thành và phát triển của nông dân Việt Nam, hãy làm sáng tỏ vai trị của nơng dân
trong cơng cuộc dựng nước và giữ nước?
9. Từ vai trị của nơng dân Việt Nam trong lịch sử, theo đồng chí cần tập trung vào những giải pháp
gì để phát huy vai trị của họ trong thời kỳ đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế
10. Phân tích những đặc điểm nổi bật của giai cấp công nhân Việt Nam; phê phán những quan điểm,
nhận thức sai trái?
11. Phân tích vai trị của giai cấp công nhân trong lịch sử cách mạng Việt Nam; phê phán những
quan điểm, nhận thức sai trái?
12. Phân tích những đặc điểm nổi bật của đội ngũ trí thức Việt Nam; phê phán những quan điểm,
nhận thức sai trái?


NỘI DUNG ÔN TẬP
MÔN TRUYỀN THỐNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶC SẮC TRONG LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG VĂN


HÓA VIỆT NAM
1. Phân tích những nội dung cơ bản của truyền thống yêu nước, quật cường bất khuất đánh
giặc giữ nước của dân tộc Việt Nam? Giá trị lịch sử và hiện
- Cơ sở hình thành truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam
+ Điều kiện khách quan
* Điều kiện tự nhiên của Việt Nam đã gắn bó con người với thiên nhiên, quê hương đất nước.
Việt Nam nằm ở khu vực Đông Nam Á, giáp… với 3260 km đường bờ biển và khoảng trên 3000
hòn đảo lớn nhỏ. Việt Nam có diện tích khoảng 331.590 km 2 đất liền và khoảng 700.000 km 2 thềm lục địa,
phần biển rộng gấp nhiều lần so với phần đất liền.
Việt Nam là cửa ngõ của Đông Nam Á, cầu nối liền phần lục địa của Đông Nam Á với các quần
đảo bao bọc quanh biển Đông
Là đầu mối giao thông quan trọng của những con đường biển quốc tế và khống chế một ngã tư
đường biển trọng yếu.
Việt Nam có đặc điểm về địa hình, tài ngun, sơng ngịi, mơi trường sinh thái thuận lợi, khí hậu
nhiệt đới gió mùa phong phú, đa dạng. Vì vậy,…
* Lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta đã hun đúc nên tinh thần đoàn kết, ý chí đấu tranh kiên
cường, bất khuất, lịng tự tơn dân tộc tác động sâu sắc đến sự phát triển của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam.
Do vị trí địa lý quan trọng, có tầm chiến lược cả về chính trị và quân sự, điều kiện tự nhiên phong
phú, thuận lợi. Cho nên từ xưa đến nay, nước ta luôn được coi là “miếng mồi béo bở”, mảnh đất đầy hấp
dẫn đối với nhiều đế quốc hung bạo.
Dân tộc Việt Nam hình thành rất sớm, do yêu cầu chống thiên nhiên, chinh phục thiên nhiên phát
triển kinh tế và do sự cố kết nhau lại để chống ngoại xâm.
* Sự thống nhất trong tính đa dạng của nền văn hố dân tộc tác động lớn đến sự hình thành và phát
triển chủ nghĩa yêu nước Việt Nam.
Việt Nam là một quốc gia dân tộc thống nhất, mỗi dân tộc có truyền thống văn hố riêng của mình
(phong tục, tập qn, ngơn ngũ, tiếng nói) tạo nên một nền văn hố đa dạng, phong phú của nền văn hoá
thống nhất. Thống nhất trong tính đa dạng.
+ Nhân tố chủ quan
Nhân tố quan trọng quyết định đến nội dung, hình thức của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam.
Từ khi hình thành Nhà nước, từ nhà nước sơ khai ban đầu cho đến nay, bất kỳ Nhà nước nào cũng

quan tâm chăm lo đến tuyên truyền, giáo dục, bồi dưỡng, kế thừa và phát triển truyền thống yêu nước của
các thế hệ ông cha trong quá trình dựng nước và giữ nước .
Tình u q hương đất nước, u thương giống nịi ln được gắn và hòa quyện với nhau trong ý
thức của người dân Việt Nam. Từ xa xưa, tình u đó đã được chuyển thành ý thức biết nâng niu, quý
trọng những giá trị văn hoá tinh thần của quần chúng, trở thành hành động thiết thực của quần chúng trong
sự nghiệp xây dựng đất nước. Đặc biệt trước hoạ xâm lăng, tình yêu ấy được chuyển sang thái độ căm thù,
ý chí quyết tâm chiến đấu của từng người dân, của cả cộng đồng dân tộc đối với kẻ thù bán nước, cướp
nước.
- Vị trí
Yêu nước là nấc thang giá trị cao nhất của văn hoá Việt Nam. Là yếu tố cơ bản, là chuẩn mực cao
quý thiêng liêng của đạo lý dân tộc, là giá trị có ý nghĩa nền tảng vững chắc tạo nên sức mạnh truyền thống
đánh giặc giữ nước của dân tộc Việt Nam.
+ Yêu nước là phạm trù đạo đức, có ý nghĩa phổ quát thể hiện tình cảm bền vững của con người
Việt Nam với quê hương, đất nước của mình.
+ Đây là chủ nghĩa yêu nước chân chính, gắn liền với chủ nghĩa quốc tế chân chính của giai cấp
cơng nhân, khác với chủ nghĩa sô vanh, nước lớn hoặc chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, vị kỷ.


+ Chủ nghĩa yêu nước là một hệ thống những quan niệm, tư tưởng, lý luận về địa vị và sự tồn tại
của đất nước, về độc lập dân tộc và sự tồn vẹn của đất nước....trong đó lý tưởng độc lập dân tộc là sợi chỉ
đỏ xuyên suốt.
+ Chủ nghĩa yêu nước luôn hướng về dân, lấy dân làm gốc, về vai trò của nhân dân.
+ Phát huy chủ nghĩa yêu nước trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đáp ứng yêu cầu mới của đất
nước trong giai đoạn hiện nay. Trong đó, lý tưởng ĐLDT phải gắn liền với XHCN là nội dung cốt lõi của
nền văn hóa u nước.
- Nội dung
+ Tinh thần tự tơn, tự lập tự cường
Ví dụ: Trong hơn 1000 năm Bắc thuộc với âm mưu đồng hóa dân tộc của Trung Hoa nhưng dân tộc
ta đã bền bỉ kiên cường, anh dũng vừa đấu tranh giành độc lập dân tộc vừa chống đồng hóa, để cuối cùng
đánh đuổi quân thù đưa nước ta bước vào kỷ nguyên mới. Điều này thể hiện tinh thần tự tôn, tự lực, tự

cường của dân tộc ta quyết đánh đuổi quân xâm lược để dành độc lập dân tộc bảo vệ làng xóm, quê hương
đất nước mình.
+ Thể hiện ở tình yêu quê hương đất nước, quyết tâm xây dựng đất nước giàu đẹp.
Quê hương đất nước như một phần máu thịt của người Việt Nam. Có lẽ, khơng một người Việt Nam
nào khơng có ấn tượng sâu sắc về quê hương đất nước mình sinh ra, được nuôi dưỡng năm tháng ấu thơ,
rất gần gũi, giản dị. Đó là dịng sơng uốn khúc, cánh đồng lúa chín vàng, mùi thơm cơm mới, ngơ mới,
bánh chưng. Quê hương không chỉ là nơi “chôn nhau cắt rốn” mà còn là “quê cha đất tổ”.
+ Thể hiện trong cuộc đấu tranh chống ngoại xâm bảo vệ đất nước.( tinh thần hi sinh chiến đấu vì
độc lập tự do, không chịu mất nước, không chịu áp bức, nô lệ
Triệu Thị Trinh khẳng khái trả lời: “Tôi muốn cỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá kình
ở biển khơi, đánh đuổi quân Ngô giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ, chứ không chịu khom lưng làm tỳ
thiếp cho người”
Vào thế kỷ XIII, quân Mông Cổ tiến hành cuộc xâm lược nước ta lần thứ nhất(1258). Ở vào lúc gay
go nhất của cuộc kháng chiến Trần Thủ Độ khẳng khái nói với vua: “Đầu thần chưa rơi xuống đất , xin bệ
hạ đừng lo”
Trong kháng chiến chống Pháp, có rất nhiều tấm gương hy sinh vì tổ quốc. Nguyễn Trung Trực đã
dõng dạc nói với kẻ thù: “Bao giờ người Tây nhổ hết cỏ nước Nam thì mới hết người Nam đánh Tây”.
Trong kháng chiến chống Mỹ Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Dù khó khăn gian khổ đến mấy
nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta
nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam Bắc nhất định sum họp một nhà ”.
+ Thể hiện trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Yêu nước gắn liền với yêu CNXH, gắn liền với chủ nghĩa quốc tế chân chính của giai cấp công nhân. Lý
tưởng ĐLDT gắn liền với lý tưởng XHCN, lấy nhân dân làm gốc, vì cuộc sống ấm no, tự do hạnh phúc của
nhân dân.
Như vậy, từ cội rễ là lịng tơn kính tổ tiên, u thương gia đình, làng xóm. Ý niệm quốc gia hình
thành từ ý niệm giống nòi, các dân tộc hòa đồng và đều tin rằng đây là người Lạc Việt. Nhân dân có ý thức
về một văn hóa cội nguồn và rất tự hào về cội nguồn ấy. Sự tự hào đó làm cho nhân dân ta luôn phấn đấu
vươn lên vượt qua khó khăn xây dựng đất nước ngày càng hùng mạnh.
- Yêu cầu vận dụng
+ Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

+ Kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam hiện nay là xây dựng chủ nghĩa xã hội
và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là tiếp tục truyền thống dựng nước đi đôi với giữ nước trong
thời đại mới..
+ Không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, toàn dân tộc,
đoàn kết quốc tế.
+Kkết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công
nhân.


+ Kết hợp phương thức đánh giặc truyền thống và hiện đại trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
+ Giữ vững, tăng cường và phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩ hiện nay
2. Phân tích nội dung “Cả nước chung sức đánh giặc” trong truyền thống đánh giặc giữ nước
của dân tộc Việt Nam. Giá trị hiện thực?
- Yêu cầu khách quan
+ Xuất phát từ vị trí địa kinh tế, chính trị, quân sự vô cùng quan trọng nước ta,
+ Truyền thống đồn kết dân tộc bắt nguồn từ địi hỏi khách quan của quá trình dựng nước và giữ
nước của dân tộc Việt Nam
* Từ âm mưu xâm lược của kẻ thù (là một nước nhỏ luôn phải chống lại kẻ thù lớn hơn, mạnh hơn”
* Các dân tộc Vieät Nam đã chung sức chung lòng đấu tranh khắc phục thiên tai, chống giặc ngoại
xâm, bảo vệ đất nước.
- Vị trí
* Đoàn kết là nguồn sức mạnh quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
* Đoàn kết là tryền thống quí báu, bài học lớn của cách mạng Việt Nam Truyền thống đại đoàn kết
là một giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc ta, là cốt lõi hình thành nên nghệ thuật chiến tranh nhân
dân. Bác Hồ kính u của chúng ta đã căn dặn: “Đồn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng
và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đồn kết, nhất trí của Đảng
như giữ gìn con ngươi của mắt mình”1
* Đồn kết là u cầu khách quan của cách mạng nước ta, HCM tổng kết đoàn kết, đoàn kết đại

đồn kết, thành cơng ,thành cơng đại thành cơng
- Nội dung
+ Truyền thống đoàn kết được phát huy cao độ trong các cuộc đấu tranh chống ách đô hộ, đánh đuổi
giặc ngoại xâm bảo vệ độc lập dân tộc. Nhờ có sức mạnh đồn kết dân tộc mà dân tộc ta đã vượt qua mọi
khó khăn để tự khẳng định mình. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Đồn kết, đồn kết,
đại đồn kết - Thành cơng, thành công, đại thành công”.
+Thực tiễn lịch sử chứng minh: triều đại nào, thời kỳ nào kế thưa và phát huy được đồn kết thì
thắng lợi và ngược lại.
+ Ngày nay, tinh thần đại đoàn kết dân tộc là động lực tinh thần to lớn trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy, kế thừa và phát huy truyền thống đồn kết dân tộc đóng vai trị hết sức quan trọng
đối với sự thành công của sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta.
- Yêu cầu vận dụng hiện nay
* Thường xuyên tăng cường đoàn kết với tất cả lực lượng có thể đồn kết, nhằm tao ra sức mạnh
tổng thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách mạng.
* Tăng cường đoàn kết trong toàn Đảng làm cơ sở nền tảng cho đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc
tế.
* Đảng phải có một đường lối cách mạng đúng đắn, phương pháp tổ chức vận động quần chúng
phù hợp trong từng thời kỳ giai đoạn cách mạng.
* Đảng phải khéo kết hợp nhiệm vụ lợi ích chung của dân tộc với lợi ích của cách mạng thế giới.
* Tăng cường giáo dục chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế cao cả của giai cấp
công nhân dân.
* Kiên quyết đấu tranh chống lại các tư tưởng hành động sai trái; chủ nghĩa dân tộc hẹp hịi và sơ
vanh nước lớn chia rẽ đồn kết dân tộc.
3. Phân tích những nội dung cơ bản của nghệ thuật quân sự truyền thống Việt Nam. Vận dụng
những giá trị nghệ thuật đó trong thời kỳ đổi mới?
- Nội dung
+ Nghệ thuật đánh giặc tồn dân, tồn diện
1

Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 12, Nxb CTQG, H. 2001, Tr.497



* Cơ sở
-> Quy luật của chiến tranh: chiến tranh là cuộc đọ sức toàn diện của các bên tham chiến. nó phụ
thuộc vào các yếu tố
Tính chất của cuộc chiến tranh
Điều kiện cụ thể của chính trị, kinh tế, VH –XH, địa lý, lịch sử…mối quan hệ bang giao của các bên
tham chiến.
Phụ thuộc vào nghệ thuật động viên, huy động lực lượng
-> Xuất phát từ vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử:
Lý luận: M –LN nói…HCM nói…
Thực tiễn trong các cuộc chiến tranh.
* Nội dung
-> Toàn dân: phải huy động sức mạnh cả dân tộc
-> Toàn diện: cả KT, CT, VH –TT, N/Giao…
+Nghệ thuật quân sự lấy ít địch nhiều, lấy yếu thắng mạnh, lấy nhỏ thắng lớn.
* Cơ sở
Tư tưởng quân sự của Tôn Tử: “ khơng thể lấy ít địch nhiều ở quy mơ chiến thuật…”
Naponeon “ lấy ít địch nhiều chỉ sử dụng ở quy mơ chiến lược, lấy nhiều đánh ít sử dụng ở quy mô
chiến thuật”
Thực tiễn lịch sử VN: Tư tưởng của Lý Thường Kiệt (tiên phát chế nhân), Trần Quốc Tuấn (lấy
đoản binh thắng trường trận), Nguyễn Trãi (…
* Nội dung
-> Cách thực hành nghệ thuật lấy ít địch nhiều
Ln qn triệt tư tưởng tiến cơng, phịng ngự chỉ là tạm thời cịn tiến cơng là mục tiêu, bảo tồn và
chuẩn bị lực lượng, ln tiến cơng tồn diện (CT, QS, Binh Vận)
-> Điều kiện thực hành:
Ln có quân đội tinh nhuệ, biết vận cách đánh thích hợp, biết chọn địa hình, địa thế thích hợp
Phải diễn ra trong điều kiện chiến tranh chính nghĩa
-> Đánh địch: đánh nhỏ lẻ thì kết hợp sự dụng quân địa phương, lộ, tổng…với quân chủ lực đánh

lớn.
-> Phải biết tạo thời, tạo thế, tạo lực: thế trận vững chắc là lòng dân, chiến tranh nhân dân, ngụ binh
ư nông.
+ Nghệ thuật chọn thời cơ, chớp thời cơ là một biểu hiện quan trọng của NTQSVN.
* Đi trước địch: “tiên phát chế nhân” của Lý Thường Kiệt
* Nắm được địch
* Chủ động đánh địch: khi địch mới dừng chân, mới triển khai lực lượng, đánh đêm, chiều tà, buổi
sáng, tết.
* Phải luôn tạo thời cơ, chọn đúng thời cơ đánh địch
+ Nghệ thuật tổ chức các trận quyết chiến chiến lược.
* Nguyên tắc chỉ đạo
-> Chỉ tiến hành khi điều kiện hoàn tồn có lợi cho ta và chắc thắng.
-> Phải giữ quyền chủ động về chiến lược, không cho địch giành lại quyền chủ động.
Để có được điều đó phải có điều kiện: quân đội phải có số lượng và chất lượng, có đội dự bị mạnh,
có nghệ thuật chỉ huy tài giỏi, hành động kiên quyết và có khả năng điều khiển theo ý đồ tác chiến của ta.
-> Đánh thắng oanh liệt, nghiền nát quân chủ lực của địch.
Nếu địch mạnh: phải đánh tiêu diệt ngay, không kéo dài
Nếu địch phịng ngự: phải tấn cơng bất ngờ, tồn diện
Tham khảo thêm => 2.1 Truyền thống và nghệ thuật đánh giặc của ông cha ta
2.1.1 Những yếu tố tác động đến việc hình thành nghệ thuật đánh giặc
- Về địa lí:


+ Nước ta có vị trí chiến lược quan trọng ở khu vực Đông Nam Á và biển Đông
+ Chúng ta có hệ thống giao thơng đường bộ, đường biển, đường sông, đường không bảo đảm giao
lưu trong khu vực châu Á và thế giới thuận lợi
+ Đã từ lâu nhiều kẻ thù đã nhịm ngó, đe doạ và tiến công xâm lược nước ta
- Về kinh tế:
+ Kinh tế nước ta là tự cung tự cấp, sản xuất nông nghiệp là chính, trong đó trồng trọt, chăn ni là
chủ yếu, trình độ canh tác thấp

+ Quá trình phát triển, tổ tiên ta đã kết hợp chặt chẽ tư tưởng dựng nước phải đi đôi với giữ nước,
thực hiện nhiều kế sách như: “phú quốc, binh cường”, “ngụ binh ư nơng”…Tích cực phát triển sản xuất,
chăn ni để ổn định, nâng cao đời sống nhân dân, đồng thời phát huy tính sáng tạo trong lao động, tự tạo
ra vũ khí để chống giặc ngoại xâm bảo vệ Tổ quốc
- Về chính trị, văn hố – xã hội
+ Chúng ta có 54 dân tộc anh em chung sống hoà thuận, đoàn kết
+ Dân tộc ta đã sớm xây dựng được nhà nước, xác định chủ quyền lãnh thổ, tổ chức ra quân đội để
cùng toàn dân đánh giặc, xây dựng và bảo vệ đất nước
+ Dân tộc ta đã xây dựng được nền văn hố truyền thống: đồn kết, u nước thương nịi, sống hồ
thuận, thuỷ chung, lao động cần cù, sáng tạo, đấu tranh anh dũng kiên cường, bất khuất
+ Chúng ta đã xây dựng được nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc với kết cấu vững chắc: đất nước
bao gồm làng, xã, thơn, bản và có nhiều dân tộc cùng chung sống, mỗi làng, xã, thôn bản có phong tục tập
quán riêng.
2.1.2 Các cuộc khởi nghĩa và chiến tranh chống xâm lược
- Những cuộc chiến tranh giữ nước đầu tiên
+ Cuộc kháng chiến chống quân Tần: trước năm 214 trước công nguyên, dưới sự lãnh đạo của vua
Hùng và vua Thục Phán
+ Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược của Triệu Đà, từ năm 184 đến 179 trước công nguyên, do
An Dương Vương lãnh đạo
- Những cuộc khởi nghĩa và chiến tranh chống xâm lược giành và giữ độc lập từ thế kỉ II trước công
nguyên đến đầu thế kỉ X
+ Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng vào năm 40, đã giành được độc lập và giữ vững được trong 3
năm.
+ Năm 248, cuộc khởi nghĩa của bà Triệu Thị Trinh, nhưng bị thất bại
+ Năm 542 là cuộc khởi nghĩa của Lý Bôn, giành thắng lợi, Lý Bôn lên ngôi vua với hiệu Lý Nam
Đế và đặt tên nước là Vạn Xn
+ Ngồi ra cịn có rất nhiều các cuộc khởi nghĩa tiêu biểu khác như: Khởi nghĩa của Mai Thúc Loan
(năm 722), khởi nghĩa Phùng Hưng (từ năm 766 đến 791), khởi nghĩa Ngô Quyền ….
- Các cuộc kháng chiến chống quân xâm lược từ thế kỷ X đến thế kỷ XVIII
+ Kháng chiến chống quân Tống lần thứ nhất của nhà Tiền Lê năm 981

+ Cuộc kháng chiến chống Tống lần 2 (1075- 1077) của nhà Lý
+ Ba lần kháng chiến chống quân Nguyên của nhà Trần ở thế kỉ XIII
+ Cuộc kháng chiến chống quân Minh do Hồ Quí Ly lãnh đạo, cuối thế kỉ XIV
+ Khởi nghĩa Lam Sơn và chiến tranh giải phóng dân tộc do Lê Lợi, Nguyễn Trãi lãnh đạo (1418 1427)
+ Khởi nghĩa Tây Sơn và các cuộc kháng chiến chống quân Xiêm 1784 – 1785, kháng chiến chống
quân xâm lược Mãn Thanh 1788 – 1789
2.1.3 Nghệ thuật đánh giặc của ông cha ta
- Về tư tưởng chỉ đạo tác chiến
+ Ơng cha ta ln nắm vững tư tưởng tiến công, tiến công liên tục, mọi lúc mọi nơi, từ cục bộ đến
tồn bộ, coi đó như là một qui luật để giành thắng lợi. Đây được xem như là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong
quá trình chuẩn bị và tiến hành chiến tranh giữ nước.
+ Tư tưởng đó thể hiện rất rõ trong đánh giá đúng kẻ thù, chủ động đề ra kế sách đánh,


phịng, khẩn trương chuẩn bị lực lượng kháng chiến, tìm mọi biện pháp làm cho địch suy yếu, tạo ra thế và
thời cơ có lợi để tiến hành phản cơng, tiến công.
- Về mưu kế đánh giặc
+ Mưu là để lừa địch, đánh vào chỗ yếu, chỗ sơ hở, chỗ ít phòng bị, làm cho chúng bị động, lúng
túng đối phó.
+ Kế là để điều địch theo ý định của ta, giành quyền chủ động, buộc chúng phải đánh theo cách
đánh của ta
+ Kế sách đánh giặc của ông cha ta khơng nhữngeosangs tạo mà cịn rất mềm dẻo, khơn
khéo đó là “biết tiến, biết thối, biết cơng, biết thủ”, biết kết hợp chặt chẽ giữa tiến công quân sự với binh
vận, ngoại giao, tạo thế mạnh cho ta, biết phá thế mạnh của giặc, trong đó tiến cơng ln giữ vai trị quyết
định.
+ Ơng cha ta đã phát triển mưu, kế đánh giặc, biến cả nước thành một chiến trường, tạo ra một
“thiên la, địa võng” để diệt địch, làm cho “đich đơng mà lại hố ít, địch mạnh mà hố yếu”, đi dến đâu
cũng bị đánh, ln bị tập kích, phục kích, lực lượng bị tiêu hao, tiêu diệt, rơi vào tình trạng “tiến thối
lưỡng nan”
- Nghệ thuật chiến tranh nhân dân, thực hiện toàn dân đánh giặc

+ Đây là một trong những nét độc đáo trong nghệ thuật quân sự của tổ tiên ta, được thể hiệncả trong
khởi nghĩa và chiến tranh giải phóng. Hễ kẻ thù động đến nước ta thì “vua tơi đồng lịng, anh em hoà mục,
cả nước chung sức, trăm họ là binh”, giữ vững quê hương, bảo vệ xã tắc.
+ Nội dung cơ bản của thực hiện toàn dân đánh giặc là: “Mỗi người dân là một người lính, đánh
giặc theo cương vị, chức trách của mình. Mỗi thơn, xóm, bản, làng là một pháo đài diệt giặc. Cả nước là
một chiến trường, tạo ra thế trận chiến tranh nhân dân liên hồn, vững chắc làm cho địch đơng mà hố ít,
địch mạnh mà hoá yếu, rơi vào trạng thái bị động, lúng túng và bị sa lầy.”
- Nghệ thuật lấy nhỏ đánh lớn, lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh:
+ Trên cơ sở điều kiện thực tiễn chiến tranh ở nước ta: luôn phải chống lại các đội quân xâm lược có
qn số, vũ khí, trang bị lớn hơn ta rất nhiều lần thì đây là nét đặc sắc và tất yếu trong nghệ thuật quân sự
của ông cha ta.
+ Nghệ thuật lấy nhỏ đánh lớn, lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh chính là sản phẩm của lấy
“thế” thắng “lực”. Ông cha ta đã sớm xác định đúng về sức mạnh trong chiến tranh đó là: sức mạnh tổng
hợp của nhiều yếu tố, chứ không đơn thuần là sự so sánh, hơn kém về quân số, vũ khí của mỗi bên tham
chiến.
- Nghệ thuật kết hợp đấu tranh giữa các mặt trận quân sự, chính trị, ngoại giao và binh vận
+ Mặt trận chính trị nhằm cổ vũ tinh thần yêu nước của nhân dân, qui tụ sức mạnh đại đoàn kết dân
tộc, là cơ sở tạo ra sức mạnh quân đội
+ Mặt trận quân sự là mặt trận quyết liệt nhất, thực hiện tiêu diệt sinh lực, phá huỷ phương tiện
chiến tranh của địch, quyết định thắng lợi trực tiếp của chiến tranh, tạo đà, tạo thế cho các mặt trận khác
phát triển
+ Mặt trận ngoại giao có vị trí rất quan trọng, đề cao tính chính nghĩa của nhân dân ta, phân hố, cơ
lập kẻ thù, tạo thế có lợi cho cuộc chiến. Mặt khác, mặt trận ngoại giao kết hợp với mặt trận quân sự, chính
trị tạo ra thế có lợi để kết thúc chiến tranh càng sớm càng tốt.
+ Mặt trận binh vận để vận động làm tan rã hàng ngũ của giặc, góp phần quan trọng để hạn chế thấp
nhất tổn thất của nhân dân ta trong chiến tranh
- Về nghệ thuật tổ chức và thực hành các trận đánh lớn
+ Thời nhà Lý: trận phịng ngự sơng Cầu (Như Nguyệt), đây là điển hình về kết hợp chặt chẽ hai
hình thức tác chiến phịng ngự và phản cơng trên cả quy mơ chiến lược, chiến thuât. Kêt quả không những
chặn đứng được 30 vạn quân Tống mà cong làm thất bại ý đồ đánh nhanh thắng nhanh để chiếm Thăng

Long của chúng, khiến chúng phải chuyển từ thế chủ động sang thế bị động phòng ngự
+ Thời nhà Trần: chống giặc Nguyên lần 2, Trần Quốc Tuấn đẫ tổ chức một cuộc rút lui chiến lược,
làm thất bại kế hoạch vây hợp của địch. Trong cuộc truy đuổi, quân Nguyên còn vấp phải một cuộc chiến


tranh của toàn dân Đại Việt. Do vậy, quân Nguyên bị sa vào tình trạng muốn đánh mà khơng đánh được,
“lực càng yếu, thế càng suy”, tạo điều kiện cho ta phản công.
+ Thời hậu Lê: khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi, là kết quả của nhiều yếu tố, trong đó nghệ thuật tổ
chức và tiến hành các trận đánh quyết định giữ một vai trò rất quan trọng. Nguyễn Trãi và Lê Lợi chủ
trương “lánh chỗ thực, đánh chỗ hư, tránh nơi vững chắc, đánh nơi sơ hở”
+ Nghệ thuật quân sự của Nguyễn Huệ và quân Tây Sơn được biểu hiện tập trung nhất, rực rỡ nhất
trong việc tổ chức và thực hành các trận quyết chiến chiến lược. Nguyễn Huệ đã thiết lập một hệ thống tổ
chức hành quân đạt hiệu quả tối đa, ông chú trọng hợp vây chiến dịch, chiến thuật và tiến công địch bằng
các địn thọc sâu hiểm hóc.
2.2 Nghệ thuật qn sự Việt Nam từ khi có Đảng lãnh đạo
2.2.1 Cơ sở hình thành nghệ thuật quân sự Việt Nam
- Truyền thống đánh giặc của tổ tiên
+ Trải qua mấy nghìn năm chống giặc ngoại xâm, nghệ thuật quân sự của tổ tiên đã hình thành và
khơng ngừng phát triển, trở thành những bài học quí giá cho các thế hệ sau. Những kinh nghiệm đó là cơ
sở để tồn Đảng, tồn dân và toàn quân ta kế thừa, vận dụng và phát triển trong cuộc kháng chiến chống
Pháp, chống Mĩ và trong công cuộc bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
- Chủ nghĩa Mác – Lênin về chiến tranh, quân đội và bảo vệ Tổ quốc
+ Đảng cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư
tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động. Học thuyết chiến tranh, quân đội, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa và kinh nghiệm nghệ thuật quân sự được đúc rút qua các cuộc chiến tranh do C.Mác, Ph. Ăngghen,
V.I. Lênin tổng kết, là cơ sở để Đảng ta vận dụng, định ra đường lối quân sự trong khởi nghĩa vũ trang,
chiến tranh giải phóng ở Việt Nam
- Tư tưởng qn sự Hồ Chí Minh
+ Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh là sự tiếp thu, kế thừa truyền thống đánh giặc của tổ tiên, vận
dụng lí luận Mác – Lênin về quân sự, kinh nghiệm của các nước trên thế giới vào thực tiễn cách mạng Việt

Nam, là cơ sở cho sự hình thành và phát triển nghệ thuật quân sự Việt Nam. Hồ Chí Minh và Đảng đã đề ra
phương châm chỉ đạo chiến tranh, phương thức tác chiến chiến lược, nắm bắt đúng thời cơ, đưa chiến tranh
Việt Nam kết thúc thắng lợi
2.2.2 Nội dung nghệ thuật quân sự Việt Nam từ khi có Đảng lãnh đạo
- Chiến lược quân sự: Chiến lược quân sự là tổng thể phương châm, chính sách và mưu lược được hoạch
định để ngăn ngừa và sẵn sàng tiến hành chiến tranh (xung đột vũ trang) thắng lợi, là bộ phận hợp thành
(quan trọng nhất) có tác dụng chủ đạo trong nghệ thuật quan sự Việt Nam. Nội
dung chủ yếu:
+ Xác định đúng kẻ thù, đúng đối tượng tác chiến: Đây là vấn đề quan trọng của chién tranh cách
mạng, nhiệm vụ của chiến lược quân sự phải xác định chính xác để từ đó có đối sách và phương thức đối
phó hiệu quả nhất
+ Đánh giá đúng kẻ thù: Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phân tích, đánh giá đúng mạnh, yếu
của kẻ thù.Từ những nhận định đúng đắn vvề kẻ thù đã tiếp thêm sức mạnh cho nhân dân ta quyết tâm
đánh Pháp, Mĩ và biết thắng Pháp, Mĩ
+ Mở đầu và kết thúc chiến tranh đúng lúc: Đây là một vấn đề mang tính nghệ thuật cao trong chỉ
đạo chiến tranh của Đảng ta, nhằm giành thắng lợi trọn vẹn nhất những hạn chế tổn thất đến mức thấp nhất
+ Phương châm tiến hành chiến tranh: Đảng ta chỉ đạo tiến hành chiến tranh nhân dân, thực hiện
toàn dân đánh giặc, đánh giặc toàn diện trê tất cả các mặt trận qn sự, chính trị, văn hố, ngoại giao…
trong đó, mặt trận quân sự giữ vai trò quyết định nhất. Đảng ta chỉ đạo tiến hành chiến tranh với tinh thần
“”tự lực cách sinh, đánh lâu dài, dựa vào sức mình là chính
+ Phương thức tiến hành chiến tranh: Cuộc chiến tranh chống quân xâm lược của nước ta là chiến
tranh cách mạng, chính nghĩa và tự vệ. Do đó Đảng ta chỉ đạo: phương thức tiứn hành chiến tranh là chiến
tranh nhân dân kết hợp giữa địa phương với các binh đoàn chủ lực , kết hợp chặt chẽ tiến cơng địch bằng
hai lực lượng chính trị, qn sự


- Nghệ thuật chiến dịch: Nghệ thuật chiến dịch, lí luận và thực tiễn chuẩn bị, thực hành chiến dịch và các
hoạt động tác chiến tương đương; bộ phận hợp thành của nghệ thuật quân sự, khâu nối liền giưũa chiến
lược quân sự và chiến thuật. Sự hình thành chiến dịch và phát triển của nghệ thuật chiến dịch, bộ phận hợp
thành của nghệ thuật quân sự Việt Nam là toàn diện, tập trung vào những vấn đề sau:

+ Loại hình chiến dịch:
• Chiến dịch tiến cơng (chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954, chiến dịch tiến công Tây Nguyên,
chiến dịch Hồ Chí Minh trong cuộc tổng tiến cơng và nổi dậy mùa xn 1975).
• Chiến dịch phản cơng: Chiến dịch phản công VIệt Bắc năm 1947, chiến dịch phản cơng
đường số 9- Nam Lào năm 1971
• Chiến dịch phịng ngự: chiến dịch phịng ngự Quảng Trị năm 1972
• Chiến dịch phịng khơng: chiến dịch phịng khơng Hà Nội năm 1972
• Chiến dịch tiến cơng tổng hợp: chiến dịch tiến công tổng hợp khu 8
+ Qui mô chiến dịch: trong kháng chiến chống Pháp và Mĩ, qui mô chiến dịch được phát triển cả về
số lượng và chất lượng
+ Nghệ thuật chiến dịch là cách đánh chiến dịch:
• Thời kì đầu, chúng ta có nghệ thuật chon khu vực tác chiến chủ yếu, nghệ thuật chuẩn bị thế
trận chiến dịch, nghệ thuật tập trung ưu thế lực lượng bảo đảm chắc thắng trận mở màn chiến dịch, nghệ
thuật xử trí chính xác các tình huống trong tác chiến chiến dịch
• Trong chiến dịch Điện Biên Phủ: Xác định đúng phương châm tác chiến chiến dịch, thay đổi
phương châm tác chiến từ “đánh nhanh, thắng nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc”; Xây dựng thế trận
chiến dịch vững chắc, thực hiện bao vây rộng lớn, chia cắt và cô lập ĐBP với các chiến trường khác; Phát
huy cao nhất sức mạnh tác chiến hợp đồng các binh chủng, tập trung ưu thế binh hoả lực đánh dứt điểm
từng trận then chốt; Vận dụng sáng tạo cách đánh chiến dịch, dựa vào hệ thống trận địa, thực hành vây hãm
kết hợp với đột phá, kết hợp đánh chính diện với các mũi thọc sâu, luồn sâu. tạo thế chia cắt địch
• Trong kháng chiến chống Mĩ: Nghệ thuật chiến dịch đã nâng lên một tầm cao mới. Nghệ
thuật chiến dịch đã chỉ đạo chiến thuật đánh bại tất cả các chiến lược quân sự, biện pháp, thủ đoạn tác
chiến của quân Mĩ, Nguỵ và chư hầu. Đặc biệt trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975, nghệ
thuật chiến dịch có buớc nhảy vọt, được thể hiện: nghệ thuật tạo ưu thế lực lượng, bảo đảm đánh địch trên
thế mạnh, hình thành sức manhj áp đảo địch trong chiến dịch; Nghệ thuật vận dụng sáng tạo cách đấnh
chiến dịch (lần lượt và đồng loạt); Nghệ thuật kết hợp tiến công với nổi dậy, phối hợp tác chiến 3 thứ
quân….
- Chiến thuật: Chiến thuật là lí luận và thực tiễn về tổ chức và thực hành chiến đấu của phân đội, binh đội,
binh đoàn lực lượng vũ trang, bộ phận hợp thành của nghệ thuật quân sự Việt Nam. Nội dung của chiến
thuật được thể hiện:

+ Vận dụng các hình thức chiến thuật vào trong các trận chiến đấu
• Giai đoạn đầu của 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và Mĩ, chiến thuật thường vận dụng là tập
kích, phục kích, vận động tiến cơng trong đó, phục kích có lợi hơn tập kích
• Các giai đoạn sau của 2 cuộc kháng chiến, bộ đội ta đã trưởng thành, không những giỏi vận
động chiến (đánh địch ngồi cơng sự) mà cịn từng bước vận dụng cơng kiên chiến (đánh địch trong cơng
sự)
• Giai đoạn cuối của 2 cuộc kháng chiến, do yêu cầu của chiến lược, chiến dịch, chiến thuật
phòng ngự xuất hiện, ngồi ra cịn có các hình thức chiến thuật truy kích, đánh địch đổ bộ đường khơng
+ Quy mơ lực lượng tham gia trong các trận chiến đấu: Giai đoạn đầu của 2 cuộc kháng chiến, lực
lượng tham gia chủ yếu trong biên chế và được tăng cường một số hoả lực như súng cối 82mm, DKZ…
Các giai đoạn sau, quy mô lực lượng tham gia các trận chiến đấu ngày càng lớn, có sự hiệp đồng binh
chủng giữa bộ binh, xe tăng, pháo binh, phịng khơng… Hiệp đồng chiến đấu giữa các lực lượng bộ đội
chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân tự vệ ngày càng nhiều
+ Cách đánh: Là nội dung quan trọng nhất của lí luận chiến thuật. Mỗi binh chủng, mỗi hình thức
chiến thuật đều có những cách đánh cụ thể, phù hợp với đối tượng và địa hình. Cách đánh của ta thể hiện


tính tích cực, chủ động tiến cơng, bám thắt lưng địch, chia địch ra mà đánh, trói địch lại mà diệt. Kết hợp
chặt chẽ giữa hành động tiến công và phịng ngự của 3 thứ qn để hồn thành nhiệm vụ cấp trên giao
2.3 Vận dụng một số bài học kinh nghiệm về nghệ thuật quân sự vào sự nghiệp bảo vệ Tổ
quốc trong thời kì mới và trách nhiệm của sinh viên
2.3.1 Quán triệt tư tưởng tích cực tiến công
- Trong lịch sử chiến tranh giữ nước, nghệ thuật quân sự của cha ông ta trước đây luôn nhấn mạnh
tư tưởng tích cực, chủ động tiến cơng địch.
- Ngày nay, kẻ thù của chúng ta là chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, có ưu thế và tiềm lực
kinh tế, quân sự, khoa học công nghệ mạnh, trên cơ sở đánh giá đúng mạnh yếu của địch và ta, chúng ta
phải biết phát huy sức mạnh của mọi lực lượng, vận dụng linh hoạt mọi hình thức và qui mơ tác chiến, mọi
cách đánh mới có thể tiến công địch liên tục, mọi lúc, mọi nơi. Không chỉ tiến công trên mặt trận quân sự
mà phải tiến cơng tồn diện trên mọi mặt trận, đặc biệt là mặt trận chính trị, binh vận, thực hiện “mưu phạt
cơng tâm”, đánh vào lịng người, góp phần thay đổi cục diện chiến tranh

2.3.2 Nghệ thuật quân sự toàn dân đánh giặc
- Đây là sự kế thừa và phát huy lên một trình độ mới từ nghệ thuật quân sự truyền thống của dân
tộc. Trong hoạt đọng tác chiến của các lực lượng vũ trang, kết hợp đánh phân tán với đánh tập trung, kết
hợp đánh nhỏ, đánh vừa, đánh lớn. Mỗi lực lượng, mỗi thứ quân dều có vị trí, tác dụng và có những qui
luật hoạt động riêng. Vì vậy, cần phải phối kết hợp tác chiến của các lực lượng, các thứ quân cả về chiến
lược cũng như trong chiến dịch và trong chiến đấu. Có kết hợp được như vậy mới phát huy được uy lực
của mọi vũ khí từ thơ sơ đến hiện đại, làm cho binh lực địch bị phân tán, dàn mỏng, khiến cho chúng đơng
mà hố ít, mạnh mà hóa yếu và ln bị động đối phó, trên cơ sở đó thực hiện những đòn đánh quyết định,
tạo sự thay đổi trên chiến trường có lợi cho ta.
2.3.3 Nghệ thuật tạo sức mạnh tổng hợp bằng lực, thế, thời và mưu kế
- Dùng lực phải dựa vào thế có lợi, dùng đúng nơi, đúng lúc mới đạt hiệu quả cao, lực nhỏ hoá lớn,
yếu hoá mạnh
- Dùng thế, tạo lực để sẵn sàng đánh địch khi có thời cơ có lợi nhất
- Đặt thế, lực vồ đúng thời cơ có lợi thì “sức dùng một nửa mà công được gấp đôi”
- Muốn đánh thắng còn phải dùng mưu kế, hạn chế cái mạnh của địch, phát huy cái mạnh của ta.
Luôn chú ý lừa địch và giữ bí mật, bất ngờ. Đánh bất ngờ, tạo hiệu quả diệt địch, nhất là trong điều kiện
lực lượng qn địch mạnh, có vũ khí cơng nghệ cao.
- Nghệ thuật quân sự của ta còn phải biết đánh giá đúng và triệt để khai thác các yếu tố “thiên thời,
địa lợi, nhân hồ”. Đó là nghệ thuật nắm bắt và phát huy sức mạnh của thời đại, phát huy tiềm năng, thế
mạnh của đất nước, con người Việt Nam, trong đó cần đặc biệt chú trọng “nhân hồ”
- Chỉ có kết hợp chặt chẽ lực, thế, thời,muư và các yếu tố khác ta mới có thể tạo ra sức mạnh tổng
hợp đánh thắng kẻ thù có kinh tế, quân sự mạnh khi chúng liều lĩnh xâm lược nước ta
2.3.4 Quán triệt tư tưởng lấy ít đánh nhiều, biết tập trung ưu thế lực lượng cần thiết để đánh thắng địch
- Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, cha ông ta luôn phải chống lại kẻ thù xâm lược
lớn hơn nhiều lần. Đứng trước thực tế đó, ơng cha ta đã sáng tạo ra nghệ thuật “lấy ít địch nhiều”, nhưng
biết tập trung ưu thế lực lượng trong những thời điểm quan trọng để đánh thắng quân xâm lược
- Ngày nay, vận dụng tư tưởng lấy ít địch nhiều, ta phải phát huy được khả năng đánh giặc của toàn
dân, của cả 3 thứ quân, tạo ra sức mạnh tổng hợp hơn địch để đánh thắng địch trong mọi tình thế
2.3.5 Kết hợp tiêu hao, tiêu diệt địch với bảo vệ vững chắc các mục tiêu
- Từng trận đánh, từng chiến dịch có mục đích cụ thể khác nhau, nhưng mục đích chung nhất của

mọi hoạt động tác chiến trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc là tiêu diệt lực lượng địch phải đi đôi với bảo vệ
vững chắc mục tiêu.
- Muốn giành thắng lợi triệt để, chúng ta phải kết hợp đánh tiêu hao với đánh tiêu diệt lớn quân
địch. Đánh tiêu hao rộng rãi bằng đánh nhỏ, đánh vừa của chiến tranh nhân dân địa phương sẽ tạo điều
kiện cho tác chiến tập trung của chiến tranh bằng các binh đoàn chủ lực, thực hiện đánh lớn, tieu diệt quân
địch lớn


- Đi đôi với tiêu hao, tiêu diệt lực lượng của địch, phải boả vệ vững chắc mục tiêu của ta, là vấn đề
có tính qui luật trong chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc
2.3.6 Trách nhiệm của sinh viên
- Nghiên cứu nghệ thuật quân sự của các thế hệ cha ơng ta, chúng ta có quyền tự hào về tinh thần
dũng cảm, ý chí kiên cường trong chống giặc ngoại xâm để bảo vệ non sông đất nước
- Ngày nay, đất nước đang đẩy mạnh công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng và đạt được
nhiều thành tựu quan trọng. Nhưng kẻ thù cịn đó, chúng đang tìm mọi thủ đoạn để xố bỏ chế độ xã hội
chủ nghĩa ở nước ta
- Do đó, trách nhiệm của sinh viên rất nặng nề đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trước hết mỗi sinh viên cần phát huy tinh thần tự lực, tự cường, vượt qua khó khăn để hồn thành nhiệm
vụ học tập, đặc biệt khơng ngừng bồi đắp lịng u q hương, đất nước. Mặt khác, phải phấn đấu, tu
dưỡng để trở thành những công dân tốt, sẵn sàng làm nhiệm vụ khi Tổ quốc cần
Câu 4. Phân tích nội dung : “Cần cù, kiên nhẫn, thông minh sáng tạo” trong truyền thống lao
động sản xuất của người Việt Nam. Những giá trị cần được kế thừa, phát huy trong công cuộc đổi
mới?
Cần cù, sáng tạo là nét đặc sắc của con người Việt Nam. Do hồn cảnh sống khắc nghiệt, khó khăn
là nhân tố khách quan vì khơng cần cù, chăm chỉ thì khơng có ăn “Tay làm hàm nhai, tay quai miệng trễ”.
Người lao động bao giờ cũng “tham công tiếc việc, thức khuya, dậy sớm, một nắng hai sương, bán mặt cho
đất, bán lưng cho trời” để đổi lấy bát cơm manh áo.
* Giản dị trong lối sống thanh cao “Đói cho sạch, rách cho thơm”
* Khiêm tốn, sống có chừng mực “Biết mình, biết người”
* Lạc quan: Là điểm tựa giúp dân vượt qua những thử thách, gay go, quyết liệt. Bởi vậy, người Việt

“Bẩm sinh đã là nghệ sỹ”. Qua hàng ngàn năm chưa có chữ viết, nhân dân ta đã sáng tạo ra cả một kho
tàng văn hóa dân gian đồ sộ mà đến nay vẫn chưa khai thác hết. Đất nước Việt Nam là đất nước của thơ ca,
huyền thoại, đất nước của những chuyện cổ tích về con người, núi sơng.
Đọc thêm:
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng ngời về đạo đức cách mạng. Suốt cuộc đời, Người đặc biệt
quan tâm tới việc giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên. Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức là
nền tảng và là sức mạnh, là nhân cách của người cán bộ, đảng viên. Người coi đó là cái gốc của cây, ngọn, nguồn
của sơng nước. Cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng, vơ tư được xem là 8 chữ vàng mà Bác yêu cầu mỗi cán bộ, đảng
viên, công chức, viên chức phải phấn đấu thực hiện thật tốt để phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Cần là một
phẩm chất của đạo đức cách mạng. Cần thẩm thấu, chi phối, tác động biện chứng trong chuỗi giá trị văn hóa đạo
đức cách mạng. Có cần mới kiệm. Có cần, kiệm mới liêm. Có cần, kiệm, liêm mới chính.
Cần theo tư tưởng Hồ Chí Minh có nghĩa là cần cù, siêng năng, chăm chỉ trong học tập, lao động, chiến đấu và sản
xuất. Cần cịn có nghĩa là việc gì, dù khó khăn mấy, cũng làm được, cũng như dao siêng mài thì sắc bén, ruộng
siêng làm cỏ thì lúa tốt. Bác dạy: “Làm việc phải đến đúng giờ, chớ đến trễ về sớm. Làm cho chóng, cho chu đáo.
Việc ngày nào nên làm xong ngày ấy, chớ để ngày mai”. Bác còn dạy: “Phải nhớ rằng: Dân đã lấy tiền mồ hôi, nước
mắt để trả lương cho ta trong những thì giờ đó. Ai lười biếng tức là lừa gạt dân”[1]. Bác phân tích đối lập với cần là
lười biếng: “Lười biếng là kẻ địch của chữ cần. Vì vậy, lười biếng cũng là kẻ địch của dân tộc. Một người lười
biếng, có thể ảnh hưởng tai hại đến công việc của hàng nghìn, hàng vạn người khác”[2]. Như vậy, theo Người,
“người lười biếng là có tội với đồng bào, với Tổ quốc”, trái với đạo đức cách mạng, cản trở phong trào thi đua lao
động sáng tạo của cả dân tộc. Như vậy, đối với cán bộ, đảng viên, Cần tức là làm đủ số thời gian nhà nước quy định,
không dùng thời gian đó giải quyết việc cá nhân, trễ nải công việc cơ quan. Cần là một phẩm chất của đạo đức cách
mạng. Giá trị xã hội và sức lan toả “cộng hưởng” của chữ cần được Hồ Chủ tịch khái quát như sau: “Siêng học tập
thì mau biết. Siêng nghĩ ngợi thì hay có sáng kiến. Siêng làm thì nhất định thành cơng. Siêng hoạt động thì sức
khoẻ. Người siêng năng thì mau tiến bộ. Cả nhà siêng thì chắc ấm no. Cả làng siêng năng thì làng phồn thịnh. Cả
nước siêng năng thì nước mạnh giàu” [3]. Bằng phép tính đơn giản, chỉ cần mỗi người, mỗi ngày làm thêm 1 giờ mà
ý nghĩa kinh tế của nó thật lớn lao. Người nói: “Trong 20 triệu đồng bào ta, cho 10 triệu là thanh niên và thành nhân
có sức làm việc. Nếu mỗi người, mỗi ngày chỉ làm thêm một tiếng đồng hồ, thì: Mỗi tháng sẽ thêm lên 300 triệu
giờ. Mỗi năm thêm lên 3.600 triệu giờ. Chỉ những giờ ấy đã bằng động viên 400 triệu người làm trong một ngày 9



giờ”[4]. Trong hệ giá trị cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, theo Người, cần thẩm thấu, chi phối, tác động biện
chứng trong chuỗi giá trị văn hoá đạo đức cách mạng mà người cộng sản phải luôn hội đủ “Có cần mới kiệm. Có
cần, kiệm mới liêm. Có cần, kiệm, liêm mới chính”.
Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” (10-1947), Người phân tích: “Bệnh lười biếng là tự cho mình cái gì cũng
giỏi, việc gì cũng biết, làm biếng học hỏi, làm biếng suy nghĩ. Việc dễ thì tranh lấy cho mình. Việc khó thì đùn cho
người khác. Gặp việc nguy hiểm thì tìm cách để trốn tránh”[5]. Trong bài nói chuyện với đồng bào và cán bộ tỉnh
Thái Nguyên (13-3-1960), bên cạnh biểu dương những việc làm tốt, Người phê bình, nhắc nhở “một số cơng nhân
chưa thật yên tâm công tác. Kỷ luật lao động chưa chặt chẽ, cịn tình trạng đi muộn về sớm, cịn lãng phí sức người,
sức của. Cán bộ thì tinh thần trách nhiệm còn kém...”[6]. Người phê phán một số cán bộ, đảng viên“thiếu kiên nhẫn,
thiếu tinh thần chịu khó”[7]; “ngại cơng việc khó, khơng ham học tập, thiếu cảnh giác, kém kỷ luật”[8]. Hệ quả của
căn bệnh này không những khơng giúp họ hồn thành nhiệm vụ được giao mà tác dụng nêu gương đối với cán bộ
dưới quyền, nhân dân rất thấp. Bởi sức thuyết phục, lan toả ở phẩm chất cần, nói đi đơi với làm trong mỗi người cán
bộ, đảng viên rất lớn, động viên, thúc đẩy nhân dân cùng thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.
Theo Bác, chữ cần không chỉ là chăm chỉ, siêng năng mà phải gắn với trí sáng tạo, phương pháp, lề lối làm việc
khoa học, chủ động trong việc sắp xếp công tác hợp lý, khoa học: “Muốn cho chữ cần có nhiều kết quả hơn, thì phải
có kế hoạch cho mọi cơng việc. Nghĩa là phải tính tốn cẩn thận, sắp đặt gọn gàng”. Song “Cần và chuyên phải đi
đôi với nhau. Chuyên nghĩa là dẻo dai, bền bỉ. Nếu không chuyên, nếu một ngày cần mà mười ngày khơng cần, thì
cũng vơ ích”[9]. Bác cịn chỉ dẫn phương thức, cách thực hiện Cần. Người yêu cầu: “Cần không phải là làm xổi.
Nếu làm cố chết cố sống trong một ngày, một tuần, hay một tháng, đến nỗi sinh ốm đau, phải bỏ việc. Như vậy
không phải là cần”[10]. Ngày nay, trong thực tế công việc cũng như cuộc sống hàng ngày khơng ít cán bộ, đảng
viên cịn có tư tưởng ngại khó, ngại khổ, chưa thực sự cần cù, chưa có tính sáng tạo, sắp xếp kế hoạch công việc
chưa logic, không phù hợp nên hiệu quả công việc thấp. Thái độ trách nhiệm chưa cao, chưa thực sự cố gắng, nỗ lực
phát huy tốt trách nhiệm của bản thân. Vậy thì để thực hiện tốt được chữ cần, mỗi cán bộ, đảng viên cần thực hiện
tốt một số nội dung sau:
Hiểu thấu tư tưởng Hồ Chí Minh về chữ Cần. Mỗi cán bộ, đảng viên tiếp tục đẩy mạnh việc “Học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” gắn với thực hiên Nghị quyết Trung ương 4, khóa XI. Ln thể hiện sự tích cực,
cầu tiến bộ với các họat động thực tiễn đặc biệt là trong nhiệm vụ chun mơn, tích cực đấu tranh với những biểu
hiện lười hoạt động, lười suy nghĩ, học tập một cách thu động máy móc. Thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện bản
thân trên tất cả các mặt. Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Phải hăng hái, bền gan, chịu khó, đồng thời
phải cẩn thận, khơn khéo, mềm mỏng”[11]. Q trình vận dụng chữ “Cần” theo tư tưởng của Bác cũng phải linh

hoạt, sáng tạo, tránh hữu dũng vô mưu.
Tự giác tu dưỡng, rèn luyện. Đây là con đường quan trọng hình thành và phát triển, hoàn thiện nhân cách của cán
bộ, đảng viên. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra con đường cơ bản cho người cán bộ, đảng viên tự vươn lên hoàn thiện
mình là phải học tập, rèn luyện bền bỉ suốt đời. Để tu dưỡng, rèn luyện đạt kết quả, đòi hỏi trước hết mỗi cán bộ,
đảng viên phải nêu cao tinh thần đấu tranh phê bình và tự phê bình. Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu mỗi cán bộ,
đảng viên phải thường xuyên trau dồi phẩm chất cách mạng, đồng thời phải kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, bài
trừ bệnh quan liêu, xa rời quần chúng, phải thực sự là người đầy tớ, là công bộc của nhân dân, Người dạy: “Muốn
gột rửa sạch những vết tích xấu xa của xã hội cũ, muốn rèn luyện đạo đức cách mạng, thì chúng ta phải ra sức học
tập, tu dưỡng, tự cải tạo để tiến bộ mãi. Nếu không cố gắng để tiến bộ tức là thoái bộ, là lạc hậu”[12]. Muốn tự cải
tạo được bản thân để tự mình hồn thiện nhân cách thì mỗi cán bộ phải tự nhận thức được những ưu điểm và khiếm
khuyết của mình để tự giác, tự xây dựng kế hoạch, đề ra mục tiêu, thời gian sửa chữa, học tập, rèn luyện, tu dưỡng
để hồn thiện nhân cách. Q trình tự hoàn thiện, tự giáo dục, tự rèn luyện nhân cách của cán bộ, đảng viên không
phải là công việc tự giác nhất thời mà là quá trình phấn đấu thường xuyên, liên tục, có chủ định.
Bằng hoạt động thực tiễn. Đối với mỗi cán bộ, đảng viên thì việc tu dưỡng rèn luyện phải được thực hiện bằng hoạt
động thực tiễn của bản thân trong học tập, công tác, trong các mối quan hệ với đồng nghiệp, người thân, nhân dân,
xã hội. Thông qua hoạt động thực tiễn, người cán bộ, đảng viên biết điều chỉnh hành vi của mình và cũng thông qua
thực tiễn phẩm chất nhân cách của mỗi người được thể hiện rất cụ thể, phong phú, đa dạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã chỉ rõ: “Trường kỳ kháng chiến là một viên đá thử vàng đối với mỗi một quốc dân, đồng thời là một trường học
để rèn luyện cho cán bộ”[13]. Chỉ có thơng qua hoạt động thực tiễn, thơng qua q trình tu dưỡng rèn luyện cơng
phu mới có được phẩm chất nhân cách tốt đẹp và phẩm chất ấy ngày càng được bồi đắp, nâng cao, hoàn thiện. Như


vậy, chữ Cần trong tư tưởng của Hồ Chí Minh là trí tuệ, là phẩm chất cần thiết của mỗi cán bộ, đảng viên, cần tích
cực tu dưỡng, rèn luyện phấn đấu để thực thực sự trở thành những công bộc, là đầy tớ của nhân dân. Hiện nay, khi
“một bộ phận khơng nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số
cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý
tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham
nhũng, lãng phí, tùy tiện, vơ nguyên tắc” thì việc rèn luyện chữ cần theo tư tưởng của Bác là vấn đề rất cần thiết.

5. Phân tích cơ sở hình thành, nội dung và giá trị hiện thực của truyền thống dân chủ làng xã

của người Việt Nam. Ý nghĩa hiện thực?
- Cơ sở hình thành
Do nhu cầu của nền sản xuất nông nghiệp, cho nên các gia đình phải quần cư lại với nhau và hình
thành các làng xóm. Làng được hình thành dựa trên 2 nguyên lý: cùng cội nguồn và cùng không gian cư
trú.
- Nội dung biểu hiện
+ Quyền của mọi người đều ngang nhau như tham gia bầu chọn những người đại diện của mình vào
quản lý làng xã, hội đồng cơng xã
+ Mở các cuộc thi lựa chọn nhân tài
+ Trước những quyết định quan trọng của làng mọi người được hỏi ý kiến, tự giám sát lẫn nhau để
duy trì quy chế.
+ Dùng dư luận tập thể để điều chỉnh hành vi của mỗi thành viên
+ Cấu trúc làng: Cổng làng, đường làng, cây đa đầu làng, Luỹ tre làng, Đình làng, giếng làng, cánh
đồng làng, sơng làng, chợ làng.
+ Khi nói đến văn hố làng, làng Việt Nam có 3 đặc điểm nổi bật: ý thức cộng đồng làng (tinh thần đoàn
kết); ý thức tự quản (luật lệ của mỗi làng); nét văn hóa riêng cuỉa mỗi làng (phong tục tập quán, tín ngưỡng, lối
sống, nếp sống...).
+ Biểu tượng truyền thống tính cộng đồng của làng: Sân đình- bến nước-Cây đa
- Gía trị hiện thực (tự nghiên cứu)
Vấn đề dân chủ trong truyền thống VN

Đọc thêm
1. Vấn đề dân chủ trong truyền thống Việt Nam đã được đặt ra trong giới nghiên cứu của chúng ta từ hơn
một thập kỷ nay. Qua những bài viết được công bố và những lời phát biểu trong các cuộc hội thảo khoa
học, đã hình thành hai quan điểm khác nhau, thậm chí trái ngược nhau về vấn đề này.
Một số người khẳng định và nêu cao truyền thống dân chủ, coi như một trong những truyền thống ưu việt
của nhân dân được tạo nên trong quá trình dựng nước và giữ nước, và là một cơ sở thuận lợi để xây dựng
chế độ làm chủ tập thể, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Một số người khác, nhất là trong thời gian gần đây, lại tỏ ý hoài nghi hoặc phủ nhận hoàn toàn về sự xuất
hiện và tồn tại của một truyền thống dân chủ trong điều kiện của chế độ quân chủ chuyên chế ở Việt Nam

và phương Đơng nói chung.
Cả hai quan điểm trái ngược đó lại gần như thống nhất về mặt phương pháp : sử dụng một số ca dao, tục
ngữ, tập quán trong kho tàng văn hoá dân gian hay một số tư liệu về mối quan hệ vua - quan - dân rút từ
trong thư tịch cổ, để chứng minh cho nhận định của mình. Đó là phương pháp chọn lọc một số tư liệu, chứ
không phải là sự khái quát khoa học dựa trên cơ sở phân tích và tổng hợp mọi tư liệu có liên quan và lý
giải nguồn gốc của nó trong những điều kiện lịch sử cụ thể. Đấy cũng là biểu hiện của phương pháp minh
họa mang nặng tính chủ quan đã một thời chi phối cơng tác nghiên cứu sử học của chúng ta.
Vì vậy trong bài viết này, để góp phần giải quyết vấn đề dân chủ trong truyền thống Việt Nam, tôi không
muốn dừng lại ở những biểu hiện bề ngồi của nó, mà thử phân tích những cơ sở hình thành và phát triển
của nó trong tiến trình lịch sử Việt Nam.
2. Sau một thời kỳ phát triển lâu dài của chế độ công xã nguyên thủy với những quan hệ cộng đồng-dân
chủ nguyên thủy, lịch sử Việt Nam cũng như các nước khác trên thế giới, bước vào thời kỳ phân hoá xã hội


với cuộc đấu tranh triền miên diễn ra dưới nhiều hình thức và mức độ khác nhau giữa người lao động bị áp
bức, bóc lột với kẻ thống trị áp bức, bóc lột. Trong cuộc đấu tranh xã hội đó thường xuất hiện những tư
tưởng dân chủ nhất định phản ánh khát vọng và ước mơ của quần chúng lao khổ chống lại các bất cơng và
bất bình đẳng xã hội. Nội dung và mức độ phát triển của những tư tưởng dân chủ đó tùy thuộc vào tính
chất của hình thái kinh tế - xã hội thống trị, vào mức độ phân hoá và đấu tranh xã hội, vào vị trí kinh tế - xã
hội của giai cấp bị áp bức, bóc lột. Những tư tưởng dân chủ như vậy đã từng xuất hiện trong xã hội chiếm
hữu nô lệ, trong xã hội phong kiến và được phản ánh trong tư tưởng của một số nhà hiền triết, trong đạo
Cơ Đốc sơ kỳ, đạo Phật sơ kỳ, trong cải cách tôn giáo, trong chiến tranh nông dân...
Xã hội phân hoá và Nhà nước sơ kỳ trong lịch sử Việt Nam cổ đại thuộc một loại hình thái kinh tế - xã hội
mà giới sử học nước ta đã thảo luận hơn 30 năm nay (từ 1959 đến nay) và liên quan đến vấn đề phương
thức sản xuất châu Á mà giới khoa học thế giới đã tranh luận trên nửa thế kỷ nay (từ 1929 đến nay). Tuy
nhiên ta có thể ghi nhận một đặc điểm quan trọng là trong xã hội đó, quan hệ bóc lột nơ lệ không phát triển
bao nhiêu và chỉ dưới dạng chế độ nô lệ gia trưởng (ta thường gọi là chế độ nô tỳ), lực lượng sản xuất chủ
yếu là thành viên cơng xã nơng thơn.
Tiếp theo đó, lịch sử Việt Nam có trải qua chế độ phong kiến hay khơng cũng là một vấn đề gần đây được
nêu lên như một vấn đề tranh luận mà một xu hướng đang phát triển ở phương Tây gần đây là hoài nghi

hoặc phủ nhận sự tồn tại của chế độ phong kiến ở Việt Nam và thậm chí cả phương Đơng nói chung. Riêng
tôi, cho đến nay tôi vẫn cho rằng Việt Nam có trải qua một thời kỳ phát triển của chế độ phong kiến nhưng
thuộc một loại hình chế độ phong kiến phương Đơng có nhiều đặc điểm khác với chế độ phong kiến
phương Tây.
Chế độ phong kiến Việt Nam hình thành và phát triển trên cơ sở một mặt là bảo tồn và phong kiến hoá kết
cấu kinh tế xã hội của công xã nông thôn, mặt khác là sự phát triển của chế độ tư hữu ruộng đất. Chế độ sở
hữu ruộng đất của cơng xã chuyển hố thành chế độ sở hữu nhà nước về ruộng đất, và do đó quan hệ giữa
vua và thần dân bao gồm cả quan hệ bóc lột địa tơ của một địa chủ lớn (vua) đối với nông dân tá điền
(thành viên công xã). Cùng với sự ra đời và phát triển của chế độ tư hữu ruộng đất, trong xã hội lại xuất
hiện một tầng lớp địa chủ tư hữu (bao gồm địa chủ, quý tộc và một số quan lại) phát canh thu tơ bóc lột
trực tiếp nơng dân tá điền, và một tầng lớp nơng dân tư hữu có ít nhiều ruộng đất tư. Giai cấp nông dân
Việt Nam như thế là bao gồm một số nông dân tự canh có ruộng đất tư hữu, số đơng là nơng dân tá điền
khơng có hoặc khơng có bao nhiêu ruộng đất tư nên phải cày ruộng của nhà vua và địa chủ theo quan hệ
địa chủ - tá điền, và một số nông dân nghèo khổ phải đi làm thuê, đi ở, thân phận gần như nô tỳ và thường
dễ rơi xuống thân phận nô tỳ.
Như vậy là quần chúng lao động đông đảo trong xã hội Việt Nam cổ truyền là nông dân công xã và nông
dân tá điền, có kinh tế riêng nhưng hầu như khơng có quyền sở hữu ruộng đất. Đặc điểm kinh tế xã hội đó
ảnh hưởng sâu sắc đến cuộc đấu tranh xã hội của nơng dân và q trình nẩy sinh, phát triển cũng như nội
dung tư tưởng dân chủ của nông dân Việt Nam.
Trong q trình phong kiến hố cơng xã nơng thôn từ thế kỷ X đến XV, đã xuất hiện những cuộc đấu tranh
của nông dân vào cuối đời Lý và cuối đời Trần với những tư tưởng địi bình đẳng xã hội và cứu giúp người
nghèo. Tư tưởng đó thể hiện trong cuộc khởi nghĩa Lê Văn cuối thế kỷ XII và khởi nghĩa Ngô Bệ cuối thế
kỷ XlV. Lê Văn tung tin thấy vết chân trâu trắng trên cây để đoán rằng : " Trâu trắng là vật ở dưới nước,
nay lại ở trên cây, thế là điềm kẻ dưới lên ở trên ", để cổ vũ quần chúng. Ngô Bệ nêu khẩu hiệu " chẩn cứu
dân nghèo " để tập hợp quần chúng nổi dậy chống triều Trần.
Đến giai đoạn cuối của chế độ phong kiến, trong cuộc chiến tranh nông dân thế kỷ XVIII và nửa đầu thế kỷ
XIX tư tưởng dân chủ nông dân được phát triển lên trình độ mới với khẩu hiệu " lấy của nhà giàu chia cho
dân nghèo ", phản ánh yêu cầu bình đẳng tài sản và tâm lý bình quân chủ nghĩa của những người tiểu nông
trong điều kiện kinh tế hàng hố đã phát triển. Tư tưởng đó biểu thị rõ nét trong phong trào Tây Sơn cuối
thế kỷ XVIII, nhất là trong giai đoạn đầu của cuộc khởi nghĩa. Một điểm đáng lưu ý là trong phong trào

nông dân ở giai đoạn cuối của phong kiến Việt Nam không thấy xuất hiện khẩu hiệu ruộng đất như trong
phong trào nông dân nhiều nước Tây Âu ở hậu kỳ phong kiến hay phong trào Thái Bình Thiên Quốc ở
Trung Quốc giữa thế kỷ XIX. Khuynh hướng chung của nông dân Việt Nam là muốn củng cố chế độ ruộng
đất công của làng xã với một quy chế quân điền bình đẳng, bảo đảm cho mọi người có ruộng đất khẩu phần


đủ để cày cấy, nộp tô, thuế vừa phải cho Nhà nước. Điều đó có thể được giải thích bằng tâm lý của người
nông dân công xã mà những tàn dư của nó được bảo lưu lâu dài trong xã hội phong kiến.
Về mặt chính trị, tư tưởng dân chủ cao nhất của nông dân là bạo động chống lại chế độ chuyên chế, lật đổ
bọn bạo chúa, tham quan, cường hào với ước mơ một xã hội công bằng có vua sáng tơi hiền. Đó là tư
tưởng :
- Được làm vua, thua làm giặc
- Bao giờ dân nổi can qua
Con vua thất thế lại ra quét chùa.
Tư tưởng đó cũng dội vào nhận thức của một số nhà văn hố mang nặng tấm lịng nhân đạo như :
Thà rằng bạo động bất lương,
Cịn hơn chết đói nằm đường thối thây.
Về mặt chính trị, tư
(Lê Hữu Trác, Vệ sinh yếu quyết)
tưởng dân chủ cao nhất của
Như vậy là trong đấu tranh xã hội, tư tưởng dân chủ của nông dân Việt Nam
nông dân là bạo động chống
chỉ dừng lại ở yêu cầu bình đẳng xã hội, bình đẳng tài sản mà mức độ phát
lại chế độ chuyên chế, lật đổ
triển cao nhất là chủ nghĩa bình quân về kinh tế - xã hội và tư tưởng bạo
bọn bạo chúa.
động về mặt chính trị. Tư tưởng đó gắn liền với tâm lý người nơng dân cơng
xã, người sản xuất nhỏ, nó có mặt chính đáng và tích cực của nó trong cuộc
đấu tranh chống chế độ chuyên chế, chống những bất công của xã hội phong
kiến, nhưng cũng bộc lộ mặt không tưởng và bất lực của người nông dân trong sự nghiệp tự giải phóng

mình.
3. Một đặc điểm quan trọng của xã hội Việt Nam cổ truyền là sự tồn tại và bảo lưu lâu dài tàn dư của công
xã nơng thơn.
Đây là cơng xã nơng thơn thuộc loại hình Á châu mà trong giai đoạn đầu, đặc điểm cơ bản của nó là quyền
sở hữu cơng xã về tồn bộ ruộng đất và công xã đem phân chia ruộng đất đó cho các gia đình thành viên
cày cấy. Bộ máy quản lý công xã do các thành viên cử ra mà đứng đầu là một Già làng có âm tiếng Việt cổ
gần như Po Chiêng và phiên âm Hán-Việt là Bồ Chính.
Về sau chế độ tư hữu ruộng đất phát triển thu hẹp dần chế độ ruộng đất công của làng xã và sự phân hoá xã
hội bên trong cũng càng ngày càng nâng cao. Q trình đó diễn ra cùng với q trình phong kiến hố cơng
xã nơng thơn.
Nhưng nói chung, tàn dư của cơng xã nơng thơn ở những mức độ tồn tại khác nhau tùy từng lúc và từng
nơi, vẫn được bảo lưu lâu dài trong xã hội Việt Nam cổ truyền. Tất nhiên ở đây có sự khác biệt giữa làng
xã miền Bắc và miền Nam do nhiều hoàn cảnh và điều kiện lịch sử qui định.
Trên cơ sở quan hệ cộng đồng công xã đó, hình thành và bảo tồn một loạt phong tục tập quán gọi chung là
"lệ làng" ít nhiều phản ánh tính chất dân chủ cơng xã. Nó được biểu thị trong mối quan hệ tương đối bình
đẳng giữa các thành viên trong việc chia ruộng đất công và trong các sinh hoạt cộng đồng, trong sự tôn
trọng người già bất cứ thuộc đẳng cấp nào, trong việc thừa nhận vai trò to lớn của người mẹ và người phụ
nữ trong đời sống gia đình và làng xã.
Những lệ làng mang tính dân chủ cơng xã đó được phản ánh rõ nét trong kho tàng văn hoá dân gian, nhất
là trong ca dao, tục ngữ mà nhiều người đã dẫn chứng. Trong bộ luật Hồng Đức gồm 722 điều luật được
xây dựng trong thế kỷ XV và được áp dụng lâu dài cho đến cuối thế kỷ XVIII (dĩ nhiên có được bổ sung
và sửa chữa ít nhiều), một số phong tục tập quán dưới dạng luật tục dân gian có hiệu lực lâu đời đã được
ghi nhận và pháp chế hoá thành những điều luật của Nhà nước phong kiến. Điều này được thể hiện tập
trung nhất trong những điều luật về quyền lợi của người phụ nữ trong gia đình và xã hội, trong việc thừa
hưởng gia tài, kế thừa hương hỏa và phân chia tài sản khi vợ chồng phải li dị. Nhiều nhà luật học phương
Tây đã ghi nhận đây là những điều luật đặc biệt của Bộ luật Hồng Đức và nêu cao tinh thần dân chủ của
nó, nhưng dĩ nhiên họ khơng giải thích được nguồn gốc lịch sử của nó và do dó sự đánh giá cũng có mặt
khơng thỏa đáng.
Trong q trình phong kiến hố cơng xã nơng thơn, nhất là từ thế kỷ XV trở đi, " phép vua " ngày càng can
thiệp và áp đặt vào đời sống cộng đồng của làng xã và từ đó, diễn ra cuộc đấu tranh giữa " phép vua " với "

lệ làng ". Xu thế chung là "ấphép vua " ngày càng thắng thế và chi phối, nhưng khơng thể xố bỏ được " lệ


làng " và " lệ làng " tỏ ra rất bướng bỉnh, nhiều khi " phép vua " thua " lệ làng ".
Tư tưởng dân chủ cơng xã có mặt tích cực của nó trong đời sống xã hội lúc bấy giờ, nhưng cũng gắn liền
với tính cục bộ, địa phương của cơng xã và những hẹp hịi của các hình thức dân chủ cơng xã. Cơng xã chỉ
thừa nhận quyền bình đẳng và dân chủ giữa các thành viên khi họ là thành viên của công xã, là bộ phận tạo
thành của cộng đồng, nhưng hồn tồn khơng cơng nhận quyền của cá nhân, của con người với tư cách là
một thực thể độc lập. Dân chủ công xã khơng dựa trên sự giải phóng con người và tơn trọng quyền của con
người, mà trói chặt con người trong quan hệ cộng đồng và chỉ bảo đảm quyền lợi bình đẳng của con người
với tư cách là thành viên của cộng đồng.
4. Việt Nam trước cách mạng chưa hề trải qua một hình thức tồn tại của nền cộng hồ dân chủ, mà chỉ có
một chính thể duy nhất là chế độ quân chủ với những dạng thức tập quyền và mức độ chuyên chế khác
nhau.
Cho đến trước thế kỷ XV, nhất là trong thời Lý, Trần, chế độ quân chủ tập quyền đã được xác lập vững
vàng, nhưng chưa mang tính chất chuyên chế quan liêu nặng nề. Chế độ đó dựa trên nền tảng cơng xã nơng
thơn phổ biến và bền vững đang trên đường phong kiến hố.
Đất nước sau hơn nghìn năm Bắc thuộc, vừa giành lại độc lập dân tộc và đang phải bảo vệ nền độc lập đó
chống lại nhiều cuộc chiến tranh xâm lược ác liệt của những đế chế lớn mạnh. Các vương triều tiến bộ lúc
bấy giờ sớm nhận thức được mối quan hệ gắn bó giữa lợi ích của vương triều với lợi ích chung của cả dân
tộc và đang giữ vai trò tổ chức, lãnh đạo các cuộc chiến tranh giữ nước. Đó là những cuộc kháng chiến và
những cuộc chiến tranh giải phóng mang tính dân tộc và tính nhân dân sâu rộng, những cuộc chiến tranh
nhân dân yêu nước chống ngoại xâm với vai trò định đoạt của nhân dân, của khối đoàn kết dân tộc. Từ
thực tế lịch sử đó, Trần Quốc Tuấn đã coi " chúng chí thành thành " (ý chí của dân chúng là bức thành giữ
nước) và tổng kết nguyên nhân thắng lợi cơ bản là do " vua tơi đồng lịng, anh em hòa thuận, nước nhà
chung sức ", Nguyễn Trãi cũng ví dân như nước, nước có thể chở thuyền và lật thuyền nên " phúc chu thuỷ
tín dân do thuỷ " (thuyền bị lật mới biết sức dân như nước).
Từ những điều kiện kinh tế, xã hội, chính trị và hoàn cảnh giữ nước trên đây, các vương triều tiến bộ thời
bấy giờ phải lo giữ lòng dân và phải áp dụng một số hình thức dân chủ đối với dân. Từ đó, chúng ta thấy
nhà Lý đặt Lầu Chuông trong thành Thăng Long để " dân chúng ai có việc kiện tụng oan uổng thì đánh

chng lên ", nhà Trần mở hội nghị Diên Hồng để cùng với các bô lão bàn kế đánh giặc, Trần Quốc Tuấn
chủ trương " khoan thu sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc " và Nguyễn Trãi ước mong làm sao " nơi thơn
cùng xóm vắng khơng có tiếng ốn hận sầu than "... Đó là những yếu tố dân chủ gắn liền với sự nghiệp bảo
vệ độc lập dân tộc đương thời và thực tế lịch sử đã chỉ rõ, một phong trào dân tộc rộng lớn bao giờ cũng
chứa đựng những yếu tố dân chủ nhất định.
Nhưng từ thế kỷ XV trở đi, chế độ quân chủ chuyển sang mơ hình Nho giáo với tính chất chun chế quan
liêu càng ngày càng nặng nề. Và cũng từ đó, mối quan hệ giữa vua quan và dân càng ngày càng tách rời và
đối lập, những chủ trương và hình thức dân chủ của các vương triều trước khơng cịn được kế tục nữa.
5. Qua sự phân tích những cơ sở kinh tế, xã hội, chính trị đã từng làm nẩy sinh và bảo tồn, phát triển trong
mức độ nào đó những tư tưởng và hình thức dân chủ trong xã hội Việt Nam cổ truyền, tôi rút ra mấy nhận
xét tổng quát sau đây :
* Không thể phủ nhận được sự tồn tại của một số tư tưởng và hình thức dân chủ nào đó trong đời sống xã
hội và trong truyền thống Việt Nam.
* Những tư tưởng và hình thức dân chủ đó thực chất là dân chủ nông dân nẩy sinh trong cuộc đấu tranh xã
hội của những người sản xuất nhỏ mà đỉnh phát triển cao nhất là chủ nghĩa bình qn, là dân chủ cơng xã
dựa trên sự bảo tồn quan hệ cộng đồng công xã và một số biện pháp thân dân của các vương triều tiến bộ
trong điều kiện phân hoá giai cấp chưa gay gắt và trước yêu cầu bức thiết của nhiệm vụ giữ nước. Những
tư tưởng và hình thức dân chủ đó đã biểu thị mặt tích cực và tiến bộ của nó trong hồn cảnh lịch sử bấy giờ
nhưng cũng có mặt hạn chế nặng nề của nó.
* Có thể coi đó là những yếu tố dân chủ và xã hội chủ nghĩa như cách nói của V. I. Lênin, và cần trân trọng
nó khi nghiên cứu và đánh giá di sản văn hố truyền thống. Nhưng từ đó khuếch đại lên thành một truyền
thống dân chủ mạnh mẽ của nhân dân ta thì khơng phản ánh đúng sự thật lịch sử và dễ đánh lừa, ru ngủ
chúng ta một cách nguy hiểm trước thực tế chúng ta đang ra sức khắc phục tình trạng mất dân chủ hiện nay


và xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
* Trong lịch sử tiến hoá của nhân loại, trong chế độ cổ đại, đã có nền dân chủ chủ nơ, nhưng chỉ giới hạn
trong giai cấp chủ nô và những người tự do, và hơn thế nữa, phủ nhận quyền dân chủ, chà đạp lên quyền
sống và nhân phẩm của quần chúng lao động đông đảo là nô lệ. Phải đến thời kỳ phát triển của chủ nghĩa
tư bản, trên cơ sở xã hội công dân và Nhà nước pháp quyền, con người mới được giải phóng khỏi các chế

độ chuyên chế và một nền dân chủ, một truyền thống dân chủ thực sự mới được xây dựng, vừa mang tính
giai cấp của chủ nghĩa tư bản, vừa phản ánh một bước tiến của văn minh nhân loại. Nhưng Việt Nam
không trải qua thời kỳ phát triển của chủ nghĩa tư bản nên cũng khơng có điều kiện xây dựng nền dân chủ
tư sản và khơng có truyền thống dân chủ tư sản, có chăng chỉ là một số yếu tố, một số tư tưởng nào đó tiếp
thụ từ bên ngoài và nẩy nở trong một số thành phần xã hội nhất định.
* Những yếu tố dân chủ trong truyền thống Việt Nam còn quá thấp và quá yếu so với yêu cầu xây dựng
nền dân chủ hiện nay. Hơn nữa trong truyền thống Việt Nam, dân chủ nông dân với tư tưởng bình qn
chủ nghĩa và dân chủ cơng xã lấy quan hệ cộng đồng để trói buộc con người cịn có mặt di hại cho nền dân
chủ hiện nay và là cội nguồn tư tưởng của một số mặt tiêu cực trong xã hội đang diễn ra hàng ngày.
Công cuộc đổi mới và xây dựng đất nước hôm nay phải xuất phát từ di sản lịch sử và văn hố của q khứ
để lại, trong đó có những mặt mạnh và ưu việt cần được kế thừa và phát huy, những mặt yếu và lỗi thời cần
được khắc phục để vươn lên tiếp nhận những xu thế và thành tựu của thời đại. Nền dân chủ chúng ta đang
xây dựng hiện nay có kế thừa một số yếu tố dân chủ của di sản truyền thống, nhưng cũng phải khắc phục
nhiều hạn chế và di hại của quá khứ. Q trình dân chủ hố là một q trình mới mẻ trong lịch sử Việt
Nam và quá chậm so với tiến trình lịch sử thế giới, do đó địi hỏi chúng ta phải có những bước đi thích hợp
và khẩn trương nhằm xây dựng một nền dân chủ Việt Nam vừa phù hợp với văn hoá và truyền thống Việt
Nam, vừa bắt kịp sự tiến hoá của thời đại.
6. Trên cơ sở truyền thống lao động sản xuất và xây dựng kinh tế của người Việt Nam, đồng
chí phân tích những tác động tích cực và tiêu cực trong
- Tác động tích cực
+ Đức tính, bản lĩnh kiên cường, ý chí vươn lên khơng lùi bước, xử lý mềm dẻo các quan hệ kinh tế
- xã hội
+ Kế thừa truyền thống đoàn kết, tương trợ lẫn nhau trong lao động sản xuất đến mở rộng đoàn kết
dân tộc, xây dựng phát triển đất nước hiện nay.
+ Nông nghiệp sớm có vai trị lớn trong phát triển kinh tế
- Tác động tiêu cực
+ Do đặc điểm của quan hệ sản xuất nông nghiệp nên lối tư duy thiếu ý thức tổ chức kỷ luật, thiếu
hoạch toán kinh tế, bảo thủ, trì trệ, manh mún, nhỏ lẻ.
+ Do quan hệ làng xã tồn tại lâu đời nên người Việt còn chịu ảnh hưởng của phong tục tập quán lạc
hậu tác động đến phát triển kinh tế. mang nặng tư tưởng kinh nghiệm chủ nghĩa, thói quen cầu may.

Đọc thêm: Tác động của tồn cầu hóa đến truyền thống cần cù, tiết kiệm của dân tộc Việt Nam

Với bề dày lịch sử hàng ngàn năm, dân tộc Việt Nam đã xây dựng cho mình một hệ thống các giá trị truyền
thơng, trong đó có đức tính cần cù và tiết kiệm. Trong điều kiện hiện nay, tồn cầu hố, trước hết là tồn
cầu hố kinh tế, đã và đang tác động mạnh mẽ đến các giá trị đó theo những chiều hướng khác nhau, cả
tích cực lẫn tiêu cực. Khi đất nước cịn nghèo, hơn nữa, cịn phải vượt qua mn vàn thách thức mà q
trình tồn cầu hố đặt ra, chúng.ta cần tiếp tục phát huy đặc tính cần cù và tiết kiệm, gắn cần cù với tiết
kiệm. Đó vừa là cách đê chúng ta khẳng đinh và giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, vừa là phương thức tăng
cường nội lực nhằm tạo đà cho sự phát triển ổn định và bền vững của đất nước.
Có vẻ sẽ thật là ngớ ngẩn nếu như mỗi một người trong chúng ta lại không tự trả lời được những câu hỏi,
như chúng ta là ai? chúng ta sinh ra từ cội nguồn nào? chúng ta thuộc về dân tộc nào và chúng ta có gì
giống cũng như có gì khác với những con người ở các dân tộc khác?... Thế nhưng, trong điều kiện tồn cầu
hố hiện nay, những câu hỏi tưởng chừng rất đơn giản như vậy lại khó có thể trả lời một cách dễ dàng,


chính xác.
Trước tiên, chúng ta cần phải thừa nhận rằng, mỗi một dân tộc trên thế giới đều sinh sống trong những điều
kiện tự nhiên và xã hội khơng hồn tồn giống nhau, thậm chí cịn trái ngược nhau. Cũng chính vì vậy, ở
mỗi dân tộc sẽ hình thành một nền văn hoá khác nhau với những phong tục, tập quán, tâm lý, thói quen,
truyền thống, chuẩn mực đạo đức, lối sống, tư tưởng... (tức là những ý thức xã hội) khác nhau, phản ánh
tồn tại xã hội của chính dân tộc đó.
Trước tồn cầu hố, sự giao lưu văn hoá giữa các dân tộc cũng đã diễn ra nhưng chủ yếu cịn mang tính cá
biệt và tự phát. Giờ đây, tình hình đã thay đổi khi tồn cầu hố xuất hiện, đặc biệt là tồn cầu hố đang
phát triển mạnh mẽ như trong giai đoạn hiện nay. Với sự phát triển của khoa học, kỹ thuật và công nghệ
thông tin, đặc biệt là với sự xuất hiện của mạng thơng tin tồn cầu (Internet), thế giới dường như được thu
nhỏ lại, ranh giới giữa các quốc gia cũng trở nên mỏng manh và chỉ mang tính tương đối. Tồn cầu hố đã
tạo cơ hội để các dân tộc có thể gần gũi, hiểu biết nhau hơn. Qua đó, mọi dân tộc đều có thể "cho" và
"nhận", nghĩa là họ có thể họe tập, tiếp thu những giá trị, tinh hoa của nhau để làm phong phú cho nền văn
hoá của chính dân tộc mình.
Tuy nhiên, giá trị bao giờ cũng mang tính lịch sử - cụ thể, vì vậy, một hiện tượng nào đó có thể có giá trị

đối với cộng đồng người này mà khơng có giá trị, thậm chí là phản giá trị đối với cộng đồng người khác.
Nhưng, trong tồn cầu hố, các giá trị riêng của "thế giới người giàu vẫn được áp đặt lên "thế giới người
nghèo", buộc họ phải chấp nhận một cách không tự giác mà lối sống thực dụng, hưởng thụ xa hoa là một
điển hình. Chính nó đã tác động mạnh mẽ đến những giá trị truyền thống lâu đời của dân tộc Việt Nam,
trong đó có đức tính cần cù tiết kiệm.
Cần cù là một trong những đức tính nổi bật của người Đơng Á, trong đó có Việt Nam. Từ rất sớm, dân tộc
Việt Nam đã phải chống chọi lại những điều kiện thiên nhiên vô cùng khắc nghiệt cùng với nạn ngoại xâm
giày xéo liên miên. Quá trình đó đã rèn luyện cho người lao động đức tính cần cù "một nắng, hai sương" và
tiết kiệm trong sinh hoạt để duy trì cuộc sống và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Hình ảnh "ăn cơm bằng đèn, đi
cấy sáng trăng", "cày đồng đang buổi ban trưa", hay "tát nước đêm trăng" đã trở nên quá đỗi quen thuộc
với mỗi người dân Việt Nam. Đó khơng chỉ là những hình ảnh đẹp, mà cịn thể hiện đức tính cần cù, yêu
lao động của nhân dân ta.
Với tính cách một giá trị, cần cù có thể được hiểu là sự nhiệt tình với nghề nghiệp, lịng u lao động, yêu
công việc, là tinh thần trách nhiệm đối với công việc, là đức tính kiên nhẫn, chịu khó trong lao động...
nhằm đạt được kết quả lao động tất nhất. Trên bình diện xã hội, giá trị cần cù được hiểu là sự đề cao tinh
thần yêu lao động đề cao tính năng động, sáng tạo trong lao động, đề cao hiệu quả của lao động¦ của cả
cộng đồng.
Trong thời kỳ trước đổi mới, những sai lầm trong việc cải tạo quan hệ sản xuất cũ và sự nóng vội trong
việc xây dựng quan hệ sản xuất mới đã ảnh hưởng tiêu cực đến đức tính cần cù truyền thống của người lao
động. Tình trạng "cha chung khơng ai khóc", lắm vãi khơng ai đóng cửa chùa", đi làm theo kiểu "tối ngày
đầy công"... trở nên phổ biến. Cơ chế phân phối bình quân, cào bằng đã khiến cho người lao động thờ ơ,
không thiết tha với công việc và không quan tâm đến kết quả lao động của mình, hiện tượng lãng phí của
cơng, lãng phí thời gian diễn ra khắp nơi dẫn đến sức lao động bị giảm sút, năng suất lao động thấp kém,
nền kinh tế suy thoái nghiêm trọng.
Khi chuyển sang kinh tế thị trường, với việc giải quyết đúng đắn một loạt các vấn đề về sở hữu, tổ chức,
quản lý, phân phối và cùng với đó là việc tăng cường tính tự chủ của các chủ thể kinh tế, chăm lo đến lợi
ích thiết thân của người lao động... tính tích cực, chủ động, sáng tạo của mọi người dân đã được kích thích
mạnh mẽ. Qua đó, đức tính cần cù, chịu thương, chịu khó cũng được phát huy ở mức độ cao. Với chính
sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần của Đảng và Nhà nước ta, mọi người dân đã chủ động, tích
cực, tự giác hăng say lao động với tinh thần trách nhiệm và hiệu quả lao động cao.

Việt Nam bước vào hội nhập kinh tế quốc tế trong điều kiện trình độ phát triển của lực lượng sản xuất cịn
thấp kém, năng suất lao động chưa cao. Chúng ta đang tiến hành cơng nghiệp hố hiện đại hố đất nước
nhưng về cơ bản, nước ta vẫn còn là một nước nông nghiệp lạc hậu, lao động thủ công chiếm phần lớn, đời
sống của đại đa số người dân còn nhiều khó khăn. Trong khi đó, một thách thức lớn mà tồn cầu hố kinh
tế đặt ra là sự cạnh tranh quyết liệt giữa các đối thủ. Hiện nay, ngay cả ở những nước phát triển những


nước có năng lực cạnh tranh tốt, sự tích cực, khẩn trương trong lao động nhằm đạt năng suất và hiệu quả
lao động cao vẫn luôn được đặt lên hàng đầu. Vì vậy, phẩm chất cần cù của người lao động Việt Nam là
một yếu tố thực sự cần thiết để góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Tuy nhiên, tồn cầu hố kinh tế đã và đang tác động đến truyền thống cần cù của dân tộc ta theo những
chiều hướng khác nhau, vừa tích cực, vừa tiêu cực. Trước hết, tồn cầu hoá đặt ra những yêu cầu và tạo
điều kiện để phát huy đức tính cần cù, yêu lao động của đa số người dân. Điều này thể hiện ở chỗ:
Thứ nhất, trong tồn cầu hố, các quốc gia, các chủ thể kinh tế phải tham gia vào một cuộc cạnh tranh gay
gắt mà muốn thắng lợi, trước hết cần phải nâng cao năng suất lao động, hiệu quả sản xuất, lao động với
cường độ cao. Đây thực sự là một thách thức không nhỏ đối với Việt Nam, nhất là trong điều kiện nền kinh
tế của đất nước còn nhiều khó khăn như hiện nay. Nhưng, nếu khơng đáp được yêu cầu đó cũng có nghĩa là
chúng ta đã tự loại mình ra khỏi cuộc chơi tồn cầu hố.
Thứ hai, trong tồn cầu hố, các chi nhánh của các Công ty xuyên quốc gia, các doanh nghiệp liên doanh
với nước ngồi hoặc có vốn đầu tư nước ngồi hoạt động ngày càng nhiều ở Việt Nam và sử dụng một lực
lượng lao động không nhỏ. Phải thừa nhận rằng, các Cơng ty, xí nghiệp này có cơ chế quản lý lao động và
phân phối hợp lý theo kiểu tư bản nên ln tạo ra được sự khẩn trương, tích cực, năng động và tự giác của
người lao động. Đây là một địi hỏi khơng chỉ của các chủ thể sử dụng lao động, mà còn là yêu cầu bên
trong của mỗi người lao động nhằm đảm bảo lợi ích của chính họ.
Thứ ba, tồn cầu hố cũng đem đến cho người lao động nhiều cơ hội tìm việc làm có thu nhập cao ở trong
nước, cũng như nước ngồi tuỳ vào khả năng của mỗi người. Khi đã có việc làm và thu nhập ổn định,
người lao động sẽ tích cực lao động hơn, hạn chế cảnh "nhàn cư vi bất thiện" vẫn thường xảy ra khi họ
khơng có hoặc thiếu việc làm.
Thứ tư, trong q trình tồn cầu hoá, điều kiện lao động ở cả thành thị lẫn nông thôn được cải thiện tất hơn
trước rất nhiều, những thành tựu của khoa học công nghệ được ứng đụng vào sản xuất làm cho lao động

nặng nhọc giảm dần, trong khi năng suất lao động lại tăng lên. Người lao động có điều kiện để u thích và
say mê đối với cơng việc của mình và do vậy, nhịp sống cũng như khơng khí lao động ở cả thành thị lẫn
nông thôn đã trở nên sôi động hơn nhiều. Theo Tổng cục thống kê, năm 2001, ở nông thôn, số giờ lao động
trung bình của một lao động trong một tuần là 21,02 giờ, lúc cao điểm lên tới 54,92 giờ. Đối với những lao
động phi nông nghiệp, số giờ lao động trung bình của một lao động trong một tuần là 44,77 giờ. Ngay cả
những người trên 60 tuổi cũng làm việc tới 26 - 38 giờ/tuần. Số giờ lao động trung bình như vậy là khá cao
so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Theo chúng tơi, đó là một trong những dấu hiệu tích cực,
chỉ báo giá trị cần cù của người dân Việt Nam hiện nay.
Mặt khác, tồn cầu hóa cũng đem đến nguy cơ xem nhẹ, hay chí ít là chưa phát huy đúng mức truyền thống
cần cù của dân tộc. Có thể thấy rằng, mặc dù tạo cơ hội có việc làm cho khơng ít người, nhưng tồn cầu
hố cũng có thể khiến nhiều người khơng có hoặc mất việc làm do hạn chế về trình độ, khơng đáp ứng
được yêu cầu của công việc hay do Công ty bị phá sản, thua lỗ, khủng hoảng trong quá trình cạnh tranh
toàn cầu. Trong điều kiện như vậy, người lao động nếu có muốn cần cù e rằng cũng khó, bởi lẽ, họ đã bị
mất việc làm, hoặc khó tìm được việc làm.
Thêm nữa, do ảnh hưởng của lối sống thực dụng, hưởng thụ từ bên ngoài tràn vào, một bộ phận lớp trẻ
ngày nay quay lưng lại với giá trị truyền thống của dân tộc, thích ăn chơi hưởng thụ xa hoa, lười lao động,
hay đòi hỏi mà quên đi nghĩa vụ, trách nhiệm của bản thân mình với gia đình, với xã hội, chỉ muốn làm
chơi" nhưng "ăn thật", thậm chí khơng làm mà vẫn có thật nhiều tiền để tiêu xài những thứ tiện nghi sang
trọng, đắt tiền.
Một bộ phận sinh viện thời nay rất lười học, học chỉ mang tính chất đối phó, khơng ít sinh việc đã đua đòi
mà dẫn đến hư hỏng. Một số thanh, thiếu niên khơng lo học tập, lao động mà thích sống buông thả với ma
tuý, với thuốc lắc... Gần đây, tình trạng này đang ở mức báo động. Thậm chí, ngay cả ở các công sở, trong
giờ làm việc, nhân viên vẫn có thể "nhởn nhơ" ngồi đường, ở các quán trà hoặc ngồi chơi game trên máy
tính. Nhiều thanh thiếu niên có thể ngồi hàng giờ trên mạng, nhưng cũng phải để học tập hay cập nhật
những thông tin cần thiết, mà là để "chat" những chuyện không đâu với những người "quen ảomột cách
vô bổ. Hiện tượng lãng phí thời gian diễn ra khá phổ biến. Đã xuất hiện những suy nghĩ lệch lạc cho rằng,
cuộc sống thật là ngắn ngủi, vì vậy cần phải sống gấp, phải hưởng thụ để sau này khỏi phải hối tiếc, không


việc gì phải "nai lưng làm quần quật" cho khổ. Suy nghĩ đó, lối sống đó đã thực sự trở thành nỗi lo ngại đối

với tương lai của dân tộc.
Tất nhiên, bản thân việc sử đụng những hàng hoá chất lượng cao hay nhu cầu được sử dụng những hàng
hoá đó là hồn tồn hợp lý, phù hợp với sự phát triển của xã hội cùng với nhu cầu ngày càng cao của con
người. Nhưng, không phải lúc nào và ở đâu, tư tưởng tiêu thụ cũng mang ý nghĩa tích cực. Với những quốc
gia mà ở đó, người dân có thu nhập cho thì nhu cầu tiêu thụ vừa nâng cao mức sống của người dân, vừa là
một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sản xuất phát triển và trong điều kiện như vậy, nó là một giá
trị. Ngược lại, đối với những quốc gia có thu nhập bình quân đầu người thấp như các nước đang phát triển
và kém phát triển hiện nay, việc bắt chước" lối sống của một xã hội tiêu thụ lại là khơng phù hợp. Sẽ có
khơng ít vấn đề tiêu cực về kinh tế, xã hội, tâm lý, tư tưởng... xảy ra khi người dân có nhu cầu tiêu dùng rất
cao, thậm chí là quá cao vượt lên gấp nhiều khả năng thanh tốn của họ.
Chính vì vậy, cần phải làm sao cho mọi người dân hiểu rằng, giữa nước ta với các nước phát triển trong
khu vực và trên thế giới cịn có một khoảng cách rất xa. Bởi thế, để rút ngắn khoảng cách lạc hậu này, chỉ
có cách là trong khi thế giới "đi" được một bước thì chúng ta "phải" chạy được hai hoặc ba bước, nếu
không chúng ta sẽ lâm vào tình trạng "đi lên trong một cầu thang chạy xuống" mà thôi. Trong điều kiện đó,
trước tiên cần phát huy đức tính cần cù vốn có của mỗi người dân Việt Nam. Tất cả chúng ta cần phải
chăm chỉ hơn, tích cực hơn, sáng tạo hơn trong lao động, học tập, công tác để làm giàu cho bản thân và cho
đất nước. Theo chúng tôi, bài học của trong Malaixia là rất có giá trị đối với Việt Nam sinh trong quá trình
hội nhập. M.Mohamed như từng nhấn mạnh: "Thế giới đã không hạ cố đến chúng tôi. Chúng tôi đã phải
nắm cổ thế giới và đưa thế giới đến với mình. Chúng tơi đã phải làm việc khơng mệt mỏi. Việc chúng tơi
có một nền kinh tế thơng thống đến như vậy và một xã hội mở cửa dẫn đến như vậy là kết quả của những
chính sách thận trọng, của sự quyết tâm bền bỉ và của cả một đại dương mồ hôi nước cả mắt".
Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, chỉ cần cù thơi thì chưa đủ, nó cần phải gắn với sáng tạo và nắm bắt
được những công nghệ tiên tiến để áp dụng vào sản xuất.
Nếu trước đây cha ơng ta nói "năng nhặt, chặt bị", thì bây giờ chúng ta cần bổ sung rằng: khơng chỉ "năng
nhặt,mà cịn phải "biết nhặtnữa mới có thể chặt bị" được. Trong truyền thống của dân tộc ta, cần cù luôn
gắn liền với tiết kiệm. Lối sống tiết kiệm xuất phát từ triết lý sống của người việt Nam rằng, mỗi người
phải có trách nhiệm với mình, với gia đình, xã hội và các thế hệ mai sau. Hơn nữa, do cuộc sống q khó
khăn lại khơng ổn định, nên người Việt Nam thường có tâm lý đành dụm đề phịng những trường hợp bất
trắc xảy ra theo kiểu "tích cốc phịng cơ, tích y phong hàn" và ghét thói xa hoa phù phiếm "vung tay quá
trán", "ném tiền qua cửa sổ", "bóc ngắn, cắn dài" hay "kiếm củi ba năm thiêu một giờ¦

Trong những năm gần đây, do đời sống của đại đa số người dân đã được cái thiện cộng với ảnh hưởng của
lối sống phương Tây, nên đã xuất hiện xu hướng lao vào hưởng thụ, tiêu xài lãng phí, xa hoa cả trong sinh
hoạt cá nhân cũng như trong sinh hoạt tập thể. Các nhà hàng mọc lên như nấm với đủ loại "đặc sản". Người
ta kéo đến các nhà hàng ngày càng đơng. Có người đến để thưởng thức, nhưng cũng khơng ít người đến đó
chỉ vì muốn chơi sang và thể hiện "đẳng cấp" của mình. Ăn uống khơng hết thì đổ đi, thậm chí khơng dùng
vẫn gọi chơi cho oai. Cưới xin, ma chay, sinh nhật, giỗ chạp... thì tổ chức linh đình, tốn kém, lãng phí và vì
vậy, làm mất cả ý nghĩa tất đẹp của nó. Nhiều người thấy sợ mỗi khi cầm trong tay một tấm thiệp mời, thay
vì thấy mừng cho đơi bạn trẻ. Đó là một thực tế đã và đang xảy ra ở nước ta hiện nay. Thực tế này khơng
những có ảnh hưởng khơng tốt đến lối sống tiết kiệm vốn có của nhân dân ta, mà cịn là một trong những
nguyên nhân thúc đẩy con người phải kiếm tiền bằng mọi cách để hưởng thụ, kể cả vi phạm pháp luật hay
vi phạm đạo đức.
Đặc biệt, hiện tượng lãng phí của cơng, tham nhũng để ăn chơi phè phỡn, tiêu "tiền chùa" đang nổi lên như
một quốc nạn. Về vấn đề này, Đảng ta đã nhận định: "Nước ta còn nghèo và kém phát triển. Chúng ta lại
chưa thực hiện tất cần kiệm trong sản xuất, tiết kiệm trong tiêu dùng, đồn vốn cho đầu tư phát triển". Ông
LL Houng Lee, Trưởng đại điện Quỹ tiền tệ quốc tế IMF tại Việt Nam, đã nhận định rằng, Việt Nam có thể
phải mất 197 năm để đuổi kịp Singapo nếu như hai nước cùng giữ mức độ tăng trưởng như hiện nay, rằng,
Việt Nam cần phải tiết kiệm hơn nữa để có thể hỗ trợ thêm cho các khoản đầu tư nếu khơng muốn lệ thuộc
hồn tồn vào vốn nước ngồi. Vì vậy, trong điều kiện hiện nay, chúng ta nhất thiết phải cần kiệm để thực
hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phải khắc phục xu hướng chạy theo xã hội tiêu dùng, lối sống


xa hoa lãng phí. Đó là một trong những nhân tố quyết định thành công trong sự nghiệp đổi mới và xây
dựng chủ nghĩa xã hội của chúng ta.
Cần phải nhận thức rằng, tiết kiệm khơng có nghĩa là bủn xỉn. Hồ Chí Minh đã phân biệt rõ: Việc đáng tiêu
mà không tiêu là bủn xỉn chứ không phải là tiết kiệm" và nhắc nhở chúng ta rằng: "Khi không nên tiêu xài
thì một đồng xu cũng khơng nên tiêu. Khi có việc đáng làm, việc ích lợi cho đồng bào, cho Tổ quốc, thì dù
bao nhiêu cơng, tốn bao nhiêu của, cũng vui lòng".
Trong những năm gần đây, mặc dù nền kinh tế nước ta đã thu được những thành tựu đáng kể, nhưng Việt
Nam vẫn còn là một nước nghèo, thu nhập bình quân đầu người ở mức thấp so với các nước trong khu vực
và trên thế giới, đặc biệt là ở các vùng dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa. Chúng ta không thể bắt chước

lối sống tiêu xài phung phí khi điều kiện chưa cho phép. Vì vậy, cần phải tích cực động viên người tiết
kiệm hơn nữa trong tiêu dùng, cũng như trong sản xuất. Để tăng hiệu quả sản xuất, cần tránh hiện tượng
lãng phí thời gian và tiền của đang diễn ra tràn lan ở các cơ quan Nhà nước, các đơn vị sản xuất kinh doanh
thuộc thành phần kinh tế Nhà nước thành phần kinh tế được coi là đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế
nhiều thành phần ở nước ta hiện nay. Nhà nước cần phải có kế hoạch, biện pháp tích cực nhằm tạo ra nhiều
việc làm mới hơn nữa, đồng thời, phải có cơ chế thuận lợi để người dân tự tạo được việc làm nhằm giảm
tới mức thấp nhất lực lượng lao động đã thừa trong xã hội. Các dự án đầu tư cần phải được lựa chọn kỹ
càng, đúng hướng, tránh đầu tư tràn lan làm giảm hiệu quả sử đụng vấn.
Tuy vậy, vẫn phải mạnh dạn đầu tư vốn vào những đề án thực sự cần thiết đối với sự phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước. Bên cạnh đó, cần phải tiếp tục tăng cường chống tham nhũng, chống lãng phí của cơng
hoặc làm thất thốt tiền của của Nhà nước. Thực hiện tất tiết kiệm trong sản xuất sẽ làm giảm chi phí đầu
vào của hàng hố, tức là sẽ hạ được giá thành sản phẩm và như vậy, cũng có nghĩa là làm tăng sức cạnh
tranh của hàng hoá Việt Nam ở thị trường trong nước cũng như thị trường quốc tế, góp phần khẳng định và
nâng cao vị thế của nước ta trong quá trình hội nhập.
Cần phải nhấn mạnh rằng, trong điều kiện đất nước cịn nghèo nàn, lạc hậu, mỗi người Việt Nam khơng
được phép quên đi truyền thống cần cù, tiết kiệm đã có từ bao đời nay của dân tộc để chạy theo lối sống
hưởng thụ, xa hoa. Điều đó khơng chỉ khẳng định bản sắc văn hoá riêng của dân tộc, mà quan trọng hơn,
còn tăng thêm nội lực cho sự phát triển đất nước trong kỷ ngun tồn cầu hố.
7. Phân tích những truyền thống nổi bật của giai cấp nông dân Việt Nam. Những vấn đề cần
đấu tranh, phê phán?
- Truyền thống nổi bật
+ Là giai cấp luôn chiếm đại đa số trong dân cư
+ Truyền thống yêu nước
+ Truyền thống đoàn kết
+ Truyền thống nhân ái
+ Truyền thống dân chủ
- Vấn đề cần đấu tranh, phê phán
+ Tính tư hữu, hẹp hòi, bảo thủ
+ Địa phương, cục bộ, dịng họ, làng xóm, q hương bản qn
+ Trong cơng việc thiếu chủ động, vươn lên tiếp thu tư tưởng, văn hóa, cách làm mới.

(Đọc thêm)Vị trí, vai trị của nông dân, nông nghiệp trong cách mạng
Quần chúng nông dân bị bóc lột nhất và cùng khổ nhất, rất yêu nước.
Tuyên truyền tốt trong nông dân và tổ chức tốt trong công nhân nếu chúng ta làm tới được điều đó thì
tương lai thuộc về chúng ta.
Vì bị áp bức mà sinh ra cách mệnh, cho nên ai mà bị áp bức càng nặng thì lịng cách mệnh càng bền, chí
cách mệnh càng quyết. Khi trước tư bản bị phong kiến áp bức cho nên nó cách mệnh. Bây giờ tư bản lại đi
áp bức công nông, cho nên công nơng là người làm chủ cách mệnh.
1. Là vì cơng nơng bị áp bức nặng hơn,
2. Là vì cơng nơng là đông nhất cho nên sức mạnh hơn hết,
3. Là vì cơng nơng là tay khơng chân rồi, nếu thua thì chỉ mất một cái kiếp khổ, nếu được thì được cả
thế giới, cho nên họ gan góc. Vì những cớ ấy, nên công nông là gốc cách mệnh…


Cách mệnh Pháp dạy cho chúng ta:
1. Dân chúng công nông là gốc cách mệnh, tư bản là hoạt đầu, khi nó khơng lợi dụng được dân chúng
nữa, thì nó phản cách mệnh.
4. Dân khí mạnh thì qn lính nào, súng ống nào cũng khơng chống lại .
Vì sao phải tổ chức dân cày?
Nước ta kinh tế chưc phát đạt, trong 100 người thì đến 90 người là dân cày. Mà dan cày ta rất là cực khổ,
nghề khơng có mà làm, đất không đủ mà cày, đến nỗi cơm khơng đủ ăn, áo khơng có mặc.
Nếu dân cày An Nam muốn thốt khỏi vịng cay đắng ấy, thì phải tổ chức nhau để kiếm đường giải phóng
Cuộc cách mạng vô sản không thể thắng lợi ở các nước nông nghiệp và nửa nông nghiệp nếu như giai cấp
vô sản cách mạng không được quần chúng nông dân ủng hộ tích cực
Cách mạng chỉ có thể thắng lợi nếu như những làn sóng cách mạng lay động được quần chúng nông dân
dưới sự lãnh đạo của giai cấp vô sản.
Lịch sử dấu tranh của nông dân trên khắp thế giới minh họa một cách phong phú con đường mà phong trào
du kích dần dần tự chuyển thành một lực lượng nghiêm chỉnh; thành một lực lượng có khả năng cung cấp
những người lãnh đạo đích thực, thực hiện những nhiệm vụ cách mạng có tầm quan trọng lớn lao.
Đảng phải thu phục cho được đại bộ phận dân cày và phải dựa vào hạng dân cày nghèo làm thổ địa cách
mạng đánh trúc bọn đại địa chủ và phong kiến.

Đảng tập hợp đa số quần chúng nông dân, chuẩn bị cách mạng thổ địa và lật đổ bọn địa chủ và phong kiến
Không bao giờ Đảng lại hy sinh quyền lợi của giai cấp công nhân và nông dân cho một giai cấp nào khác.
Nước ta là một nước nông nghiệp
Hơn 9 phần 10 dân ta là nông dân
Hơn 9 phần 10 nông dân ta là trung, bần và cố nông
Trong Vệ quốc quân và bộ đội địa phương, dân qn du kích số đơng là nơng dân.
Tăng gia sản xuất để nuôi bộ đội, nuôi công nhân và công chức, là nông dân.
Công việc phá hoại để chống giặc, công việc sửa chữa đường sá, giao thông, vận tải phần lớn do
nơng dân làm.
Nói tóm lại, nơng dân là một lực lượn rất to lớn của dân tộc, một đồng minh rất trung thành của giai cấp
công nhân.
Muốn kháng chiến kiến quốc thành công, muốn độc lập thống nhất thật sự ắt phải dựa vào lực
lượng của nông dân.
Đồng bào nơng dân sẵn có lực lượng to lớn, sẵn có lịng nồng nàn u nước, sẵn có chí khí kiên
quyết đấu tranh và hy sinh
Muốn đánh thắng thì quân và dân ta phải ăn no. Muốn ăn no thì phải có nhiều lương thực. Muốn
nhiều lương thực thì phải cày cấy nhiều. Phải chịu khó bón phân, làm cỏ.
“Thực túc thì binh cường!”
Chiến sĩ ở trước mặt trận thi đua giết giặc lập cơng thì đồng bào ở hậu phương phải thi đua tăng gia
sản xuất.
Ruộng rẫy là chiến trường,
Cuốc cày là vũ khí,
Nhà nơng là chiến sĩ,
Hậu phương thi đua với tiền phương.
Đa số dân ta là nông dân. Mỗi việc dều phải dựa vào nông dân. Nông dân giác ngộ hăng hái thì kháng
chiến mới mau thắng lợi, kiến quốc mới chóng thành cơng, nơng dân mới được giải phóng…
Giai cấp nơng dân: Nơng dân là tối đại đa số trong nhân dân nước ta, là bộ phận chủ chốt trong đội
ngũ cách mạng, là giai cấp đóng góp nhiều nhất trong kháng chiến…
Nơng dân lao động đã thành cột trụ của chính quyền ở nơng thơn, do đó mà nhân dân chủ chun
chính và cơng nơng liên minh trở nên vững chắc.

Nền tảng của vấn đề dân tộc là vấn đề nơng dân, vì nơng dân là tối đại đa số trong dân tộc.
Nền tảng của vấn đề dân tộc là vấn đề nơng dân, vì nông dân là tối đại đa số trong dân tộc.
Nền tảng của cách mạng dân chủ cũng là vấn đề nơng dân, vì nơng dân là lực lượng cách mạng


đông nhất chống phong kiến, chống đế quốc.
Nông dân lao động là một lực lượng rất to lớn của dân tộc, một đồng minh rất chắc chắn của giai
cấp công nhân.
Muốn kháng chiến thắng lợi, kiến quốc thành công ắt phải dựa vào quần chúng nông dân. Muốn
dựa vào nông dân ắt phải bồi dưỡng lực lượng của họ. Muốn nơng dân có lực lượng dồi dào thì phải làm
cho họ có ruộng cày, có cơm ăn, áo mặc, nhà ở.
Tối đại đa số nhân dân ta là nông dân. Mấy năm nay nhờ lực lượng nông dân mà kháng chiến tranh
được thắng lợi. Sau này cũng nhờ lực lượng nơng dân mà kháng chiến được hồn tồn thắng lợi, kiến quốc
đi đến thành công.
Lực lượng của chúng ta là hàng chục triệu đồng bào nông dân lao động, sẵn sàng chờ Chính phủ và
Đảng tổ chức và lãnh đạo, để hăng hái vươn mình dậy đánh tan ách nơ lệ của phong kiến và thực dân.
Khéo tổ chức, khéo lãnh đạo, thì lực lượng ấy sẽ làm xoay trời chuyển đất, bao nhiêu thực dân và phong
kiến cũng sẽ bị lực lượng ấy đánh tan.
Giai cấp nông dân, chủ chốt là bần nông và trung nông là quân đội chủ lực của kháng chiến và của
cách mạng dân chủ mới.
Cách mạng ta hiện nay là chống đế quốc, chống phong kiến. Nông dân là lớp người đông nhất trong
nhân dân, cho nên họ là quân chủ lực của cách mạng.
Trong cuộc kháng chiến của ta, nơng dân đóng góp nhiều nhất, hy sinh nhiều nhất. Trong quân đội
ta, tối đa đại đa số là nông dân. Trong công cuộc xây dựng dân chủ mới, muốn phát triển công nghệ và
thương nghiệp, ắt phải do nơng dân được giải phóng, thi đua sản xuất, cung cấp nguyên liệu và lương thực,
đồng thời tiêu thụ dồi dào những thứ công nghệ sản xuất ra.
Công nhân ra sức sản xuất nông cụ và các thứ cần dùng khác, để cung cấp cho nơng dân. Nơng dân
thì ra sức tăng gia sản xuất, để sản xuất, để cung cấp lương thực và các thứ ngun liệu cho cơng nhân. Do
đó mà càng thắt chặt liên minh giữa công nông.
Tối đại đa số trong nhân dân là nông dân. Nông dân hăng hái tham gia là điều kiện chính cho kháng

chiến thắng lợi. Vì vậy, Đảng và Chính phủ phát động quần chúng, thực hành chính sách ruộng đất, để đưa
lại quyền lợi kinh tế và chính trị cho nơng dân.
Cần phải đồn kết nơng dân lao động. Nếu biết đồn kết nơng dân lao thì việc gì làm cũng có kết
quả tốt; nếu khơng biết đồn kết nơng dân lao động thì cơng việc sẽ không chạy, kéo dài thời gian mà kết
quả khơng tốt.
Người thì có hai chân. Kinh tế mốt nước thì có hai bộ phận chính: nơng nghiệp và cơng nghiệp.
Người khơng thể thiếu một chân, thì nước khơng thể thiếu một bộ phận kinh tế.
Nước ta là nước nông nghiệp, cho nên hiện nay nông nghiệp là quan trọng nhất.
Sản xuất nông nghiệp trước hết là sản xuất lương thực là việc cần thiết nhất cho đời sống của nhân
dân, là bộ phận cực kỳ quan trọng trong kế hoạch kinh tế của nhà nước.
Các cán bộ phải chú ý lãnh đạo nơng nghiệp, vì muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải phát triển
cơng nghiệp nhưng đồng thời cũng phải phát triển nơng nghiệp, vì hai ngành đó khăng khít với nhau.
Ngành nơng nghiệp có nhiệm vụ cung cấp nguyên liệu cho ngành công nghiệp và trái lại, ngành công
nghiệp sẽ giúp cho ngành nông nghiệp phát triển. Nếu ngành công nghiệp phát triển mà ngành nông nghiệp
khơng phát triển thì khập khễnh như người đi một chân.
Nông dân ta đông người nhất, kinh tế nông nghiệp quan trọng nhất; nông dân ta đã anh hùng trong
cách mạng, tong kháng chiến…thì trong cong cuộc cách mạng biến đổi nông nghiệp từ thấp lên cao này,
nông dân ta cũng phải là anh hùng.
Nơng dân ta chí khí rất anh dũng, kinh nghiệm rất nhiều, lực lượng rất to. Điều đó đã tỏ rõ trong
thời kỳ cách mạng và kháng chiến. Nếu lãnh đạo tốt, thì khó khăn gì họ cũng khắc phục được, việc gì to
lớn mấy họ cũng làm được.
Vậy cán bộ phải lãnh đạo một cách thiết thực, chu đáo, liên tục, toàn diện.
Ở miền Bắc nước ta, nông nghiệp chiếm bộ phận lớn trong kinh tế, mà sản xuất nhỏ lại chiếm bộ
phận lớn trong nơng nghiệp. Vì nơng nghiệp là ngồn cung cấp lương thực và nguyên liệu, đồng thời là một
nguồn xuất khẩu quan trọng, nông thôn là thị trường tiêu thụ to nhất hiện nay, cho nên cần phải cải tạo và


phát triển nơng nghiệp thì mới có cơ sở để phát triển các ngành kinh tế khác.
Phải cải tạo và phát triển nông nghiệp để tạo kiện cho việc công nghiệp hóa nước nhà. Phải có một
nền nơng nghiệp phát triển thì cơng nghiệp mới có thể phát triển mạnh.

Các hợp tác xã nông nghiệp, dưới sự lãnh đạo của Đảng, phải trở thành những đội quân vững mạnh
của mười mấy triệu nông dân lao động trong công cuộc phát triển sản xuất, nâng cao đời sống, giáo dục tư
tưởng và xây dựng nông thôn phồn thịnh của nước ta.
Tiến lên chủ nghĩa xã hội phải đi bằng hai chân: cơng nghiệp và nơng nghiệp. Cơng nghiệp của ta
đã có tiến bộ, nếu nông nghiệp không tiến bộ hoặc cứ cầm chừng thì như què, vì vậy phải cố gắng mà đưa
nông nghiệp tiến lên.
Công nghiệp và nông nghiệp như hai chân của con người.Hai chân có mạnh thi mới vững chắc.
Nơng nghiệp khơng phát triển thì cơng nghiệp cũng khơng phát triển được. Ngược lại, khơng có cơng
nghiệp thì nơng nghiệp cũng khó khăn. Cộng nghiệp và nơng nghiệp quan hệ với nhau rất khăng khít.
8. Từ lịch sử hình thành và phát triển của nơng dân Việt Nam, hãy làm sáng tỏ vai trị của
nơng dân trong cơng cuộc dựng nước và giữ nước?
- Vai trị
+ Cơng cuộc mở đất đai, dựng làng, khai thác và chế ngự thiên nhiên phát triển đất nước.
* Chế ngự thiên nhiên để bảo tồn và phát triển cuộc sống
* Từ miền núi, trung du phát triển xuống đồng bằng, lấn biển mở rộng đất đai canh tác
* Phát triển đất nước về phía Nam
+ Chống ngoại xâm bảo vệ nền độc lập thống nhất của đất nước.
* Vốn có tinh thần yêu nước, bất khuất chống xâm lược. mỗi khi đất nước bị xâm lược nông dân lại
vùng dậy đấu tranh giành độc lập dân tộc và lực lượng chủ lực trong chiến tranh BVTQ và chiến tranh giải
phóng.
* Khi giai cấp lãnh đạo có vai trị tiến bộ thì giai cấp nông dân sẵn sàng ủng hộ và cùng giai cấp đó
chống ngoại xâm và giành thắng lợi.
* Khi giai cấp phong kiến đã suy tàn, không đảm nhiệm được vai trị lãnh đạo được phong trào dân
tộc thì giai cấp nơng dân tự mình đấu tranh chống xâm lược.
+ Có sức mạnh đấu tranh giai cấp, chống các thế lực suy tàn, phản động.
* Khi chính quyền thống trị bị suy tàn thối nát…
* Hoặc tự mình đứng lên xóa bỏ chính quyền suy tàn, thối nát.
+ Được sự lãnh đạo của giai cấp cơng nhân thì giai cấp nơng dân có tinh thần cách mạng cao, là
qn chủ lực của cách mạng và hình thành khối liên minh g/c nơng dân, g/c cơng nhân và đội ngũ trí thức.
Giai cấp nơng dân là một lực lượng có vai trò hết sức quan trọng trong sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc.

Lịch sử 80 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng đã khẳng định những đóng góp to lớn của nông dân đối với sự nghiệp
đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nông dân nước ta chiếm hơn 90% dân số, là nạn nhân chủ yếu của chế độ
thực dân. Giải phóng dân tộc, mà chủ yếu là nông dân là nhiệm vụ quan trọng số một của cách mạng. Từ những
năm 20 của thế kỷ XX, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã xác định cần phải thu hút đại bộ phận giai cấp nông dân
vào sự nghiệp đấu tranh cách mạng do Đảng lãnh đạo. Tại Hội nghị Quốc tế Nông dân lần thứ nhất (1923), Người
nói rõ: “Tơi phải nhắc lại với các đồng chí rằng Quốc tế của các đồng chí chỉ trở thành một quốc tế thật sự khi mà
không những nông dân phương Tây, mà cả nông dân ở phương Đông, nhất là nông dân ở các thuộc địa là những
người bị bóc lột và bị áp bức nhiều hơn các đồng chí, đều tham gia Quốc tế…”1. Năm 1927, Trong tác phẩm Đường
cách mệnh, Người còn nêu ra: “Bây giờ tư bản lại đi áp bức công nông, cho nên công nông là người chủ cách mệnh.
1. Là vì cơng nơng bị áp bức nặng hơn. 2. Là vì cơng nơng là đơng nhất cho nên sức mạnh hơn hết. 3. Là vì cơng
nơng là người tay khơng chân rồi, nếu thua thì chỉ mất một cái kiếp khổ, nếu được thì được cả thế giới, cho nên họ
gan góc”. Vì những cớ ấy, nên cơng nơng là gốc cách mệnh”2. “Muốn cách mệnh thành cơng thì phải dân chúng
(công nông) làm gốc. Đến năm 1930, trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng do Người soạn thảo cũng xác định rõ:
Đảng phải lôi cuốn đại đa số dân cày và phải dựa vào hạng dân cày nghèo, lãnh đạo họ làm cách mạng, đồng thời
phải liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nơng để kéo họ đi cùng giai cấp vô sản. Đối với phú nông, trung, tiểu địa


chủ và tư sản chưa rõ mặt phản cách mạng thì cũng phải lợi dụng, ít ra cũng phải làm cho họ trung lập. Trong khi
liên lạc với các giai cấp, khơng được nhân nhượng lợi ích của cơng nơng mà đi vào đường thoả hiệp. Chủ trương
trên cho thấy, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và Đảng ta đã nắm chắc tình hình thực tiễn Việt Nam, đánh giá đầy đủ và
đúng đắn vị trí, vai trị, khả năng của các giai cấp, tầng lớp trong sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam.
Nắm vững lý luận Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, “Đảng ta vừa mới ra đời đã nắm ngay quyền lãnh đạo
cách mạng, bởi vì Đảng ta sớm xây dựng được khối liên minh cơng nơng. Uy tín chính trị và quyền lãnh đạo cách
mạng của Đảng ta sở dĩ là tuyệt đối, không ai tranh chấp nổi, bởi vì nó bắt nguồn từ sức mạnh vô địch của quần
chúng cơ bản của Đảng, quần chúng công nông”3. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhưng trong điều kiện
như nước ta, một nước thuộc địa, phong trào cách mạng thực sự phải là một phong trào dân tộc mà trong đó đội
quân chủ lực phải bao gồm hai lực lượng cơ bản là cơng nhân và nơng dân. Có dựa trên lực lượng cơ bản vững chắc
đó, Đảng ta mới có khả năng mở rộng đội ngũ cách mạng tới các giai cấp và tầng lớp khác có tinh thần yêu nước
trong dân tộc. Xuất phát từ đặc điểm nông dân nước ta, Đảng rất quan tâm giáo dục nông dân, lãnh đạo họ đi theo

cách mạng, từng bước đem lại quyền lợi thiết thân cho nông dân, xây dựng củng cố khối liên minh công nông thành
đạo quân chủ lực của cách mạng. Trong Luận cương chính trị năm 1930, Đảng ta xác định: Trong cách mạng tư sản
dân quyền, vô sản giai cấp và nơng dân là hai động lực chính, nhưng vơ sản có cầm quyền lãnh đạo thì cách mạng
mới thắng lợi được.
Đảng ta đã từng bước tổ chức, rèn luyện, giác ngộ giai cấp nông dân trong quá trình đấu tranh cách mạng.
Cùng với cơng nhân và những người trí thức u nước, giai cấp nơng dân đã tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin và
những tư tưởng cách mạng của Nguyễn Ái Quốc, trở thành một trong hai động lực chính của cách mạng. Những
người tiên tiến trong giai cấp nông dân đã gia nhập Đảng, gánh vác nhiệm vụ trọng đại của dân tộc. Hiện tượng đặc
thù này vào những thập niên đầu thế kỷ XX ở Việt Nam đã nói lên tính chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa
Mác - Lênin, đường lối cứu nước đúng đắn của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, tài tổ chức và giáo dục nông dân của
Đảng, đồng thời biểu hiện sự trưởng thành của giai cấp nông dân Việt Nam về mặt giác ngộ dân tộc và chủ nghĩa xã
hội. Nắm vững vai trò và khả năng cách mạng của nông dân, Đảng ta chẳng những lôi cuốn giai cấp nông dân trở
thành người đồng minh vững chắc và lâu dài của giai cấp công nhân Việt Nam, mà còn tạo ra nguồn bổ sung cho
đội tiền phong. Lịch sử cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng ta đã chứng minh tính cách mạng và tính
khoa học trong đường lối liên minh với giai cấp nơng dân. Đó là nguồn sức mạnh cơ bản làm nên những thắng lợi
vẻ vang của cách mạng nước ta từ khi có Đảng.
Sau Cách mạng Tháng Tám và trong kháng chiến chống thực dân Pháp, khi hướng mũi nhọn đấu tranh vào đế quốc
và tay sai, Đảng ta đặc biệt quan tâm đến quyền lợi của nông dân. Trong những năm 1945-1952, Đảng dùng biện
pháp cải cách từng bước để đem lại quyền lợi ruộng đất cho nông dân theo một đường lối riêng biệt của Việt Nam.
Đến năm 1953, Đảng chủ trương phát động nông dân triệt để giảm tơ và tiến hành thí điểm cải cách ruộng đất ở một
số xã trong vùng tự do ngay trong kháng chiến. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị: “Năm nay, chúng ta phải kiên quyết
thực hiện triệt để giảm tô. Muốn vậy, phải ra sức phát động quần chúng nông dân, làm cho quần chúng tự giác tự
nguyện đứng ra đấu tranh triệt để giảm tô… Sau khi giảm tô, giảm tức, quần chúng đã được phát động, tổ chức đã
vững chắc, lực lượng đã đầy đủ, ưu thế chính trị đã về tay nơng dân lao động, đa số nơng dân đã u cầu thì sẽ thực
hiện cải cách ruộng đất”4. Từ Thông tư giảm tô 25% của Uỷ ban nhân dân Bắc Bộ ngày 20-11-1945 đến Sắc lệnh
giảm tơ của Chính phủ ngày 14-7-1949, đã đem lại cho nơng dân 177.000ha ruộng, trong đó có 18.400ha ruộng tịch
thu của thực dân Pháp, 39.600ha ruộng của địa chủ và 119.000ha ruộng đất công. Cuối năm 1955, Đảng ta đã phát
động quần chúng triệt để giảm tô và thực hiện cải cách ruộng đất, đem lại cho giai cấp nơng dân nước ta 456.000ha
ruộng và xố bỏ chế độ sở hữu ruộng đất của địa chủ phong kiến. Cũng trong thời kỳ ấy, từ Quảng Trị, Thừa Thiên
đến Nam Bộ, nông dân được chia cấp trên 750.000ha ruộng đất. Ở nhiều nơi địa tô phong kiến đã giảm 25% so với

mức cũ.
Những thành quả của giảm tô và cải cách ruộng đất có ý nghĩa chính trị, kinh tế và xã hội hết sức to lớn. Cuộc vận
động này đã góp phần vào chiến thắng Điện Biên Phủ và thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp. Báo cáo
trước Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khố II, ngày 25-1-1953 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
khẳng định: “Nền tảng của vấn đề dân tộc là vấn đề nơng dân, vì nơng dân là tối đại đa số trong dân tộc. Nền tảng
của cách mạng dân chủ cũng là vấn đề nơng dân, vì nơng dân là lực lượng cách mạng đông nhất chống phong kiến,
chống đế quốc. Hoàn cảnh nước ta hiện nay, bên địch thì giặc Pháp dựa vào địa chủ phong kiến phản động do bù
nhìn Bảo Đại đứng đầu để phá hoại kháng chiến, bên ta thì bộ đội, sản xuất lương thực, đi dân công nhiều hơn hết là
nông dân. Mấy năm trước, vì hồn cảnh đặc biệt mà ta chỉ thi hành giảm tô, giảm tức, như thế là đúng. Nhưng ngày


×