Tải bản đầy đủ (.doc) (41 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO LỊCH sử ĐẢNG QUÁ TRÌNH vận ĐỘNG THÀNH lập ĐẢNG CỘNG sản VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (279.28 KB, 41 trang )

QUÁ TRÌNH VẬN ĐỘNG THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
MỞ ĐẦU
Đảng cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả tất yếu của sự kết hợp chủ nghĩa
Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Đảng ra
đời trong thời đại mới, thời đại loài người quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa
xã hội và chủ nghĩa cộng sản, mở đầu bằng cuộc cách mạng tháng muời Nga.
Đảng ra đời từ trong xã hội Việt Nam thuộc địa, nửa phong kiến, từ một dân tộc có
truyền thống chiến đấu bảo vệ và xây dựng tổ quốc hàng ngàn năm.
Đảng cộng sản Việt Nam ra đời là kết qủa chuẩn bị công phu về tư tưởng,
chính trị và tổ chức của đồng chí Nguyễn Ái Quốc và của các chiến sĩ cách mạng
tiền bối, đáp ứng yêu cầu lịch sử của đất nước ta đầu thế kỷ XX, phù hợp xu thế
phát triển của thời đại. trải qua 78 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta
đã giành được những thắng lợi to lớn, vẻ vang. Cách mạng tháng tám năm 1945
thành công đã mở ra một kỷ nguyên mới cho nước nhà: độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội; chúng ta đã đánh thắng cả đế quốc Pháp và Mỹ, thống nhất
đất nước; tiến hành sự nghiệp đổi mới đưa Việt Nam hội nhập vào trào lưu chung
của thế giới để phát triển mạnh mẽ, vững chắc.
Trong phạm vi khoá luận này chỉ tập trung phân tích bối cảnh thế giới, trong
nước cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX và tác động của nó đến sự ra đời Đảng cộng
sản Việt Nam; thứ hai là làm nổi rõ vai trò của đồng chí Nguyễn Ái Quốc trong
toàn bộ quá trình vận động thành lập Đảng cộng sản Việt Nam; thứ ba là giới thiệu
cương lĩnh chính trị của Đảng và ý nghĩa sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam.
Nội dung của khoá luận sẽ góp phần làm sáng tỏ sự thật khách quan việc Đảng
cộng sản Việt Nam ra đời là sự lựa chọn của chính lịch sử, là sự kiện có ý nghĩa quyết
định thắng lợi của cách mạng Việt Nam trên con đường đấu tranh giành độc lập dân
tộc, thống nhất tổ quốc và xây dựng chủ nghã xã hội.
Khoá luận sẽ tập trung làm rõ một số vấn đề chính sau:
- Bối cảnh lịch sử cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX và tác động của nó đối với cách
mạng Việt Nam.
- Nguyễn ái Quốc với quá trình vận động thầnh lập Đảng cộng sản Việt Nam.
- Sự thành lập Đảng cộng sản Việt Nam.




Chương I
BỐI CẢNH LỊCH SỬ CUỐI THẾ KỶ XIX, ĐẦU THẾ KỶ XX VÀ
TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐỐI VỚI CÁCH MẠNG VIỆT NAM

I. Bối cảnh lịch sử cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX
I.1. Bối cảnh thế giới
Từ cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản đã chuyển từ tự do cạnh tranh sang
giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. các nước tư bản đế quốc, bên trong thì tăng cường
bóc lột nhân dân lao động, bên ngoài thi bành truớng xâm lược và áp bức nhân dân
các dân tộc thuộc địa. Sự thống trị tàn bạo của chủ nghĩa đế quốc làm cho đời sống
nhân dân lao động ở các nước trở nên cùng cực, mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc
địa với chủ nghĩa thực dân ngày càng gay gắt, phong trào đấu tranh chống xâm
lược diễn ra mạnh mẽ tuy nhiên các phong trào đấu tranh lúc bấy giờ cuối cùng
đều đi vào thất bại vì thiếu một đường lối cứu nước đúng đắn.
Lúc bấy giờ trên thế giới mà cụ thể hơn là chín nước Anh, Pháp, Mỹ, Tây
Ban Nha, Italya, Bỉ, Bồ Đào Nha, Hà Lan chiếm số diện tích thuộc địa là
55.637.000km2; số dân thuộc địa là 560.193.000 người. Toàn bộ lãnh thổ của các
nước thuộc địa rộng gấp 5 lần lãnh thổ của các chính quốc còn số dân của các
chính quốc chưa bằng 3/5 số dân của các nước thuộc địa.
Ngày 1-8-1914, chiến tranh thế giới lần thứ nhất bùng nổ. Cuộc chiến này đã
gây ra những hậu quả đau thương cho nhân dân các nước (khoảng 10 triệu người
chết và 20 trệu người tàn phế), đồng thời cuộc chiến tranh này cũng làm cho chủ
nghĩa tư bản suy yếu và làm cho mâu thuẫn giữa các nước tư bản đế quốc tăng
thêm. Chiến tranh thế giới lần thứ nhất đã làm thay đổi vị trí và tương quan lực
lượng giữa các nước đế quốc. Tình hình này đã tạo điều kiện cho phong trào đấu
tranh ở các nước nói chung, các dân tộc thuộc địa nói riêng phát triển mạnh mẽ.
a. Phong trào giải phóng dân tộc ở châu Á. Đông Nam Á và những ảnh
hưởng của nó đối với Việt Nam.

Trung Quốc
Từ cuối thế kỷ XIX, các nước tư bản phương Tây đổ xô sang Viễn Đông tìm
kiếm thị trường.
Đối tượng chính của chúng là Trung Quốc, một nước đông dân, đất rộng,
nhiều tài nguyên nhất châu Á. Bước sang thế Kỷ XX, Trung Quốc từ một nước độc
lập trở thành một nước nửa thuộc địa nửa phong kiến. Đối nội thì đàn áp, đối ngoại
thì nhu nhược. Tình cảnh Trung Quốc lúc đó đã được Phan Bội Châu nhận định rất
đúng rằng:
“Mãn triều Trung Quốc và Nguyễn triều Việt Nam
Cũng một phường chó chết như nhau mà thôi”
-2-


Sau chiến tranh Trung – Nhật(1894), uy tín của chính quyền Mãn Thanh
càng sút kém. Tinh thần cách mạng của nhân dân Trung Quốc lên cao. Khuynh
hướng cải lương phát triển mạnh mẽ, nhất là trong giới trí thức xuất thân sĩ phu
phong kiến hay giai cấp tư sản mới hình thành.
Ngày 10-10-1911, cuộc cách mạng Tân Hợi nổ ra ở Vũ Xương sau đó nhanh
chóng lan ra các tỉnh miền Nam, miền Trung. Ngày 1-11-1912, nền cộng hoà của
Trung Hoa Dân quốc ra đời, Tôn Trung Sơn được bầu làm Tổng thống lâm
thời.Tháng 3 – 1913, cách mạng Tân Hợi kết thúc. Mặc dù thất bại nhưng thành
quả của cách mạng Tân Hợi (lật đổ nền quân chủ chuyên chế) không những thổi
bùng tinh thần dân chủ trong các tầng lớp nhân dân trung Quốc mà ý nghĩa của
cuộc cách mạng này còn đánh dấu sự thức tỉnh của nhân dân châu Á trong cuộc
đấu tranh giành độc lập dân tộc và dân chủ.
Cuộc vận động Duy Tân độc ác đại biểu Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu,...
Lãnh đạo và cuộc cách mạng Tân Hợi năm 1911, với ý nghĩa mới mẻ của nó đã
được các nhà nho tiến bộ Việt Nam tiếp thu, từ đó góp phần thúc đẩy phong trào
cách mạng theo khuynh huớng dân chủ tư sản ở Việt Nam những năm đầu thế kỷ
XX.

Vào những năm 20, dưới ảnh hưởng của cách mạng tháng 10 Nga và sự giúp
đỡ của Quốc tế cộng sản, những nhóm macxít đầu tiên xuất hiện ở Trung Quốc.
Năm 1921, đảng cộng sản trung Quốc được thành lập và đã xây dựng được nhiều
cơ sở vững chắc trong quần chúng. từ đó thúc đẩy phong trào cách mạng theo
khuynh hướng vô sản phát triển mạnh mẽ. tình hình cách mạng Trung Quốc lúc
này tạo nhiều thuận lợi cho cách mạng Việt Nam.
Nhật Bản duy tân và chiến thắng Nga hoàng
Sau cuộc Duy Tân năm 1868, Nhật Bản đã tiến sang con đường tư bản chủ
nghĩa với tốc độ nhanh. Chính phủ Nhật dựa vào sưu thuế nặng nề để xây dựng xí
nghiệp, sau đem bán những xí nghiệp đó cho tư nhân với giá rất hạ có khi chỉ bằng
30%, 15% so với số vốn đã bỏ ra lúc đầu và cho phép trả dần. Năm 1879 Nhật sáp
nhập Lưu Cầu vào lãnh thổ Nhật, từ năm 1882-1884 quấy rối ở Triều Tiên, 18941895 tiến hành xâm lược Trung Quốc. Đầu thế kỷ XX, Nhật Bản trở thành đế quốc
mạnh ở châu Á cùng với các nước đế quốc chủ nghĩa phương Tây chia nhau xâu xé
Trung Quốc, lấn tới những miền giàu có ở Á Đông. Bóc lột nhân dân trong nước,
vơ vét của cải ở những nơi đã xâm chiếm, nhất là Trung Quốc và Triều Tiên, đã
đưa Nhật tiến mạnh trên con đường công nghiệp hoá.
Giai cấp tư sản Nhật, sau khi ủng hộ phe quý tộc miền Nam đánh đổ phái
Mạc phủ, đã trở thành gai cấp đặc quyền trong xã hội, nắm toàn bộ quyền chi phối
kinh tế và chính trị. Các công ty độc quyền xuất hiện, hai công ty lớn Mitsubsi và
Mitsui chi phối nhiều công ti khác. Các công ty này cung cấp quân dụng, quân
trang, vũ khí cho hải và lục quân Nhật.
-3-


Mặc dù Nhật Bản đã tiến tới giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, các công ty độc
quyền xuất hiện, nhưng còn rất nhiều tàn tích của chế độ phong kiến. Đó là đặc
trưng của con đường tư bản hoá nước Nhật dựa trên sự cấu kết chặt chẽ giữa quý
tộc phong kiến và giai cấp tư sản. Đời sống nhân dân lao động rất khổ cực khiến
thị trường trong nước bị thu hẹp, tư bản Nhật phải tăng cường chính sách xâm lược
để tìm kiếm thị trường mới.

Đầu thế kỷ XX, đế quốc Nhật cùng các đế quốc phương Tây chia nhau
quyền lợi ở Trung Quốc, liên hiệp nhau để đàn áp phong trào cách mạng Nghĩa
Hoà Đoàn, nhưng mặt khác lại tranh giành quyền lợi, mâu thuẫn với nhau.
Sau khi chiếm Triều Tiên, Nhật Bản thôn tính Mãn Châu. Đế quốc Nga cũng đang
muốn bành truớng thế lực về phương Đông nên Nhật chủ trương gây chiến với Nga.
Đầu năm 1904 không tuyên chiến, hải quân Nhật tấn công hạm đội Nga ở
cảng Lữ Thuận. Sau đó, Nhật đổ bộ vào Mãn Châu, giao chiến với lục quân Nga.
Bị tấn công bất ngờ, nhất là chưa chuẩn bị đầy đủ, tiếp tế khó khăn, tinh thần quân
đội sút kém, tháng 8-1904, Nga thua to trên mặt biển, hạn đội bị đánh đắm gần hết.
Tháng 1-1905, Nhật chiếm cảng Lữ Thuận; tháng 3 tại Phụng Thiên, Nga mất 12
vạn quân. Nga hoàng cử hạm đội từ biển Ban Tích sang tăng viện, đến eo Đối Mã
bị tiêu diệt(tháng 5-1905).
Trong nước phong trào cách mạng lên cao, Nga hoàng muốn nhanh kết thúc
chiến tranh để đối phó với cách mạng nên vội vã kí hoà ước Poxmao (Pormouth)
nhượng bộ Nhật, nhả những quyền lợi đã chiếm ở Mãn Châu, thừa nhận Nhật
chiếm Triều Tiên và cắt cho Nhật miền Nam bán đảo Xakhalin. Chiến thắng của
Nhật có tiếng vang lớn trên thế giới, nhất là đối với các dân tộc châu Á.
Nhật từ nay được coi như cứu tinh của các dân tộc da vàng. Một xu hướng
thân Nhật phát triển ở Trung Quốc, Việt Nam, Thái Lan, Miến Điện, Ấn Độ ... xu
hướng này ít nhiều có tác động đến tinh thần chống đế quốc ở các nước thuộc địa
và bán thuộc địa ở Á châu.
Ở Việt Nam, các sĩ phu yêu nước thấy không thể nào tự lực đánh đuổi Pháp
nếu không trông vào viện trợ nước ngoài. Vì thế, không thể nào không hướng về
Nhật Bản, một nước đồng văn đồng chủng, lại là một nước tiên tiến. Do vậy phong
trào sang Nhật cầu học, phong trào Đông Du rất sôi nổi kéo dài từ 1904 đến 1908,
đã có một địa vị trọng yếu trong lịch sử cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX.
Tình hình Đông Nam Á
Vào thế kỷ XV, chủ nghĩa thực dân phương Tây bắt đầu xâm lược nhân dân
các nước Đông Nam Á. Kể từ khi bị xâm lược, nhân dân các nước Đông Nam Á đã
đứng lên đấu tranh bảo vệ nền độc lập của mình. Những cuộc đấu tranh lúc đó “tuy

rất sôi nổi và liên tục nhưng đều không vượt qua ý thức hệ phong kiến, vẫn nhằm
mục tiêu duy trì triều đại đang trị vì trước sự tấn công của bên ngoài”.

-4-


Từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX chịu ảnh hưởng của các trào lưu tư
tưởng mới, phong trào đấu tranh ở các nước Đông Nam Á chuyển sang khuynh
hướng dân chủ tư sản.
Dưới ánh sáng của Quốc tế cộng sản vào tháng 11-1920 Đảng cộng sản
Inđônêsia được thành lập, Đảng đã lãnh đạo nhân dân Inđônêsia đấu tranh chống
chủ nghĩa thực dân Hà La. Nhưng với cuộc bạo động non vào năm 1927, Đảng
cộng sản Inđônêsia bị tổn thất nặng nề. Từ sự kiện này, quyền lãnh đạo giải phóng
dân tộc Inđônêsia chuyển sang tay Quốc dân Đảng.
b. Chủ nghĩa Mác-Lênin
Chủ nghĩa Mác-Lênin đã phân tích rõ bước chuyển biến từ chủ nghĩa tư bản
lên chủ nghĩa xã hội không diễn ra một cách tự phát mà phải thông qua cuộc cách
mạng xã hội, thông qua hoạt động tự giác của quần chúng cách mạng dưới sự lãnh
đạo của giai cấp vô sản.
Mác và Ăngghen đã phân tích quan hệ giữa cách mạng tư sản và cách mạng vô
sản, vai trò và hành động của giai cấp công nhân trong hai cuộc cách mạng trên. từ đó
hai ông đã xây dựng: “lý luận cách mạng không ngừng với nội dung cơ bản sau”:
Giai cấp công nhân, sau khi đã trưởng thành về trình độ giác ngộ tổ chức, có
đủ khả năng và điều kiện lãnh đạo cuộc cách mạng dân chủ tư sản trên cơ sở liên
minh với giai cấp nông dân đấu tranh chống lại chế độ chuyên chế phong kiến.
Dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, sự liên minh giữa giai cấp công nhân với
giai cấp nông dân trở thành lực lượng cách mạng chủ yếu để đánh đổ chuyên chế
phong kiến, thành lập nhà nước chuyên chính cách mạng của giai cấp công nhân và
giai cấp nông dân. Một cuộc cách mạng như vậy được gọi là “Cách mạng dân chủ
tư sản kiểu mới”.

Trên cơ sở các tiền đề đã được xác lập như: sự lãnh đạo của giai cấp công
nhân; liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân; nền chuyên chính
công nông, thì cuộc cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới có thể chuyển dần sang
cách mạng xã hội chủ nghĩa. Chuyên chính công nông thực hiện những nhiệm vụ
lịch sử của chuyên chính vô sản.
Bên cạnh đó Lênin cũng nhắc nhở những người cộng sản phương Đông
rằng: “các đồng chí hiện đang có một nhiệm vụ mà xưa kia những người cộng sản
trên toàn thế giới không có: trong khi dựa vào lý luận và thực tiễn chung của chủ
nghĩa cộng sản, các đồng chí vừa phải thích ứng với những điều kiện đặc biệt mà
các nước châu Âu không có, vừa phải học cách vận dụng được lý luận và thực tiễn
ấy vào nơi mà quần chúng chủ yếu là nông dân, nơi mà nhiệm vụ cần phải giải
quyết không phải là đấu tranh chống tư bản, mà là đấu tranh chống những tàn tích
thời trung cổ”(V.I. Lênin : toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Matxcơva, 1997, t. 39, 327,
373). Người còn lưu ý những người cộng sản: “chúng ta nên hiểu rằng chỉ riêng
một mình đội tiên phong thôi thì không thể nào thực hiện được việc chuyển lên chủ
nghĩa cộng sản. Nhiệm vụ là phải thức tỉnh tính tích cực cách mạng của quần
-5-


chúng lao động, dù trình độ của họ như thế nào, để làm cho họ hoạt động độc lập
và tổ chức”.( V.I. Lênin : toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Matxcơva, 1997, t.39,327, 373).
Mặc dù chưa có điều kiện bàn nhiều về cách mạng thuộc địa và vấn đề xây
dựng Đảng cộng sản ở các nước thuộc địa, nhưng những nguyên lý của chủ nghĩa
Mác – Lênin về vấn đề này đã đặt cơ sở cho giai cấp công nhân các nước thuộc địa
vận dụng trong quá trình xây dựng chính Đảng cộng sản.
Học thuyết Mác – Lênin chỉ rõ: giai cấp công nhân là giai cấp cách mạng
nhất, tiên tiến nhất trong xã hội. Nhưng giai cấp công nhân muốn thực hiện thắng
lợi vai trò, sứ mạng của mình thì phải lập ra Đảng cộng sản – bộ tham mưu, đội
tiên phong của giai cấp mình.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, Đảng cộng sản là kết quả của

sự kết hợp giữa phong trào công nhân, với chủ nghĩa Mác – Lênin. Trong mối
quan hệ đó, giai cấp công nhân, phong trào công nhân với tư cách lực lượng vật
chất của Đảng, còn chủ nghĩa Mác – Lênin với tư cách vũ khí tinh thần, cơ sở tư
tưởng của Đảng. Đây là quy luật chung cho sự ra đời của các Đảng cộng sản.
Học thuyết Mác – Lênin đã xác định hệ thống các nguyên tắc cơ bản về
đảng kiểu mới của giai cấp công nhân như:
+ Chủ nghĩa Mác – Lênin là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hoạt
động của các Đảng cộng sản.
+ Đảng cộng sản là đội tiên phong chính trị, tiêu biểu cho “trí tuệ, danh dự
và lương tâm của thời đại”, có tổ chức và là đội ngũ có tổ chức chặt chẽ nhất, cách
mạng nhất của giai cấp công nhân.
+ Khi đã giành được chính quyền, Đảng cộng sản là hạt nhân lãnh đạo hệ
thống chính trị của xã hội mới và là một bộ phận của hệ thống chính trị đó.
+ Tập trung dân chủ là thuộc tính, là nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt
động của Đảng cộng sản.
+ Đảng cộng sản phải là một khối thống nhất về chính trị, tư tưởng và tổ
chức “một sự thống nhất ý chí hết sức chặt chẽ, tuyệt đối”; tự phê bình và phê bình
là quy luật phát triển của Đảng cộng sản. Lênin đã chỉ ra rằng: “thái độ của một
chính đảng trước những sai lầm của mình là một trong những tiêu chuẩn quan
trọng nhất và chắc chắn nhất để xem xét đảng ấy có nghiêm túc không ... công khai
thừa nhận sai lầm, nghiên cứu cẩn thận các biện pháp để sửa chữa những sai lầm
ấy, đó là dấu hiệu để chứng tỏ một đảng nghiêm túc, đó là đảng làm tròn những
nghĩa vụ của mình, đó là giáo dục và huấn luyện giai cấp, rồi đến quần chúng”(V.I.
Lênin: toàn tập, Sđ,t.41,tr. 51).
+ Đảng cộng sản phải gắn bó chặt chẽ với nhân dân, kiên quyết đấu tranh ngăn
ngừa và khắc phục bệnh quan liêu, xa rời nhân dân. Lênin khẳng định: “không có sự
đồng tình của đại đa số nhân dân lao động đối với đội tiền phong của mình, tức là đối
với giai cấp vô sản, thì cách mạng vô sản không thể thực hiện được”
-6-



+ Đảng cộng sản phải tích cực kết nạp những đại biểu ưu tú của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động vào Đảng và kịp thời đưa những người không đủ
tiêu chuẩn và những phần tử cơ hội ra khỏi Đảng. Lênin chỉ rõ: “chúng ta cần có
những đảng viên mới không phải để quảng cáo mà là để làm việc thật sự. Những
người đó, chúng ta kêu gọi họ vào hàng ngũ Đảng ta. chúng ta mở rộng cửa Đảng
để đón những người lao động”( V.I. Lênin: toàn tập, Sđđ, t. 39,tr. 256); “cần phải
đuổi ra khỏi Đảng những kẻ gian xảo, những đảng viên cộng sản đã quan liêu hoá,
không trung thực, nhu nhược”( V.I. Lênin: toàn tập, Sđ,t.44,tr. 154).
Tư tưởng về Đảng cộng sản của chủ nghĩa Mác – Lênin đã có ảnh hưởng to
lớn, trực tiếp đến phong trào cộng sản, công nhân quốc tế và sự hình thành các tổ
chức cộng sản quốc tế như: Quốc tế I (1864-1872), Quốc tế II (1889-1914), Quốc
tế III(1919); đồng thời là một trong những cơ sở quan trọng dẫn tới sự ra đời của
các Đảng Cộng sản ở nhiều nước trên thế giới.
Đối với cách mạng Việt Nam, chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “chủ nghĩa
Mác – Lênin đối với chúng ta, những người cách mạng và nhân dân Việt Nam,
không những là cái “cẩm nang” thần kỳ, không những là cái kim chỉ nam, mà còn
là mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã
hội và chủ nghĩa cộng sản”(Hồ Chí Minh toàn tập, sđđ, t. 10, tr. 128).
c. Cách mạng tháng Mười Nga (1917)
Cuộc cách mạng tháng 10 Nga bùng nổ vào đầu thế kỷ XX và giành được
tháng lợi. Với chiến thắng này đã làm cho hệ thống dây chuyền đế quốc chủ nghĩa
thế giới bị cắt đứt, con đường cách mạng vô sản đã được khai thông, nối liền từ
Tây sang Đông. Về ý nghĩa to lớn của cuộc cách mạng tháng Mười Nga, một nhà
lãnh đạo xuất sắc của Đảng cộng sản Bônsêvích Nga và Nhà nước Xô viết, J.
Xtalin đã viết: “cách mạng tháng Mười đã mở đầu một thời đại mới, thời đại cách
mạng vô sản trong các nước đế quốc chủ nghĩa... Cách mạng tháng Mười đã mở
đầu một thời đại mới, thời đại cách mạng thuộc địa, các nước bị áp bức trên thế
giới liên minh với giai cấp vô sản dưới sự lãnh đạo của giai cấp vô sản. Cách
mạng tháng Mười đã làm cho vấn đề dân tộc trước kia là một vấn đề hẹp hòi, cục

bộ giữa các dân tộc “văn minh” châu Âu trở thành một vấn đề rộng lớn bao gồm
các dân tộc bị áp bức trên thế giới đấu tranh giải phóng khỏi ách áp bức chủ nghĩa.
Cách mạng tháng Mười đã bắc một cái cầu gắn liền cách mạng vô sản phương Tây
và cách mạng giải phóng dân tộc phương Đông lập thành một mặt trận cách mạng
rộng lớn của giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới dưới sự
lãnh đạo của giai cấp vô sản đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc” (Xtalin. Những
vấn đề chủ nghĩa Lênin, sự thật, H.1959).
Dưới ảnh hưởng trực tiếp của cách mạng tháng Mười Nga và cuộc chiến
tranh thế giới thứ nhất, phong trào đấu tranh chống đế quốc ở các nước tư bản
phương Tây đã dâng lên mạnh mẽ, sôi nổi. Đầu năm 1918, cách mạng công nhân
bùng nổ ở Phần Lan. Tháng 10 – 1918, chế độ quân chủ ở Áo – Hung sụp đổ. cũng
-7-


trong năm này, giai cấp công nhân Đức đã nổi dậy quật đổ chế độ quân chủ, và
thành lập chính quyền Xô viết trong một thời gian. Tháng 3-1919, nước cộng hoà
Xô Viết Hunggari đã được thành lập và tồn tại trong hơn bốn tháng. Tại các nước
tư bản khác như Anh, Pháp, Ý, Mỹ... nhiều cuộc bãi công và đấu tranh của công
nhân và nhân dân lao động đã nổ ra khá rầm rộ.
Theo Lênin cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga 1917 đã mở
ra trong lịch sử thế giới một kỷ nguyên mới; Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định:
“cách mạng tháng Mười như tiếng sét đã thức tỉnh nhân dân châu Á tỉnh giấc mê
hàng thế kỷ nay. Cách mạng tháng Mười đã mở ra trước mắt họ thời đại cách mạng
chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc”(Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđđ, t 8.
tr.562).
Tác giả cuốn “Góp phần nhỏ về lịch sử cách mạng cận đại Việt Nam”, khi
đề cập ảnh hưởng của cách mạng tháng Mười Nga đối với Viẹt Nam đã viết: “từ
khi biết tới cách mạng tháng Mười Nga thắng lợi, nhà nước Xô viết của giai cấp vô
sản và nhân dân lao động Nga thành lập, thì các nhà chí sĩ đến toàn thể nhân dân
Việt Nam mới tỉnh ngộ và hướng về nước Nga, bắt đầu có sự chuyển biến về tư

tưởng, về đường lối và phương pháp đấu tranh cách mạng”(Bùi Công Trừng và
Nguyễn Văn Trấn: Góp phần nhỏ về lịch sử cách mạng cận đại Việt Nam, Nxb. sự
thật, Hà Nội,1985).
d. Quốc tế cộng sản
Trước sự phát triển của phong trào cách mạng thế giới, đặc biệt là tác động
của cuộc cách mạng tháng Mười Nga và sự ra đời của nhà nước Xô viết, vào
những năm 20, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế bị phân hoá sâu sắc về
đường lối cách mạng, Quốc tế II bị phân liệt và Quốc tế III – Quốc tế cộng sản
được thành lập (3-1919). về sự kiện này Lênin đã đánh giá như sau:
+ Quốc tế I đã đặt nền tảng cho cuộc đấu tranh vô sản, có tính chất quốc tế,
để thực hiện chủ nghĩa xã hội.
+ Quốc tế II đã đánh dấu thời kỳ chuẩn bị cơ sở cho phong trào lan rộng
trong quần chúng ở nhiều nước .
+ Quốc tế III đã thừa hưởng những thành quả hoạt động của quốc tế II, nó đã
trừ bỏ khỏi Quốc tế II bọn sâu mọt tư sản, cơ hội và xã hội – sôvanh và đã bắt đầu
thực hiện chuyên chính vô sản.
Sự ra đời của Quốc tế cộng sản đánh dấu một giai đoạn mới của phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế . “Lần đầu tiên trong lịch sử, Quốc tế cộng sản đã
chỉ rõ sự đoàn kết tất yếu, liên minh chiến đấu giữa giai cấp vô sản và các dân tộc
thuộc địa đang rên xiết dưới ách thống trị thực dân”(Vũ Quốc Hùng – Vũ Dương
Ninh – Phùng Hữu Phú: 100 năm ngày Quốc tế lao động 1-5, Nxb. Lao động, Hà
Nội, 1986, tr 49).
Quốc tế cộng sản ra đời là sự kiện có ý nghĩa rất quan trọng đối với phong
trào cách mạng thế giới. Hồ Chí Minh đã đánh giá cao về sự ra đời của quốc tế III
-8-


và nhấn mạnh vai trò của Quốc tế cộng sản đối với cách mạng Việt Nam: “Xem
trong cách tổ chức Đệ tam quốc tế, có đặt ra một bộ riêng, chuyên ngiên cứu và
giúp đỡ cho cách mệnh bên Á - Đông.

Xem khẩu hiệu Đệ tam quốc tế, chẳng những rằng “vô sản giai cấp” mà lại
thêm câu “... và dân tộc bị áp bức trong thế giới liên hợp lại”.
Xem quy tắc Đệ tam quốc tế trong 21 điều, điều thứ 8 nói rằng: “các Đảng
cộng sản Pháp... phải hết sức giúp dân thuộc địa làm cách mệnh”...
Xem cách mệnh Nga giúp cho cách mệnh Tàu, Thổ Nhĩ Kỳ, Mông Cổ.
Lại xem kế hoạch về vấn đề thuộc địa là tự tay ông Lênin làm ra.
Xem những việc ấy thì đủ biết rằng An Nam muốn làm cách mệnh thành
công, thì tất phải nhờ đệ tam quốc tế” (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđđ, t.2, tr. 287).
Sự kiện cách mạng Nga thắng lợi và Quốc tế III được thành lập đã tạo tiền
đề và điều kiện thúc đẩy sự phát triển của phong trào đấu tranh ở các nước thuộc
địa; tăng cường sự đoàn kết, liên minh giữa giai cấp công nhân và nhân dân lao
động ở các nước đế quốc và các nước thuộc địa trong cuộc đấu tranh chống chủ
nghĩa đế quốc thực dân.
Kể từ đây, giai cấp vô sản, phong trào công nhân quốc tế và phong trào đấu
tranh của các dân tộc thuộc địa theo khuynh hướng cách mạng vô sản đã có bộ
tham mưu chiến đấu của mình để thống nhất hành động chống chủ nghĩa đế quốc,
thực dân.
Bối cảnh quốc tế và các đặc điểm của thời đại trên đây đã tác động, ảnh
hưởng tới quan điểm, lập trường của Nguyễn Ái Quốc trong việc lựa chọn con
đường giải phóng dân tộc đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
Tóm lại, vào những thập kỷ đầu của thế kỷ XX, tình hình thế giới có những
diễn biến mới tác động mạnh mẽ tới sự phát triển của phong trào đấu tranh cách
mạng ở các nước, trong đó có Việt Nam, cụ thể như:
+ Sự tăng cường xâm lược và áp bức của chủ nghĩa đế quốc thực dân đối với
nhân dân các nước thuộc địa đã thổi bùng lên ngọn lửa đấu tranh giành độc lập dân
tộc ở các quốc gia. Cuộc đấu tranh của các dân tộc thuộc địa đặt ra yêu cầu tất yếu
là phải liên minh, đoàn kết, phải phối hợp hành động với phong trào của giai cấp
vô sản các nước đế quốc thì mới giành được thắng lợi.
+ Chủ Nghĩa Mác – Lênin với tư cách là vũ khí tinh thần, tư tưởng của giai
cấp công nhân, của nhân dân lao động các nước đã góp phần quan trọng tạo nên

bước phát triểnn vượt bậc của phong trào công nhân từ tự phát sang tự giác.
+ Thắng lợi của cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 là thực tiễn sinh
động chứng minh bước phát triển của phong trào cách mạng thế giới. Sự ra đời của
Nhà nước Xô viết, với việc thực hiện các chủ trương, chính sách mang lại quyền
lợi cho đại đa số nhân dân lao động đã có tác dụng to lớn trong việc cổ vũ, động
viên nhân dân lao động đã có tác dụng to lớn trong việc cổ vũ động viên nhân dân
lao động các nước và các dân tộc thuộc địa giải phóng mình.
-9-


+ Cùng với cách mạng tháng Muời Nga, sự ra đời của Quốc tế III – bộ tham
mưu chiến đấu của giai cấp vô sản đã góp phần thúc đẩy, chỉ dẫn phong trào đấu
tranh của giai cấp công nhân và nhân dân các nước trong cuộc chiến đấu chống chủ
nghĩa đế quốc thực dân giành độc lập dân tộc và phát triển đất nước.
Tình hình thế giới và đặc điểm thời đại trên đây có ảnh hưởng rất quan trọng
đến cách mạng Việt Nam và quá trình hình thành Đảng công sản Việt Nam.
I.2. Bối cảnh Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế Kỷ XX.
a. Chính sách cai trị thuộc địa của thực dân Pháp.
Về chính trị: Thực dân Pháp thực hiện chính sách chuyên chế về chính trị.
Chúng dùng lối cai trị trực tiếp và thẳng tay đàn áp, tuyệt đối không cho nhân dân
ta một chút tự do dân chủ nào. Chính sách chuyên chế của Pháp và tay sai ở Đông
Dương cực đoan đến mức chủ nghĩa cải lương cũng không được phép tồn tại.
Những người chủ trương cải cách bị tù đày. Hội họp từ 2 người trở lên bị coi là
không hợp pháp. Thực dân Pháp nắm các chức vụ quan trọng, chủ chốt từ trên
xuống dưới. Mọi quyền hành đều nằm trong tay các viên quan lại người Pháp từ
toàn quyền đến thống sứ, khâm sứ, thống đốc, công sứ... viên chức thuộc địa là
một loại người ăn bám, đè nặng lên lưng người dân thuộc địa. Ở Ấn Độ, lúc ấy dân
số hơn 300.000.000 người, có 4.898 viên chức người Anh. ở Việt Nam dân số
khoảng 20.000.000 mà viên chức người Pháp đã có 4.300.
“Tại sao ở Đông Dương, cái loài ăn hại ngân sách ấy lại nhiều đến thế? bởi

vì thuộc địa là một thiên đường ở trần gian; ở đó, trừ một vài trường hợp rất hiếm
hoi, còn thì tất cả các cặn bã trong các ngành chính trị, tài chính, báo chí... mà
chính quốc thải ra, đều tìm được môi trường rất thích hợp để phát triển”(Hồ Chí
Minh: Bản án chế độ thực dân Pháp, Tuyển tập, tập 1, Nxb. St,1980, tr. 122).
Thực dân Pháp tạo nên một cơ sở xã hội là chỗ dựa cho hệ thống cai trị
thuộc địa, bao gồm giai cấp địa chủ phong kiến và tầng lớp tư sản mại bản. chúng
biến bộ máy cai trị của giai cấp phong kiến thành hệ thống tay sai giúp chúng bóc
lột và đàn áp. Nhưng với chế độ độc quyền về kinh tế, chuyên chế về chính trị,
thực dân Pháp không bao giờ chịu chia cho bọn tay sai lợi nhuận tối đa thuộc địa
của chúng, trừ những quyền lợi nhỏ nhặt. Thậm chí khi gặp khó khăn, chúng tước
đoạt luôn cả quyền lợi của chính ngay những kẻ đã cam tâm làm tay sai cho chúng.
Để làm suy yếu dân tộc Việt Nam, đế quốc Pháp thực hành chính sách chia
để trị, chúng đặt ra ba kỳ: Nam kỳ, Trung kỳ, Bắc kỳ. Người Việt đi lại giữa ba kỳ
phải xin giấy phép như khi đi ra nước ngoài. Thực chất chế độ cai trị ở cả ba xứ
đều là chế độ thuộc địa. Chia rẽ nhân dân Việt Nam với nhân dân Lào và nhân dân
Campuchia. vẫn chưa đủ, thực dân Pháp còn chia rẽ nhân dân các nước thuộc địa
với nhân dân Pháp, chia rẽ nhân dân các nước thuộc địa với nhau.
Chủ nghĩa đế quốc Pháp “dùng những người vô sản da trắng để chinh phục
những người vô sản các thuộc địa. Sau đó nó lại tung những người vô sản ở một
thuộc địa này đi đánh những người vô sản ở một thuộc địa khác. sau hết, nó dựa
- 10 -


vào những người vô sản ở các thuộc địa để thống trị những người vô sản da
trắng”(Hồ Chí Minh: Đông Dương và Thái Bình Dương, sách đã dẫn, tr.52).
Về Văn hoá Thực dân Pháp ra sức thực hiện chính sách văn hoá nô lệ, gây
tâm lý vong bản, tự ty và phát triển tôn giáo, mê tín dị đoan để mê hoặc nhân dân.
Chúng ngăn chặn mọi ảnh hưởng của nền văn hoá dân chủ tiến bộ của nhân dân
Pháp vào Việt Nam, đem văn hoá phản động, trụy lạc nhồi sọ nhân dân ta. Chúng
thi hành chính sách ngu dân triệt để.

“Làm cho dân ngu để dễ trị” đó là chính sách mà các nhà cầm quyền ở các
thuộc địa của chúng ta ưa dùng nhất.
Trong bài phát biểu tại Đại hội lần thứ XVIII Đảng xã hội Pháp (12-1920),
Nguyễn ái Quốc đã vạch rõ tội ác của chế độ cai trị thực dân Pháp đối với nhân dân
Đông Dương như: “chủ nghĩa tư bản Pháp đã vào Đông Dương từ nửa thế kỷ nay; vì
lợi ích của nó, nó đã dùng lưỡi lê để chinh phục đất nước chúng tôi. Từ đó, chúng tôi
không những bị áp bức và bóc lột một cách nhục nhã, mà còn bị hành hạ và đầu độc
một cách thê thảm. Tôi xin nhấn mạnh từ “đầu độc”bằng thuốc phiện, bằng rượu...Nhà
tù nhiều hơn trường học, lúc nào cũng mở cửa và chật ních người. Bất kỳ người bản xứ
nào có tư tưởng xã hội chủ nghĩa cũng đều bị bắt và đôi khi bị giết mà không cần xét
xử...; chúng tôi cũng phải sống trong cảnh ngu dốt tối tăm vì chúng tôi không có quyền
tự do học tập”(Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđđt.1, tr. 22-23).
Tuy nhiên, thực tế cũng cho thấy rằng, sự thống trị, quá trình đầu tư khai
thác thuộc địa và những chính sách văn hoá, giáo dục của người Pháp, đã tác dộng
mạnh mẽ vào xã hội Việt Nam “nền kinh tế Việt Nam dần dần chuyển biến từ một
nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, tự cung tự cấp sang một nền kinh tế thuộc địa – tư
bản chủ nghĩa ... Nền kinh tế hàng hoá đã bắt đầu hình thành và phát triển ở một số
khu vực sản xuất. Một mạng lưới giao thông đồng bộ và tương đối hiện đại đã
được thiết lập ... Trên cơ sở những biến đổi về kinh tế, các thành phần giai cấp xã
hội tương ứng cũng dần dần biến đổi”.
b. Sự phân hoá giai cấp và đấu tranh giai cấp trong xã hội Việt Nam
Chế độ bóc lột của Pháp đã tạo ra một cơ cấu giai cấp và xã hội mới ở Việt
nam lúc bấy giờ
Giai cấp địa chủ phong kiến Việt Nam: Giai cấp này cấu kết chặt chẽ với đế
quốc, làm tay cho chúng, ra sức bóc lột nông dân và kìm hãm lực lượng sản xuất
trong nước. Đế quốc Pháp dựa vào giai cấp địa chủ để áp bức, bóc lột nhân dân
Việt Nam. Quyền lợi kinh tế của giai cấp địa chủ và tư bản thực dân gắn chặt với
nhau. Giai cấp địa chủ là đối tượng của cách mạng. Tuy nhiên, do chính sách của
Pháp độc quyền về kinh tế, chuyên chế về chính trị, giữa đế quốc và phong kiến
vẫn có mâu thuẫn về quyền lợi. Bị tư bản Pháp làn cho phá sản, một số địa chủ có

những hành động phản ứng, phần nhiều là địa chủ vừa và nhỏ.
Giai cấp nông dân Việt nam: chiếm trên 90% dân số, bị đế quốc, phong kiến
và tư bản áp bức, bóc lột nặng nề. Chính sách chiếm đất, mua rẻ, bán đắt, sưu cao
- 11 -


thuế nặng của đế quốc Pháp, chính sách bốc lột địa tô cao và cho vay nặng lãi nặng
của giai cấp địa chủ và bọn con buôn làm cho nông dân Việt Nam ngày càng bị
phá sản, nghèo đói. dưới chế độ thuộc địa, nửa phong kiến, nông dân Việt Nam
ngày càng đi vào con đường vô sản hoá không có lối ra. Một số nông dân buộc
phải rời bỏ quê hương, vào làm việc trong các nhà máy, hầm mỏ, đồn điền, trở
thành công nhân. Một số phải đi làm phu ở các thuộc địa khác của Pháp. Phần lớn
nông dân vẫn phải bám lấy nông thôn, kéo dài kiếp sống cơ cực, tối tăm. Cố nông
và bần nông chiếm số đông trong nông dân là những người không có đất hoặc
thiếu đất. Họ là những người nghèo khổ nhất ở nông thôn và bị áp bức, bóc lột
nặng nề nhất. Trung nông tuy có một phần ruộng đất nhưng vẫn bị đế quốc, phong
kiến và tư sản trong nước áp bức, bóc lột. Phú nông là tầng lớp bóc lột ở nông thôn
nhưng cũng bị đế quốc, phong kiến chèn ép. Nông dân lao động bao gồm cố nông,
bần nông và trung nông là những tầng lớp cách mạng ở nông thôn. Khác với nông
dân nhiều nước, giai cấp nông dân Việt Nam không đi theo giai cấp tư sản và
không chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa cải lương tư sản.
Đời sống khổ cực của người nông dân Việt Nam trong trại tập trung thời
Pháp thuộc được tác giả Ăngđơrê Viôlít trong cuốn Indochine SOS (Đông Dương
cấp cứu) mô tả như sau: “Trong một một miếng đất rộng, rào kín bốn bề, có 3.000,
4.000 người mặc vải nâu rách rưới, họ chen chúc chật ních đến nỗi nhìn chung thì
như một đống gì rung rinh, có những cánh tay giơ lên gầy như cây sậy, khúc khuỷu
khô queo. Trong mỗi người, bệnh gì cũng có; mặt phù ra hay là không còn chút
thịt, răng rụng, mắt mờ hay lem nhem, đầy ghẻ chốc. Đàn ông chăng? Đàn bà
chăng? Hai mươi tuổi hay sáu mươi tuổi? Không phân biệt được! Không còn phân
biệt được trai gái già trẻ nữa, chỉ thấy một cái tình cảnh khốn khổ tột bậc...”.

Tình cảnh khốn khổ, bần cùng như vậy của giai cấp nông dân Việt Nam đã
làm tăng thêm lòng căm thù đế quốc Pháp và bọn phong kiến tay sai. Giai cấp
nông dân sẵn sàng đi theo giai cấp công nhân là cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân và có thể cùng giai cấp công nhân tiến lên chủ nghĩa xã hội. Nông dân có tinh
thần cách mạng dồi dào và là lực lượng to lớn nhất của cách mạng. Tuy nhiên do
địa vị kinh tế, chính trị, xã hội quy định, giai cấp nông dân không thể tự giải phóng
mình được mà phải tập hợp dưới ngọn cờ của giai cấp công nhân, chịu sự lãnh đạo
của giai cấp công nhân thì mới giành được thắng lợi cuối cùng.
Giai cấp tư sản Việt Nam: Hình thành và phát triển trong quá trình khai thác
thuộc địa của thực dân Pháp. Nhưng vì đế quốc Pháp ra sức kìm hãm cho nên sau
chiến tranh thế giới thứ nhất nó mới hình thành một giai cấp rõ rệt.
Ra đời từ một xã hội thuộc địa nửa phong kiến nên giai cấp tư sản “hầu như
không có tiền đề kinh tế từ trước... nên đã phải trải qua một quá trình tích luỹ vốn, kinh
nghiệm sản xuất, kinh doanh, phát triển sản xuất” nhằm xác lập vị thế kinh tế của giai
cấp mình trong xã hội và trước các thế lực tư bản nước ngoài, tư sản Việt Nam đã lập
các hội, đoàn, đồng thời kêu gọi, động viên khuyến khích người Việt Nam phát triển
- 12 -


sản xuất, kinh doanh, cổ động nhân dân dùng hàng hoá nội địa...Giai cấp tư sản Việt
Nam chia làm hai bộ phận: Tư sản dân tộc và tư sản mại bản.
Tư sản mại bản Việt Nam: họ thu mua nguyên vật liệu và sản phẩm trong
nước cho đế quốc, buôn cất hành hoá của đế quốc, góp vốn cùng với đế quốc kinh
doanh công thương nghiệp, hoặc cho bao thầu những công trình xây dựng của bon
thực dân. số đông tư sản mại bản đồng thời là địa chủ. Vì quyền lợi gắn liền với
quyền lợi của đế quốc và phong kiến, nên tư sản mại bản là tầng lớp phản động.
Nó là đối tượng của cách mạng.
Tư sản dân tộc Việt Nam: Có một số ít xuất thân từ tiểu chủ, viên chức, trí
thức cao cấp, quan lại, còn phần lớn là từ địa chủ mà ra. Họ có xu hướng thoát khỏi
cơ sở kinh tế ruộng đất để kinh doanh trong các nghành thương nghiệp, công

nghiệp và thủ công nghiệp. Nhưng do bị tư bản độc quyền Pháp chèn ép và hạn
chế gắt gao, phần đông họ vẫn không thoát khỏi con đường tư sản kiêm địa chủ.
Giai cấp tư sản dân tộc Việt Nam sinh sau đẻ muộn, lại chỉ nắm vẻn vẹn những
ngành kinh tế phụ thuộc, không đủ sức chống lại sự chèn ép của tư bản thực dân.
Họ có mâu thuẫn về quyền lợi với đế quốc và phong kiến, nên có khuynh hướng
dân tộc và dân chủ. Song , cơ sở kinh tế của họ rất nhỏ bé và yếu ớt, lại ra đời giữa
lúc chế độ tư bản chủ nghĩa xét trên phạm vi toàn thế giới đã đi vào con đường
khủng hoảng, giẫy chết. Họ còn có mối liên hệ kinh tế với đế quốc, với địa chủ.
Quyền lợi của họ là ở chỗ bóc lột công nông để làm giàu. Những điều kiện đó làm
cho họ có thái độ hai mặt. Một mặt chống đế quốc chống phong kiến, tán thành
dân tộc và dân chủ; mặt khác lại có thái độ cải lương. Mặt cải lương của họ là chủ
yếu. Mặt cách mạng của họ chỉ được phát huy khi nào phong trào công nông mạnh
mẽ và cách mạng đang trên đà thắng lợi. Giai cấp tư sản dân tộc Việt Nam có thể
tham gia cách mạng, nhưng không thể lãnh đạo cách mạng.
Giai cấp tiểu tư sản Việt Nam: Gồm nhiều tầng lớp khác nhau, từ những
người thợ thủ công, tiểu chủ, tiểu thương, đến những người viên chức và trí thức
học sinh. Địa vị kinh tế bấp bênh, luôn bị đe dọa phá sản, thất nghiệp, lại bị đế
quốc và phong kiến khinh rẻ, giai cấp tiểu tư sản hăng hái tham gia cách mạng.
Tầng lớp trí thức, học sinh có lý tưởng dân tộc độc lập, dân chủ tự do, có tinh thần
yêu nước, thiết tha mong muốn bảo vệ truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc.
Trí thức Việt nam xuất thân từ nhiều giai cấp khác nhau. Ngoài một số cá
nhân cam tâm làm tay sai cho đế quốc, còn lại đều chịu chung thân phận của người
dân mất nước, bị thực dân Pháp áp bức, bạc đãi về tinh thần và vật chất. Vì vậy, trí
thức Việt Nam căm ghét chế độ đương thời, có lòng yêu nước, sớm giác ngộ tư
tưởng tiến bộ và tích cực tham gia hoạt động cách mạng. Nhận định về tiểu tư sản
Việt Nam ở thời kỳ này, đồng chí Lê Duẩn Viết: “Giai cấp tiểu tư sản ở một nước
vốn là thuộc địa như nước ta rất hăng hái cách mạng. Đặc biệt là các tầng lớp trí
thức, học sinh, có tinh thần yêu nước nồng nàn, tha thiết mong muốn bảo vệ truyền
thống văn hoá đẹp đẽ của dân tộc, khôi phục những giá trị tinh thần cao quý của
- 13 -



con người Việt Nam bị bọn đế quốc phong kiến chà đạp. Họ tỏ ra thức thời và nhạy
cảm với thời cuộc”.
Nếu được phong trào cách mạng của công nông thúc đẩy, họ có thể bước vào
hàng ngũ cách mạng ngày càng đông và đóng vai trò quan trọng trong phong trào đấu
tranh của nhân dân, nhất là ở thành thị. Trước sự khủng bố dã man của đế quốc, giai
cấp tiểu tư sản có ngả nghiêng, dao động và kém bền bỉ, nhưng nói chung họ tích cực
chống đế quốc và là bạn đồng minh tin cậy của các gai cấp công nhân.
Giai cấp công nhân Việt Nam: ra đời trước giai cấp tư sản Việt Nam. Xuất
hiện khi có sự xâm nhập của chủ nghĩa tư bản Pháp vào Việt Nam. Là sản phẩm
trực tiếp của chính sách khai thác thuộc địa, nằm trong các mạch máu kinh tế quan
trọng của chúng, giai cấp công nhân Việt Nam tuy còn trẻ, chỉ chiếm trên 1% dân
số, trình độ văn hoá, kỹ thuật thấp, nhưng có đầy đủ tính chất của giai cấp vô sản
hiện đại, đại biểu cho lực lượng sản xuất tiến bộ , triệt để cách mạng, có ý thức tổ
chức kỷ luật. Do vị trí kinh tế, chính trị và lịch sử đó, giai cấp công nhân Việt Nam
đã trở thành người đại diện cho sự tiến hoá của xã hội nước ta, là người duy nhất
có khả năng đưa nhân dân lao động nước ta lên làm chủ vận mệnh của mình.
Sinh trưởng trong một nước thuộc địa và nửa phong kiến, giai cấp công nhân
Việt Nam chịu ba tầng áp bức bóc lột nặng nề của đế quốc, phong kiến và tư sản
trong nước. Từ người nông dân lao động bị bần cùng hoá mà ra và vẫn còn quan hệ
nhiều mặt với nông dân, giai cấp công nhân Việt Nam có cơ sở thuận lợi để thiết
lập khối liên minh vững chắc với nông dân. Là người công nhân của một dân tộc bị
mất nước, khi giác ngộ cách mạng, họ dễ thấy ngay chủ nghĩa đế quốc vừa là kẻ áp
bức gia cấp mình, vừa là kẻ cướp nước mình. Lợi ích giai cấp gắn chặt với lợi ích
dân tộc, cho nên họ là người đại biểu trung thành nhất cho cuộc đấu tranh vì giai
cấp, vì dân tộc. Họ là người có khả năng tập hợp rộng rãi các giai cấp và các tầng
lớp nhân dân trong cuộc đấu tranh chống đế quốc và phong kiến. Họ là người xứng
đáng duy nhất giương cao ngọn cờ dân tộc dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Vừa lớn lên đã được tiếp thu ngay chủ nghĩa Mác – Lênin và sớm có Đảng

tiên phong lãnh đạo, sẵn có truyền thống cách mạng kiên cường của dân tộc, giai
cấp công nhân Việt Nam nhanh tróng trở thành một lực lượng chính trị độc lập, tự
giác, thống nhất trong cả nước.
Giai cấp công nhân Việt Nam bước lên vũ đài chính trị sau khi cách mạng
tháng Mười Nga thắng lợi, Quốc tế cộng sản thành lập, phong trào cộng sản, công
nhân quôc tế và phong trào giải phóng dân tộc đang ở trong thời kỳ phát triển sôi
nổi. Điều kiện lịch sử đó càng nâng cao uy thế chính trị và tinh thần của giai cấp
công nhân Việt Nam, tạo cho nó một sức mạnh to lớn, sớm nắm được quyền lãnh
đạo cách mạng. Giai cấp công nhân không chỉ là giai cấp lãnh đạo, mà còn cùng
với giai cấp nông dân là lực lượng chủ yếu của cách mạng.
Trước khi Đảng tiên phong ra đời, giai cấp công nhân chưa có những điều
kiện chín muồi để thực hiện sứ mệnh lịch sử. Công nhân đã tham gia những cuộc
- 14 -


đấu tranh yêu nước, nhưng chưa có ý thức rõ rệt về “sự đối lập không gì điều hoà
được giữa quyền lợi của họ với toàn bộ chế độ chính trị và xã hội hiện có”. Công
nhân chưa có ý thức về đối lập giữa quyền lợi của giai cấp công nhân với toàn bộ
chế độ tư bản chủ nghĩa, trước mắt là chế độ thuộc địa, nửa phong kiến của tư bản
thực dân Pháp và bọn tay sai. Phong trào công nhân đang đòi hỏi được giác ngộ về
ý thức giai cấp và đang đòi hỏi có đội tiên phong lãnh đạo.
Từ xã hội phong kiến lâu đời trở thành xã hội thuộc địa nửa phong kiến,
nước Việt Nam mất hẳn độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Xã
hội Việt Nam bị chế độ phong kiến làm cho trì trệ bao nhiêu thế kỷ, lại bị chế độ
thực dân kìm hãm trong lạc hậu, bế tắc.
Tình hình đó dẫn đến hai mâu thuẫn cơ bản trong xã hội nước ta lúc bấy giờ:
mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với chủ nghĩa đế quốc; mâu thuẫn giữa
nhân dân, chủ yếu là giai cấp nông dân, với giai cấp phong kiến.
Hai mâu thuẫn đó gằn liền với nhau không thể tách rời. Xã hội Việt Nam
muốn phát triển đi lên, phải đồng thời giải quyết cả hai mâu thuẫn. Đánh đổ chủ

nghĩa đế quốc phải đi đôi với xoá bỏ chế độ phong kiến. Đấu tranh giành độc lập
dân tộc khôngthể tách rời đấu tranh giành dân chủ tự do. Độc lập và tự do ở nước
ta khăng khít với nhau làm một. Nhiệm vụ chống đế quốc vừa là nhiệm vụ dân tộc,
vừa là nhiệm vụ dân chủ. Nhiệm vụ chống phong kiến vừa là nhiệm vụ dân chủ,
vừa là nhiệm vụ dân tộc.
Muốn độc lập, tự do thật sự và triệt để, phải tiến lên chủ nghĩa xã hội. Vì
vậy, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là những yêu cầu khách quan của xã hội
Việt Nam thuộc địa, nửa phong kiến. Độc lập, tự do là yêu cầu bức thiết trước mắt
của toàn thể dân tộc Việt Nam.
Những khả năng mới cho việc giành độc lập, tự do của nhân dân Việt Nam
đã nảy sinh từ trong xã hội Việt Nam thuộc địa, nửa phong kiến. Chính sách bóc
lột và chính sách áp bức vô cùng tàn bạo của đế quốc Pháp và bọn phong kiến tay
sai là nguồn gốc gây ra đối lập không thể điều hòa giữa toàn thể nhân dân với chủ
nghĩa đế quốc và thế lực phong kiến. Chính sách ấy tất yếu sẽ dẫn đến những cuộc
nổi dậy của quần chúng để giành quyền sống. Đồng chí Nguyễn Ái Quốc là người
đã sớm nhìn thấy tính chất “bùng nổ” nằm sâu trong cái vỏ bề ngoài tạm thời yên
lặng của xã hội Việt Nam.
Năm 1921, trong một bài báo nhan đề “Đông Dương” viết bằng tiếng Pháp
in trong Tạp chí cộng sản số 14 đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã viết: “Đằng sau sự
phục tùng tiêu cực, người Đông Dương dấu một cái gì đang sôi sục, đang gào thét
và sẽ bùng nổ một cách ghê ghớm, khi thời cơ đến”
Mảnh đất cách mạng đã được chuẩn bị sẵn. cách mạng chỉ còn thiếu sự lãnh
đạo của đội tiên phong giác ngộ, “sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất
rồi : chủ nghĩa xã hội chỉ còn phải làm cái việc là gieo hạt giống của công cuộc giải
phóng nữa thôi”
- 15 -


Trong bài tiếp theo cùng nhan đề người nêu lên tầm quan trọng của cách
mạng ở thuộc địa đối với cách mạng ở chính quốc: “Ngày mà hàng trăm triệu nhân

dân châu Á bị tàn sát và áp bức thức tỉnh để gạt bỏ sự bóc lột đê tiện của bọn thực
dân lòng tham không đáy, họ sẽ hình thành một lực lượng khổng lồ, và trongkhi
thủ tiêu một trong những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản – tức chủ nghĩa đế
quốc – họ có thể giúp đỡ những người anh em mình ở phương tây trong nhiệm vụ
giải phóng hoàn toàn”(Tạp chí cộng sản số 15, tài liệu lưu trữ tại Ban nghiên cứu
lịch sử Đảng trung ương).
Trước khi giai cấp công nhân Việt Nam bước lên vũ đài chính trị và nắm
quyền lãnh đạo cách mạng, cuộc đấu trang giành độc lập, tự do của nhân dân ta tuy
vô cùng anh dũng nhưng không giành được thắng lợi.
Cuối thế kỷ XIX, phong trào Cần Vương chống Pháp bị thất bại là do thiếu
đường lối chính trị đúng đắn phù hợp xu thế phát triển của thời đại, phù hợp
nguyện vọng nhân dân.
Vào những năm XX của thế kỷ này, cuộc khủng hoảng về đường lối cách
mạng diễn ra sâu sắc. Thực chất, đó là cuộc khủng hoảng về vai trò lãnh đạo của
một giai cấp tiên tiến đối với xã hội nước ta.
Giai cấp phong kiến, trong những thế kỷ trước đã có tác dụng tiến bộ nhất
định, nhưng từ thế kỷ XVI trở đi đã bắt đầu thái hoá. Đặc biệt là từ khi đầu hàng
thực dân Pháp, nó đã trở thành gai cấp hoàn toàn phản động, bán nước, làm tay sai
cho đế quốc áp bức, bóc lột nhân dân. nó đã vứt bỏ ngọn cờ dân tộc và tự xóa sổ
trên vũ đài lịch sử. Thất bại của phong trào Cần vương đánh dấu sự chấm dứt thời
kỳ đấu tranh chống Pháp giành độc lập dân tộc dưới khẩu hiệu “phò vua cứu
nước”, nằm trong hệ tư tưởng phong kiến.
Sau khi đoạn tuyệt với con đường cứu nước phong kiến, những người trí
thức yêu nước Việt Nam hướng ra nước ngoài tìm đến những con đường mới để
mong mong được giải phóng. Cụ Phan Bội Châu sang Nhật, tìm con đường Duy
Tân, sau sang Trung Quốc tìm con đường cách mạng Tân Hợi (1911). Cụ Phan
Chu Trinh hướng theo con đường nghị viện tư sản của các nước phương Tây.
Những con đường trên đây, tuy có màu sắc khác nhau, nhưng đều là chủ nghĩa dân
chủ tư sản. Chủ nghĩa đó, những người yêu nước Việt Nam mới biết đến, nhưng
đối với thời đại thì đã lỗi thời và phản động.

Năm 1908, chính phủ Nhật hoàng cấu kết với thực dân Pháp trục xuất những
học sinh yêu nước Việt Nam ra khỏi nước Nhật. Năm 1909, chúng trục xuất cụ
Phan Bội Châu. Năm 1913, sau khi cách mạng Tân Hợi thất bại, cụ Phan Bội Châu
bị nhà cầm quyền quân phiệt Trung Quốc bắt giam theo yêu cầu của toàn quyền
Pháp ở Đông Dương. Cụ Phan Bội Châu không thể cắt nghĩa được là tại sao nước
Nhật duy tân lại đuổi cụ đi và tại sao đế quốc Pháp và phong kiến Trung Quốc lại
cấu kết với nhau để bắt cụ. Niềm hy vọng của cụ vào những con đường cứu nước
ấy đã bị dập tắt. Cho tới trước khi qua đời, cụ không thể hiểu rõ được tại sao cuộc
- 16 -


đời cách mạng của cụ lại “một trăm thất bại mà không một thành công”(Phan Bội
Châu niên biểu, Nxb văn sử địa, 1957, tr.20). Phan Chu Trinh và Lương Văn Can
cũng hết hy vọng vào con đường cải cách khi Đông Kinh Nghĩa Thục bị giải tán và
hai cụ đều bị đày đi Côn Đảo. Hoàng Hoa Thám và các đồng chí của cụ cũng
không thể hiểu vì sao cuộc chiến đấu anh dũng, kiên cường, mưu trí của nghĩa
quân lại bị thất bại.
Vấn đề là ở chỗ những người yêu nước sôi nổi và đầy lòng hy sinh của đất
nước ta không thể vượt qua được hạn chế lịch sử. Các cụ không thể nào hiểu được
rằng thời đại cũ đã qua rồi và thời đại mới đã xuất hiện. Trong thời đại mới, người
đứng ở trung tâm và quyết định nội dung và phương hướng phát triển không phải
là giai cấp phong kiến có tiếng vang trong những thế kỷ trước nhưng đã quá lỗi
thời, cũng không phải là giai cấp tư sản có những khẩu hiệu “tự do, bình đẳng, bác
ái” đẹp đẽ nhưng đã trở thành phản động. Người đứng ở trung tâm thời đại là giai
cấp công nhân, đại biểu cho phương thức sản xuất tiến bộ nhất, một giai cấp đang
lên.
Tính chất thời đại thay đổi, giai cấp trung tâm của thời đại thay đổi, vai trò
lãnh đạo cách mạng cũng thay đổi. Con đường để giải quyết mâu thuẫn của xã hội,
lực lượng cách mạng và phương pháp cách mạng vì vậy cũng phải thay đổi.
Cụ Hoàng Hoa Thám và các sĩ phu yêu nước đều chưa thể hiểu được rằng trong

thời đại mới, giai cấp phong kiến và chế độ phong kiến nước ta đã không còn sức sống
và không còn tác dụng tiến bộ. Nó đã mất hết liên hệ với nhân dân và đã phản bội dân
tộc. Vai trò cứu nước của giai cấp phong kiến đã chấm dứt từ lâu. Cả cụ Phan Bội
Châu, Phan Chu Trinh và những người yêu nước đi theo con đường dân chủ tư sản
cũng chưa thấy được thời đại không đặt vị trí trung tâm cho giai cấp tư sản nữa.
“Trước kia là một giai cấp tiên tiến và đang lên, thì hiện nay, giai cấp tư sản
đã trở thành một giai cấp suy đồi, tàn tạ, hấp hối, phản động”(Lênin: Dưới ngọn cờ
của người khác, toàn tập, tập 21, Nxb. St,1963, tr. 161).
Cụ Phan Bội Châu mong đợi sự giúp đỡ của chính phủ Nhật hoàng. Nhưng
gia cấp tư sản Nhật Bản không còn là lực lượng xã hội tiên tiến và đang lên. Họ đã
trở thành phản động và đang có mưu đồ thôn tính châu Á
Cụ Phan Chu Trinh mong đợi sự giúp đỡ của chính phủ tư sản Pháp thực
hiện những cải cách. Nhưng giai cấp tư sản Pháp thì từ lâu đã trở thành phản động
và đi cướp bóc các thuộc địa.
Trước năm 1920, chưa một người yêu nước nào của Việt Nam nhìn thấy ánh
sáng giải phóng trong đêm tố nô lệ của dân tộc. Đó là lúc mà dân tộc Việt Nam
đang đứng trước cuộc khủng hoảng trầm trọng nhất về con đường cứu nước.
I.3. Phong trào yêu nước ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX.
Phong trào Cần vương(1885-1896): Đây là phong trào đấu tranh vũ trang do
Tôn Thất Thuyết và vua Hàm Nghi khởi xướng, đã tổ chức tiến công vào đồn
Mang Cá, toà Khâm sứ Trung kỳ nhưng bị thất bại. Tôn Thất Thuyết đưa vua Hàm
- 17 -


Nghi chạy ra Tân Sở (Quảng Trị). Ngày 13-7-1885, vua Hàm Nghi xuống chiếu
Cần vương. Phong trào Cần vương từ đây phát triển mạnh ra nhiều địa phương ở
Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ.
Ngày 1-11-1888, vua Hàm Nghi bị Pháp bắt, nhưng phong trào Cần vương
tiếp tục phát triển cho đến năm 1896 mới kết thúc. Trong phong trào Cần vương có
các cuộc khởi nghĩa tiêu biểu như: Khởi nghĩa Ba Đình (1881-1887); khởi nghĩa

Bãi sậy (1883-1892); khởi nghĩa Hương Khê (1885-1895).
Phong trào nông dân Yên Thế: Diễn ra năm 1884 dưới sự chỉ huy của
Hoàng Hoa Thám, đại bản doanh của nghĩa quân đóng tại Phồn Xương, đây trở
thành nơi gặp gỡ của các sĩ phu tiến bộ bàn kế sách cứu nước. Nghĩa quân Yên
Thế đã đánh thắng Pháp nhiều trận và gây cho chúng nhiều khó khăn, thiệt hại.
Cuộc chiến đấu của nghĩa quân Yên Thế kéo dài cho mãi tới năm 1913 mới bị dập
tắt.
Trong những năm diễn ra chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914-1918), các
phong trào đấu tranh vũ trang chống Pháp ở Việt Nam tiếp tục diễn ra như: cuộc khởi
nghĩa của Thái Phiên, Trần Cao Vân ở miền Trung năm 1916; khởi nghĩa của binh lính
Thái Nguyên năm 1917; phong trào hội kín ở Nam kỳ; các cuộc khởi nghĩa của đồng
bào các dân tộc thiểu số... Tuy nhiên tất cả các cuộc khởi nghĩa này cuối cùng đều đi
vào thất bại, nó chứng tỏ sự bất lực của hệ tư tưởng phong kiến và phong trào nông dân
trong việcgiải quyết nhiệm vụ dân tộc, dân chủ ở Việt Nam lúc này.
Phong trào yêu nước dưới sự lãnh đạo của tầng lớp sĩ phu tiến bộ chịu ảnh
hưởng của tư tưởng dân chủ tư sản diễn ra sôi nổi. Về mặt tư tưởng, tầng lớp sĩ phu
lãnh đạo phong trào giải phóng dân tộc đầu thế kỷ XX có sự phân hoá thành hai xu
hướng. Một bộ phận đặt vấn đề đánh đuổi thực dân Pháp giành độc lập dân tộc,
khôi phục chủ quyền quốc gia, biện pháp của họ là đấu tranh bằng vũ lực – bạo
động, đại diện là cụ Phan Bội Châu; một bộ phận khác lại coi duy tân – cải cách là
giải pháp để tiến tới khôi phục độc lập, đại biểu cho xu hướng cải cách này là cụ
Phan Chu Trinh.
Xu hướng bạo động: Cụ Phan Bội Châu, chủ trương dùng biện pháp bạo
động để đánh đuổi thực dân Pháp khôi phục nền độc lập cho dân tộc. Năm 1903,
định đánh úp thành Nghệ An không thành, năm 1904, Phan Bội Châu thành lập
Duy Tân hội ở Quảng Nam và chọn Cường Để, cháu đích tôn của vua Gia Long
làm Hội chủ. Tôn chỉ của hội là khôi phục nước Việt Nam, lập nên chính phủ độc
lập theo mô hình Quân chủ lập hiến. Năm 1905, Phan Bội Châu sang Nhật cầu
viện, đồng thời cũng trong thời gian này ông viết sách báo gửi về Việt Nam tố cáo
tội ác thực dân Pháp và cổ vũ, thức tỉnh tinh thần yêu nước của đồng bào. Đến giữa

năm 1908, Duy Tân hội đã đưa gần 200 thanh niên ưu tú Việt Nam sang học tập ở
các trường ở Nhật Bản để đào tạo cán bộ cho cuộc vận động về sau. Nhưng đến
tháng 9-1908, thực dân Pháp đã phát hiện ra phong trào nên cấu kết với Nhật trục
xuất hết số lưu học sinh Việt Nam khỏi đất Nhật, phong trào Đông Du tan rã.
- 18 -


Đầu năm 1912, tại Quảng Châu, chịu ảnh hưởng của tư tưởng cách mạng
Tân Hợi trung Quốc, Phan Bội Châu thành lập Việt Nam Quang Phục Hội, với tôn
chỉ: đánh đuổi giặc Pháp, khôi phục nước Việt Nam, thành lập nước cộng hoà dân
quốc Việt Nam. Việt Nam Quang Phục hội chủ trương ám sát cá nhân và đã hạ sát
được tuần phủ Thái Bình, và hai tên trung tá Pháp ở Hà Nội, ngoài ra hội cũng chỉ
đạo các cuộc bạo động ở Huế, Thái Nguyên nhưng đều bị thất bại. Thực dân Pháp
đã khủng bố dã man, Việt Nam quang phục hội từng bước tan rã, nhiều nhân vật
của hội lần lượt sa lưới giặc, bản thân Phan Bội Châu, sau một thời gian ở Trung
Quốc, cuối cùng bị thực dân Pháp bắt và đưa về nước năm 1925.
Con đường cứu nước của Phan Bội Châu đã không thành công. mặc dù cụ
nhìn thấy “muốn cứu nước phải có lực lượng, phải xây dựng sự đồng tâm hiệp lực
của đồng bào cả nước. Cụ ra sức thức tỉnh mọi người để xây dựng khối đoàn kết
dân tộc và cũng thấy rõ năm, mười nghìn tên thực dân không thể nào đương đầu
lâu dài với cả một dân tộc đồng tâm nhất trí. Nhưng cụ không thể nào xốc cả một
dân tộc đứng dậy được...Phan Bội Châu cũng đã thấy được tầm quan trọng của sự
viện trợ quốc tế, nhưng nếu có thoát khỏi quan niệm “đồng văn đồng chủng” hoặc
“đồng bệnh tương” liên thì cụ cũng chưa thể nhìn thấy đâu là lực lượng có thể
tranh trủ được. Cụ mong lợi dụng sự mâu thhuẫn giữa bọn đế quốc, nhưng chính
cụ và tổ chức yêu nước của cụ đã bị sự cấu kết giữa chúng làm khốn quẫn”.
Sự nghiệp cách mạng của Phan Bội Châu trải qua nhiều bước thăng trầm, đi
từ lập trường quân chủ lập hiến của Duy Tân hội đến con đường dân chủ tư sản
nhưng cuối cùng đều thất bại và đi vào con đường bế tắc. Với tấm lòng yêu nước
sâu sắc, với ý chí quyết tâm đánh đuổi giặc Pháp xâm lược khôi phục nền độc lập

cho dân tộc, Phan Bội Châu dã trở thành một tấm gương yêu nước trong lịch sử
dân tộc Việt Nam.
Xu hướng cải lương: Đại diện là cụ Phan Chu Trinh, chủ trương vận động
cải cách văn hoá, xã hội, động viên lòng yêu nước trong nhân dân; đả kích bọn vua
quan phong kiến thối nát, đề xướng tư tưởng dân chủ tư sản, với phương pháp:
khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh, mở mang dân quyền; phản đối đấu tranh
vũ trang, phản đối cầu viện nước ngoài. Năm 1906, Phan Chu Trinh cùng nhóm sĩ
phu tiến bộ lãnh đạo cuộc vận động Duy Tân ở Trung kỳ. Phong trào này bị thực
dân Pháp đàn áp, Phan Chu Trinh bị bắt và bị kết án 6 năm tù ở Côn Đảo. Năm
1911 thực dân Pháp đưa Phan Chu Trinh sang sống ở Pari. Trong hơn 10 năm sống
ở đây, ông vẫn kiên trì đường lối cải lương, kêu gọi dân quyền, dân sinh, dân trí và
phản đối đấu tranh bạo động vũ trang. Năm 1925, Phan Chu Trinh về nước, sau đó
bị ốm nặng và mất ở Sài Gòn vào 3-1926.
Phan Chu Trinh là nhà yêu nước nhiệt thành, cuộc đời hợt động cách mạng
của ông đã góp phần thức tỉnh lòng yêu nước của nhân dân Việt Nam, đả phá tư
tưởng phong kiến lạc hậu, phê phán tệ tham nhũng, đòi cải cách thuế khoá, phát
triển công nghệ... đòi mở rộng quyền dân chủ, tự do báo chí, ngôn luận... chủ
- 19 -


trương mở trường học theo kiểu mới: dạy chữ quốc ngữ và các môn học mới, cải
cách lối sống, bài trừ mê tín dị đoan... Mặc dù thất bại nhưng cuộc vận động Duy
Tân dã đáp ứng phần nào nguyện vọng của quần chúng bị áp bức nô dịch, vì vậy
được nhân dân ủng hộ hưởng ứng và phát triển thành phong trào rộng lớn đấu
tranh đòi các quyền tự do tối thiểu, đồng thời dẫn tới sự bùng nổ phong trào chống
thuế của nông dân năm1908.
Đông Kinh nghĩa thục(1907): Là phong trào do các sĩ phu như Lương Văn
Can, Nguyễn Quyền đứng ra mở trường tư dạy chữ quốc ngữ, với chương trình đào
tạo gồm những môn như lịch sử, địa lý,...trường lấy việc đổi mới văn hoá, xã hội,
cổ vũ lòng yêu nước làm mục đích hoạt động và nhanh chóng trở thành trung tâm

của phong trào Duy Tân ở Bắc Kỳ. Thực dân Pháp lo sợ Đông Kinh nghĩa thục trở
thành “một cái lò phiến loạn ở Bắc kỳ” nên đã ra tay đàn áp, đóng cửa trường, tịch
thu và cấm lưu hành các tài liệu của Đông kinh nghĩa thục, bắt các sĩ phu cầm đầu
phong trào.
Xu hướng quốc gia cải lương: vào đầu thế kỷ XX, chịu sự ảnh hưởng của các
luồng tư tưởng dân chủ tư sản dội từ bên ngoài vào, phong trào đấu tranh của giai cấp
tư sản và tiểu tư sản Việt Nam diễn ra sôi nổi. Trong những năm 1919-1926 có cuộc
đấu tranh như: Phongtrào tẩy chay tư sản người Hoa, trấn hưng nội hoá, bài trừ ngoại
hoá diễn ra năm 1919 ở Sài Gòn, Hải Phòng, Hà Nội... chống độc quyền xuất khẩu
gạo ở cảng Sài Gòn năm 1923....Từ trong các phong trào đấu tranh, các tổ chức đảng
phái đã ra đời như: Đảng Lập Hiến do Bùi Quang Chiêu đứng đầu(1923); Đảng
Thanh Niên do Nguyễn Trọng Hy, Trần Huy Liệu.. Tổ chức ở Sài Gòn(1926); Việt
Nam Nghĩa Hoà Đoàn, là tổ chức của nhóm thanh niên yêu nước trường cao đẳng sư
phạm Hà Nội, thành lập năm 1925; Đảng An Nam Độc Lập, được thành lập ở Pháp
năm 1926 do Nguyễn Thế Truyền đứng đầu; Việt Nam Quốc Dân Đảng do Nguyễn
Thái Học, Nguyễn Khắc Nhu đứng đầu được thành lập năm 1927.
Như vậy trước yêu cầu, nhiệm vụ của xã hội Việt Nam những năm đầu thế
kỷ XX, các phong trào đấu tranh yêu nước chống Pháp diễn ra sôi nổi, diễn ra dưới
nhiều khuynh hướng. Mục tiêu của các cuộc đấu tranh ở thời kỳ này đều hướng tới
giành độc lập cho dân tộc, nhưng trên các lập trường giai cấp khác nhau, hoặc
nhằm khôi phục chế độ phong kiến, hoặc nhằm thiết lập chế độ quân chủ lập hiến
hoặc cao hơn là thiết lập chế độ cộng hoà tư sản; với các phương thức, biện pháp
đấu tranh khác nhau: bạo động hoặc cải lương; với quan điểm tập hợp lực lượng
bên ngoài khác nhau: dựa vào Pháp để thực hiện cải cách, hoặc dựa vào ngoại viện
từ Nhật Bản để đánh Pháp... Nhưng cuối cùng các cuộc đấu tranh trong thời kỳ này
đều đi tới thất bại.
Sự thất bại của phong trào yêu nước theo lập trường tư sản ở Việt Nam đầu
thế kỷ XX đã phản ánh địa vị kinh tế, chính trị và khả năng yếu kém của giai cấp
này trong tiến trình cách mạng dân tộc; phản ánh sự bất lực của họ trước những
nhiệm vụ do lịch sử dân tộc Việt Nam đặt ra.

- 20 -


Chương II
NGUYỄN ÁI QUỐC VỚI QUÁ TRÌNH VẬN ĐỘNG THÀNH LẬP
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
I. Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị các điều kiện cho việc thành lập Đảng cộng
sản.
I.1. Lựa chon con đường cứu nước.
Nguyễn ái Quốc sinh ngày 19 tháng 5 năm 1890, lúc bé tên gọi Nguyễn Sinh
Cung, khi đi học tên là Nguyễn Tất Thành, quê ở làng Kim Liên, huyện Nam Đàn,
tỉnh Nghệ An.
Sinh ra trong một gia đình nhà nho nghèo yêu nước, nguồn gốc là nông dân
lao động, Nguyễn Tất Thành lớn lên trong cảnh nước mất nhà tan, nhân dân khốn
khổ, nhưng các con đường giải phóng đều bị bế tắc. Nguyễn Tất Thành đau xót
trước cảnh lầm than của đồng bào và sớm có chí đuổi thực dân Pháp, giải phóng dân
tộc. Anh rất khâm phục các phong trào yêu nước của các cụ Phan Đình Phùng,
Hoàng Hoa Thám, Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu, nhưng anh không hoàn toàn tán
thành cách làm của một người nào. Anh cho rằng cụ Phan Chu Trinh là nhà yêu
nước, nhưng có tư tưởng cải lương. cụ muốn xoá bỏ chế độ vua quan phong kiến
nhưng lại dựa vào sự giúp đỡ của đế quốc Pháp, làm như thế chẳng khác gì “xin
Pháp rủ lòng thương”. Cụ Phan Bội Châu chống Pháp rất sôi nổi nhưng lại muốn
dựa vào Nhật để đuổi Pháp, chẳng khác gì “đưa hổ cửa trước rước beo cửa sau”. Cụ
Hoàng Hoa Thám còn thực tế hơn, biết dựa vào nông dân và trực tiếp đánh Pháp
bằng chiến tranh du kích. Nhưng cho đến khi kết thúc, phong trào đánh Pháp của cụ
vẫn không có đường lối rõ rệt, vẫn nằm trong khuôn khổ của “cốt cách phong kiến”.
Tháng 6-1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành rời tổ quốc thân
yêu ra đi, không phải để cầu viện, mà là với mục đích xem các nước trên thế giới làm
như thế nào, rồi về giúp đồng bào. Anh lao động để sống, hoà mình với gia cấp công
nhân và nhân dân lao động đủ các màu da, để tìm lấy con đường cách mạng đúng đắn.

Trên hành trình tìm đường cứu nước, Nguyễn Tất Thành đã tìm hiểu sâu sắc
các cuộc cách mạng điển hình thế giới. Người đề cao những tư tưởng tự do, bình
đẳng, bác ái và quyền con người của các cuộc cách mạng tư sản tiêu biểu như: cách
mạng Mỹ (1776), cách mạng Pháp (1789)... Nhưng Nguyễn Ái Quốc cũng nhận
thức rõ và phê phán bản chất không triệt để của các cuộc cách mạng tư sản, chỉ ra
những hạn chế mà cách mạng Việt Nam cần phải tránh. Những khảo sát trên hành
trình tìm đường cứu nước là cơ sở để Nguyễn Ái Quốc khẳng định một cách dứt
khoát rằng: Con đường cách mạng tư sản không thể đưa lại độc lập và hạnh phúc
thực sự cho nhân dân các nước nói chung, nhân dân Việt Nam nói riêng.
- 21 -


Điểm khác nhau thứ hai là mục đích của cuộc ra đi. Nếu như phần lớn những
người Việt Nam xuất dương lúc bấy giờ là để tìm sự giúp đỡ của bên ngoài, cầu vịên
để đánh Pháp, thì Nguyễn Ái Quốc ra đi để tìm con đường, cách thức đánh đuổi thực
dân Pháp, giải phóng dân tộc, giải phóng đồng bào. Người nói: “Tôi muốn đi ra
nước ngoài xem nước Pháp và các nước khác. sau khi xem xét họ làm như thế nào,
tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta”(Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời
hoạt động của Hồ chủ tịch, sđđ, tr.14).
Điểm khác thứ ba là hướng đi, Nguyễn Tất Thành đi sang Pháp. “các lý do
hấp dẫn đưa người đến nước Pháp là những truyền thống tự do, bình đẳng, bác ái và
nền văn minh của chính quốc mà Người được nghe, biết và sự tàn bạo của bọn thực
dân ở thuộc địa mà Người đã chứng kiến...”(Trích theo PGS, TS Phạm Xanh:
Nguyễn ái Quốc với việc truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam(1921-1930),
Nxb, chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.14-15). Đi sang Pháp, tìm hiểu tận gốc kẻ
thù đang áp bức nô dịch đất nước mình, để từ đó có phương pháp và vũ khi phù hợp
đánh đuổi chúng, phải chăng đây cũng là một lý do quyết định hướng đi của người.
Điểm thứ tư là cách đi, trước khi ra đi tìm đường cứu nước, có một người hỏi
Nguyễn Tất Thành, chúng ta lấy tiền đâu mà đi? Nguyễn Tất Thành “vừa nói vừa
giơ hai bàn tay – Chúng ta sẽ làm việc. Chúng ta sẽ làm bất cứ việc gì để sống và để

đi” Người đã làm nhiều việc như: phụ bếp, đốt lò, cào tuyết, làm vườn, thợ rửa
ảnh...Nguyễn Ái Quốc thông qua lao động đã hoà mình, gần gũi với cuộc sống của
nhân dân lao động, hiểu được nỗi thống khổ, hiểu được nguyện vọng và ý chí, năng
lực của họ. Và như thế, trên cuộc hành trình của mình với sự lăn lộn trong cuộc sống
lao động và đấu tranh của nhân dân các nước, với tầm hiểu biết rộng lớn và vốn thực
tiễn sâu sắc, phong phú, Nguyễn Ái Quốc đã nhận thức về thế giới và thời đại theo
một lập trường và quan điểm mới so với các nhà yêu nước đương thời:
+ Thứ nhất: Nguyễn Ái Quốc hiểu rõ đối tượng cách mạng thế giới là chủ
nghĩa thực dân đế quốc nói chung (không phân biệt màu da). Vì ở bất kỳ đâu, chủ
nghĩa đế quốc cũng tàn bạo, bất công và độc ác.
+ Thứ hai: Nhân dân lao động các nước thuộc địa hay ở các chính quốc đều bị
chủ nghĩa đế quốc áp bức, bóc lột. Họ là lực lượng cơ bản của cách mạng thế giới.
Từ nhận thức trên người rút ra kết luận: “Dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ
có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có
một mối tình hữu ái là thật mà thôi: tình hữu ái vô sản”.
Điểm thứ năm: Trong vòng 10 năm (1911-1920), Nguyễn Ái Quốc đã đi đến
nhiều nơi trên thế giới để tìm hiểu, khảo sát: “Anh đã vượt qua ba đại dương, bốn
châu lục, đặt chân lên khoảng gần 30 nước, là một trong những nhà chính trị đã đi
nhiều nhất, có vốn hiểu biết phong phú nhất về thực tế các thuộc địa cũng như các
nước tư bản đế quốc chủ yếu nhất trong những thập niên đầu của thế kỷ XX”
Nguyễn Ái Quốc đặc biệt quan tâm, tìm hiểu, khảo sát cuộc cách mạng Tháng
Mười Nga. Liên hệ giữa cách mạng Nga năm 1917 với yêu cầu và nhiệm vụ của cách
- 22 -


mạng Việt Nam, người rút ra kết luận: “trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là
thành công, và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự
do, bình đẳng thật... Cách mệnh Nga dạy cho chúng ta rằng muốn cách mệnh thành
công thì phải dân chúng (công nông) làm gốc, phải có Đảng vững bền, phải bền gan,
phải hy sinh, phải thống nhất. Nói tóm lại là phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và

Lênin”(Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđđ, t.1, tr.39).
Vào tháng 7-1920 , Nguyễn Ái Quốc đọc bản sơ thảo luận cương về vấn đề
dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin đăng trên báo L’Humanité, người nhận ra:
“Đây là cái cần thiết cho chúng ta”(Hồ Chí Minh toàn tập, Sđđ, t.10, tr.127).
Nguyễn Ái Quốc tìm thấy tìm thấy trong luận cương của Lênin lời giải đáp về con
đường giải phóng cho nhân dân Việt Nam; lời giải đáp về vấn đề thuộc địa trong
mối quan hệ với phong trào cách mạng thế giới.
Tháng 12-1920, tại Đại hội lần thứ XVIII Đảng Xã hội Pháp ở Tua, với tư
cách đảng viên Đảng Xã hội Pháp, với danh nghĩa là đại biểu Đông Dương và các
dân tộc thuộc địa, Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu gia nhập Quốc tế thứ ba – Quốc tế
cộng sản, tán thành chủ trương thành lập Đảng Cộng sản Pháp và trở thành một
trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp.
Từ đây, cùng với việc thực hiện nhiệm vụ đối với phong trào cộng sản quốc
tế, Nguyễn Ái Quốc, xúc tiến nghiên cứu lý luận Mác-Lênin, vạch phương hướng,
chiến lược, sách lược của cách mạng Việt Nam.
I.2. Chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức để thành lập Đảng Cộng sảnViệt Nam
Thực tế cho thấy, việc chuẩn bị về tư tưởng, chính trị cho cách mạng Việt Nam
của Nguyễn Ái Quốc được đánh dấu từ sự kiện Nguyễn Ái Quốc nhân danh những
người Việt Nam yêu nước tại Pháp gửi đến hội nghị hoà bình ở Vécxây – Pháp (1919)
bản yêu sách tám điểm đòi quyền tự do, dân chủ tối thiểu của dân tộc Việt Nam. Bản
yêu sách này đã có tác động mạnh đến người Việt Nam trong nước và nước ngoài “làm
cho những người lao động và lính Việt Nam trước thờ ơ với chính trị nay cũng giác
ngộ... Chính nhờ những tờ báo ấy mà người Việt Nam biết được toàn thể bản yêu cầu
và từ ngày ấy phong trào cách mạng Việt Nam càng lên cao”. Nó đánh dấu một giai
đoạn mới trong phong trào giải phóng dân tộc ở Việt Nam.
Tiếp theo là những bài báo và tác phẩm (Tâm địa thực dân, Vấn đề bản
xứ(1919); Bình đẳng (1922); Vực thẳm thuộc địa (1923); Công cuộc khai hoá giết
ngườ i(1924); Bản án chế độ thực dân Pháp (1925)...) tố cáo bản chất ăn cướp và
giết người của chủ nghĩa đế quốc; vạch rõ âm mưu và thủ đoạn của chủ nghĩa đế
quốc che dấu tội ác dưới cái vỏ bọc “khai hoá văn minh”. Qua các ấn phẩm, nhất là

những bài viết về Đông Dương và đặc biệt là tác phẩm “Bản án chế độ thực dân
Pháp”, Nguyễn Ái Quốc đã lên án mạnh mẽ chế độ cai trị hà khắc, tàn bạo và sự
bóc lột thậm tệ của thực dân Pháp đối với nhân Đông Dương; vạch trần sự phản
- 23 -


dân hại nước của vua, quan, vì quyền lợi và danh vọng cá nhân mà chống lại đồng
bào, phản bội tổ quốc. Thông qua đó, Nguyễn Ái Quốc chỉ rõ kẻ thù của nhân dân
lao động thế giới, kẻ thù của các dân tộc thuộc địa và kẻ thù trực tiếp, nguy hiểm
của nhân dân Việt Nam. Từ đó, Nguyễn Ái Quốc đã khơi dậy mạnh mẽ tinh thần
yêu nước, thức tỉnh tinh thần phản kháng dân tộc nhằm đánh đuổi kẻ thù là thực
dân Pháp xâm lược.
Nguyễn ái Quốc tham gia sáng lập Hội liên hiệp thuộc địa; tham gia sáng
lập Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức... Các hội liên hiệp mang tính quốc tế mà
Nguyễn Ái Quốc tham gia sáng lập nói trên là hình thức sơ khai của, mặt trận các
dân tộc bị áp bức trên thế giới, là sự hiện thực hoá, sự thử nghiệm thực tế quan
điểm đoàn kết quốc tế của Nguyễn Ái Quốc theo lập trường giai cấp vô sản.
Nguyễn Ái Quốc tích cực tham dự nhiều diễn đàn quốc tế như: Đại hội V
Quốc tế cộng sản và tham gia công tác tại tổ chức này; Hội nghị quốc tế nông dân
lần thứ nhất; Đại hội “liên đoàn chống đế quốc”; Đại hội thanh niên quốc tế, Phụ
nữ quốc tế; Đại hội III Quốc tế Công đoàn; Đại hội I Quốc tế cứu tế đỏ... Tại các
diễn đàn này, Nguyễn Ái Quốc đã đấu tranh nhằm xác lập nhận thức đúng đắn về
vấn đề dân tộc thuộc địa trong phong trào cách mạng thuộc địa, qua đó yêu cầu
Quốc tế cộng sản phải quan tâm hơn nữa đối với cuộc đấu tranh của các dân tộc
thuộc địa nói chung và cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp của nhân dân Việt
Nam nói riêng.
Năm 1924, Nguyễn Ái Quốc về đến Quảng Châu - Trung Quốc. Lúc bấy giờ
ở đây là nơi hội tụ của nhiều người yêu nước Việt Nam, tập hợp trong tổ chức Tâm
Tâm xã với tôn chỉ: “Liên hiệp những người có trí lực trong toàn dân Việt Nam,
không phân biệt ranh giới đảng phái, miễn là có quyết tâm hy sinh tất cả tư ý và

quyền lợi cá nhân, đem hết sức mình tiến hành mọi việc để khôi phục quyền làm
người của người Việt Nam”. Nguyễn Ái Quốc kể lại rằng, khi đến Quảng Châu,
“tôi đã gặp tại đây vài ba nhà cách mạng quốc gia An Nam, trong số này có một
người đã xa rời xứ sở từ ba mươi năm nay... Ông không hiểu chính trị, và lại càng
không hiểu việc tổ chức quần chúng” (Hồ Chí Minh:Toàn tập, Sđđ, t.2, tr.8). Từ
đó, người cho rằng để xây dựng Đảng Cộng sản, trước hết phải giải quyết tốt vấn
đề nhận thức tư tưởng, chính trị và phương pháp tổ chức cho những người yêu
nước; phải giác ngộ chủ nghĩa yêu nước truyền thống, chủ nghĩa dân tộc Việt Nam
theo lập trường cách mạng vô sản. Trong báo cáo gửi chủ tịch đoàn quốc tế cộng
sản đề ngày 18-12-1924, Nguyễn Ái Quốc cho biết đã chọn năm người ở năm tỉnh
khác nhau để huấn luyện họ về phương pháp tổ chức và sẽ gửi họ về Đông Dương
sau ba tháng học tập. Tháng 2-1925, Nguyễn Ái Quốc báo cáo đoàn chủ tịch Quốc
tế cộng sản là đã lập một nhóm bí mật gồm 9 hội viên, trong số đó có 5 người là
đảng viên dự bị của Đảng cộng sản và sẽ thiết lập một cơ sở hoạt động tại Quảng
Châu. Trên cơ sở những tiền đề đã được chuẩn bị, tháng 6-1925 Nguyễn Ái Quốc
thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên. Trong tổ chức này, Nguyễn Ái
- 24 -


Quốc đã tập hợp những thanh niên yêu nước Việt Nam và truyền bá chủ nghĩa
Mác-Lênin cho họ, dẫn dắt họ đi theo con đường từ chủ nghĩa yêu nước đến với
chủ nghĩa Mác-Lênin.
Lý do tại sao Nguyễn Ái Quốc lại thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh
niên mà không thành lập ngay Đảng cộng sản Việt Nam. Trong báo cáo gửi Quốc
tế cộng sản (18-2-1930), Nguyễn Ái Quốc viết: “Hội An Nam thanh niên cách
mạng do chúng tôi tổ chức từ năm 1925. Có thể nói rằng, nó là quả trứng, mà từ
đó, nở ra con chim non cộng sản”(Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđđ, t3, tr.13); Trong
báo cáo gửi quốc tế cộng sản về phong trào cách mạng ở An Nam(5-3-1930),
Nguyễn Ái Quốc viết: “Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội được thành
lập ở Quảng Châu. Hội rất tích cực mở các lớp huấn luyện, đưa thanh niên từ An

Nam sang học sau khi huấn luyện cẩn thận rồi lại gửi họ về nước... Trong tư tưởng
của những người đứng ra tổ chức thì hội này sẽ là cơ sở cho một Đảng lớn hơn và
tương lai đã chứng minh điều đó”(Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđđ, t,3, tr.34-35).
Cuối năm 1925, Nguyễn ái Quốc mở lớp huấn luyện tại trụ sở của Hội Việt
Nam Cách mạng Thanh niên (đường Văn Minh, Quảng Châu). Các cán bộ của lớp
huấn luyện được nghiên cứu tình hình thế giới, lịch sử phong trào công nhân quốc
tế; lịch sử phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của các nước châu Á; về Quốc
tế I, II, III; về các cuộc cách mạng lớn trong lịch sử; về cách mạng Tháng Mười;
về công tác vận động và tổ chức công hội, nông hội; về nguyên tắc hoạt động bí
mật.
Cùng với đào tạo cán bộ, Nguyễn Ái Quốc đã tổ chức xuất bản báo Thanh
niên – tờ báo đầu tiên của cách mạng Việt Nam theo khuynh hướng vô sản; báo
Công nông; báo Lính cách mệnh; báo Tiền phong. Báo chí đã được bí mật đưa về
Việt Nam, góp phần quan trọng truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin, quan điểm cách
mạng của Nguyễn Ái Quốc, thức tỉnh quần chúng, giác ngộ quần chúng, thúc đẩy
phong trào đấu tranh yêu nước của nhân dân Việt Nam phát triển theo con đường
cách mạng vô sản và góp phần đấu tranh chống lại quan điểm tư sản, tiểu tư sản sai
trái trong phong trào yêu nước Việt Nam.
Ngoài vịêc thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, được sự cộng tác,
giúp đỡ của Đảng cộng sản Trung Quốc, Nguyễn ái Quốc thành lập Hội liên hiệp
các dân tộc bị áp bức(Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên lúc này trở thành một
chi hội của tổ chức này).
Năm 1927, Bộ tuyên truyền của Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức xuất bản
tác phẩm “đường cách mệnh”. Đây là cuốn sách tập hợp các bài giảng của Nguyễn
Ái Quốc ở lớp huấn luyện chính trị của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên. Với
lối viết ngắn gọn, giản dị để người đọc dễ hiểu, dễ nhớ, Nguyễn ái Quốc đã làm rõ
các phẩm chất, đạo đức của người cách mạng trong ba mối quan hệ (Tự mình; đối
với người phải; làm việc phải) mà bản chất của chính nó là đạo đức, phẩm chất, tư
cách của người cách mạng Việt Nam. Những phẩm chất đạo đức mà Nguyễn Ái
- 25 -



×