Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

TIỂU LUẬN bảo tồn và PHÁT HUY bản sắc văn hóa VÙNG tây NGUYÊN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191.21 KB, 22 trang )

BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY BẢN SẮC VÙNG VĂN HÓA TÂY NGUYÊN
MỞ ĐẦU
Bước sang thế kỷ XXI, trong quá trình hội nhập với thế giới, khi mà khoa
học công nghệ phát triển như vũ bão, nền kinh tế thị trường ngày càng mở rộng.
Trong quá trình chủ động hội nhập, đứng trước những nguy cơ, thách thức “đồng
hoá văn hoá”, “hoà nhập dẫn đến hoà tan”, dân tộc Việt Nam đã tìm thấy trong
vốn văn hoá truyền thống của mình và những tinh hoa văn hoá của nhân loại những
sức mạnh to lớn có thể huy động phục vụ có hiệu quả cho công cuộc phát triển
kinh tế - xã hội, công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH) đất nước vì mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Để bảo tồn và phát
huy những giá trị văn hóa tốt đẹp, Đảng đã chỉ rõ mục tiêu chung trong định hướng
phát triển văn hóa và con người: “Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam
phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc,
nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững
chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững
và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh.”1
Nền văn hoá Việt Nam là nền văn hoá đa dạng trong thống nhất, là vườn hoa
muôn màu muôn sắc toả ngát hương thơm thì văn hoá cổ truyền các dân tộc Tây
Nguyên là một trong những bộ phận cấu thành rất quan trọng để làm nổi bật nên
diện mạo đó. Sau ngày giải phóng (1975), Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ
trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo an ninh quốc phòng vùng
Tây Nguyên, thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc trong đại gia đình các dân
tộc Việt Nam, trân trọng, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống của
1

Ban Tuyên giáo Trung ương, Tài liệu nghiên cứu Nghị quyết và một số chủ trương của Hội nghị lần thứ chín Ban
Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XI, NXB CTQG, HN, 2014, tr 11


đồng bào dân tộc Tây Nguyên. Sau hơn 20 năm đổi mới, cùng với sự phát triển


chung của đất nước, bộ mặt kinh tế - xã hội Tây Nguyên có nhiều thay đổi tích
cực, đời sống văn hoá vật chất và tinh thần của đồng bào dân tộc được cải thiện rõ
nét. Bên cạnh những thành tựu cơ bản đó, hiện nay nhiều vấn đề về bảo tồn và phát
huy bản sắc vùng văn hóa Tây Nguyên ngày càng được đặt ra một cách bức thiết.
NỘI DUNG
1. Đặc điểm tự nhiên- xã hội
Tây Nguyên bao gồm lãnh thổ của năm tỉnh Gia Lai, Kom Tum, Đắk Lắk,
Đắk Nông và Lâm Đồng, nằm gọn trên vùng núi non và cao nguyên phía Tây
Trung Bộ. Ở đây tập trung gần hai chục dân tộc. Nếu không kể đến mấy dân tộc
phía bắc và người Kinh di cư đến thì các dân tộc lâu đời ở đây thuộc về hai nhóm
ngôn ngữ chủ yếu: nhóm Môn- Khơme và nhóm Mã Lai- Đa Đảo. “Văn hoá Tây
Nguyên ” vẫn là quen gọi bao gồm văn hoá của các dân tộc thuộc hai nhóm này.
Nhưng đặc trưng văn hoá Tây Nguyên còn thấy ở nhiều dân tộc khác sống trên
sườn phía Tây dãy Trường Sơn, suốt một dải từ phía Tây Quảng Bình đến tận Phú
Yên. Thời Việt Nam Cộng hòa, nơi đây được gọi là Cao nguyên Trung phần. Hiện
nay đôi khi được gọi là Cao nguyên Trung Bộ. Trước đó, thời Bảo Đại làm Quốc
trưởng, vùng đất này còn được hưởng quy chế riêng là vùng Hoàng triều Cương thổ.
Tây Nguyên là vùng cao nguyên, phía bắc giáp tỉnh Quảng Nam, phía đông giáp các
tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận,Bình Thuận, phía
nam giáp các tỉnh Đồng Nai, Bình Phước, phía tây giáp với các tỉnh Attapeu (Lào)
và Ratanakiri và Mondulkiri (Campuchia)
Với đặc điểm thổ nhưỡng đất đỏ bazan ở độ cao khoảng 500 m đến 600 m so
với mặt biển, Tây Nguyên rất phù hợp với những cây công nghiệp như cà phê, ca
cao, hồ tiêu, dâu tằm. Cây điều và cây cao su cũng đang được phát triển tại đây. Cà
phê là cây công nghiệp quan trọng số một ở Tây Nguyên. Tây Nguyên cũng là


vùng trồng cao su lớn thứ hai sau Đông Nam Bộ. Và đang tiến hành khai thác Bô
xít. Tây Nguyên cũng là khu vực ở Việt Nam còn nhiều diện tích rừng với thảm
sinh vật đa dạng, trữ lượng khoáng sản phong phú hầu như chưa khai thác và tiềm

năng du lịch lớn, Tây nguyên còn được coi là mái nhà của miền trung.
Khí hậu ở Tây Nguyên có hai mùa rõ rệt, mùa khô từ tháng 11 đến giữa tháng
5, và mùa mưa từ cuối tháng 5 đến tháng 10. Đất bazan là loại đất không giữ nước,
nước mưa trượt đi trên bề mặt, , trong đó tháng 3 và tháng 4 là hai tháng nóng và
khô nhất, về mùa khô Tây Nguyên gần như hoàn toàn không có nước. Do ảnh
hưởng của độ cao nên trong khi ở các cao nguyên cao 400-500 m khí hậu tương
đối mát và mưa nhiều, riêng cao nguyên cao trên 1000 m (như Đà Lạt) thì khí hậu
lại mát mẻ quanh năm như vùng ôn đới.
Có thể nói cội nguồn của những đặc điểm văn hoá dân tộc nói chung, vùng
văn hóa Tây Nguyên nói riêng, đều xuất phát từ những điều kiện lịch sử của nó,
nhưng trước đó và trong suốt quá trình lịch sử, những điều kiện địa lí, môi trường
thiên nhiên luôn ảnh hưởng đến phương thức canh tác, đến hình thái kinh tế và áp
lực của chúng lên hình thái xã hội, chính trị và đặc biệt nó ảnh hưởng đến sự hình
thành các nét văn hóa đặc trưng cho vùng đất ấy.
2. Những nét đặc sắc về vùng văn hóa Tây Nguyên
Là nơi hội tụ nhiều nét văn hoá truyền thống của đồng bào các dân tộc Êđê,
Jarai, M’nông… cùng với những phong tục, tập quán, lễ hội đã tạo cho Tây
Nguyên trở thành vùng văn hóa dân gian đa dạng và đặc sắc.
Các lễ hội của đồng bào dân tộc Tây Nguyên ra đời từ niềm tin mãnh liệt
vào thần linh mà họ thường vẫn gọi là Yàng nên mang tính cộng đồng rất cao. Các
nghi lễ, lễ hội vừa là những sinh hoạt văn hoá có tác dụng to lớn trong việc củng cố
và tăng cường sức mạnh của tình đoàn kết, sự gắn bó của cộng đồng nhưng cũng
đồng thời tạo môi trường diễn xướng của nhiều nhạc cụ dân tộc như: K’ni, Brố,
đinh Tăk Tà, đinh Tút, đinh Năm... Ở đây có những nghi lễ, lễ hội đặc sắc, độc


đáo như: lễ trưởng thành, lễ bỏ mả, lễ cúng bến nước, mừng lúa mới, nhà mới, lễ
rước Kpan... mang đậm nét văn hóa riêng của dân tộc Tây Nguyên . Mùa lễ hội
Tây Nguyên kéo dài suốt mấy tháng 1, 2, 3 dương lịch. Hầu như không gian không
lúc nào vắng tiếng chiêng cồng. Lúc ấy, mùa rẫy đã tuốt xong và đã đón kho. Dẫu

cho chưa dồi dào nhưng không còn lo cái đói rình rập. Con người có thời giờ nghĩ
đến các mối quan hệ với thiên nhiên, tổ tiên. Con người muốn cảm ơn, chia phần
thu hoạch cho những lực lượng vô hình đã phù hộ cho họ một năm mưa thuận gió
hoà, người yên vật thịnh. đồng thời họ cũng nhắc nhở chúng phải có nhiệm vụ giúp
đỡ họ vào năm tới. Sở dĩ có chuyện giao nhiệm vụ như vậy là vì mối quan hệ giữa
người với thần linh khá bình đẳng. Nó phản ánh tinh thần dân chủ thời bộ lạc còn
được bảo lưu và phát triển trong cộng đồng công xã các dân tộc Tây Nguyên. Như
vậy, trong các nghị lễ và thái độ ứng xử với thiên nhiên, siêu nhiên (đã được nhân
hoá), người Tây Nguyên đi tìm đồng minh, đi tìm bạn, chứ không đi tìm các vị
thánh, càng không đi tìm Đức Chúa. Cảm ơn và chia sẻ với bạn bè là đạo lí của
đồng bào.
Con người còn nghĩ đến bản thân, đến cộng đồng trong những tháng nông
nhàn này. Cũng nhu mọi vật, con người có phần xá và phần hồn đều cần được
chăm sóc. Những việc quan trọng như làm nhà rông, làm hay sửa nhà cửa, lễ cưới,
lễ cầu an cho người, cho gia súc, sửa sang lại nhà mồ hay làm lễ bỏ mả… đều được
làm vào thời gian này. Và bất cứ việc lớn hay nhỏ, việc của cả cộng đồng hay của
từng buôn làng, từng người đều trở thành việc chung và luôn thấm nhuần tinh thần
và không khí hội hè. Điều đặc biệt là trong mọi hoạt động văn hoá, phong tục ấy,
đồng bào quan niệm luôn luôn có sự tham gia của linh hồn những người đã mất.
Đối với nhiều dân tộc Tây Nguyên (Bana, Rơmăm, Xơđăng) cộng đồng công xã có
hai phần: cộng đồng hôm nay bao gồm những người đang sống và cộng đồng hôm
qua của những người đã chết. Người sống ở trong làng, người chết ở cõi tổ tiên
(Mang Lung) một nơi nào đó ở ngay trên mặt đất, về phía Tây của làng. Không thể


quan niệm được vì sao người chết biến mất. Họ vẫn cùng “sống” với con cháu
bằng cách riêng. Đồng bào còn tránh đặt tên trùng lặp giữa những thành viên còn
sống và kể cả những thành viên đã chết mà trí nhớ mọi người còn rõ. Lại một nét
nữa cho thấy tinh thần bình đẳng của chế độ dân chủ hồn nhiên trong tâm thức con
người. Hầu hết các dân tộc Việt Nam đều tin vào sự tồn tại vĩnh hằng của tổ tiên.

Nhưng ở những dân tộc này, tổ tiên đã tách ra “bên kia”, “bên âm” trong một cộng
đồng riêng và trở thành các “Đấng”. Ở nhiều dân tộc Tây Nguyên, tổ tiên vẫn là
thành viên “hiện hữu” của cộng đồng. Do đó, con người được sống trong sự hội
nhập sức mạnh của quá khứ và đương đại trong một vô thức, một tất yếu. Vì vậy,
truyền thống văn hoá không chỉ là sự “uống nước nhớ nguồn”, không chỉ là “đất lề
quê thói” mà là lẽ thường, là đạo lí đương nhiên của cuộc sống.
Trên cơ sở vũ trụ quan, thế giới quan, nhân sinh quan như vậy, văn hoá dân
tộc, mà thực chất là văn hoá dân gian Tây Nguyên có mặt trong mọi hoạt động của
đời sống con người với những mật độ mau, thưa tuỳ theo thời gian trong năm. Vào
đầu mùa mưa (thường diễn ra từ cuối tháng 5 dương lịch), các gia đình dọn hẳn
vào ở bên cạnh rẫy lúa của mình và ở đó đến cuối tháng 11 khi thóc thu hoạch đã
đưa vào kho chứa. Thời gian này vì phải tập trung vào sản xuất, đồng bào không có
nhiều hoạt động cộng đồng. Họ có lễ cầu an cho cây trồng sau khi lúa con gái được
làm sạch cỏ. Vào lễ này, mỗi gia đình đem những vò rượu cần làm từ lúa mùa năm
trước và được ủ men trên rẫy về làng chung vui. Lễ tạ ơn thần sấm đã làm mưa
xuống và tạ ơn Mẹ Lúa Yang S ’ri. Đồng bào Tây Nguyên tin rằng trong mỗi cái
chiêng đều có thần chiêng (Yang chiêng). Vì thế có cái chiêng phải đổi bằng voi
hay nhiều con trâu do chiêng ấy có thần mạnh. Trong lễ cầu an, khi chiêng được
gióng lên là lúc thần chiêng xuất hiện, cao giọng cổ vũ, khen ngợi, cảm ơn thần
sấm. Sự hoà đồng của các thần chiêng và thần sấm đem lại sự hứng khởi vô hạn
cho đồng bào. Ở đây là sự hội tụ của các lực lượng siêu nhiên, do con người được
đối xử như bạn, nên đã biểu hiện ra cho họ thấy chúng hài lòng đến mức nào. Bằng


những hoạt động văn hoá- nghệ thuật, con người Tây Nguyên cổ truyền đã kéo
Thiên- siêu nhiên về với mình, trở thành bạn của mình, tham gia như những thành
viên thực thụ trong niềm vui chung của cộng đồng. Bằng cách đó, con người chinh
phục thiên nhiên, hoà nhập với nó để rồi nhận lấy một niềm tin rằng con người là
bạn và do đó được Thiên- siêu nhiên giúp đỡ hết mình. Nhưng con người không
thụ động, mà trong tổng thể hoạt động văn hoá nghệ thuật (như trong Lễ cầu an) họ

đã tái tạo lại thực tại qua những sáng tạo của mình và bằng cách đó đã in dấu bản
sắc người vào thực tại ấy.
Trên thực tế, con người Tây Nguyên tự tin vào mối quan hệ bền vững, tốt
đẹp của họ với môi trường. Ở họ không có những động tác cúi rạp mình khi hành
lễ và cũng không có những câu cầu xin kiểu “lạy thánh mớ bái” hay “con cắm rơm
con cắn cỏ lạy Ngài”. Nhìn từ góc độ “tiến bộ xã hội” như quan niệm ngày nay thì
đấy không phải là một trạng thái “lí tưởng”. Tuy nhiên, từ góc độ văn hoá cổ
truyền, cái vẻ hoang sơ, huyền thoại trong cuộc sống khiến cho Tây Nguyên còn
giữ được những phẩm chất “bản thiện” của con người và chưa bị “tha hoá” bởi các
xã hội có giai cấp (ý của Mác). Và chính cuộc sống mà trong đó hội tụ cả mọi miền
thời gian, mọi nẻo không gian cả hiện thực và huyền thoại đã là mảnh đất màu mỡ
cho trí tưởng tượng bay bổng, cho sức sáng tạo nghệ thuật thả sức tung hoành. Có
vậy mới có một chàng Đăm Săn đòi lấy Nữ Thần Mặt Trời, mới có Đăm Noi cưỡi
khiên đánh nhau với quỷ Đrăng Hạ- Đrăng Hưm suốt bảy năm chín tháng. Có vậy,
ngày nay chúng ta mới được thừa kế một nền văn học nghệ thuật rất đặc sắc, rất đa
dạng, khó có thể tìm thấy ở những nơi khác trên thế giới. Có vậy, ta mới hiểu
được, mới phát hiện bên trong vẻ hồn nhiên, chân chất, con người Tây Nguyên ẩn
chứa một tâm hồn nghệ sĩ, một tiềm năng sáng tạo nghệ thuật dồi dào.
Những lễ hội được quan tâm giao thoa văn hóa đang diễn ra mạnh mẽ ở đây,
thể hiện qua những kiến trúc đặc sắc như nhà sàn dài, nhà rông, đời sống văn hóa,
ẩm thực,âm nhạc... Những họa tiết hoa văn được điểm xuyết khá tinh tế xuất hiện


trên các ngôi nhà của dân tộc Tây Nguyên, các dụng cụ của họ, trên từng bộ đồ của
dân tộc Tây Nguyên... Nghệ thuật dệt hoa văn, trang trí và điêu khắc của đồng bào
cũng là một mặt rất đặc sắc của văn hoá Tây Nguyên.
Bộ phận văn hoá vật thể với nhà Rông và các nhà sàn theo nhiều kiểu dáng
khác nhau, nhà mồ và tượng nhà mồ, một số vật dụng hàng ngày, các công cụ sản
xuất và các nhạc cụ dành cho lễ hội như Cồng, Chiêng, các loại hình nghệ thuật
dân gian như Đàn đá, Đàn tơrưng,… là những đặc trưng văn hóa cơ bản cho vùng

đất và con người nơi đây
Trong văn hóa vật thể của đồng bảo Tây Nguyên, nhà Rông của vùng đất
này được coi là một trong những nét văn hóa đặc sắc với những kiến trúc độc đáo
mang nhiều ý nghĩa nhân sinh sâu sắc. Nhà Rông của dân tộc Tây Nguyên là nơi
diễn ra toàn bộ sinh hoạt cộng đồng của dân tộc ở đây, nó là trụ sở của bộ máy
quản trị buôn làng, nơi sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng, nhà khách… ; là nơi thể
hiện các lễ hội tâm linh cộng đồng và là nơi các thế hệ nghệ nhân già truyền đạt lại
cho thế hệ trẻ những giá trị văn hóa truyền thống ..., nơi lưu giữ các hiện vật truyền
thống: cồng, chiêng, trống, vũ khí, đầu các con vật hiến sinh trong các ngày lễ, và
là nơi đứa trẻ, từ tấm bé đã được quây quần quanh bếp lửa nghe người già kể khan;
nơi người lớn được tụ họp hằng đêm, nói cho nhau nghe chuyện của núi rừng...
Người dân Tây Nguyên quan niệm nhà Rông, tức nhà Sàn là nơi khí thiêng của
đất trời tụ lại để bảo trợ cho dân làng, vì thế trong mỗi nhà rông đều có một nơi thiêng
liêng để thờ các vật thiêng, nhiều khi chỉ là một con dao, hòn đá, chiếc sừng trâu…
Nhà Rông là nơi diễn ra các lễ hội dân gian, là nơi tiếp đón khách quí đến
thăm buôn làng. Nhà Rông là nơi hội họp của các già làng, phân xử các vụ kiện
tụng, tranh chấp liên quan đến cộng đồng. Nhà Rông còn là nơi để các thanh niên
nam nữ đến gặp gỡ, tỏ tình và kết duyên chồng vợ. Theo tập tục ở đây, thanh niên
chưa vợ, chưa chồng ban đêm phải đến ngủ tại nhà Rông, ngay cả phụ nữ chết
chồng hay li dị chồng cũng vậy. Tuy gần gũi nhau, nhưng trai gái các buôn làng


không bao giờ để xảy ra chuyện ái tình vụng trộm, do bị phong tục lên án gắt gao
và bị lệ làng phạt vạ rất nặng. Người ta gọi một ngôi làng không có nhà Rông là
"làng đàn bà", tức cũng gần như nói một cái làng chưa ra làng, chưa xứng đáng là
làng. Đấy mới chỉ là một tập hợp rời rạc những cái nhà chưa có hồn, trong đó
chứa những sinh linh cũng chưa có hồn, chưa thật sự là con người, bởi người ta
chỉ thành người khi được thổi vào đấy hồn người, mà hồn người đối với người
Tây Nguyên thì phải là hồn làng.
Nhà Rông là hình ảnh thu nhỏ của các thành tố văn hóa truyền thống của

một làng, một tộc người. Nó chiếm giữ vị trí quan trọng nhất trong tư duy và hiện
thực đời sống sinh hoạt của tất cả các thành viên trong cộng đồng. Đối với cộng
đồng các dân tộc thiểu số thì “Dân tộc – Làng – Nhà Rông” là mối quan hệ không
thể tách rời, cũng như làng của người Kinh gắn với cây đa, bến nước, sân đình.
Nhà Rông hùng vĩ vươn lên bầu trời với hình dáng như một lưỡi búa khổng lồ
biểu hiện sức mạnh của một cộng đồng làng, thể hiện tinh thần thượng võ, đầy uy
quyền, như là chế ngự không gian và thời gian để khẳng định chủ quyền, lãnh địa
của làng.
Làng – nhà Rông – lễ hội của đồng bào các dân tộc thiểu số có mối quan hệ
gắn bó chặt chẽ. Văn hóa làng sản sinh ra văn hóa lễ hội và văn hóa nhà Rông, lễ
hội dân gian truyền thống tôn vinh quyền uy của nhà Rông còn nhà Rông lại là
điều kiện và môi trường để thể hiện lễ hội. Cả hai đều có ý nghĩa duy trì lẫn nhau
và nằm trong nhau. Trong khi đó thì lễ hội là đất sống của gần như tất cả các loại
hình văn hóa, văn nghệ dân gian cổ truyền từ các lễ thức, phong tục, tập quán đến
các loại hình diễn xướng dân gian, nhạc cụ dân tộc, trang phục, ngôn ngữ, ứng
xử... bởi thế nên nhà Rông lại càng có vị trí hết sức quan trọng trong sinh hoạt văn
hóa cộng đồng, nhà Rông vừa có giá trị văn hóa vật thể (hữu hình), lại vừa có giá
trị văn hóa phi vật thể (nội dung bên trong, nơi thể hiện lễ hội). Những hình ảnh
bếp lửa nhà Rông bập bùng, những ghè rượu cần cột thành dãy hai bên bếp, âm


thanh trầm hùng của cồng chiêng, những vòng xoang uốn lượn và gương mặt rạng
rỡ của các già làng, các chàng trai cô gái trong lễ hội ở nhà Rông thể hiện một
không gian văn hóa hết sức mộc mạc, đầm ấm, quây quần trong sự cố kết cộng
đồng không thể tách rời làm nên bản sắc phong phú, độc đáo của văn hóa truyền
thống dưới mái nhà Rông.
Nghệ thuật tạc tượng nhà mồ. Phần lớn tượng nhà mồ là tượng người. Theo
chu trình dựng nhà mồ, để tiến hành nghi lễ bỏ mả, việc đầu tiên của người chủ hộ
là đẽo tượng mồ. Trong quá trình xây dựng nhà mồ, thì người dân tộc Gia Rai vào
rừng lấy gỗ dựng cột, thường là tám cột, còn vách được dựng bằng dãy gỗ tốt, mái

lợp lá, còn cửa mồ thì nằm quay về hướng Đông hầu hết những ngôi nhà mồ khi
tiến hành bỏ mả, người Gia-rai sử dụng các loại gỗ tạp, để đẽo tượng, phổ biến là
gỗ cây gạo (pơ-lang), vì loại gỗ này mọc nhiều ở vùng người Gia-rai sinh sống, dễ
tìm ở xung quanh làng. Theo kinh nghiệm người dân thì cây cà-chít có độ tuổi trên
10 năm mới đủ tiêu chuẩn để đẽo tượng vì hai loại cây này phân cành sớm, độ dài
của cây nếu chưa đủ tuổi trưởng thành thì không đáp ứng được những yêu cầu của
việc đẽo tượng. Những cây gỗ được chọn có độ dài hơn 2 sải tay , đường kính lõi
khoảng 30 cm. Người Gia-rai dùng rìu, đốn cây, khi đốn xong người ta vận chuyển
bằng cách dùng trâu kéo cây từ trong rừng về buôn làng. Việc khai thác gỗ để đẽo
tượng có kiêng kỵ, nếu đêm ngủ họ mơ thấy nhà cháy, bến nước cạn kiệt thì sáng
hôm sau sẽ hoãn lại việc lấy gỗ trong khi đi vào rừng lấy gỗ nếu gặp rắn bò ngang
qua đường thì họ quay về ngay, người ta cho đó là điềm không lành, dễ có chuyện
xấu xảy ra. Người dân tộcGia-rai đẽo tượng bằng chiếc rìu cứng cáp. Chỉ trên 1
khúc gỗ, không phác thảo và ngày này sang ngày khác, những cây gỗ to sù sì cứ
hiện lên những dáng dấp, hình người… những tư thế cùng những chi tiết đa dạng
của người đàn ông, đàn bà trẻ nhỏ. Dường như tất cả đã nằm trong đầu của họ. họ
lặng lẽ từng nhát chắc chắn bổ xuống để nên hình, nên tượng, nên hồn.Tượng được
đặt vào quần thể nhà mồ với những cột trang trí, với hàng rào, với hoa văn đan đủ


trên mái và với cả phối cảnh địa hình, cây cối nữa trở nên rất sinh động. Khi quan
sát những bức tượng mồ, người xem có thể nhận ra hình thể của từng bức tượng,
qua bàn tay của người nghệ nhân, đều xuất phát từ thân gỗ tròn, vốn là hình dạng
ban đầu của mỗi thân tượng. Bằng thủ pháp dùng mảng khối, người Gia-rai chỉ
phác hoạ một vài chi tiết trên cơ thể mà làm cho bức tượng bỗng trở nên sống động
như có hồn. Có thể nói, để tạo ra một quần thể nhà mồ, trong đó có các tượng tròn,
các phù điêu gỗ, các trang trí tre đan, người Tây Nguyên là những nghệ thuật tạo
hình xuất sắc.
Nói về văn hoá Tây Nguyên mà quên cồng chiêng thì là một thiếu sót lớn.
Cồng chiêng được coi như ngôn ngữ để con người giao tiếp với thiên nhiên. Trong

mỗi chiêng lại có thần chiêng (Yang chéng). Có lẽ vì thế, tiếng chiêng có ý nghĩa
thiêng liêng và theo tập quán cổ truyền chỉ được dùng trong các nghi lễ, lễ hội cần
thiết.
Trong văn hoá phần lớn các dân tộc Tây Nguyên, cồng chiêng đóng vai trò
quán xuyến cuộc sống con người. Với quan niệm cộng đồng gồm hai nửa- hôm qua
và hôm nay- thế giới hữu hình luôn có liên hệ với thế giới vô hình mà cồng chiêng,
với âm nhạc và sức mạnh thiêng của nó là cầu nối. Người có nhiều cồng chiêng
được tôn trọng không phải trước hết vì có nhiều của cải vật chất, mà chính là người
ấy có trong nhà nhiều Thần chiêng. Vì thế ông ta (hay bà ta) có bên mình nhiều
bạn bè ở thế giới vô hình với quyền năng lớn lao.
Hầu như mọi hoạt động văn hoá đều có cồng chiêng. Khi đứa trẻ sơ sinh
Giarai đầy cữ, người lớn đem cái chiêng quý, tương truyền là di vật của người anh
hùng trong H’Ri đến bên nó. Ông già làng gióng lên ba hồi chiêng theo nhịp xung
trận nếu là bé trai, theo nhịp mùa gặt nếu là bé gái. Hồi chiêng đó đồng bào gọi là
chiêng Thổi Tai. Họ quan niệm rằng trẻ sơ sinh vốn là tặng phẩm trời đất ban cho,
tai còn kín đặc, muốn cho bé lớn lên thành người của dân tộc, của làng, phải “thổi


tai cho bé thông suốt”. Việc đó chỉ có cồng chiêng làm được, với sức mạnh của
Thần chiêng.
Theo cách nói ngày nay, ba hồi chiêng được hiểu như những tín hiệu văn
hoá dân tộc, được gióng lên để đón lấy một thành viên mới của cộng đồng. Đó là
một lời truyền dạy, lời trăng trối của tất cả “cộng đồng hôm qua” cho mỗi con
người được sinh ra, được nuôi dưỡng và dạy dỗ để biết sống theo thói ăn, nếp ở
của dân tộc. Ba hồi chiêng đầu chỉ là một lễ thức. Đó chính là sự gieo mầm cho
văn hoá dân tộc được tiếp nối trong tất cả các thế hệ người.
Đứa trẻ lớn lên thành người trong một không gian đầy nhạc cồng chiêng.
Bởi vì bất cứ việc gì quan trọng con người đều muốn thông báo và kêu gọi sự giúp
đỡ của thiên siêu nhiên và nhất là của “nửa cộng đồng hôm qua”- tức tổ tiên. Thế
là cồng chiêng lại có mặt, chẳng sót nhà nào, nơi nào, việc gì. Tất cả đều phải có

nhạc cồng chiêng diễn tấu trong đội hình hình tròn, ngược chiều kim đồng hồ.
Đón con người vào đời là nhạc cồng chiêng. Lại cũng cồng chiêng sẽ tiễn
đưa con người ấy ra huyệt mộ để rồi trong lễ bỏ nhà mồ, linh hồn con người đi
theo tiếng cồng chiêng mà về với “nửa cộng đồng hôm qua”. Có thể nói, cuộc đời
con người Tây Nguyên “dài như tiếng chiêng”. Với chức năng xã hội như vậy, khái
niệm “Văn hoá cồng chiêng Tây Nguyên” được đưa ra là thoả đáng.
Cũng sẽ không sai nếu đưa ra một khái niệm nữa: Nghệ thuật âm nhạc cồng
chiêng Tây Nguyên. Xưa kia, mỗi nhà dù nghèo cũng có một bộ. Nhà giàu có đến
hàng chục bộ khác nhau. Gọi là một bộ vì đó là một biên chế âm nhạc với một hệ
âm thanh chặt chẽ. Tuỳ theo dân tộc, thậm chí, từng nhóm địa phương từng dân
tộc, biên chế ấy không giống nhau. Một bộ chiêng cồng có từ 3 đến 15 cái, trong
đó, cồng (có núm) và chiêng (không có núm). Cùng với cồng chiêng, còn có trống
và ở một số dân tộc còn thêm hai cặp chũm chọe nữa. Theo đồng bào, trống là thần
sấm biểu tượng cho Trời, tính nam. Cồng chiêng biểu tượng cho Đất, tính nữ.
Người Giẻ cho rằng trống là Mặt trời, tính nam, cồng là Mặt trăng, tính nữ. Bất kể


cồng chiêng và trống được gắn cho biểu tượng gì, ở đâu cũng ẩm giấu một quan
niệm lưỡng hợp nguyên sơ về một quá trình sinh sôi nảy nở của cư dân nông
nghiệp. Nếu bộ chiêng chỉ có ba chiếc thì thường đó là ba cái cồng (có núm). Âm
thanh của chúng cách nhau một quãng năm và quãng bốn. Đó là những quãng cơ
bản trong hệ âm thanh thiên nhiên.
Ở Việt Nam nhiều dân tộc dùng chiêng cồng. Nhưng không ở đâu cồng
chiêng lại quán xuyến cuộc sống con người và đạt đến trình độ âm nhạc như cồng
chiêng Tây Nguyên. Chính phẩm chất này đã khiến “văn hoá cồng chiêng” và
“nghệ thuật âm nhạc cồng chiêng” trở thành một đặc điểm nổi bật của vùng văn
hoá Tây Nguyên.
Trang phục Tây Nguyên có đầy đủ các thành phần, chủng loại trang phục và
phong cách thẩm mỹ khá tiêu biểu cho các dân tộc khu vực Tây Nguyên. Lễ hội
của đồng bào dân tộc Tây Nguyên thường diễn ra theo chu kỳ vòng đời con người

(lễ thổi tai, lễ mừng sức khỏe, lễ cưới, lễ tang…), theo chu kỳ vòng đời cây trồng
(lễ phát rẫy, lễ xuống hạt giống, lễ thúc lúa, lễ cho lúa lên chòi, lễ cho lúa xuống
chòi…). Trang phục của phụ nữ Tây Nguyên rất đẹp, vì có nhiều hoa văn, và làm
nổi lên một cách kín đáo đường nét của cơ thể. Nhưng nét đặc sắc nhất của Tây
Nguyên là ở trang phục nam giới. Họ đóng khố mặc áo, quấn khăn có cài lông
chim quý nhiều màu. Đấy là cả một công trình dệt và thêu và là cả một nghệ thuật
trang trí phục sức. Ngoài cái phần để che, khố có vạt trước, vạt sau và nhiều hoa
văn, diềm khố có tua bông và dài đến giữa ống chân. Vạt trước dài, vạt sau ngắn
xúng xính theo nhịp chân đi làm tôn thêm rất nhiều cái phần cơ thể săn chắc, khoẻ
mạnh của người đàn ông. Nếu trời lạnh, họ khoác thêm một tấm vải choàng rộng
trên cổ, buông xuống tận đầu gối, mở ra trước ngực. Khi gió lật tấm choàng, có
cảm giác như con người hùng dũng ấy sắp sửa bay lên.
Cuối cùng, tất cả những thứ như khố hai vạt với khăn quấn đầu có cắm lông
chim, dàn chiêng cồng với cái trống lớn, cối giã gạo hình thuyền và chày đứng,
kiểu mái nhà trên nở dưới thót, thuyền độc mộc hình thoi với trang trí ở mũi và


mạn…tất cả những thứ ấy dường như mới từ những hình khắc trên trống đồng
Ngọc Lũ I trở về với hiện thực. Đến Tây Nguyên ít nhiều có cảm giác như sống
trong không gian văn hoá Đông Sơn vậy. Vùng văn hoá Tây Nguyên hay còn có
thể gọi là vùng hậu duệ rõ nét nhất của văn hoá Đông Sơn ở Việt Nam.
Ẩm thực ngày tết của Tây Nguyên
Tây Nguyên là nơi sinh sống của hàng chục dân tộc anh em, đông nhất là
các dân tộc Ba Na, Gia Rai, Ê-đê, M’Nông, Xơ-đăng, H’rê.... Mỗi dân tộc đều có
phong tục, tập quán riêng và hàng năm đều có tổ chức những ngày lễ Tết cho buôn
làng sau khi gặt hái đã hoàn tất. Ngày thường, đồng bào Tây Nguyên ăn cơm gạo
tẻ với thức ăn nấu từ các loại rau rừng, mộc nhĩ, các loại củ, măng le. Thỉnh thoảng
mới kiếm được con cá dưới sông, con thú từ trong rừng để cải thiện thêm bữa ăn.
Còn các loại gia súc, gia cầm nhà nào cũng có, họ nuôi bằng cách thả rong vào
rừng, ra bờ sông, bờ suối, và chỉ làm thịt để dùng vào việc cúng tế thần linh hay để

thiết đãi khách quí đến thăm làng. Những ngày lễ Bỏ Mả, lễ Đâm trâu xây cột, Tết
Cơm mới, Tết Giọt nước, Tết Lửa... diễn ra rộn rịp suốt mùa hanh khô. Đây là mùa
lễ Tết ở Tây Nguyên.Trong lễ Tết, ẩm thực của các dân tộc Tây Nguyên đều giống
nhau, từ món thịt nướng cho đến rượu cần. Còn cách ăn uống và nấu nướng thế
nào, thì đó là đặc điểm của mỗi dân tộc và của mỗi địa phương.
Vào các ngày lễ Tết, cơm nếp được thay cơm gạo tẻ và được nấu theo cách
thức của tổ tiên: Cơm Lam. Họ vào rừng chặt những ống lồ ô còn non, giữ lại mấu
ở một đầu ống rồi cho gạo nếp và nước vào, xong nút lại đem đốt bằng lửa và than
cho thật khéo. Những ống cơm lam, ngoài vỏ tuy đen đúa, lem nhem nhưng khi
chẻ bỏ lớp vỏ ấy đi thì lộ ra lớp cơm nếp thơm ngon, hấp dẫn lạ thường. Hương vị
nếp quyện với hương thơm của tre tươi qua lửa làm cho cơm lam có một hương vị
đặc biệt, hơn hẳn cơm nếp nấu trong chõ, trong nồi.
Thịt là thực phẩm chủ yếu trong các món ăn ngày Tết. Người Tây Nguyên
làm lông con vật bằng cách thui đốt. Họ không chế biến được các món ăn đặc biệt


như ở miền xuôi. Đáng chú ý là món nướng và làm món như tiết canh, nem sống ở
dạng thô sơ. Những món ăn này dùng để khoản đãi hay để dâng cúng thần linh.
Ngoài ra, họ còn dùng phèo lấy từ ruột con vật bốn chân để chế biến món ăn là một
đặc điểm trong cách thức ngả món của đồng bào Gia Rai, Ba Na. Kỹ thuật băm
sống và trộn bóp đóng vai trò quan trọng tạo ra nhiều món từ thịt trâu bò, dê,
nguồn thịt chính trong lễ hiến tế thần linh. Có món thịt bóp với phèo. Có món thịt
băm nhỏ trộn với muối đựng trong ống tre. Có món thịt trộn với phèo rồi gói lá. Có
món thịt trộn với tiết, phèo và muối ớt để trên lá. Có món thịt, ruột non, gan, ruột
già hỗn hợp đựng trong ống tre. Lại có món thịt băm, tiết, phèo, muối ớt trộn
nhuyễn. Da bóp với phèo cũng thành một món. Món thường gặp là gan và lá sách
thái miếng xiên xen kẽ vào que tre để nướng.
Trong các món ăn kể trên họ đều dùng thịt sống, tuy không được nấu nướng
nhưng có thể phèo là nguyên liệu có tác dụng làm tái các loại thịt tươi, giống như
thính gạo trong món nem của người Kinh. Hơn nữa, tất cả những món sống ấy bao

giờ cũng làm thành món đưa cay. Rượu cần là đồ uống không thể thiếu được trong
các ngày lễ Tết. Thức nhắm, thậm chí được đặt gần bên các ghè rượu, có lót lá
chuối đặt vào chiếc rá (rổ) để thực khách vừa nhâm nhi thưởng thức vừa chuyện
trò, thỉnh thoảng đưa tay bốc một nhúm thức ăn đưa lên miệng...
Cùng với món sống, họ cũng làm các món nấu chín theo tập tục lâu đời.
Trong các món này, thịt bao giờ cũng được nấu chung với bột gạo và rau đã giã
nhỏ tạo thành món sền sệt đặc như cháo có thể bốc ăn được. Món thịt nướng cũng
là món thông dụng và được ưa thích. Có loại đem gói kín trong lá tươi rồi vùi vào
than hay tro nóng. Có loại thì xâu thành từng xâu hơ trên than củi đang cháy.
Trong không khí cộng đồng ngày lễ Tết, việc ăn uống diễn ra với nhiều ý
nghĩa, nó không chỉ đáp ứng nhu cầu no bụng, ngon miệng mà còn đáp ứng nhu
cầu về tình nghĩa chòm xóm láng giềng trong buôn làng, quan hệ giữa con người
với nhau. Vượt lên trên thực đơn vừa kể, món ăn trong ngày lễ Tết không tách khỏi


phần tâm linh, tín ngưỡng sâu sắc, kết nối giữa người sống kẻ chết, giữa con người
với thần linh. Chính vì vậy mà các món ăn thức uống vào ngày lễ Tết của họ mang
ý nghĩa thiêng liêng và hết sức trang trọng.
Phong tục uống rượu cần của người Tây Nguyên
Rượu cần ở Tây nguyên là sản vật- nghi vật – lễ vật, nó có mặt ở mọi lúc,
mọi nơi trong đời sống sinh hoạt xã hội, trong tinh cảm, tâm linh của mọi gia đinh
hay cộng đồng.Không có rượu cần thì không có lễ lạt, cưới xin, ma chay, bè bạn…
Rượu cần giữ vai trò là lễ vật khi kinh dâng lên các Thần linh, giao tiếp với các
đấng siêu linh. Với bạn bè, là phương tiện chia sẻ niềm vui, nỗi buồn, hẹn hò, nhắn
nhủ công việc, giao kết tình duyên đôi lứa… Trưóc khi thực hiện giao lưu tình
cảm, rượu cần làm nghĩa vụ: thông báo, dâng mời, cầu xin các Thần linh chứng
giám hoặc ban phước. Dù xử dụng trong thời gian nào, không gian nào, tục uống
rượu cần cũng vẫn là một nét văn hóa đẹp trong đời sống của đồng bào các dân
tộc Tây nguyên.
Rượu cần được làm thường xuyên, liên tục bất cứ vào tháng năm nào.Nhưng

chủ yếu dùng vào những ngày “ có việc “ của buôn làng hay gia đình.Như: cúng
Yàng, mừng thọ người già, lễ cưới, đám ma, làm nhà, có khách xa đến chơi.Đặc
biệt là trong những lễ nghi phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, những lễ hội của cả
buôn làng. Gia đình hay buôn làng nào “có việc” như vậy, liền được sự đóng góp
của cả họ hàng, cả buôn. Mọi gia đình đều chuẩn bị ghè rượu to nhất, ngon nhất
của mình để đem tới góp chung. Vừa xẻ chia, giúp đỡ, vừa tạo nên tình cảm gắn
bó, thân tình đầm ấm trong cộng đồng.
Để có được ché rượu, phải tiến hành nhiều công đoạn, từ chuẩn bị nguyên
liệu đến cách thức chế biến, tính toán thời gian phù hợp, sao cho vừa kịp xử
dụng… để ghè rượu đạt chất lượng cao nhất. Gia đình Tây nguyên nào cũng biết
làm rượu cần, nhưng tỷ lệ lại là bí quyết riêng chỉ được phép truyền trong mỗi
nhà.Do đó rượu được tạo ra bởi những hương vị khác nhau theo sở thích của từng


gia đình. Tuy nhiên có một điều ai cũng phải tuân theo là : trong thời gian làm men
rượu, kể cả làm rượu, phải giữ cho thân thể được sạch sẽ, nhất là vợ chồng không
được quan hệ sinh lý với nhau. Đồng bào cho rằng như thế sẽ ảnh hưởng đến chất
lượng, hương vị cuả men rượu.
Đặc biệt, bộ phận lớn nhất trong nền văn hoá cổ truyền các tộc người Tây
Nguyên là các hình thức và hoạt động văn hoá phi vật thể. Đây là bộ phận có vai
trò rất quan trọng, vừa là chỗ dựa tinh thần, vừa là tác nhân làm cân bằng đời sống
xã hội và con người. Nền văn hoá cổ truyền Tây Nguyên nhìn chung đa số tồn tại
dưới dạng văn hoá dân gian. Đó là các bộ sử thi nổi tiếng của đồng bào như Đam
San, Xinh Nhã, ĐămBri, Dăm Dí, Rơ Păm, Khinh Dú với các nghệ nhân hát kể các
bộ sử thi đó như Khan (Êđê), Hơri (Giarai), Hôamn (Hahnar), Otnroong (M’nông),
Akhatgukhar (Rắcglây), hoặc có nhiều thầy cúng (Pơtau), các luật tục giống như
Hương ước của người Kinh dưới xuôi. Các lễ hội cứ nối tiếp nhau từ mùa xuân
năm nay đến năm sau như đâm trâu (Groongk’po), cầu an cho lúa (Sômah kwai),
bỏ mả (Pớatpothi), cúng đất làng, lễ mừng, tết cơm mới, múa trống, múa xoang,
múa khiên, đánh cồng, đánh chiêng… cùng với những lễ hội đó, đời sống tâm linh

của các tộc người ở đây cực kỳ phong phú mà các nhà nghiên cứu dân tộc học gọi
là tính ngưỡng “vạn vật hữu linh” với các hình thức biểu hiện như Tô tem giáo,
Bái vật giáo,…
Một số dân tộc Tây Nguyên như Êđê, Giarai, Bana đã sáng tạo và lưu giữ
cho đến nay những tác phẩm nghệ thuật mà xưa nay vẫn gọi là trường ca. Người
Êđê gọi đó là khan, ở người Gialai là H’Ri và ở người Bana là H’ămon. Khan Đăm
San được biết đến và dịch ra tiếng Pháp, tiếng Việt từ những năm nửa đầu thế kỉ
XX. Sau đó là các khan Xinh Nhã, Xinh rú, Đăm noi…
Người Bana An Khê (Gia Lai) gọi việc trình bày là Book H’ămon, tức Ông
H’ămon. Đề tài và cốt truyện H’ămon thường nói về các anh hùng thuở khai sáng,
những nhân vật cứu loài người, cứu dân tộc khỏi những hiểm hoạ to lớn. Để hát
ngâm, đồng bào phân loại các nhân vật thành hai phe Chính- Tà, mỗi phe có một


làn điệu âm nhạc riêng. Mỗi nhân vật nam hay nữ trong mỗi phe lại có làn điệu
riêng của mình. Thành thử nếu nghe quen thì chỉ cần cất lên làn điệu nào là có thể
hiểu ngay, đấy là nhân vật nam hay nữ, thuộc phe chính hay tà.
Trình bày H’ămon bao giờ cũng là một sinh hoạt cộng đồng nghiêm túc, đầy
tính chất thiêng liêng, ít nhất bao gồm toàn bộ già trẻ trai gái dân làng sở tại, nhưng
thường có cả dân các làng gần đấy. Họ ngồi bên ngoài, bao quanh căn nhà sàn, gom
thành những nhóm nhỏ, ngồi im lặng quanh những đống lửa nhỏ, vừa rít tẩu thuốc,
vừa nghe. Chỉ có mấy vị già làng là ngồi trên nhà, bên bếp lửa ở gian tiếp khách.
Đến với H’ămon là để sống với nó, nên hễ đã bắt đầu trình bày một H’ămon
nào đó thì phải kể cho đến hết, dù có phải chia thành nhiều đêm. Nếu bỏ dở, các
nhân vật (vốn được tin rằng luôn hiện hữu bên cạnh con người) sẽ không bằng lòng
vì số phận của họ không được kể từ gốc đến ngọn. Còn người nghe cũng cần được
sống với câu chuyện cho đến khi ngã ngũ, kết thúc. Nhu cầu được sống ấy khiến
cho một H’ămon được kể đi kể lại nhiều lần mà dân không chán.
3. Một số giải pháp bảo tồn và phát huy bản sắc vùng văn hóa Tây Nguyên
Rõ ràng, nền văn hoá truyền thống của các dân tộc Tây Nguyên là vô cùng

quý giá và đa dạng. Đây chính là những nhân tố góp phần vào hành trang văn hoá
dân tộc trong quá trình hội nhập quốc tế. Dưới sự chỉ đạo của Đảng và Nhà nước,
công tác bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá tiêu biểu của dân tộc cũng như bảo
tồn và phát triển văn hoá các dân tộc thiểu số Tây Nguyên đã đạt được nhiều thành
tựu đáng khích lệ. Tuy nhiên, thực tế hiện tại trong quá trình phát triển kinh tế thị
trường, CNH, HĐH và hội nhập quốc tế, văn hoá cổ truyền các dân tộc Tây
Nguyên đang bị tấn công và có những nét văn hoá bị mai một đi từng ngày, hoặc
được chú ý giữ gìn nhưng lại mang hơi hướng “hiện đại hoá”. Văn hoá truyền
thống Tây Nguyên trong quá trình phát triển cũng cần phải loại bỏ dần những tập
tục lạc hậu lỗi thời, cũng như cần tiếp tục chọn lọc cái mới, giữ gìn cái truyền
thống còn ý nghĩa và tác dụng tích cực để bổ sung và làm phong phú thêm. Trong


nguyên lý phát triển của chủ nghĩa Mác, đó chính là nguyên tắc kế thừa cần được
quán triệt. Tất nhiên, cũng có những nguyên nhân chủ quan và khách quan để nền
văn hoá truyền thống các tộc người Tây Nguyên không tồn tại toàn vẹn như quá
khứ. Chúng ta phải chấp nhận thực tế khách quan như lợp mái tôn thay mái tranh,
cột bê tông thay cột gỗ khi rừng ngày càng thu hẹp và cạn kiệt. Các lễ hội không
thể kéo dài ngày như ngày xưa mà phải nhanh, ngắn và nhỏ hơn trước, hoặc thay vì
độc canh thì chuyển đa dạng hoá sản xuất, phải ứng dụng kỹ thuật, phải định canh
định cư, đất đai vì dân di cư có và không có tổ chức đến nay đã làm cho diện tích
canh tác trên đầu người bị thu hẹp, không gian sinh hoạt văn hoá rộng rãi trước kia
nay dần thu hẹp lại… Trước thực trạng trên, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ
trương, chính sách và dành hẳn chương trình mục tiêu quốc gia về bảo tồn và phát
triển văn hóa các dân tộc thiểu số Tây Nguyên. Quán triệt đường lối xây dựng nền
văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, trong thời gian qua, công tác
giữ gìn và phát huy các giá trị văn hoá các dân tộc Tây Nguyên đạt được nhiều tiến
bộ tích cực. Quan điểm của Đảng không chỉ bảo tồn, phát huy mà còn làm giàu
thêm bản sắc văn hoá dân tộc ở Tây Nguyên. Trong mảng công tác này, mặc dù
gặp nhiều khó khăn nhưng sự đồng thuận giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân đã

phát huy hiệu quả. Nhìn tổng thể, nền văn hoá cổ truyền các dân tộc Tây Nguyên
đang đứng trước thử thách của một giai đoạn, một thời kỳ phát triển mới do những
cơ sở kinh tế - xã hội vốn có và làm nảy sinh nay bị thu hẹp, mất dần, cộng thêm
những yếu tố văn hoá ngoại sinh tràn ngập đời sống tác động. Tất cả những nhân tố
đó đang đặt văn hoá truyền thống các dân tộc Tây Nguyên trước thực tế của sự mai
một dần dần. Để giữ gìn, bảo tồn và phát huy, kế thừa những tinh hoa văn hoá cổ
truyền Tây Nguyên, góp phần xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc, làm hành trang văn hoá Việt Nam hội nhập khu vực và quốc tế,
cần thực hiện một số giải pháp cơ bản sau:


Thứ nhất: Giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với kế thừa
và phát triển văn hoá, bởi kinh tế là nền tảng, là cơ sở để văn hoá thăng hoa. Ngược
lại, khi những vấn đề văn hoá có điều kiện phát triển sẽ tạo nhiều thuận lợi để kinh
tế phát triển nhanh và bền vững. Do vậy, đối với đồng bào các dân tộc Tây
Nguyên, bên cạnh những chính sách xoá đói, giảm nghèo, hỗ trợ vốn, giống, vật
nuôi, cây trồng phù hợp với điều kiện tự nhiên ở khu vực, thì đồng thời tích cực
chuyển giao công nghệ, đào tạo đội ngũ cán bộ văn hoá, kỹ thuật lành nghề và chú
trọng vào đối tượng là con em của đồng bào các dân tộc thiểu số. Cần tiếp tục đầu
tư hơn nữa về nhân tố con người và cơ sở vật chất cho hai trường Đại học của vùng
là Đại học Đà Lạt (Lâm Đồng) và Đại học Tây Nguyên (Đắc Lắc), cùng hệ phổ
thông, trung học hướng nghiệp và đào tạo nghề để góp phần nâng cao dân trí, đào
tạo và bồi dưỡng nhân tài cho khu vực.
Thứ hai: Cần tiếp tục quan tâm đầu tư thoả đáng cho công tác sưu tầm, điền
dã, xuất bản các bộ sử thi Tây Nguyên, các loại sách giáo khoa song ngữ, khôi
phục lại nhà Rông truyền thống vì đây là địa điểm sinh hoạt văn hoá có ý nghĩa
tâm linh rất lớn cho đồng bào, cho thanh niên các dân tộc thiểu số. Đồng thời cho
khôi phục và tổ chức lại các lễ hội còn có ý nghĩa tâm linh và giáo dục đối với đời
sống văn hoá cộng đồng, thường xuyên tổ chức các lễ hội giao lưu văn hoá như
tuần lễ văn hoá, liên hoan văn hoá ở các địa phương và khu vực.

Thứ ba: Giữ gìn và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống các dân tộc Tây
Nguyên không chỉ là công việc của các cấp chính quyền mà còn là sự đồng thuận
của các dân tộc theo quan điểm “ý Đảng, lòng dân”. Đầu tiên là phải giáo dục cho
đồng bào các dân tộc hiểu được tầm quan trọng của các giá trị văn hoá, nhất là với
lớp người trẻ, bởi đây sẽ là lực lượng kế cận quyết định sự tồn vong bản sắc văn
hoá dân tộc. Đồng thời phải có chính sách khen thưởng đãi ngộ xứng đáng với
những người tham gia vào quá trình bảo tồn và phát huy các giá trị như văn nghệ
sĩ, các nghệ nhân, các nhà nghiên cứu văn hoá, văn nghệ gắn bó với mảnh đất và


con người Tây Nguyên. Trên cơ sở đó tiếp thu những cái mới, cái tiến bộ của văn
hoá bên ngoài, giữ gìn những thuần phong mỹ tục của đồng bào các dân tộc, loại
bỏ dần các hủ tục, tập quán lỗi thời, lạc hậu.
Thứ tư: Thực hiện chính sách tôn giáo, đất đai, dân tộc hợp lý. Ví dụ như với
đạo Tin lành ở Tây Nguyên thì đẩy nhanh quá trình bình thường hoá, các buôn
phải đăng ký với chính quyền để sinh hoạt tôn giáo. Đồng thời tập trung giải quyết
vấn đề đất đai, dân tộc, sẽ giải quyết tận gốc những vấn đề bất ổn về kinh tế xã hội
trong thời gian qua. Mặt khác, để gần dân, sát dân hơn, yêu cầu những người làm
công tác văn hoá cần nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng hưởng thụ văn hoá chính
đáng của đồng bào, và làm tốt công tác tham mưu cho chính quyền về các vấn đề
văn hoá xã hội kịp thời. Nhà nước cần có chính sách ưu đãi, trợ cấp để cán bộ văn
hoá yên tâm công tác. Đối với công tác với từng buôn, cần phát huy vai trò của Già
làng, trưởng bản và các nghệ nhân trong công tác tuyên truyền, vận động giáo dục,
thuyết phục bà con buôn làng noi theo trong công tác xoá đói, giảm nghèo, thực
hiện chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Đây là những
người có uy tín cao trong cộng đồng, là hạt nhân của khối đại đoàn kết ở cơ sở, và
chính họ sẽ là những người đào tạo và giúp lớp trẻ nhận thức đầy đủ về ý nghĩa và
giá trị của các di sản văn hoá truyền thống.
KẾT LUẬN
Vấn đề bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa là một vấn đề lâu dài, bản sắc

văn hóa là thiêng liêng, quý giá, nó tạo nên cái đặc thù của một dân tộc. Bản sắc văn
hóa được hình thành trong lịch sử lâu dài, được đúc kết từ kinh nghiệm sống, được
lưu truyền qua nhiều thế hệ, gắn bó máu thịt với con người. Nó tồn tại tự nhiên
không thể ép buộc, nhưng đòi hỏi chúng ta phải biết giữ gìn. Giữ gìn bản sắc văn
hóa Tây Nguyên là một yêu cầu vừa lâu dài vừa cấp thiết. Có lẽ trước hết mỗi cá
nhân phải nhận thức được tầm quan trọng của việc giữ gìn bản sắc văn hóa theo
đúng cách nghĩ: mọi cái sẽ qua đi, cái còn lại của mỗi dân tộc là văn hóa, chúng ta


phải tăng cường giáo dục để mọi công dân hiểu được những giá trị, những biểu hiện
truyền thống văn hóa, không để bị mai một và ngày càng được bảo tồn và phát triển.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]
[2]

[3]

[4]
[5]
[6]
[7]
[8]
[9]
[10]
[11]
[12]

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,

Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011.
Ban Tuyên giáo Trung ương, Tài liệu nghiên cứu Nghị quyết và một số chủ
trương của Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng
sản Việt Nam khóa XI, NXB CTQG, HN, 2014
Trương Minh Dục, Giữ gìn và phát huy giá trị văn hoá Tây Nguyên trong
quá trình xây dựng đời sống văn hoá tinh thần ở vùng đồng bào các dân tộc
thiểu số, Tạp chí Sinh hoạt Lý luận, số 1/2010.
Phan Đăng Nhật, Kế thừa luật tục để xây dựng quy ước làng văn hoá ở Tây
Nguyên, Tạp chí Cộng sản, số 13-07/2010.
Tô Ngọc Thanh, Văn hoá các tộc người Tây Nguyên – Thành tựu và thực
trạng, T/c Sinh hoạt Lý luận, số 1/2008.
Trần Ngọc Thêm, Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXBGD, HN, 1998
Hồ Tấn Sáng, Nâng cao đời sống văn hoá tinh thần vùng núi các tỉnh miền
Trung, Tạp chí Cộng sản, số 17 – 10/2007.
Nguyễn Nhân Thống, Âm vang lễ hội Tây Nguyên, Tạp chí Cộng sản, số 4 +
5 – 2/2003.
Ngô Đức Thịnh, Văn hoá dân gian và bản sắc văn hoá dân tộc, Tạp chí
Cộng sản, số 8-02/2011.
Nguyễn Thế Tư, Già làng ở Kon Tum với việc xây dựng củng cố khối đoàn
kết dân tộc, Tạp chí Sinh hoạt Lý luận, số 2/2012.
Võ Quang Trọng, Luật tục các dân tộc Tây Nguyên với quyền bình đẳng của
phụ nữ và trẻ em, Tạp chí Cộng sản số 14-05/2009.
Trần Quốc Vượng, Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXBGD,HN. 2006



×