Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Tiểu luận giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong quá trình phát triển kinh tế thời kỳ hội nhập quốc tế,

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (102.4 KB, 15 trang )

MỞ BÀI
Văn hóa khắc họa bản sắc và phương thức tồn tại của một cộng đồng,
khiến cộng đồng ấy có một đặc thù riêng. Như vậy, văn hóa mang bản
sắc dân tộc. Và yếu tố dân tộc là yếu tố quyết định nhất của một nền văn
hóa. Bản sắc văn hóa dân tộc là cái "hồn", là sức sống nội sinh, là cái
thẻ căn cước của mỗi dân tộc, để phân biệt dân tộc này với dân tộc
khác, từ đó nó có thể biểu lộ một cách trọn vẹn nhất sự hiện diện
của mình trong quá trình giao lưu, hội nhập. Và, hội nhập quốc tế tạo
nên nhiều cơ hội phát triển nhưng cũng chứa đựng nhiều thách thức,
trong đó có thách thức về giữ gìn bản sắc văn hóa của các dân tộc. Làm
thế nào để giữ gìn được bản sắc văn hóa dân tộc trong quá trình phát
triển kinh tế thời kỳ hội nhập quốc tế, phát huy được bản sắc văn hóa
dân tộc như một sức mạnh nội sinh để phát triển là một vấn đề cần được
nghiên cứu để có những định hướng đúng đắn cho con đường phát triển
của dân tộc.
NỘI DUNG
1.Văn hóa và bản sắc văn hóa dân tộc là gì?
Theo cựu tổng giám đốc UNESCO- Federico Mayor đã đưa ra một định
nghĩa về văn hóa : “văn hóa phản ánh và thể hiện một cách tổng quát và
sống động mọi mặt của cuộc sống (của mỗi cá nhân và cả cộng đồng) đã
diễn ra trong quá khứ cũng như đang diễn ra trong hiện tại, qua hàng bao
thế kỷ nó đã cấu thành một hệ thống các giá trị, truyền thống, thẩm mỹ
và lối sống mà dựa trên đó từng dân tộc tự khẳng định bản sắc riêng của
mình”. Văn hóa là hiện tượng khách quan, là tổng hòa của các khía cạnh
đời sống. Ngay cả những khía cạnh nhỏ nhặt nhất của cuộc sống cùng
mang dấu hiệu văn hóa. Rất nhiều thứ thoạt nhìn thì giống nhau, nhưng
xem xét kỹ lại có những điểm riêng biệt. Văn hóa tồn tại và phát triển
trong mối quan hệ thích nghi giữa con người với tự nhiên, giữa con
người với con người. Vì vậy văn hóa không phải giá trị cố định, bất biến
mà văn hóa luôn phát triển.
Còn bản sắc văn hóa dân tộc là sắc thái gốc, những đường nét, màu sắc


riêng biệt không thể trộn lẫn của một nền văn hóa. Bản sắc văn hóa dân
tộc làm nên cốt lõi vững chắc giúp cho nền văn hóa luôn giữ được tính
duy nhất, tính nhất quán trong quá trình phát triển. Với vai trò là “bệ đỡ”
bản sắc văn hóa dân tộc đã giúp cho dân tộc Việt Nam đứng vững suốt
hàng chục thế kỷ trước sự nô dịch cũng như âm mưu đồng hóa của ngoai
bang. Và chính sự du nhập của văn hóa ngoại bang đã tạo nên cốt cách,
diên mạo không thể tiêu diệt được của văn hóa Việt Nam.
2. Khái quát về nền văn hóa Việt Nam trong quá trình hội nhập
quốc tế hiện nay.
Suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước những sắc thái văn hóa
dân tộc Việt Nam được kết tinh rất đậm đà và riêng biệt, tiêu biểu là
“lòng yêu nước nồng nàn, ý thức tự cường, tinh thần đoàn kết, ý thức
cộng động gắn kết cá nhân- gia đình- làng xã, tổ quốc, lòng nhân ái
khoan dung trọng tình nghĩa, đạo lý, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao
đồng, sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống,…Bản sắc dân
tộc Việt Nam còn đậm nét trong các hình thức biểu hiện mang tính dân
tộc độc đáo”. Bản sắc văn hóa nước ta đậm nét bời suốt hàng nghìn năm
bị ngoại bang đô hộ, hàng trăm năm bị xâm lăng bởi bao thế lực hùng
mạnh mà những nét đặc trưng của nó không những không mất đi mà còn
càng ngày được khẳng định và phát triển.
Mở cửa hội nhập toàn cầu với Việt Nam thực sự đạng là một cuộc tiếp
biến lớn lao, rất căn bản của văn hóa Việt Nam với văn hóa thế giới. Bởi
vì hội nhập quốc tế sẽ làm tăng nhanh nhiều loại sản phảm văn hóa,
trong đó bên cạnh những yếu tố tốt đẹp có cả những yếu tố không phù
hợp với văn hóa truyền thống, thậm chí đốc hại. Vậy trong quá trình hội
nhập chúng ta phải lựa chọn trước sự thâm nhập ồ ạt từ bên ngoài vào để
chống lại sự đảo lộn những thói quen, nếp sống và cả suy nghĩa của mọi
người trong xã hội.
Thực trạng những năm gần đây không chỉ ở thành thị mà cả nông thôn,
điều kiện sống, tiện nghi sinh hoạt, lối sống đã và đang có sự thay đổi

lớn. Sự thay đổi đó không chỉ ở trong đời sống vật chất mà ngay cả
trong đời sống tinh thần và suy nghĩ của con người. Sự khủng khoảng về
một số mặt trong nhiều phương tiện đời sống đang hình thành và liên
quan đến từng gia đình. Trước đây một số người đi tìm sự thỏa mãn lối
sống phóng đãng của họ ở nước ngoài, thì nay lối sống đó đã nảy sinh ở
Việt Nam. Trên nhiều lĩnh vực lối sống đó đang có xu thế khống chế lối
sống truyền thống Việt Nam. Nhiều cách sinh hoạt, cách sống, cách
nghĩ,…thực sự đang xung đột với các chuẩn mực mà nhân dân ta cho là
lành mạnh. Nhiều hiện tượng trước đây hoàn toàn xa lạ thì nay không ít
người xem là chuyện bình thường như: bạo lực,…xem tiền là tối thượng,
… đồng minh của lối sống buông thả là luận điệu tự do, dân chủ không
ranh giới. Tất cả những cái đó nếu không kịp thời ngăn chặn thì đến một
lúc nào đó thì an ninh quốc gia, thậm chí nền độc lập dân tộc sẽ là bia
bắn phá, lối sống và văn hóa dân tộc sẽ bị coi là lạc hậu, lạc lõng.
Vậy là thế nào để khi hội nhập mà chúng ta vẫn giữ được bản sắc văn
hóa dân tộc đã là vấn đề bức xúc đặt ra cho toàn Đảng, toàn dân ta hiên
nay. Vì mục đích của chúng ta tham gia hội nhập không chỉ vì cuộc sống
tiện nghi mà còn là phát triển một nền văn hóa dân tộc ngaỳ càng tiến
bộ, hiện đại và đậm đà bản sắc dân tộc.
3. Quan điểm của Đảng về giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc trong
quá trình hội nhập quốc tế
Tháng 7 năm 1998 hội nghị Ban Chấp hành Trung ương 5 (khóa VIII) ra
Nghị quyết về xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc.
Nghị quyết đã nêu ra 5 quan điểm cơ bản chỉ đạo, 10 nhiệm vụ cụ thể
và 4 giải pháp lớn để xây dựng và phát triển nền văn hoá trong thời kỳ
mới.
Năm quan điểm chỉ đạo:
1. Văn hoá là nền tảng tinh thần xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động
lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Thiếu nền tảng tinh thần lành

mạnh và tiến bộ thì không có sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững.
Xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu văn hoá, vì xã hội
công bằng, văn minh, con người phát triển toàn diện.
2. Nền văn hoá Việt Nam là nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc.
3. Nền văn hoá Việt Nam là nền văn hoá thống nhất mà đa dạng trong
cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
4. Xây dựng và phát triển nền văn hoá là sự nghiệp của toàn dân, do
Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng.
5. Văn hoá là một mặt trận, xây dựng và phát triển văn hoá là sự
nghiệp cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên
trì, thận trọng.
Mười nhiệm vụ cụ thể:
1. Xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới với
những đức tính: tinh thần yêu nước, có ý thức tập thể, có lối sống lành
mạnh
2. Xây dựng môi trường văn hoá.
3. Phát triển sự nghiệp văn học - nghệ thuật.
4. Bảo tồn và phát huy các di sản văn hoá.
5. Phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo và khoa học công nghệ.
6. Phát triển đi đôi với quản lý tốt hệ thống thông tin đại chúng.
7. Bảo tồn, phát huy và phát triển văn hoá các dân tộc thiểu số.
8. Chính sách văn hoá đối với tôn giáo.
9. Mở rộng hợp tác quốc tế về văn hoá.
10. Củng cố, xây dựng và hoàn thiện thể chế văn hoá.
Bốn giải pháp lớn:
1. Mở cuộc vận động giáo dục chủ nghĩa yêu nước với thi đua yêu
nước và phong trào: "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá".
2. Tăng cường xây dựng, ban hành luật pháp và các chính sách về văn
hoá.

3. Tăng cường nguồn lực và phương tiện cho hoạt động văn hoá.
4. Nâng cao hiệu quả lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hoá.
Toàn bộ tinh thần của Nghị quyết đã làm sáng lên bức tranh của nền văn
hóa đất nước trong tương lai. Đó là nền văn hóa với vai trò là nền tảng
tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực thúc đẩy kinh tế- xã hội phát
triển, gắn với sự nghiệp CNH- HĐH đất nước, gắn với những vấn đề nảy
sinh trong xu thế toàn cầu hóa và nền kinh tế thị trường. Cần khẳng định
rằng đó còn là một tầm nhìn rộng và xa của Đảng về sự phát triển bền
vững của đất nước, ít nhất là trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước. Bởi vì
đó là sản phẩm từ nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn của Đảng trong
suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam (từ Đề cương xây dựng văn
hóa - 1943 đến qua hơn 10 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới - 1986 đến
1998).
Đến đại hội IX, những tư tưởng chủ yếu của Đảng về phát triển văn hóa
tiếp tục được thể hiện trên cơ sở thực tiễn thực hiện Nghị quyết Trung
ương 5 (khóa VIII); nhấn mạnh vị trí, vai trò của văn hóa trong lịch sử
phát triển của dân tộc ta; khẳng định sức sống lâu bền của những quan
điểm, tư tưởng nêu trong nghị quyết Trung ương V (khóa VIII) trong đời
sống xã hội, trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước trong thời
kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Về ý nghĩa “văn hóa là nền
tảng tinh thần của xã hội”, nghị quyết nhấn mạnh đó là tầm cao, chiều
sâu của sự phát triển của dân tộc, khẳng định và làm rõ vị trí của văn hóa
trong đời sống dân tộc, trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Tại hội nghị
Trung ương 10 (khóa IX), Ban Chấp hành Trung ương đã tổ chức kiểm
điểm 5 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) và ra kết
luận tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa làm
nền tảng tinh thần xã hội, gắn kết và đồng bộ với phát triển kinh tế là
trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt.
Những định hướng đổi mới của Đảng dù có đem lại nhiều thành
tựu đáng kể song vẫn tồn tại những hạn chế, yếu kém nhất định:

- So với yêu cầu của thời kỳ đổi mới, trước những biến đổi ngày càng
phong phú trong đời sống xã hội những năm gần đây, những thành tựu
và tiến bộ đạt được trong lĩnh vực văn hoá còn chưa tương xứng và
chưa vững chắc, chưa đủ để tác động có hiệu quả đối với các lĩnh vực
của đời sống xã hội, đặc biệt là lĩnh vực tư tưởng. Đạo đức, lối sống
tiếp tục diễn biến phức tạp, có một số mặt nghiêm trọng hơn, tổn hại
không nhỏ đến uy tín của Đảng và Nhà nước, niềm tin của nhân dân.
- Sự phát triển của văn hoá chưa đồng bộ và tương xứng với tăng
trưởng kinh tế, thiếu gắn bó với nhiệm vụ xây dựng và chỉnh đốn Đảng
là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến quá trình phát triển
kinh tế và nhiệm vụ xây dựng Đảng. Nhiệm vụ, xây dựng con người
Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện dại hoá chưa tạo được
chuyển biến rõ rệt. Môi trường văn hoá còn bị ô nhiễm bởi các tệ nạn
xã hội, sự lan tràn của các sản phẩm và dịch vụ văn hoá mê tín, lai
căng Sản phẩm văn hoá và các dịch vụ văn hoá ngày càng phong phú
nhưng còn rất thiếu những tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị cao
về tư tưởng và nghệ thuật, có ảnh hưởng tích cực và sâu sắc trong đời
sống.
- Việc xây dựng thể chế văn hoá còn chậm, chưa đổi mới thiếu đồng
bộ, làm hạn chế tác dụng của văn hoá đối với các lĩnh vực quan trọng
của đời sống đất nước.
- Tình trạng nghèo nàn, thiếu thốn, lạc hậu về đời sống văn hoá - tinh
thần ở nhiều vùng nông thôn, miền núi, vùng sâu vẫn chưa được khắc
phục có hiệu quả. Khoảng cách chênh lệch về hưởng thụ văn hoá giữa
các vùng miền, khu vực, tầng lớp xã hội tiếp tục mở rộng.
Những khuyết điểm, yếu kém nói trên do nhiều nguyên nhân khách
quan và chủ quan song cần nhấn mạnh các nguyên nhân chủ quan là:
+ Các quan điểm chỉ đạo về phát triển văn hoá chưa được quán triệt
đầy đủ cũng chưa được thực hiện nghiêm túc.
+ Bệnh chủ quan, duy ý chí trong quản lý kinh tế - xã hội cùng với

cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội kéo dài 20 năm đã tác động tiêu cực
đến việc triển khai đường lối phát triển văn hóa.
+ Chưa xây dựng được cơ chế chính sách và giải pháp phù hợp để phát
triển văn hoá trong cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
hội nhập quốc tế.
+ Một bộ phận những người hoạt động trên lĩnh vực văn hoá có biểu
hiện xa rời đời sống, chạy theo chủ nghĩa thực dụng, thị hiếu thấp kém.
4. Phương hướng giải quyết để giữ gìn
Trên cơ sở phân tích những vấn đề mang tính lý luận và thực tiễn về
việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc trong quá trình hội nhập quốc tế,
trong thời gian tới, chúng ta cần tập trung thực hiện một số giải pháp
cấp thiết sau:
Một là, tăng cường công tác giáo dục, tuyên truyền để nâng cao nhận
thức của cộng đồng về tầm quan trọng của việc hiểu biết về bản sắc
văn hóa dân tộc, từ đó hình thành ý thức giữ gìn bản sắc văn hóa dân
tộc một cách chủ động, tích cực và tự giác. Chỉ có như vậy cốt cách
dân tộc, lòng tự tôn dân tộc mới luôn giữ vai trò hạt nhân trong quá
trình phát triển kinh tế và phát triển nói chung của dân tộc. Đây là một
quá trình không thể nóng vội, nhưng cũng không thể chậm trễ mà cần
được thực hiện thông qua nhiều biện pháp, trong đó có biện pháp giáo
dục và tự giáo dục trong chính cộng đồng dân tộc.
Hai là, mối quan hệ biện chứng giữa phát triển kinh tế và giữ gìn bản
sắc văn hóa dân tộc phải được quán triệt trong tổng thể hệ thống chính
sách kinh tế - xã hội. Để chính sách đi vào được cuộc sống cần bảo
đảm sự thống nhất trong tất cả các khâu từ xây dựng kế hoạch, tổ chức
thực hiện, kiểm tra giám sát đến đầu tư nguồn lực thích đáng. Mặt
khác, phải xây dựng chiến lược phát triển công nghiệp văn hóa trên nền
tảng tư tưởng chủ đạo là giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc vì
sự phát triển bền vững của dân tộc.
Ba là, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc trong quá trình phát triển kinh tế

phải do chính các chủ thể văn hóa thực hiện. Mọi nguồn lực bên ngoài
chỉ phát huy hiệu quả khi chủ thể văn hóa có ý thức tự giác giữ gìn và
phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc. Những giải pháp phát triển về
kinh tế để đáp ứng những nhu cầu dân sinh phải gắn với nhu cầu bảo
vệ đời sống tinh thần, bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc. Muốn vậy, mọi
chính sách đều phải gắn với cộng đồng dân tộc, tôn trọng quyền quyết
định của cộng đồng dân tộc, đồng thời phải đầu tư nghiên cứu sâu sắc
về những giá trị của văn hóa dân tộc để có những giải pháp phù hợp.
Bốn là, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc phải có phương
pháp, cách thức phù hợp, đi vào thực chất, chống căn bệnh hình thức,
chạy theo phong trào làm phá vỡ tính đa dạng, phong phú và bản sắc
văn hóa dân tộc. Trên cơ sở đó sẽ phát huy được tính sáng tạo trong
giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc và phát triển kinh tế, ngăn chặn sự bảo
thủ, trì trệ hay phiêu lưu mạo hiểm trong phát triển của các dân tộc.
Năm là, phát triển kinh tế và văn hóa phải gắn với bảo vệ môi trường
tự nhiên và môi trường xã hội. Đây là một trong những nhân tố bảo
đảm cho sự phát triển bền vững của dân tộc. Đặc biệt việc giữ gìn và
phát huy bản sắc văn hóa cần gắn với giữ gìn không gian văn hóa - nơi
duy trì đời sống của cộng đồng dân tộc.
KẾT LUẬN
Hội nhập toàn cầu về văn hóa giúp chúng ta có điều kiện để giới thiệu
văn hóa Việt Nam với ban bè quốc tế và trong quá trình giao lưu chúng
ta có điều kiện chủ động tiếp thu những tinh hoa văn hóa của thế giới để
làm giàu cho nền văn hóa dân tộc, khẳng định bản sắc của nền văn hóa
dân tộc mình. Mặt khác ngăn ngừa những yếu tố tiêu cực, phản động du
nhập du nhập từ các nền văn hóa của các dân tộc khác tràn vào.

×