Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

TIỂU LUẬN CHÍNH SÁCH đối NGOẠI của ĐẢNG THỜI kỳ 1945 1946 ý NGHĨA LỊCH sử và HIỆN THỰC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (190.92 KB, 24 trang )

chính sách đối ngoại của Đảng thời kỳ 1945- 1946. Ý nghĩa lịch sử và hiện
thực
MỞ ĐẦU
Đối ngoại là một vấn đề quan trọng bậc nhất trong quan hệ chính trị
quốc tế, là cơ sở phát triển các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa…của mỗi
quốc gia. Hoạt động đối ngoại có thể làm một nước tụt hậu về mọi mặt nếu
không đưa ra chính sách đối ngoại hợp lý, không có sự hợp tác giữa các quốc
gia, các khu vực trên thế giới và ngược lại, nếu một quốc gia có chính sách
đối ngoại hợp lý sẽ thúc đẩy được mọi mặt đời sống xã hội phát triển, hợp tác,
giao lưu quốc tế ngày càng sâu rộng. Chính sách đối ngoại của bất cứ quốc
gia nào cũng đều nhằm ba mục tiêu cơ bản, đó là góp phần bảo vệ độc lập,
chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia; tranh thủ những điều kiện quốc
tế thuận lợi nhất để phát triển đất nước và nâng cao vị thế, mở rộng ảnh
hưởng trên trường quốc tế. Chính sách đối ngoại của nước ta cũng không phải
là trường hợp ngoại lệ.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn thể hiện được bản
lĩnh, trí tuệ của mình trong việc hoạch định chủ trương, chính sách đối ngoại
phù hợp với từng thời kỳ lịch sử. Đặc biệt trong giai đoạn (1945-1946), khi
đất nước đang ở trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn “ngàn cân treo sợi tóc”,
bằng những chính sách ngoại giao khôn khéo, linh hoạt, sáng tạo, Đảng ta đã
tập trung tinh thần và lực lượng giải quyết từng khó khăn, đưa đất nước thoát
khỏi vòng vây của kẻ thù. Với những lý do trên tác giả chọn đề tài “Chính
sách đối ngoại của Đảng trong thời kỳ 1945-1946” làm tiểu luận, nhằm làm
rõ tính đúng đắn trong chính sách đối ngoại của Đảng, góp phần làm nên
thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, bảo vệ vững
chắc nền độc lập dân tộc mà nhân dân ta đã giành được.


NỘI DUNG
1. Bối cảnh quốc tế và trong nước thời kỳ 1945 – 1946
1.1. Bối cảnh quốc tế thời kỳ 1945 – 1946


Ngày 2/5/1945, Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc với thắng lợi thuộc
về phe Đồng minh. Tình hình thế giới có nhiều thay đổi với nhịp độ cực kỳ
nhanh chóng. Các nước lớn điều chỉnh chính sách đối ngoại của mình. Ở phe
Đồng Minh, quan hệ giữa các nước dần chuyển từ hợp tác trong chiến tranh
sang đối đầu trong hòa bình. Trật tự thế giới thay đổi, chuyển từ trật tự một
cực được thiết lập sau chiến tranh thế giới thứ nhất thành trật tự hai cực mà
người ta vẫn gọi là trật tự hai cực Ianta, đứng đầu là Mỹ và Liên Xô.
Nước Mỹ sau chiến tranh, đặc biệt là sau khi tổng thống Truman lên
cầm quyền (tháng 4-1945), dựa vào vị trí là quốc gia mạnh nhất về kinh tế, tài
chính, quân sự, độc quyền về vũ khí nguyên tử, chủ nợ chính của phần lớn các
quốc gia Âu, Á, Mỹ Latinh trong thời chiến, mưu đồ làm bá chủ thế giới. Để
thực hiện mục tiêu chiến lược làm bá chủ thế giới của mình, hoạt động ngoại
giao của Mỹ bắt đầu hướng vào chống Liên Xô và phong trào cách mạng thế
giới, chống những diễn biến tích cực của phong trào giải phóng thuộc địa
nhằm thoát khỏi ách thống trị của chủ nghĩa thực dân
Liên xô sau chiến tranh, mặ dù chịu thiệt hại to lớn về người và của
nhưng cũng nhanh chóng trở thành cường quốc hàng đầu Châu Âu. Tuy còn
thua kém Mỹ về tiềm lực kinh tế và vũ khí hạt nhân nhưng Liên Xô vẫn đóng
một vai trò quyết định cùng Mỹ giải quyết những vấn đề lớn về hòa bình, an
ninh trong khu vực và trên thế giới.
Tại thời điểm này, các nước lớn trong phe Đồng Minh cũng ra sức củng
cố lại hệ thống thuộc địa. Anh và Pháp là hai cường quốc thắng trận nhưng
trong thế suy yếu, chính trị không ổn định nên cần phải nhanh chóng khôi
phục lại nền kinh tế, ổn định chính trị và duy trì vai trò cường quốc sau chiến


tranh. Để làm được như vậy, Anh và Pháp phải bảo vệ được hệ thống thuộc
địa và khu vực ảnh hưởng của mình.
Trong khi đó ở Châu Á và Châu Phi, phong trào đấu tranh chống chiến
tranh xâm lược và sự thống trị, đô hộ của thực dân phương Tây trở nên vô

cùng mạnh mẽ. Các cuộc đấu tranh ở các nước diễn ra dưới nhiều hình thức
khác nhau nhưng đều có chung một xu hướng là hướng tới lật độ ách thống trị
bên ngoài, giải phóng đất nước vốn và thuộc địa của đế quốc, thực dân
phương Tây. Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước này dần lan
sang Châu Âu và lan rộng toàn thế giới.
Như vậy, ta thấy được bối cảnh quốc tế trong những năm 1945 – 1946
có nhiều diễn biến phức tạp tác động sâu sắc và rộng lớn tới nhiều mối quan
hệ quốc tế và có tác động trực tiếp đến tình hình ở Việt Nam.
1.2. Bối cảnh trong nước thời kỳ 1945 – 1946
Vào thời điểm đỉnh cao của cuộc chiến tranh thế giới, năm 1942, chủ
tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra thời cơ và tiên đoán thời điểm cách mạng nước ta
thành công “1945 – Việt Nam độc lập” 1. Người kêu gọi đồng bào cả nước:
“Phe xâm lược gần đến ngày bị tiêu diệt. Các Đồng minh quốc sắp tranh được
sự thắng lợi cuối cùng. Cơ hội cho dân tộc ta giải phóng chỉ ở trong một năm
hoặc năm rưỡi nữa. Thời gian rất gấp, ta phải làm nhanh!” 2 Tới tháng 8 năm
1945, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng Cộng sản Đông Dương do lãnh tụ
Hồ Chí Minh đứng đầu – cuộc cách mạng nổ ra và giành được thắng lợi.
Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời mở ra một kỷ nguyên mới cho toàn
thể nhân dân Việt Nam.
Những ngày đầu đất nước thành lập, chính quyền nhân dân phải đối
mặt với nhiều thách thức lớn. Đời sống kinh tế - xã hội đang rối loạn, suy sụp
sau chiến tranh. Nạn khan hiếm lương thực triền miên trong thời chiến đã đưa
lại hậu quả trong những năm 1945, có hơn hai triệu người chết đói; mọi hoạt
1

1,2: Hồ Chí Minh: Toàn tập – (2000) – Nxb. Chính trị quốc gia - t.3 - tr. 230, 505 - 506

2



động sản xuất, kinh tế, tài chính, thương mại đình đốn. Hệ thống ngân hàng
Đông Dương vẫn trong tay tư bản Pháp. Trong khi đó, quân Tưởng cho lưu
hành đồng tiền mất giá của Trung Quốc, tự ý quy định tỷ giá tiền quan kim và
tiền Đông Dương, làm lũng đoạn thị trường ở miền Bắc; chính sách ngu dân
của thực dân Pháp làm cho 95% dân ta mù chữ.
Một thách thức nữa mà nước ta gặp phải - đó là cùng một lúc phải đối
phó với nhiều thế lực quân sự đối địch của các nước lớn đang có mặt tại nước
ta. Ở phía Bắc, gần 2000 quân Tưởng vào Việt Nam với danh nghĩa giải giáp
quân đội Nhật từ vĩ tuyến 16 trở ra, mang theo các nhóm người Việt sống lưu
vong ở Trung Quốc. Những nhóm người Việt này thuộc các tổ chức Việt
Cách, Việt Quốc do chính quyền Tưởng thu nạp và nuôi dưỡng từ lâu. Phía
Nam Việt Nam lúc này cũng có khoảng 26 nghìn quân Anh - Ấn vào giải giáp
quân đội Nhật.
Tháng 10/1945, Anh đã ký với Pháp hiệp định chính thức công nhận
quyền dân sự của Pháp tại Đông Dương. Ngày 1/1/1946, Anh ký hiệp định
trao quyền cho Pháp giải giáp quân đội Nhật ở phía Nam vĩ tuyến 16. Đổi lại,
Pháp nhân nhượng cho Anh một số quyền lợi ở Xyri và Libăng. Thêm vào đó,
trong khoảng thời gian Nhật Bản chiếm đóng Đông Dương, Pháp có khoảng
50 nghìn lính gồm tù binh đang bị Nhật giam giữ và tân binh nằm rải rác ở
các miền phụ cận Đông Dương. Sau chiến tranh, 1500 lính Pháp bị Nhật giam
giữ ở miền Nam Việt Nam trong cuộc đảo chính ngày 9/3/1945 được thả và
vũ trang trở lại. Quân viễn chinh mới của Pháp được gấp rút đưa vào miền
Nam. Ngày 23/9/1945, Pháp mở cuộc xâm lược Việt Nam lần 2. Ngoài ra,
còn khoảng 60 nghìn quân Nhật ở Việt Nam chờ giải giáp lúc này.
Như vậy, bốn thế lực quân sự lớn đang chiếm đóng nước ta ( là Nhật,
Anh, Pháp và lực lượng Tưởng Giới Thạch) và bốn trong năm nước lớn là
thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc đang dính líu
vào việc giải giáp cho Đông Dương với mục tiêu duy nhất là tìm cách xóa
chính quyền cách mạng, lập lại trật tự của thực dân phương Tây tại đây. Nhìn



tổng thể về kinh tế, tài chính, quân sự, tương quan lực lượng giữa ta và các
thế lực thù địch từ bên ngoài vào có sự chênh lệch rất lớn. Đất nước ta lại rơi
vào tình thế “châu chấu đá xe”.
Lúc này, chủ tịch Hồ Chí Minh kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao cùng
Thường vụ Trung ương Đảng đã sớm thấy khả năng dùng ngoại giao như vũ
khí sắc bén tham gia năng động vào quá trình tự bảo vệ thành quả cách mạng,
chia rẽ, cô lập kẻ thù. Ngoại giao Việt Nam từ những ngày đầu đã chủ động
phát huy thế tiến công chống lại âm mưu, cạm bẫy của kẻ thù, thực thi những
nhiệm vụ to lớn tưởng chừng như khó có thể thực hiện được.
2. Chính sách đối ngoại của Việt Nam thời kỳ 1945 – 1945
2.1. Mục tiêu của chính sách đối ngoại
Trước tình hình trong nước và quốc tế diễn biến rất phức tạp, nhà nước
ta đã sớm ban hành chính sách ngoại giao của chính phủ Việt Nam dân chủ
cộng hòa. Một tháng sau khi tuyên bố nước Việt Nam giành được độc lập,
ngày 3/10/1945, chính sách ngoại giao của nước ta được công bố dưới dạng
một văn kiện nhà nước: “Thông cáo về chính sách ngoại giao của nước Cộng
hòa Dân chủ Việt Nam”, được đăng trên báo Cứu quốc, ngày 3/10/1045.
Mục tiêu của chính sách là: bảo vệ thành quả của cuộc cách mạng
Tháng 8 mà trước hết là duy trì, củng cố chính quyền nhân dân vừa thành lập
trên cả nước. Tiếp đó, đưa đất nước Việt Nam đến độc lập hoàn toàn và vĩnh
viễn; “Nước Việt Nam còn đương ở giai đoạn đấu tranh kịch liệt, tất chính
sách ngoại giao phải có mục đích cốt yếu là giúp cho sự đấu tranh thắng lợi
bằng mọi phương pháp êm dịu hay cương quyết”3. Đồng thời, chính sách
ngoại giao của ta cũng chỉ rõ ta sẽ cùng các nước trong Đồng minh xây đắp
lại nền hòa bình thế giới.
2.2. Lựa chọn chính sách đối ngoại
3

Nguyễn Phúc Luân (2001), Ngoại giao Việt Nam vì sự nghiệp giành độc lập, tự do (1945-1975), Nhà xuất

bản chính trị quốc gia, trang 39.


Bản “Thông cáo về chính sách ngoại giao của nước Cộng hòa Dân chủ
Việt Nam” (3/10/1945) đã đề ra chính sách đối ngoại rất cụ thể, đúng đắn,
phù hợp với từng đối tượng
Với các nước Đồng minh, Việt Nam mong muốn duy trì hữu nghị và
thành thật hợp tác trên cơ sở bình đẳng và tương trợ, để xây dựng nền hòa
bình thế giới lâu dài
Với Pháp, chính sách của ta là bảo vệ tính mạng và tài sản kiều dân
Pháp đúng theo luật quốc tế, miễn là họ yên ổn sinh sống và tôn trọng luật
pháp, chủ quyền và nền độc lập của Việt Nam. Ta mong muốn xây dựng quan
hệ hữu nghị dựa trên cơ sở tôn trọng quyền bình đẳng và các quyền của nhau
đối với nước Pháp. Còn đối với bọn thực dân Pháp có mưu đồ chống phá,
xâm lược nước ta thì ta kiên quyết đấu tranh.
Với các nước láng giềng, đặc biệt đối với nhân dân Khơme, Lào, Việt
Nam đặt quan hệ dựa trên nguyên tắc dân tộc tự quyết. Đã từng chịu ách đô
hộ của Pháp, nhân dân ba nước phải hợp sức lại để cởi bỏ ách đô hộ đó, giúp
đỡ lẫn nhau giành được độc lập và duy trì nền độc lập của mình. Hơn nữa, ba
nước có quan hệ kinh tế chặt chẽ, sẽ giúp đỡ nhau trong công cuộc kiến thiết,
cùng nhau tiến lên trên con đường tiến bộ.
“Với các tiểu dân tộc trên toàn cầu, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa sẵn sàng thân thiện, hơp tác chặt chẽ trên nguyên tắc bình đẳng để ủng hộ
lẫn nhau trong sự nghiệp xây đắp và giữ vững nền độc lập”.4
Trong bối cảnh thế giới và trong nước diễn biến phức tạp. cùng một
lúc, ta còn phải giải quyết mối quan hệ với nhiều lực lượng khác nữa. Do đó,
ta cần có chính sách linh hoạt, mềm dẻo, đề ra những nhiệm vụ ưu tiên. Kẻ
thù chính lúc này của ta là thực dân Pháp xâm lược. Ta cần tập trung lực
4


(Nguồn: Bộ ngoại giao: Những văn bản chính của Hội nghị Giơnevơ (1995), Hà Nội,

trang 25 – 26)


lượng chống kẻ thù chính, hòa hoãn các lực lượng chống đối khác để rảnh tay
đánh Pháp. Đảng ta chủ chương: “phải đặt riêng bọn thực dân Pháp xâm lược
ra mà đánh , đừng bỏ cả Pháp, Anh, Ấn (lính Ấn Độ trong hàng ngũ quân
Anh) vào một bị mà đánh và đừng coi họ là kẻ thù ngang nhau, đừng công
kích nước Pháp, chỉ công kích bọn thực dân Pháp.”5
Trên cơ sở này, thường vụ Trung ương Đảng, Chính phủ và chủ tịch Hồ
Chí Minh đã đi đến quyết định chiến lược “Hòa để tiến”. Bộ chỉ huy cách
mạng lúc bấy giờ đã khái quát đúng các khả năng khác nhau để giữ vững
thành quả cách mạng mà không nhất thiết phải đi theo con đường độc đạo. Ta
không chủ chương “đánh đến cùng” bởi chủ chương này sẽ làm cho ta bị cô
lập và tiêu hao lực lượng. Ta sử dụng các biện pháp “hòa để tiến”, lợi dụng
mâu thuẫn trong hàng ngũ đối phương, khéo léo, linh hoạt biến các Hiệp định
tay đổi (Anh – Pháp và Hoa – Pháp) liên quan đến quyền lợi của nước ta
thành thỏa thuận tay ba với sự tham gia của ta, đồng thời tạo thế hòa hoãn với
một bên để tranh thủ thời gian củng cố nội lực, tăng cường sức mạnh để đối
phó với những kẻ thù khác.
Như vậy, ngoại giao của ta thời kì này là ngoại giao đa phương, mềm
dẻo, linh hoạt, khi nhượng bộ, khi cương quyết và luôn khẳng định đường lối
độc lập tự chủ của nước nhà
2.3. Triển khai chính sách đối ngoại
* Chính sách đối ngoại với quân Tưởng Giới Thạch
Chính quyền Tưởng từ lâu đã có những toan tính riêng của mình về
Đông Dương. Ngay khi Paris thất thủ, và quân đội Nhật Bản tiến vào chiếm
đóng Bắc Đông Dương tháng 9 năm 1940, chính phủ của Tưởng bắt đầu
chuẩn bị cho kế hoạch “Hoa nhập quân Việt” và chủ chương “Diệt cộng cầm

Hồ”. Tưởng Giới Thạch đã chuẩn bị một lực lượng tay sai người Việt để khi

5

Vũ Đoàn Kết (2007), Chính sách đối ngoại Việt Nam, Nhà xuất bản Thế giới, trang 24


đưa quân vào Việt Nam sẽ lập chính quyền thân Tưởng và mục tiêu là lật đổ
Đảng cộng sản, phá tan Việt Minh.
Tuy nhiên, Chính quyền cách mạng của ta nêu cao khẩu hiệu “Hoa –
Việt thân thiện” và thực hiện hòa hoãn với các sách lược mềm mỏng và bình
tĩnh mà Hồ Chí Minh còn gọi là: “chính sách Câu Tiễn” 6. Mục đích của
những chính sách này là lợi dụng lực lượng của Tưởng có mặt ở Việt Nam
như một lực lượng đối trọng với lực lượng của thực dân Pháp, kiềm chế chủ
trương của chính phủ Paris sớm khôi phục kiểm soát ở Đông Dương; có thời
gian ổn định tình hình trong nước và rảnh tay đối phó với Pháp.
Trong các tuyên bố công khai của Chính phủ Việt Nam về quan hệ Việt
– Hoa, cũng như các thư từ và điện của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi cho Tưởng
Giới Thạch, ta luôn khẳng định tình hữu nghị, quan hệ gắn bó lâu năm giữa
hai nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng thường có những cuộc thăm hỏi các
tướng lĩnh của Tưởng ở Việt Nam như Lư Hán, Tiêu Văn...một mặt là để đặt
quan hệ ngoại giao thân thiết, mặt khác là để tìm hiểu các tướng lĩnh, lợi dụng
mặt hám lời vật chất để hạn chế sự chống phá; tìm hiểu những mâu thuẫn nội
bộ của chúng và các mâu thuẫn với bên ngoài. Từ đó, lợi dụng những mâu
thuẫn để thực hiện những việc có ích cho ta.
Ví dụ như việc lãnh tụ Hồ Chí Minh tranh thủ tướng Lư Hán của
Tưởng – người thường có thái độ thành kiến với Pháp ở Đông Dương. Hồ chủ
tịch thường trao đổi với Lư Hán về tình hình Việt Nam, giới thiệu chủ trường
“Hoa – Việt thân thiện”, phê phán các hành động xâm lược của Pháp. Qua
những lần trao đổi như vậy, Lư Hán rất ngạc nhiên và khâm phục sự hiểu biết

sâu rộng của chủ tịch Hồ Chí Minh. Lư hán có những hành động độc lập với
chính phủ Trung Ương như: không công nhận A-lếch-xăng-đri là đại diện cho
Đờ Gôn ở miền Bắc Việt Nam, không cho phép Pháp lập cơ quan hành chính
dân sự, không ủng hộ quá mực bọn Việt quốc, Việt cách...7
6
7

Hồ Chí Minh nói chuyện Hội nghị ngoại giao 1964. Hồ sơ lưu trữ của Bộ ngoại giao Việt Nam
Vũ Đoàn Kết (2007), Chính sách đối ngoại Việt Nam, Nhà xuất bản Thế giới, trang 56


Thêm vào đó, Hồ chủ tịch còn lợi dụng sự khác biệt về quyền lợi, biện
pháp chống đối cách mạng nước ta của các tướng lĩnh Tưởng, từ đó gây ảnh
hưởng đến cách thức hành động của chúng. Ví dụ như mâu thuẫn nội bộ của
Tưởng được thể hiện qua 14 nguyên tắc chỉ đạo hoạt động của quân đội
Trung Hoa tại Đông Dương, trong đó chủ trương giữ liên hệ chặt chẽ với Mỹ
và Pháp, giữ thái độ trung lập trong quan hệ Pháp – Việt. Tiêu Văn – 1 tướng
của Tưởng nhận xét rằng với 14 nguyên tắc này, nhiều người Pháp cho là đã
làm sống lại những điều mà họ đã tuyệt vọng. Còn tướng Lư Hán thì cho rằng
các nguyên tắc của chính phủ không phù hợp với tình hình ở Việt Nam bấy
giờ. Như vậy là không thống nhất được phương án hành động. Điều này rất có
lợi cho ta.
Tình hình trong nước có nhiều biến chuyển, Đảng ta rút vào hoạt động
bí mật dưới hình thức tự giải tán ngày 11 tháng 10 năm 1945. Để hạn chế các
hoạt động phá hoại của các nhóm thân Tưởng, chủ tịch Hồ Chí Minh đại diện
cho Việt Minh thực hiện nhiều cuộc tiếp xúc, họp liên tịch với những kẻ đại
diện cho Việt Quốc, Việt Cách để thống nhất những nguyên tắc chung và ký
kết những thỏa thuận buộc bọn Việt Quốc, Việt Cách phải tỏ sự nhất trí đối
với các nguyên tắc đoàn kết, hợp tác, vì lợi ích quốc gia, ủng hộ kháng chiến
ở Nam Bộ, chống thực dân Pháp xâm lược, ủng hộ các chủ trương của chính

phủ...Ta dành cho bọn Việt Cách, Việt Quốc các chức vụ phó chủ tịch nước,
bộ trưởng ngoại giao, bộ trưởng kinh tế và 70 ghế trong quốc hội không qua
tổng tuyển cử. Sách lược khéo léo và đúng đắn này đã xoa dịu sự chống đối
của các tướng lĩnh Tưởng và các nhóm thân Tưởng, góp phần ngăn chặn âm
mưu phá hoại và lật đổ của chúng. Tuy vậy nhân nhượng những ta vẫn có
những nguyên tắc hoạt động rõ ràng, luôn khẳng định đường lối độc lập tự
chủ.
Đảng ta cũng đồng thời thực hiện biểu dương lực lượng chính trị lớn
mạnh của quần chúng nhân dân ủng hộ cách mạng để hậu thuẫn cho hoạt
động ngoại giao. Điển hình là cuộc diễu hành của 30 vạn nhân dân thủ đô Hà


Nội. Cuộc diễu hành về danh nghĩa để hoan nghênh phái bộ Đồng minh
nhưng thực chất là để biểu dương lực lượng của nhân dân ủng hộ chính quyền
cách mạng và Hồ chủ tịch.
Như vậy, ngoại giao của Việt Nam với Tưởng trong giai đoạn này dùng
ba biện pháp chính: Biểu dương lực lượng, Lợi dụng mâu thuẫn tránh xung
đột; Nhân nhượng có nguyên tắc (Vũ Đoàn Kết). Nhờ những biện pháp, chính
sách của chính phủ Việt Nam hòa hoãn, kiềm chế lực lượng chống phá của
Tưởng, miền Bắc nước ta một thời kỳ tương đối ổn định để thực hiện chủ
trương kháng chiến kiến quốc, xây dựng củng cố chính quyền nhân dân; làm
chậm chễ việc quân đội viễn chinh Pháp ra Bắc và tạo điều kiện để chi viện
cho kháng chiến ở đồng bào miền Nam.
* Chính sách đối ngoại với thực dân Pháp
Sau khi chiến tranh thế giới thứ 2 kết thúc, Pháp lại mưu đồ xâm lược
Việt Nam lần nữa. Chúng đưa quân đánh chiếm miền Nam Việt Nam trước,
sau đó ý định mở rộng chiến tranh ra Bắc. Tuy nhiên, quân đội Pháp thất bại
trong kế hoạch đánh nhanh, thắng nhanh ở miền Nam, nên mặc dù đã thảo kế
hoạch quân sự mở rộng chiến tranh ra Bắc, song Bộ chỉ huy quân Pháp thấy
lo ngại. Kế hoạch của chúng khó có thể thực hiện. Vì thực dân Pháp lúc này

không những phải đối mặt với khối đại đoàn kết dân tộc của ta mà còn phải
đối mặt với hơn 20 vạn quân Tưởng. Pháp lo sợ sự “xích gần với chính quyền
Hà Nội” của lực lượng Tưởng Giới Thạch ở Đông Dương sau một số thỏa
thuận giữa ta với Tưởng. Trước tình hình đó, Pháp đưa ra giải pháp 8: một mặt
thương lượng với chính phủ Trùng Khánh để đạt được sự công nhận của
Tưởng về chủ quyền của Pháp ở Đông Dương và cho quân Pháp thay thế
quân Tưởng ở miền Bắc Việt Nam. Mặt khác, đàm phán với chính phủ Việt
Nam dân chủ cộng hòa để tránh chiến tranh lâu dài.

8

Vũ Đoàn Kết (2007), Chính sách đối ngoại Việt Nam, Nhà xuất bản Thế giới, trang 58


Về phía Tưởng, quân Tưởng đang gặp khá nhiều khó khăn trong trong
chống phá phong trào cách mạng do Đảng cộng sản lãnh đạo. Tưởng Giới
Thạch muốn rút quân về để chiếm Mãn Châu nhưng vẫn muốn giữ được
nhiều quyền lợi ở Đông Dương. Do đó, Tưởng cũng muốn thương lượng với
Pháp về vấn đề đưa quân ra Bắc của Pháp. Hơn nữa, Mỹ cũng đồng tình với
Tưởng trong việc thương lượng với Pháp vì Mỹ đang ra sức tập hợp lực
lượng, trong đó có Pháp, để chống Liên Xô.
Ngày 28/2/1946, Pháp và Tưởng đã ký hiệp ước Hoa – Pháp tại Trùng
Khánh. Theo hiệp ước, Pháp trả cho Tưởng các tô giới Thượng Hải, Hán
Khẩu, Quảng Châu, Thiên Tân, đất mướn Quảng Châu Loan, bán lại đường
sắt Vân Nam, mở cửa Hải Phòng thành cảng tự do, miễn thuế cho hàng hóa
Tưởng vận chuyển qua Bắc và lót tay cho Tưởng một khoản tiền lớn. Bù lại,
Tưởng đồng ý cho quân Pháp thay Tưởng ở Bắc Đông Dương9.
Hiệp ước Hoa – Pháp là một bất lợi cho ta. Trước đó ta lợi dụng mâu
thuẫn giữa Pháp và Tưởng để tránh đối đầu với hai thế lực lớn này, còn nay
chúng lại bắt tay thỏa hiệp với nhau. Tình thế này, buộc ta phải đưa ra được

những chính sách đối ngoại mới, linh hoạt, phù hợp để đối phó với Tưởng và
Pháp.
Trước tiên, ta vẫn chủ trương tiếp tục hòa hoãn với thế lực Tưởng ở
Đông Dương nhằm dùng Tưởng để cản trở việc thực hiện ý đồ của Pháp và
trong cả việc thực thi thỏa thuận Hoa – Pháp về Đông Dương, duy trì được
thế hòa hoãn với cả hai phía, tạo thế vững chắc trong cuộc thương lượng với
Pháp.
Chính sách của ta dần chuyển thành nhân nhượng, hòa hoãn với Pháp
tuy nhiên vẫn giữ vững nền độc lập chính trị. Mục tiêu của hòa hoãn với Pháp
để đẩy Tưởng về nước, biến hiệp định tay đôi thành thỏa thuận tay ba. Thỏa
hiệp Việt – Pháp được hoàn chỉnh từng bước qua các cuộc đấu tranh trong
9

Vũ Đoàn Kết (2007), Chính sách đối ngoại Việt Nam, Nhà xuất bản Thế giới, trang 59


đàm phán giữa hai bên. Cuối cùng, ngày 6/3/1946, hiệp định sợ bộ Việt –
Pháp được ký kết với sự chứng kiến của phái bộ Mỹ, lãnh sự Anh và lực
lượng của Tưởng Giới Thạch ở Đông Dương. Hiệp định gôm những nội dung
cơ bản sau: Pháp công nhận Việt Nam là quốc gia tự do, có chính phủ, nghị
viện, quân đội và tài chính riêng và là một thành viên trong liên bang Đông
Dương, nằm trong khối liên hiệp Pháp. Về hợp nhất 3 kỳ, chính phủ Pháp
cam kết thừa nhận những quyết định của nhân dân trực tiếp phán quyết qua
cuộc trưng cầu ý dân. Đổi lại, chính phủ Việt Nam chấp thuận để 15 nghìn
quân Pháp vào Bắc Việt Nam thay thế quân đội Trung Hoa làm nhiệm vụ giải
giáp quân đội Nhật và đưa chúng về nước. Số quân Pháp kể trên sẽ được rút
hết trong vòng 5 năm.
Việc ký Hiệp định sơ bộ là một biện pháp ngoại giao sáng suốt, lợi
dụng mâu thuẫn Pháp – Tưởng, nhất là khi chúng đã thỏa hiệp. Hiệp định sơ
bộ phản ánh việc ta vận dụng sách lược phân hóa kẻ thù, sử dụng điều khoản

thay quân của Hiệp định Hoa – Pháp tạo thời cơ đẩy quân Tưởng và bọn tay
sai của chúng ra khỏi đất nước, tránh được nguy cơ phải đối phó với hai thế
lực thù địch cùng một lúc. Đồng thời, Hiệp định tạo một không gian hòa hoãn
trong cả nước để có thể biến thời gian thành lực lượng vật chất và cùng với
kết quả đem lại trên thực tế (Tưởng rút quân về nước, Pháp phải dãn quân ra)
đã góp phần làm thay đổi so sánh lực lượng toàn cục có lợi hơn cho cuộc đấu
tranh của nhân dân ta trong cả nước.
Hiệp định sơ bộ 6/3/1946 là văn bản pháp lý quốc tế đầu tiên mà nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa ký kết với nước ngoài. Các thỏa thuận ngày 6/3
đã mở rộng khuôn khổ tiếp xúc và thương lượng Việt – Pháp, tạo cơ sở pháp
lí cho việc đấu tranh ngoại giao ở Việt Nam.
Ngay sau khi Hiệp định sơ bộ 6/3/1946 được ký kết, nội bộ quân Pháp
có sự thay đổi. Mâu thuẫn giữa phái chủ chiến đứng đầu là Đắc – giăng – li- ơ
và phe chủ hòa đứng đầu là Lơ – Cléc và Xanh – tơ – ni trong quân đội Pháp
lên cao. Đắc – giăng – li – ơ chỉ trích Lơ – Cléc “chỉ thích điều đình, không


muốn đánh nhau. Trong khi đó, cố vấn chính trị Cao ủy Pháp lại nhận xét: về
phía Pháp Hiệp định được thảo ra một cách vội vã. Phái chủ chiến dần thắng
thế. Các lực lượng thực dân hiếu chiến phản động ở Đông Dương tìm cách hạ
thấp ý nghĩa của Hiệp định sơ bộ, trì hoãn việc thi hành Hiệp định, tiếp tục
tiến hành chiến tranh Nam Bộ, Nam Trung Kỳ, lập ra “chính phủ Nam Kỳ” và
“nước cộng hòa Nam Kỳ”.
Theo yêu cầu của phía Pháp, ngày 24/3/1946, chủ tịch Hồ Chí Minh đã
gặp Đắc – giăng – li – ơ ở Vinh Bắc Bộ. Tại cuộc gặp hai bên đã thỏa thuận
những bước tiếp cuộc đàm phán Việt Pháp để giải quyết những vấn đề còn lại
của Hiệp định sơ bộ. Hai bên đồng ý triệu tập cuộc họp trù bị Đà Lạt như
Pháp đề nghị nhưng ta đòi phải có sự tham gia của đại biểu Chính phủ từ
Pháp sang; đồng ý triệu tập sớm cuộc đàm phán chính thức giữa hai bên ở
Paris ngay sau khi kết thúc cuộc họp trù bị; phía Pháp mời đoàn đại biểu

Quốc hội Việt Nam và chủ tịch Hồ Chí Minh sang thăm nước Pháp vào tháng
5 năm 1946.
Tại cuộc hợp trù bị ở Đà Lạt, do lập trường ngoan cố của Pháp, cuộc
họp trù bị Việt – Pháp sau 22 ngày đấu tranh gay gắt xung quanh 5 vấn đề:
đình chỉ chiến sự và tạo không khí chính trị thuận lợi; vấn đề liên hiệp Pháp;
vấn đề Liên bang Đông Dương; vấn đề trưng cầu dân ý về thống nhất 3 kỳ đã
không đem lại kết quả cụ thể nào. Tuy nhiên hai bên đã hiểu lập trường của
nhau, giúp ta chuẩn bị tốt hơn cho cuộc họp chính thức ở Paris.
Cuộc đàm phán chính thức Việt – Pháp ở Phôngtennơblô tiến hành từ
ngày 6/7/1946 đến 1/8/1946, ta rất có thiện chí nhưng bọn thực dân phản
động Pháp luôn thực hiện âm mưu phá vỡ hoàn toàn cuộc đàm phán chính
thức, đi đến làm vô hiệu hóa Hiệp đinh sơ bộ 6/3/1946. Chúng gần như đã
thực hiện được âm mưu của mình. Ngày 13/9/1946, đoàn đàm phán của ta lên
đường về nước. Tuy nhiên chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định ở lại thêm vài
ngày nữa để tiếp tục thảo luận với chính phủ Pháp nhằm cứu vãn tình thế
căng thẳng của quan hệ Pháp – Việt, kéo dài thêm thời gian hòa hoãn ở Đông


Dương rất cần cho ta lúc này. Kết quả là tạm ước 14/9/1946 được ký kết giữa
Hồ Chí Minh và Bộ trưởng Mutê đại diện của chính phủ Pháp.
Tạm ước này đã ghi nhận tạm thời những cam kết của Việt Nam và
Pháp trên cơ sở Hiệp định sơ bộ, nhằm giải quyết những vấn đề bức thiết
trong mối quan hệ hai nước, khẳng định cần phải ngừng ngay mọi xung đột.
Phía Pháp sẽ đảm bảo thực hiện các quyền tự do, dân chủ ở Nam Bộ, thả
những người Việt Nam bị Pháp bắt và phía Việt Nam nhân nhượng cho Pháp
một số quyền lợi về kinh tế và văn hóa ở Việt Nam 10. Bọn thực dân Pháp phản
động cũng đòi Chủ tịch Hồ Chí Minh thỏa thuận rút lực lượng vũ trang ở
Nam Bộ ra miền Bắc nhưng Người kiên quyết không chấp nhận.
Như vậy, bằng việc nhân nhượng thêm cho Pháp một số quyền lợi về
kinh tế, văn hóa và kiên trì quan điểm độc lập trong Liên hiệp Pháp, ta đạt

được tiếp tục ngừng bắn, cam kết quyền tự do, dân chủ cho nhân dân Nam bộ.
Do đó, giúp ta có thêm thời gian để chuẩn bị lực lượng quân sự, kinh tế...đối
phó với quân địch.
Hiệp định sơ bộ 6/3/1946 và tạm ước 14/9/1946 đã thể hiện được chính
sách đối ngoại đa phương, mềm dẻo và linh hoạt của Đảng, chủ tịch Hồ Chí
Minh. Nhờ những chính sách này, ta không những loại bỏ được bớt kẻ thù
(Tưởng Giới Thạch) mà còn có thêm thời gian để chuẩn bị cho toàn quốc
kháng chiến.
* Chính sách đối ngoại với các quốc gia khác
Như đã khẳng địng trong Thông cáo 3/10/1945, với các nước lớn, các
nước trong Đồng minh chống phát xít thì Việt Nam hết sức thân thiện và
thành thực hợp tác trên lập trường bình đẳng và tương ái. Mỹ là một nước lớn
trong phe Đồng minh chống phát xít. Thái độ của chính phủ Mỹ sẽ ảnh hưởng
đến việc Pháp thiết lập chế độ thuộc địa ở Đông Dương, ảnh hưởng tới sự
bành trướng của quân đội Tưởng. Từ tháng 9 năm 1945 đến tháng 2 năm
10

Nguyễn Phúc Luân (2001), Ngoại giao Việt Nam vì sự nghiệp giành độc lập, tự do (1945-1975), Nhà xuất
bản chính trị quốc gia, trang 74


1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tám lần gửi thông điệp, thư, điện và công
hàm cho Tổng thống và Ngoại trưởng Mỹ, giới thiệu các phát triển mới trong
tình hình của Việt Nam; tố cáo Pháp trở lại xâm lược Việt Nam và vi phạm
các nguyên tắc nêu trong Hiến chương Đại Tây Dương và Hiến chương Liên
Hợp Quốc; đề nghị Hoa Kỳ công nhận nền độc lập của Việt Nam.
Chính phủ Việt Nam cũng thường xuyên giữ quan hệ với các đại diện
Mỹ có mặt ở Việt Nam, như Phái bộ Mỹ tại Đông Dương, văn phòng của Cơ
quan Tình báo chiến lược. Mục đích của ta là nhằm tranh thủ những người
Mỹ có mặt ở Hà Nội để hỗ trợ cho việc kiềm chế tướng lĩnh Tưởng và thế lực

của Pháp. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng có những cuộc tiếp xúc với quan chức
ngoại giao của Mỹ. Tháng 9 năm 1946, khi ở Pháp, chủ tịch đến thăm Đại sứ
quán Mỹ ở Paris, gặp Đại sứ Mỹ và sau đó tiếp cán bộ Đại sứ Mỹ đến chào
Người. Các giao dịch của những người đứng đầu Việt Nam đã có tác động
nhất định tới thái độ của Mỹ trong vấn đề Đông Dương. Tài liệu của Lầu Năm
góc đã nhận xét về vấn đề này: “Trong khi không có hành động gì đáp ứng
yêu cầu mà Hồ Chí Minh nêu lên, Mỹ cũng không sẵn sàng giúp đỡ Pháp” 11.
Như vậy, chính sách ngoại giao của ta lúc này là ngoại giao nhân dân, chủ
động lập hội Việt – Mỹ thân hữu nhằm tranh thủ Mỹ trung lập, tạo điều kiện
để hòa hoãn, kiềm chế lực lượng của Tưởng cũng như Pháp ở Việt Nam.
Đối với các nước khác trên thế giới, ta chủ trương quan hệ hữu nghị,
hợp tác, bình đẳng, tranh thủ sự giúp đỡ, ủng hộ từ bên ngoài. Đối với nhân
dân Pháp, Việt Nam không thù hằn gì, vẫn luôn tỏ thái độ thân thiện, tỏ ý
muốn hợp tác. Ta chỉ chống lại bọn thực dân Pháp phản động, có ý đồ muốn
xâm lược nước ta.
3. Ý nghĩa lịch sử và hiện thực
3.1. Ý nghĩa lịch sử

11

Các tài liệu của Lầu Năm góc, tập 1, trang 17 - 18


Chính sách đối ngoại của Việt Nam trong thời kỳ 1945 – 1946 rất linh
hoạt, khôn khéo. Dấu ấn đậm nét của thắng lợi ngoại giao thời kỳ này là đối
sách và những ứng xử tài tình cùng một lúc với nhiều nước lớn, đối phó với
bốn đạo quân nước ngoài với trên 30 vạn binh lính có mặt ở Việt Nam. Mối
quan hệ giữa các nước lớn luôn có nhiều xung đột và mâu thuẫn về lợi ích,
nhưng khi cần họ sẵn sàng thỏa hiệp, mua bán với nhau bất chấp quyền lợi
của nhân dân Việt Nam, tìm cách áp đặt đối với Việt Nam và Đông Dương.

Nhưng ta đã khéo léo lợi dụng mâu thuẫn giữa các nước với nhau và có sách
lược phù hợp với từng đối tượng: giữ Mỹ đứng trung lập, kiên nhẫn tránh mọi
xung đột của Tưởng, kiên quyết kháng chiến chống Pháp xâm lược ở miền
Nam, đồng thời tìm giải pháp hòa bình khi Tưởng và Pháp thỏa hiệp cho phép
quân đội Pháp ra miền Bắc.
Đánh giá thời kỳ này, cố Tổng bí thư Lê Duẩn cho rằng: “lúc thì tạm
hòa hoãn với Tưởng để rảnh tay đối phó với thực dân Pháp, lúc thì hòa hoãn
với Pháp để đuổi cổ quân Tưởng và quét sạch bọn phản động tay sai của
Tưởng, dành thời gian củng cố lực lượng, chuẩn bị toàn quốc kháng chiến
chống thực dân Pháp xâm lược, điều mà Đảng ta đã biết chắc là không thể
nào tránh khỏi. Những biện pháp cực kỳ sáng suốt đó đã được ghi vào trong
lịch sử nước ta như một mẫu mực tuyệt vời của sách lược Lênin-nít về lợi
dụng những mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ địch và về sự nhân nhượng có
nguyên tắc”12
Như vậy, thực tế đã chứng minh rằng, thời kỳ 1945-1946 đó mãi mãi đi
vào lịch sử hào hùng của dân tộc như những năm tháng không thể nào quên.
Nền ngoại giao Việt Nam non trẻ do Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đảng và chính
phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã góp phần xuất sắc bảo vệ chủ quyền và
nền độc lập non trẻ trong khi thế lực của ta còn yếu, đồng thời tạo điều kiện
tranh thủ thời gian xây dựng lực lượng, tranh thủ những điều kiện quốc tế
thuận lợi nhất để phát triển đất nước; nâng cao vị thế, mở rộng ảnh hưởng trên
12

Lê Duẩn (1970), Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội, tiến lên giành những
thắng lợi mới, Nxb Sự thật, tr.31.


trường quốc tế. Tựu chung lại, chính sách đối ngoại Việt Nam thời kỳ này là
ngoại giao đa phương, linh hoạt dựa trên nguyên tắc “dĩ bất biến, ứng vạn
biến”, nhân nhượng có nguyên tắc và lợi dụng, tranh thủ mâu thuẫn trong

hàng ngũ kẻ thù.
Những chính sách ngoại giao này hình thành từ những ngày đầu nước
Việt Nam được thành lập, đã đặt nền móng cho ngoại giao Việt Nam cách
mạng và hiện đại. Những chính sách này xuyên suốt quá trình phát triển của
ngoại giao Việt Nam cũng như quá trình phát triển đất nước và đã để lại khá
nhiều thành tựu.
Thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, những chính sách đối ngoại trên của
Việt Nam vẫn phát huy tác dụng, giúp Việt Nam một lần nữa thoát ra khỏi
tình thế nguy hiểm, giữ vững được nền độc lập. Đối với đế quốc Mỹ, cuộc
chiến tranh Việt Nam là mũi nhọn của chiến lược toàn cầu của Mỹ trong
những năm 60. Quyết tâm chiến lược của Mỹ ở Việt Nam thể hiện qua sự
dính líu của 5 đời tổng thống: Ai-xen-hao, Ke-nơ-đi, Nich-xơn và Pho vào
chiến tranh Việt Nam. Đối với Mỹ, sự sụp đổ ở Việt Nam sẽ gây ra một cuộc
khủng hoảng đối với toàn bộ hệ thống thuộc địa của Mỹ trên toàn thế giới.
Chính vì lẽ đó, Mỹ tập trung ở mức cao nhất lực lượng quân sự và tài chính
trong thời bình với quyết tâm đè bẹp cuộc đấu tranh của nhân dân ta và từ đó
uy hiếp phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới.
Về phía ta, ta một lần nữa vận dụng những chính sách ngoại giao linh
hoạt, khôn khéo, phù hợp với từng thời điểm cụ thể để giành được thắng lợi.
Sách lược đấu tranh và tranh thủ lực lượng trung gian của ta đã thu hẹp xu
hướng thân Mỹ, sợ Mỹ và mơ hồ về cuộc chiến tranh, góp phần tạo chuyển
biến lực lượng có lợi cho ta, thể hiện trước hết ở các diễn đàn quốc tế như:
Liên Hợp Quốc, Phong trào không liên kết và các diễn đàn khu vực khác.
Đồng thời, ta mở rộng quan hệ với nên ngoài, tạo được một hậu phương quốc
tế vững chắc, hậu thuẫn cho cuộc chiến đấu lâu dài của “dân tộc nhỏ chiến
đấu với đế quốc to”, đồng thời góp phần làm rối loạn hậu phương của thế lực


xâm lược. Các phong trào đấu tranh, các cuộc biểu tình của nhân dân các
nước phản đối chiến tranh ở Việt Nam lên cao, tác động lớn đến diễn biến

quốc tế. Phong trào phản chiến ở Mỹ lên tới đỉnh điểm gây những hệ quả bất
lợi cho nhà Trắng và Lầu Năm góc trong việc điều hành chính sách tăng
cường, mở rộng chiến tranh.
Ta cũng rất sáng suốt nhìn ra âm mưu chia rẽ Việt Nam với Trung
Quốc và chia rẽ các nước xã hội chủ nghĩa, nhằm cô lập Việt Nam. Bằng
những chính sách kiên định, đoàn kết với Liên Xô, với những sách lược có lý,
có tình, ngoại giao của ta đã góp phần duy trì, củng cố quan hệ đoàn kết, hợp
tác với Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa khác, tạo hậu
phương quốc tế vững chắc có lợi cho ta.
Đảng và nhà nước ta bên cạnh thái độ cương quyết giữ độc lập, sẵn
sàng đấu tranh vũ trang bảo vệ độc lập, còn rất coi trọng mặt trận ngoại giao,
nhất là sử dụng mọi biện pháp chính trị, đối ngoại để khai thác đúng nhược
điểm cơ bản trong chiến lược chiến tranh của đối phương. Tiến công ngoại
giao từ tháng 1 năm 1967 buộc địch xuống thang chiến tranh, ngồi vào bàn
đàm phán tay đôi trong khi ta chưa tung ra quả đấm chiến lược về quân sự là
điều khôn ngoan và sáng tạo của Việt Nam. Thế trận đánh – đàm đã buộc đối
phương bộc lộ chỗ yếu nhất trong chiến tranh, mặt khác tạo thời cơ để ta phát
huy sức mạnh chính nghĩa; phối hợp chính trị - quân sự - ngoại giao và sức
mạnh cộng hưởng của dân tộc và thời đại13.
Sau gần năm năm đấu tranh quyết liệt trên bàn đàm phán, Hội nghị
Paris đã ghi nhận trí tuệ lớn của Việt Nam. Điểm nổi bật của Hiệp định Paris
chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở Việt Nam. Nếu khi bắt đầu cuộc
chiến, Mỹ và ngụy quyền Sài Gòn muốn xóa hiệp định Giơ – ne – vơ thì nay
họ lại phải xác nhận tôn trọng quyền độc lập, tự chủ, thống nhất toàn vẹn lãnh
thổ của Việt Nam như đã thừa nhận ở Hiệp định Giơ – ne – vơ.

13

Vũ Đoàn Kết (2007), Chính sách đối ngoại Việt Nam, Nhà xuất bản Thế giới, trang 424



Như vậy, chính sách ngoại giao đa phương, linh hoạt, biết tận dụng
điểm yếu của kẻ thù cùng với sự đoàn kết dân tộc đã giúp Việt Nam giành
được thắng lợi, buộc Mỹ và các nước phải công nhận độc lập toàn vẹn lãnh
thổ của ta. Thắng lợi ngoại giao cực kỳ quan trọng này đã tạo cơ sở pháp lý
cho cuộc đấu tranh chính nghĩa của dân tộc Việt Nam đi đến thắng lợi hoàn
toàn vào mùa xuân năm 1975. Qua đó, một lần nữa, tính đúng đắn, hợp lý
trong chính sách đối ngoại của Việt Nam được khẳng định
3.2. Ý nghĩa hiện thực
Trong bối cảnh đất nước phải đối phó với thù trong giặc ngoài, sách
lược ngoại giao “hòa để tiến” đã tranh thủ thời gian cho Cách mạng củng cố
lực lượng, chuẩn bị trường kỳ kháng chiến. Trong giai đoạn này, ngoại giao
đã rút ra được những bài học đầu tiên nhưng vô cùng quý giá, đó là bài học về
nguyên tắc “đặt lợi ích dân tộc lên hàng đầu,” về chủ trương “thêm bạn, bớt
thù,” về phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến,” về sách lược “lợi dụng mâu
thuẫn giữa kẻ thù”... để từ đó đặt nền móng cho thắng lợi của các thời kỳ tiếp
nối.
Bước vào thế kỷ XXI, ngoại giao Việt Nam chuyển hướng mạnh mẽ
sang phục vụ kinh tế, trong đó nhiệm vụ hàng đầu là tạo môi trường hòa bình,
ổn định và điều kiện quốc tế thuận lợi để phát triển kinh tế, lấy việc mở rộng
kinh tế đối ngoại làm trọng tâm 14. Hoạt động ngoại giao phục vụ sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngày càng được tăng cường và mở rộng, góp
phần xây dựng chính sách, khuôn khổ pháp lý cho quan hệ kinh tế đối ngoại,
nghiên cứu đánh giá các vấn đề chính trị, kinh tế quốc tế tác động đến Việt
Nam, nghiên cứu chính sách kinh tế, tìm hiểu tiềm năng thế mạnh của các
nước, thúc đẩy hợp tác bình đẳng, cùng có lợi giữa Việt Nam với các nước.
Bước vào thời kỳ Đổi mới, Đảng và Nhà nước đã sớm xác định nhiệm
vụ đối ngoại trong thời kỳ mới là tạo dựng môi trường hòa bình, ổn định cho
mục tiêu phát triển kinh tế. Từ chỗ bị bao vây về kinh tế, cô lập về chính trị,
14


Ngoại giao Việt Nam – 60 năm vì hòa bình, hữu nghị - Trang web của Bộ ngoại giao Việt Nam:
- Truy cập ngày 14/12/2009


đến nay Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 180 nước, quan hệ kinh tế thương mại - đầu tư với trên 220 quốc gia và vùng lãnh thổ; quan hệ với các
nước láng giềng, khu vực, các nước lớn và các trung tâm kinh tế - chính trị
hàng đầu, các nước bạn bè truyền thống và đối tác tiềm năng ngày càng phát
triển, đi vào chiều sâu, ổn định, bền vững hơn. Trong 30 năm đổi mới, đất
nước ta đã đạt được những thành tựu lớn về nhiều mặt, gắn nhiệm vụ trọng
tâm phát triển kinh tế-xã hội với củng cố quốc phòng, an ninh; tăng cường,
mở rộng quan hệ đối ngoại, đưa đất nước vượt qua khủng hoảng kinh tế - xã
hội, phá thế bị bao vây, cô lập, giữ vững ổn định chính trị, xã hội, phát triển
kinh tế với đà tăng trưởng ngày càng cao, đời sống nhân dân được cải thiện,
quốc phòng, an ninh được củng cố, quan hệ đối ngoại ngày càng rộng mở, uy
tín, vị thế quốc tế của nước ta không ngừng được nâng cao.”
Việt Nam là thành viên chủ động, tích cực và có trách nhiệm của cộng
đồng quốc tế. Ngoại giao cũng góp phần tích cực quảng bá hình ảnh đất nước,
con người Việt Nam, tạo nhiều điều kiện thuận lợi để kiều bào ta ngày càng
hướng về Tổ quốc, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc. Công tác biên giới lãnh
thổ đạt nhiều kết quả quan trọng, trong đó nổi bật là việc lần đầu tiên trong
lịch sử quan hệ Việt Nam và Trung Quốc, hai bên đã hoàn thành phân giới
cắm mốc biên giới trên đất liền và ký các văn bản pháp lý liên quan.
Đánh giá về những đóng góp của ngoại giao trong sự nghiệp phát triển
đất nước, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Thế Phương chia sẻ
nếu trong những năm tháng kháng chiến, ngoại giao là một mặt trận chiến
lược quan trọng, phối hợp với mặt trận quân sự và chính trị để bảo vệ Tổ
quốc, giành lại độc lập dân tộc, thống nhất đất nước thì bước vào thời kỳ Đổi
mới, công tác ngoại giao phục vụ kinh tế trở thành nhiệm vụ trọng tâm của
ngành, đóng góp ngày càng thiết thực, hiệu quả vào sự nghiệp phát triển kinh

tế - xã hội đất nước.
Với vai trò mở đường, phát huy sức mạnh của ngoại giao chính trị,
ngoại giao văn hóa, ngành ngoại giao đã khai thông, mở rộng và đưa quan hệ


hợp tác của Việt Nam với các quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới đi vào
chiều sâu; đi tiên phong trong việc khai mở các thị trường, các lĩnh vực hợp
tác quốc tế mới. Có thể nói chưa bao giờ Việt Nam có được quan hệ hợp tác
quốc tế rộng rãi và bình đẳng với các nước ở khắp các châu lục như ngày nay.
Vai trò và vị thế của Việt Nam ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế.
Ngày nay, thế giới biết đến Việt Nam không chỉ là dân tộc yêu chuộng
hòa bình, quật cường, anh dũng trong chiến tranh, mà còn là đất nước đổi mới
thành công, thân thiện, có nhiều tiềm năng, kinh tế phát triển năng động, tích
cực tham gia vào các công việc quốc tế vì hòa bình, hợp tác và phát triển.
Trong những thành tựu đáng tự hào đó của cả dân tộc, có sự đóng góp đáng kể
của ngành ngoại giao trên cơ sở phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành, địa
phương và doanh nghiệp trong việc triển khai có hiệu quả ba trụ cột đối ngoại
là ngoại giao chính trị, ngoại giao kinh tế, ngoại giao văn hóa, kết hợp với
công tác người Việt Nam ở nước ngoài.
Thực hiện đường lối và chính sách đối ngoại đúng đắn, đến nay Việt
Nam đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với 15 nước, quan hệ đối tác toàn
diện với 11 nước. Việt Nam đã đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ với các
đối tác, nhất là các đối tác quan trọng, đưa khuôn khổ quan hệ đã xác lập đi
vào thực chất. Những chuyến thăm ngoại giao của Tổng Bí thư Nguyễn Phú
Trọng tới Trung Quốc, Hoa Kỳ... và những chuyến thăm của các lãnh đạo
Đảng, Nhà nước được triển khai rộng khắp thế giới, cùng với việc chúng ta
tiếp đón những nguyên thủ và lãnh đạo các nước tới Việt Nam, là minh chứng
hùng hồn về thế n ước đang lên, vị trí của Việt Nam trên trường quốc tế ngày
càng được khẳng định vững chắc
Trước tình hình mới đòi hỏi ngoại giao phải chủ động và sáng tạo hơn,

nhạy bén và hiệu quả hơn, phối hợp chặt chẽ với các ngành quốc phòng, an
ninh, kinh tế, tư tưởng văn hóa... để tạo ra sức mạnh tổng hợp, giữ vững môi
trường hòa bình, ổn định, thuận lợi cho sự phát triển của đất nước.


Giáo sư Vũ Dương Ninh chia sẻ 70 năm qua ngoại giao đã thực hiện
được nhiệm vụ của mình, phối hợp với các mặt trận chính trị, quân sự, kinh tế,
đem lại thắng lợi, sự phát triển cho đất nước. Bây giờ trong sự phát triển của
đường lối đổi mới thì ngoại giao cũng vẫn cần thực hiện đường lối đa dạng
hóa, đa phương hóa, tăng cường lực lượng ủng hộ Việt Nam, tức là làm bạn
ngày càng sâu hơn, rộng hơn. Nhờ đó, Việt Nam đẩy mạnh cuộc đấu tranh bảo
vệ độc lập tự chủ, đặc biệt là bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ các đường biên
giới trên bộ, biển đảo. Với kinh nghiệm đó, với đường lối đúng đắn của Đảng
và Nhà nước, với đội ngũ cán bộ ngoại giao ngày càng đông đảo và nhiều
kinh nghiệm, chắc chắn chúng ta sẽ đạt được mục tiêu dân giàu nước mạnh,
xã hội dân chủ công bằng văn minh.


KẾT LUẬN
Hiện nay, xu thế chung mà các quốc gia trên thế giới hướng tới là sự
hòa bình, hợp tác và phát triển. Các quốc gia ngày càng có nhiều mối quan hệ
về kinh tế, chính trị, xã hội.Để những mối quan hệ này trở nên tốt đẹp, bền
vững, một quốc gia cần có quan hệ ngoại giao tốt với các quốc gia khác trong
khu vực và trên thế giới. Việt Nam, sau 30 năm đổi mới, đang có lợi thế rất
lớn là tình hình chính trị, xã hội cơ bản ổn định nhưng chúng ta cũng đang
phải đối mặt với nhiều thách thức rất lớn. Đảng và Nhà nước Việt Nam tiếp
tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa dạng hoá, đa
phương hoá quan hệ quốc tế, chủ động hội nhập quốc tế với phương châm
Việt Nam sẵn sàng là bạn và là đối tác tin cậy, là thành viên có trách nhiệm
trong cộng đồng thế giới phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển. Những

phương châm, đường lối đối ngoại của ta bắt đầu cùng với sự hình thành của
nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Đến nay, những chính sách đó vẫn là
những công cụ sắc bén giúp Việt Nam bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn
lãnh thổ, phát triển về các mặt: kinh tế, văn hóa, xã hội. Tìm hiểu về chính
sách đối ngoại của Việt Nam giúp ta hiểu rõ về hoạt động ngoại giao của nước
nhà. Từ đó, ta rút ra được những kinh nghiệm quý báu để vận dụng, sáng tạo
góp phần phát triển đất nước. Đồng thời, những kiến thức mà ta thu được qua
tìm hiểu các chính sách ngoại giao, hoạt động ngoại giao cũng giúp ích cho ta
trong việc ứng xử, trong công việc hàng ngày. Thời kỳ 1945 – 1946 là thời
điểm nước Việt Nam dân chủ cộng hòa mới được hình thành. Tại thời điểm
này, tình hình trong nước và quốc tế diễn biến rất phức tạp. Ngoại giao Việt
Nam lúc này phải phát huy hết khả năng để giữ vững độc lập, chủ quyền và
đưa đất nước đi lên. Đây là thời kì mà ngoại giao Việt Nam được thể hiện rất
rõ nét với những mục tiêu và nhiệm vụ cụ thể. Thắng lợi của chính sách đối
ngoại thời kỳ 1945-1946 đã minh chứng cho đường lối đúng đắn của Đảng,
nâng tầm nghệ thuật trong sách lược ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh và
Đảng ta, để lại nhiều kinh nghiệm quý báu trong quan hệ đối ngoại hiện nay./.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ giáo dục đào tạo: Giáo trình đường lối cách mạng của Đảng
cộng Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, H.2009.
2. Nguyễn Đình Bin, Ngoại giao Việt Nam 1945-2000, Nxb chính trị
quốc gia , H.2002
3. Lê Duẩn, Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập tự do, vì chủ
nghĩa xã hội, tiến lên giành những thắng lợi mới, Nxb Sự thật, H, 1970
4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VI, Nxb Chính trị quốc gia, H.1986.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VII, Nxb Chính trị quốc gia, H.1991.

6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp
hành Trung ương, khóa VII, Nxb Chính trị quốc gia, H.1992.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, H.1996.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, H.2001.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, H.2006.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011.
11. Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.2000.
12. Vũ Đoàn Kết, Chính sách đối ngoại Việt Nam 1945-1975, Nxb Thế
giới, H.2007.
13. Nguyễn Phúc Luân, Ngoại Giao Việt Nam hiện đại vì sự nghiệp
độc lập, tự do 1945-1975, Nxb Chính trị quốc gia, H.2001.
14. Ngoại giao Việt Nam – 60 năm vì hòa bình, hữu nghị - Trang web
của Bộ ngoại giao Việt Nam:
15. Thông cáo ngoại giao 3/10/1945



×