Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

TIỂU LUẬN PHƯƠNG PHÁP LỊCH sử, LOGIC và TỔNG kết THỰC TIỄN TRONG NGHIÊN cứu KHOA học xây DỰNG ĐẢNG CỘNG sản VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.29 KB, 17 trang )

PHƯƠNG PHÁP LỊCH SỬ - LOGIC VÀ TỔNG KẾT THỰC TIỄN
TRONG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
XÂY DỰNG ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
LỜI NÓI ĐẦU
Khoa học là hệ thống tri thức được rút ra từ hoạt động thực tiễn và được
chứng minh, khẳng định bằng các phương pháp nghiên cứu khoa học. Theo đó,
nghiên cứu khoa học được hiểu là một dạng hoạt động đặc biệt phức tạp của con
người, là hoạt động trí tuệ sáng tạo của các nhà khoa học nhằm nhận thức và cải
tạo thế giới, tạo ra hệ thống tri thức có giá trị ứng dụng chúng vào việc cải tạo
thế giới khách quan. Bản chất của nghiên cứu khoa học là từ những hiện tượng
chúng ta cảm nhận được để tìm ra các quy luật của các hiện tượng đó. Nhưng
bản chất bao giờ cũng nằm sâu trong nhiều tầng hiện tượng, vì vậy để nhận ra
được bản chất và quy luật vận động của chúng đòi hỏi chúng ta phải có phương
pháp nghiên cứu khoa học.
Phương pháp không chỉ là vấn đề lý luận mà còn là vấn đề có ý nghĩa
thực tiễn to lớn, bởi vì chính phương pháp góp phần quyết định thành công của
mọi quá trình nghiên cứu khoa học. Phương pháp chính là sản phẩm của sự nhận
thức đúng quy luật của đối tượng nghiên cứu, là công cụ, giải pháp, cách thức,
thủ pháp, con đường, bí quyết, quy trình công nghệ để chúng ta thực hiện công
việc nghiên cứu khoa học, để tiếp tục nhận thức sâu hơn và cải tạo tốt hơn đối
tượng đó. Trong thực tế cuộc sống của chúng ta người thành công là người biết
sử dụng phương pháp như một công cụ để mang lại hiệu quả cao nhất. Bản chất
của phương pháp nghiên cứu khoa học chính là việc con người sử dụng một
cách có ý thức các quy luật vận động của đối tượng như một phương tiện để
khám phá chính đối tượng đó. Phương pháp nghiên cứu chính là con đường dẫn
nhà khoa học đạt tới mục đích sáng tạo.
Khoa học nghiên cứu xây dựng Đảng là một bộ phận của khoa học nói
chung. Đồng thời là một khoa học chuyên ngành thuộc khoa học chính trị, là
môn học đặc trưng trong chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản



2

lý của hệ thống chính trị trong các trường đào tạo cán bộ của Đảng và trong
Quân đội. Vì vậy, việc vận dụng những quan điểm phương pháp luận và hệ
thống các phương pháp nghiên cứu khoa học xây dựng Đảng không những là
điều kiện nâng cao chất lượng hiệu quả của hoạt động nghiên cứu khoa học mà
còn là yêu cầu tự thân của khoa học xây dựng Đảng, nhằm xây dựng Đảng vững
mạnh về chính trị tư tưởng, tổ chức và không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo,
sức chiến đấu của Đảng. Tuy nhiên, trong phạm vi bài thu hoạch của mình, tôi
xin trình bày hai phương pháp cơ bản nhất trong hệ thống các phương pháp
nghiên cứu khoa học xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam do tính ứng dụng cao
của môn khoa học này, đó là: Phương pháp lịch sử - logic và tổng kết thực tiễn
công tác xây dựng Đảng cộng sản Việt nam.
1. Quan niệm và các phương pháp nghiên cứu khoa học xây dựng
Đảng cộng sản Việt nam
1.1. Quan niệm nghiên cứu khoa học xây dựng Đảng
Khoa học xây dựng Đảng là hệ thống tri thức về Đảng và xây dựng Đảng,
là tổng thể các công việc nhằm làm cho Đảng trong sạch, vững mạnh, không
ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu. Khoa học xây dựng Đảng
có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng: Là một khoa học chuyên ngành thuộc khoa
học chính trị (bao gồm: Chính trị học; Hồ Chí Minh học và Xây dựng Đảng
cộng sản Việt Nam); là môn học đặc trưng trong chương trình đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý của hệ thống chính trị trong các trường đào tạo
cán bộ của Đảng. Đối với Quân đội, môn học khoa học xây dựng Đảng gắn liền
với quá trình hình thành xây dựng trưởng thành của các nhà trường Quân đội; là
môn học chuyên ngành của học viên đào tạo đội ngũ chính ủy, chính trị viên, sĩ
quan chính trị, giảng viên và cán bộ nghiên cứu khoa học chính trị theo mô hình,
mục tiêu đào tạo. Trực tiếp bồi dưỡng phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống,
kiến thức, năng lực toàn diện, phương pháp, tác phong công tác, rèn luyện kỹ
năng tiến hành công tác xây dựng Đảng cho đội ngũ cán bộ và hoàn thiện nhân

cách người cán bộ của Đảng nhằm tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng với
Quân đội và xây dựng Đảng bộ Quân đội trong sạch vững mạnh.


3

Nghiên cứu khoa học xây dựng Đảng là hoạt động đặc biệt phức tạp của
con người, là hoạt động trí tuệ sáng tạo của các nhà khoa học, các nhóm, tập thể
nghiên cứu khoa học sử dụng tổng thể những cách thức, biện pháp nhằm nhận
thức những nguyên lí, nguyên tắc, quy luật, kinh nghiệm về xây dựng Đảng,
nhằm tạo ra hệ thống tri thức có giá trị và vận dụng vào xây dựng Đảng vững
mạnh về chính trị tư tưởng và tổ chức.
Đặc điểm bao trùm phương pháp nghiên cứu khoa học xây dựng Đảng là
quá trình lao động trí tuệ khó khăn phức tạp đầy mâu thuẫn mang tính đảng, tính
giai cấp sâu sắc. Bởi vì, đây là môn khoa học xã hội có tính chính trị rất cao,
trực tiếp nghiên cứu về Đảng – lực lượng lãnh đạo xã hội, do đó phạm vi nghiên
cứu rất rộng; cơ sở của khoa học xây dựng Đảng là chủ nghĩa Mác – Lênin, kinh
nghiệm của Đảng và các đảng khác; là môn khoa học còn đang tiếp tục hình
thành, phát triển nhưng cần tính thực tiễn rất cao, gắn liền với chỉ đạo thực tiễn.
Đối tượng nghiên cứu khoa học xây dựng Đảng là nghiên cứu quy luật ra
đời, bản chất, vai trò, các nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Đảng; nghiên cứu
quy luật, nguyên lý, nguyên tắc, phương thức xây dựng nội bộ Đảng về chính
trị, tư tưởng, tổ chức và hoạt động lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, các tổ
chức khác trong hệ thống chính trị, các lĩnh vực của đời sống xã hội và toàn xã
hội; những vấn đề thực tiễn của công tác xây dựng Đảng đặt ra, đồng thời đấu
tranh chống mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch.
Chủ thể nghiên cứu, hoạt động khoa học xây dựng Đảng là tập thể, cá
nhân các nhà khoa học và các nhà lãnh đạo nhằm tìm tòi khám phá ra bản chất
quy luật xây dựng Đảng, trên cơ sở hình thành khái quát luận điểm, nguyên lí,
nguyên tắc, quy luật về xây dựng Đảng.


1.2. Các phương pháp nghiên cứu khoa học xây dựng Đảng
Xây dựng Đảng cộng sản Việt nam là một bộ môn khoa học, có cơ sở
phương pháp luận, đồng thời có phương pháp đặc thù, gắn với các phương pháp
liên ngành. Phương pháp luận nghiên cứu xây dựng Đảng là phép biện chứng
duy vật của chủ nghĩa Mác – Lênin và từ những nguyên lý cơ bản của phép biện
chứng duy vật để xác định phương pháp nghiên cứu đặc thù của xây dựng Đảng.


4

Là một bộ môn khoa học thì phải có đối tượng, hệ thống phạm trù quy
luật và phương pháp nghiên cứu đặc thù, không thể chồng chéo, trùng lặp với
nội dung các môn khoa học khác. Từ cách tiếp cận khi nghiên cứu khoa học xây
dựng Đảng cộng sản Việt Nam với tư cách là một môn khoa học chuyên ngành,
đã xác định hệ thống các phương pháp nghiên cứu khoa học xây dựng Đảng cơ
bản là: Lịch sử - logic, phân tích - tổng hợp, thống kê - so sánh, tổng kết thực
tiễn, điều tra xã hội học, nghe báo cáo và trao đổi, nghiên cứu tài liệu, chuyên
gia, so sánh …
Như vậy, phương pháp nghiên cứu khoa học xây dựng Đảng rất phong
phú, đa dạng. Quá trình nghiên cứu khoa học người nghiên cứu thường phải sử
dụng tổng hợp nhiều phương pháp để giải quyết một vấn đề cụ thể. Trong đó,
phương pháp logic - lịch sử và phương pháp tổng kết thực tiễn về xây dựng
Đảng có ý nghĩa quan trọng hàng đầu, góp phần phát triển lý luận về Đảng và
xây dựng Đảng, cung cấp cơ sở khoa học cho hoạt động thực tiễn của các tổ
chức đảng.
2. Phương pháp lịch sử - logic và tổng kết thực tiễn trong nghiên cứu
khoa học xây dựng Đảng cộng sản Việt Nam
2.1. Phương pháp lịch sử - logic
Phương pháp nghiên cứu lịch sử, logic là phương pháp nghiên cứu bằng

cách đi tìm nguồn gốc phát sinh, quá trình phát triển và biến hoá của đối tượng,
để phát hiện bản chất và quy luật vận động, phát triển của đối tượng thông qua
các nguồn tư liệu lịch sử.
Phương pháp này cũng được xây dựng trong tổng quan của vấn đề nghiên
cứu và thường dựa vào các nguồn tài liệu, tư liệu lịch sử đã được công bố để thu
thập, xử lý thông tin, rút ra các nhận xét, đánh giá phục vụ cho mục đích nghiên
cứu.
Phương pháp lịch sử và phương pháp logic là hai mặt biểu hiện của
phương pháp biện chứng mácxít. Tính thống nhất và tính khác biệt của nó cũng
bắt nguồn từ tính thống nhất và tính khác biệt của hai phạm trù lịch sử và logic.


5

Phương pháp lịch sử là phương pháp nghiên cứu bằng cách đi tìm nguồn
gốc phát sinh, quá trình phát triển và biến hoá của đối tượng, để phát hiện ra
bản chất và quy luật của đối tượng.
Bởi vì, các đối tượng nghiên cứu (sự vật, hiện tượng) đều có lịch sử của
mình, tức là có nguồn gốc phát sinh, có vận động phát triền và tiêu vong. Quy
trình phát triền lịch sử biểu hiện toàn bộ tính cụ thể của nó, với mọi sự thay đổi,
những bước quanh co, những cái ngẫu nhiên, những cái tất yếu, phức tạp, muôn
hình, muôn vẻ, trong các hoàn cảnh khác nhau và theo một trật tự thời gian nhất
định.
Hay nói cách khác, phương pháp lịch sử là phương pháp thông qua miêu
tả tái hiện hiện thực với sự hỗn độn, lộn xộn, bề ngoài của các yếu tố, sự kiện kế
tiếp nhau, để nêu bật lên tính quy luật của sự phát triển.
Do đó phương pháp lịch sử có đặc điểm đó là phải đi sâu vào tính muôn
màu muôn vẻ của lịch sử, tìm ra cái đặc thù, cái cá biệt ở trong cái phổ biến; và
trên cơ sở nắm được những đặc thù cá biệt đó để trình bày thể hiện cái phổ biến
của lịch sử.

Phương pháp lịch sử đặt ra yêu cầu chúng ta phải tìm hiểu cái không lặp
lại bên cái lặp lại. Các hiện tượng lịch sử thường hay tái diễn, nhưng không bao
giờ diễn lại hoàn toàn như cũ. Phương pháp lịch sử phải chú ý tìm ra cái khác
trước, cái không lặp lại để thấy những nét đặc thù lịch sử. Ví dụ, cũng là khởi
nghĩa nông dân, nhưng khởi nghĩa nông dân Nguyễn Hữu Cầu có khác khởi
nghĩa nông dân Hoàng Hoa Thám về đối tượng, quy mô và hình thức đấu
tranh…
Phương pháp lịch sử lại yêu cầu chúng ta phải theo dõi những bước
quanh co, thụt lùi tạm thời…của phát triển lịch sử. Bởi vì lịch sử phát triển
muôn màu muôn vẻ, có khi cái cũ chưa đi hẳn, cái mới đã nảy sinh. Hoặc khi cái
mới đã chiếm ưu thế, nhưng cái cũ hãy còn có điều kiện và nhu cầu tồn tại trong
một chừng mực nhất định. Phương pháp lịch sử phải đi sâu vào những uẩn khúc
đó.


6

Phương pháp lịch sử còn yêu cầu chúng ta đi sâu vào ngõ ngách của lịch
sử, đi sâu vào tâm lý, tình cảm của quần chúng, hiểu lịch sử cả về điểm lẫn về
toàn diện, hiểu từ cá nhân, sự kiện, hiện tượng đến toàn bộ xã hội. Chẳng hạn
như nói về cách mạng Tháng Tám, nếu chỉ nêu lên những đặc điểm, quy luật và
sự kiện điển hình thì chưa đủ để thấy được sắc thái đặc biệt của nó khác với các
cuộc cách mạng khác. Tâm lý của quần chúng trước ngày khởi nghĩa, tình cảm
đối với Đảng, với cách mạng, những hành vi biểu lộ tâm lý, tình cảm đó lại là
những nét mà lịch sử phải chú ý để cho sự miêu tả được sinh động, tránh khô
khan, công thức, gò bó.
Phương pháp lịch sử phải chú ý những tên người, tên đất, không
gian, thời gian, thời gian cụ thể, nhằm dựng lại quá trình lịch sử đúng như nó
diễn biến.
Tóm lại, mọi sự vật và hiện tượng của tự nhiên và xã hội đều có lịch sử

của mình. Quy trình phát triển lịch sử biểu hiện toàn bộ tính cụ thể của nó trong
các hoàn cảnh khác nhau và theo một trật tự thời gian nhất định. Đi theo dấu vết
của lịch sử chúng ta sẽ có bức tranh trung thực về bản thân đối tượng nghiên
cứu. Phương pháp lịch sử yêu cầu làm rõ quá trình phát triển cụ thể của đối
tượng, phải nắm được sự vận động cụ thể trong toàn bộ tính phong phú của nó,
phải bám sát sự vật, theo dõi những bước quanh co, những ngẫu nhiên của lịch
sử, phát hiện sợi dây lịch sử của toàn bộ sự phát triển. Từ cái lịch sử chúng ta sẽ
phát hiện ra cái quy luật phát triển của đối tượng. Tức là tìm ra cái lôgíc của lịch
sử, đó chính là mục đích của mọi hoạt động nghiên cứu khoa học.
Phương pháp logic là phương pháp nghiên cứu quá trình phát triển lịch
sử, nghiên cứu các hiện tượng lịch sử trong hình thức tổng quát, nhằm mục đích
vạch ra bản chất quy luật, khuynh hướng chung trong sự vận động của chúng.
Do đó, phương pháp logic có đặc điểm là nhằm đi sâu tìm hiểu cái bản
chất, cái phổ biến, cái lặp lại của các hiện tượng. Muốn vậy, nó phải đi vào
nhiều hiện tượng, phân tích, so sánh, tổng hợp…để tìm ra bản chất của hiện
tượng.


7

Nếu phương pháp lịch sử đi sâu vào cả những bước đường quanh co, thụt
lùi tạm thời của lịch sử, thì phương pháp lôgíc lại có thể bỏ qua những bước
đường đó, mà chỉ nắm lấy bước phát triển tất yếu của nó, nắm lấy cái xương
sống phát triển của nó, tức là nắm lấy quy luật của nó. Như Anghen đã nói: logic
không phải là sự phản ánh lịch sử một cách đơn thuần, mà là sự phản ánh đã
được uốn nắn lại nhưng uốn nắn theo quy luật mà bản thân quá trình lịch sử
đem lại.
Khác với phương pháp lịch sử là phải nắm lấy từng sự việc cụ thể, nắm
lấy không gian, thời gian, tên người, tên đất…cụ thể, phương pháp logic lại chỉ
cần đi sâu nắm lấy những nhân vật, sự kiện, giai đoạn điển hình và nắm qua

những phạm trù quy luật nhất định. Thí dụ, trong khi viết Tư bản luận, C. Mác
có thể đi ngay vào giai đoạn phát triển điển hình cao nhất của lịch sử lúc đó là
xã hội tư bản. Khi phát hiện ra được quy luật cơ bản của chủ nghĩa tư bản là quy
luật thặng dư giá trị, tức là nắm được sâu sắc các giai đoạn điển hình, thì từ đó
có thể dễ dàng tìm ra các quy luật phát triển của các xã hội trước tư bản chủ
nghĩa, mà không nhất thiết phải đi từ giai đoạn đầu của lịch sử xã hội loài người.
Nhờ những đặc điểm đó mà phương pháp logic có những khả năng riêng
là:
Phương pháp logic giúp chúng ta nhìn nhận ra cái mới. Bởi vì, logic là sự
phản ánh của thế giới khách quan vào ý thức con người, mà thế giới khách quan
thì không ngừng phát triển, cái mới luôn luôn nảy sinh. Do luôn luôn chú ý đến
cái phổ biến, cái bản chất mà tư duy logic dễ nhìn thấy những bước phát triển
nhảy vọt và thấy cái mới đang nảy sinh và phát triển như thế nào. Đặc điểm của
cái mới là nó khác về chất với cái cũ. Mặc dù là hình thức thì chưa thay đổi,
nhưng chất mới đã nảy sinh.
Do thấy được mầm mống của cái mới mà phương pháp logic có thể giúp
ta thấy được hướng đi của lịch sử, nhằm chỉ đạo thực tiễn, cải tạo thế giới.
Phương pháp logic còn có ưu điểm là giúp chúng ta tác động tích cực vào
hiện thực, nhằm tái sản sinh ra lịch sử ở một trình độ cao hơn, nghĩa là chủ động
cải tạo, cải biến lịch sử, nhờ đó nắm được những quy luật khách quan đó. Cụ thể


8

hiện nay, một số xí nghiệp quốc doanh được cổ phần hoá đã giúp công nhân có
thể trở thành người vừa sản xuất, vừa làm chủ xí nghiệp, lại cải thiện nhanh
chóng được đời sống. Nhà nước đã chủ động tác động tới quá trình đó, đưa lịch
sử tiến lên.
Như vậy, chúng ta đã tìm ra tính khác biệt của phương pháp lịch sử và
phương pháp logic, cũng tức là vạch ra tính độc lập tương đối của hai phương

pháp. Tuy nhiên giữa hai phương pháp này cũng có sự thống nhất.
Phương pháp lịch sử và phương pháp logic luôn có mối quan hệ thống
nhất với nhau. Trên thực tế công tác nghiên cứu theo phương pháp biện chứng
mácxít, không bao giờ có phương pháp lịch sử hay phương pháp logic thuần tuý
tách rời nhau, mà là trong cái này có cái kia, hai cái thâm nhập vào nhau, ảnh
hưởng lẫn nhau. Giới hạn giữa chúng chỉ là tương đối. Cụ thể, phương pháp lịch
sử tuy phải theo sát tiến trình phát triển của lịch sử của sự vật hiện tượng, diễn
lại những bước quanh co, ngẫu nhiên, thụt lùi tạm thời của quá trình phát triển
hiện thực, nhưng không phải là miêu tả lịch sử đó một cách kinh nghiệm chủ
nghĩa, mà là miêu tả theo một sợi dây lôgíc nhất định của sự phát triển lịch sử;
không phải miêu tả lịch sử một cách mù quáng, mà là phát triển một cách có quy
luật.
Theo đó, phương pháp logic tuy không nói đến những chi tiết lịch sử,
những bước đường quanh co, ngẫu nhiên của lịch sử đối tượng, nhưng không
phải vì thế mà nó bỏ qua việc nghiên cứu lịch sử cụ thể của đối tượng. Phương
pháp logic là sự phản ánh cái chủ yếu được rút ra từ trong lịch sử sự vật, và làm
cho cái chủ yếu ấy thể hiện được bản chất của quá trình lịch sử.
Tóm lại, phương pháp lịch sử và phương pháp logic có tính thống nhất và
cũng có mục đích thống nhất là cùng nhằm phơi bày rõ chân lý khách quan của
sự phát triển lịch sử, nên trong công tác nghiên cứu, tổng kết khoa học, chúng ta
không chỉ vận dụng một phương pháp riêng rẽ nào, vì thực ra chúng chỉ là hai
mặt biểu hiện khác nhau của phương pháp biện chứng mácxít mà thôi. Tuy vậy,
trong công tác nghiên cứu chúng ta vẫn cần chú ý đến tính độc lập tương đối của
hai phương pháp này như đã nói ở trên.


9

2.2. Phương pháp tổng kết thực tiễn
2.2.1. Khái niệm

Phương pháp tổng kết thực tiễn là phương pháp nghiên cứu xem xét, phân
tích, đánh giá lại những hoạt động của con người tác động, cải tạo tự nhiên và xã
hội để rút ra những kết luận, những bài học cho hoạt động thực tiễn tiếp theo. Đây
là hoạt động phổ biến, thường xuyên diễn ra trong đời sống xã hội với nhiều cấp độ
khác nhau mà bản chất của nó là một phương pháp nhận thức từ xem xét cái đã
qua, so sánh kinh nghiệm (lý luận) cũ với kinh nghiệm mới để tìm ra giải pháp
mới (lý luận mới).
Theo đó, phương pháp tổng kết thực tiễn về xây dựng Đảng là hệ thống
các cách thức khảo sát, phân tích, đánh giá thực tiễn xây dựng Đảng nhằm phát
hiện những quy luật xây dựng Đảng, rút ra những kinh nghiệm cho công tác xây
dựng Đảng tiếp theo, góp phần phát triển lý luận xây dựng Đảng, hoàn chỉnh
chủ trương, đường lối xây dựng Đảng.
Với tư cách một phương pháp nghiên cứu khoa học, phương pháp tổng
kết thực tiễn về xây dựng Đảng là một thể thống nhất của các thao tác, cách thức
nhận thức nhằm khám phá các quy luật của xây dựng Đảng.
Với tư cách một công tác, phương pháp tổng kết thực tiễn về xây dựng
Đảng bao gồm các hoạt động nhằm khảo sát, đánh giá các ưu điểm và khuyết
điểm của những mặt công tác xây dựng Đảng đã làm, rút ra nguyên nhân, kinh
nghiệm, tìm ra giải pháp mới để phát huy ưu điểm, khắc phục, phòng ngừa
những khuyết điểm, sai lầm, làm cho công tác xây dựng Đảng được tốt hơn, đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ của Đảng, của cách mạng.
Như vậy, phương pháp tổng kết thực tiễn về xây dựng Đảng là một
phương pháp nghiên cứu khoa học xây dựng Đảng thông qua việc xem xét, đánh
giá các hoạt động xây dựng nội bộ và lãnh đạo của Đảng, tình hình của Đảng có
liên quan, từ đó rút ra kết luận, những kinh nghiệm, đề xuất phương hướng, giải
pháp, kiến nghị cho giai đoạn mới để tiếp tục tiến hành công tác xây dựng Đảng
được tốt hơn và góp phần phát triển lý luận xây dựng Đảng. Thực chất đây là
một phương pháp lớn trong đó đòi hỏi sự vận dụng rất nhiều phương pháp



10

nghiên cứu cụ thể như: điều tra, phân tích, tổng hợp, lịch sử-lôgíc, nghiên cứu tài
liệu, thống kê, phỏng vấn, nghe báo cáo, hội thảo, trao đổi, giám sát…. và được
tiến hành thông qua nhiều loại hình tổng kết, như: Tổng kết định kỳ - tổng kết
đột xuất; tổng kết tổng hợp - tổng kết chuyên đề; tổng kết toàn bộ một quá trình tổng kết một giai đoạn; tổng kết bằng hội nghị tổng kết - tổng kết bằng đề tài
khoa học; tổng kết của Trung ương – tổng kết của địa phương … Đây còn là một
nhiệm vụ, một công tác thường xuyên của các tổ chức đảng và các cơ quan, tổ
chức chức năng từ Trung ương đến cơ sở.
2.2.2. Phương pháp tổng kết thực tiễn là phương pháp nghiên cứu cơ bản,
quan trọng hàng đầu trong nghiên cứu khoa học Xây dựng Đảng.
Thứ nhất, khoa học xây dựng Đảng cộng sản Việt Nam còn mới mẻ, còn
nhiều vấn đề cần làm rõ, phát triển. Những chỉ dẫn của C.Mác, Ph.Ăng-ghen về
xây dựng Đảng chỉ mang tính định hướng vì hoàn cảnh lịch sử; còn các
nguyên tắc xây dựng chính đảng cách mạng kiểu mới của VI.Lê-nin chủ yếu
xây dựng trên cơ sở hoàn cảnh của nước Nga và châu Âu lúc đó. Mặt khác,
Đảng Cộng sản Việt Nam sinh trưởng trong một nước nông nghiệp lạc hậu,
sản xuất nhỏ, tàn dư tư tưởng phong kiến còn nặng, đa số đảng viên là nông
dân hoặc xuất thân từ nông dân. Đảng vừa lãnh đạo công cuộc đổi mới xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, vừa tự thường xuyên chỉnh đốn, xây dựng Đảng
trong cục diện thế giới hoàn toàn mới mẻ, chưa có tiền lệ. Vì vậy, khoa học xây
dựng Đảng phải dựa chủ yếu vào tổng kết thực tiễn mà xây dựng, phát triển hệ
thống lý luận.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra một cách vừa dễ hiểu, vừa sâu sắc cả về
phương pháp luận nghiên cứu cũng như phương châm lý luận phải gắn với thực
tiễn, từ thực tiễn mà phát triển lý luận, học đi đôi với hành theo một hệ thống
mở cho những người làm lý luận cách mạng ở Việt Nam nói chung và lý luận về
xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam nói riêng. Trong cuốn “Sửa đổi lối làm
việc” xuất bản tháng 10-1947, Hồ Chí Minh một lần nữa nhấn mạnh: “Lý luận là
đem thực tế trong lịch sử, trong kinh nghiệm, trong các cuộc đấu tranh, xem xét,



11

so sánh thật kỹ lưỡng rõ ràng, làm thành kết luận. Rồi lại đem nó chứng minh
với thực tế. Đó là lý luận chân chính”1.
Thứ hai, xuất phát từ đặc điểm về đối tượng của khoa học xây dựng Đảng,
đó là nghiên cứu cái đương đại, cái đang hiện diện của Đảng trong cuộc sống, từ
đó đề xuất những cơ sở khoa học cho việc đề ra các quyết sách chính trị của
Đảng. Nghĩa là nghiên cứu một sự vật, hiện tượng đang vận động chứ không
phải nghiên cứu một sự vật, hiện tượng đã kết thúc. Nói cách khác, khoa học
xây dựng Đảng nghiên cứu cơ thể sống của Đảng, bao gồm hoạt động xây dựng
nội bộ Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức và hoạt động lãnh đạo của Đảng đối
với Nhà nước, các tổ chức khác trong hệ thống chính trị, các lĩnh vực của đời
sống xã hội và toàn xã hội. “Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các
định hướng về chính sách và chủ trương lớn;...” 2 mà trung tâm là đảng viên, là
chính sách, là bộ máy tổ chức và hành động thực tiễn của Đảng, là mối quan hệ
và cách ứng xử của Đảng với những con người và các tổ chức xã hội ngoài
Đảng…. Những nội dung ấy đều là những vấn đề của thực tiễn mà bản thân
khoa học xây dựng Đảng phải tiếp cận, nghiên cứu và tổng kết, đúc rút thành lý
luận. Không có cơ sở ấy, khoa học xây dựng Đảng không tồn tại và ngược lại
nếu không có lý luận xây dựng Đảng thì hoạt động của Đảng, nói theo cách nói
của Hồ Chí Minh, là như người đi đêm mò mẫm, không có đèn, đuốc soi đường.
Thứ ba, cần thấy Đảng cộng sản Việt nam là đảng lãnh đạo, đồng thời là
đảng cầm quyền trong hệ thống chính trị nhất nguyên, trong chế độ dân chủ và
nhà nước pháp quyền. Vấn đề đặt ra đối với sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt
nam là làm cho nó mang bản chất XHCN. Nhưng tất cả những nội dung đó đều
chưa có tiền lệ trong lịch sử, đều phải trên cơ sở thực tiễn mà phát triển lý luận.
Chính thực tiễn sinh động ấy là minh chứng cho sự đúng đắn của lý luận xây
dựng Đảng. Do vậy, trong nghiên cứu xây dựng Đảng cộng sản Việt nam hiện

nay với tính cách là một môn khoa học ắt phải gắn với thực tiễn, do thực tiễn đòi
hỏi và nó chỉ có thể tồn tại và phát triển một khi nó đáp ứng được yêu cầu của
cuộc sống. Tức là yêu cầu sự lãnh đạo của Đảng phải đáp ứng, phải từ thực tiễn
1
2

Hồ Chí Minh toàn tập, NXBCTQG, H.1995, tập 5, tr. 223.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (Bổ sung, phát triển năm 2011), tr11.


12

làm sáng tỏ vị trí, vai trò, chức năng, nội dung và phương thức hoạt động của
Đảng.
Thứ tư, xuất phát từ vị trí, vai trò của phương pháp tổng kết thực tiễn về xây
dựng Đảng. Phương pháp tổng kết thực tiễn về xây dựng Đảng giúp các tổ chức
đảng từ Trung ương đến cơ sở kiểm tra, đánh giá sự chính xác của chủ trương,
đường lối xây dựng Đảng, từ đó có cơ sở để hoàn chỉnh đường lối, chủ trương
hoặc đề ra chủ trương, đường lối mới; không có tổng kết thực tiễn rất dễ chủ
quan sai lầm trong đề ra và tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng.
Phương pháp tổng kết thực tiễn còn là cơ sở để đánh giá các mặt công tác và góp
phần quan trọng trong phát triển lý luận xây dựng Đảng bằng việc đánh giá kết quả
các mặt của công tác xây dựng Đảng và các quan điểm lý luận trong thực tiễn, qua
đó hoàn thiện, phát triển những quan điểm lý luận đó; đồng thời, qua tổng kết
thực tiễn sẽ rút ra các kết luận, nguyên nhân, kinh nghiệm, giải pháp mới để kịp
thời điều chỉnh các mặt công tác xây dựng Đảng, phòng ngừa, khắc phục những
khuyết điểm, sai lầm và làm phong phú thêm lý luận xây dựng Đảng.
Thực tiễn trong suốt hơn 80 năm qua, Đảng cộng sản Việt nam đã thường
xuyên tổng kết thực tiễn để phát triển lý luận xây dựng Đảng, như việc tổng kết
thực hiện Cương lĩnh chính trị, tổng kết kết quả lãnh đạo và công tác xây dựng

Đảng thông qua các kỳ Đại hội Đảng, tổng kết chuên đề, tổng kết kết quả lãnh
đạo các nhiệm vụ trong từng giai đoạn 5 năm, 10 năm, 20 năm, … Hội nghị
Trương ương 5 (Khóa X) khẳng định: “Từ tổng kết lí luận và thực tiễn 20 năm
đổi mới, nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội đã
ngày càng sáng tỏ hơn, hệ thống quan điểm lí luận về công cuộc đổi mới đã
hình thành trên những nét cơ bản; góp phần đề ra những luận điểm mới trong
Văn kiện Đại hội X của Đảng”3…
2.2.3. Đặc điểm và yêu cầu của phương pháp tổng kết thực tiễn về xây
dựng Đảng
Là phương pháp được tiến hành thường xuyên trong hoạt động của các tổ
chức đảng. Do yêu cầu công tác lãnh đạo, các cấp ủy đảng thường xuyên phải quan
3

Nghị quyết Trung ương 5 (Khóa X) về công tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới. tr1.


13

tâm và tiến hành tổng kết thực tiễn về xây dựng Đảng, coi đó như một bước không thể
thiếu trong quy trình lãnh đạo của Đảng. Bởi vậy, phương pháp này có thuận lợi cơ
bản là quen thuộc và phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ của các tổ chức đảng.
Là phương pháp áp dụng trên khách thể nghiên cứu là Đảng Cộng sản Việt
Nam nên đòi chủ thể nghiên cứu phải có tính đảng cao, có phong cách làm việc
nghiêm túc, hiểu biết tốt về lý luận và thực tiễn xây dựng Đảng. Không có tính đảng
cao, kiến thức tốt về lý luận và thực tiễn xây dựng Đảng, thì người nghiên cứu không
thể nắm bắt được đầy đủ tình hình, đánh giá đúng được thực trạng và do đó không thể
rút ra được kinh nghiệm, đề xuất được phương hướng có giá trị. Nếu có thì cũng chỉ
hời hợt, không thuyết phục.
Đối tượng tiếp xúc thường xuyên để thực hiện tổng kết thực tiễn về xây
dựng Đảng là cấp ủy viên, cán bộ các cơ quan lãnh đạo, cơ quan tham mưu của

Đảng và quần chúng nhân dân. Bởi vậy, phương pháp này đòi hỏi đội ngũ cán bộ
nghiên cứu vừa phải đủ tầm về trí tuệ, kỹ năng làm việc với cán bộ cơ quan lãnh
đạo các cấp của Đảng và các tổ chức trong hệ thống chính trị, vừa phải có phong
cách làm việc sâu sát cơ sở, gần gũi với quần chúng nhân dân.
Là phương pháp đòi hỏi sự nghiên cứu, khảo sát sâu rộng, thận trọng. Là
đảng cầm quyền đang lãnh đạo toàn diện và quyết định những vấn đề hệ trọng nhất
về chính trị, tư tưởng, bởi vậy, khi áp dụng phương pháp tổng kết thực tiễn về xây
dựng Đảng, đội ngũ cán bộ nghiên cứu cần chú ý thiết kế sự khảo sát sâu rộng, thận
trọng. Hơn nữa, công tác xây dựng Đảng là lĩnh vực hệ trọng, có nhiều việc mang
tính nội bộ, nhạy cảm, bí mật, khó tiếp cận, nên nghiên cứu về Đảng rất cần sự cẩn
trọng, sâu sắc, toàn diện.
Từ những vấn đề trên, khi vận dụng phương pháp tổng kết thực tiễn về
xây dựng Đảng, cần thực hiện tốt các bước tiến hành tổng kết thực tiễn về xây
dựng Đảng, như: Xây dựng kế hoạch tổng kết; chuẩn bị tổng kết; tiến hành tổng
kết và thẩm định kết quả tổng kết. Đồng thời thực hiện tốt các yêu cầu đó là:
Phát hiện các sự việc điển hình (bao gồm cả thành công và thất bại); gặp gỡ, trao
đổi các nhân chứng; dựng lại quá trình phát triển của đối tượng; hệ thống hóa


14

kinh nghiệm, rút ra những bài học cần thiêt; thảo luận dân chủ và phổ biến rộng
rãi các bài học kinh nghiệm.
3. Ý nghĩa thực tiễn
Từ khi thành lập đến nay, Đảng cộng sản Việt Nam luôn trung thành vận
dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện thực
tiễn cách mạng nước ta. Trước sự phát triển của tình hình nhiệm vụ cách mạng,
vai trò lãnh đạo của Đảng ngày càng tăng, đã và đang đặt ra yêu cầu nhiệm vụ
nghiên cứu khoa học xây dựng Đảng một cách cơ bản, hệ thống để cung cấp những
luận chứng khoa học “vạch đường” cho khoa học xây dựng Đảng, thực hiện tốt

nhiệm vụ “Tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lí luận về đảng cầm quyền, về đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng, về phát huy và thực thi dân chủ trong Đảng,
nâng cao tầm trí tuệ và văn hoá, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng.”4. Bên cạnh đó, “Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức và
lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và nhân dân chưa
được khắc phục có hiệu quả, làm giảm sức chiến đấu của Đảng và lòng tin của
nhân dân với Đảng, Nhà nước. Trong Đảng đã xuất hiện các ý kiến khác nhau
về một số vấn đề cơ bản liên quan đến đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng, Nhà nước, …”5. Trong khi các thế lực thù địch không từ bỏ âm mưu và
hoạt động "diễn biến hoà bình", thúc đẩy "tự diễn biến", "tự chuyển hoá", tăng
cường hoạt động chống phá, chia rẽ nội bộ Đảng và phá hoại mối quan hệ gắn
bó giữa Đảng với nhân dân, làm suy yếu vai trò lãnh đạo của Đảng.
Để góp phần thực hiện tốt chức năng, yêu cầu, nhiệm vụ nghiên cứu khoa
học xây dựng Đảng cộng sản Việt nam trong giai đoạn hiện nay, trước hết người
nghiên cứu khoa học cần phải có nhận thức đúng đắn, khi xem xét các vấn đề
chính trị xã hội phải vững vàng trên quan điểm lập trường chủ nghĩa Mác-Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh;
nắm chắc phương pháp luận và hệ thống các phương pháp nghiên cứu khoa học
xây dựng Đảng, coi đó là một trong những yếu tố quyết định sự thành công của
hoạt động nghiên cứu khoa học xây dựng Đảng. Quá trình nghiên cứu cần vận
4
5

Nghị quyết Trung ương 5 (Khóa X) về công tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới. tr7.
Nghị quyết Trung ương 5 (Khóa X) về công tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới. tr1.


15

dụng tổng hợp các phương pháp và tạo ra môi trường thống nhất giữa các

phương pháp, không được tuyệt đối hóa hoặc xem nhẹ một phương pháp nào;
đồng thời phải căn cứ vào mục đích, ý tưởng, nhiệm vụ, đặc điểm đối tượng
nghiên cứu để sử dụng phương pháp nghiên cứu cho phù hợp.
Tuy nhiên, do tính ứng dụng cao của môn khoa học xây dựng Đảng cộng
sản Việt nam nên cần coi trọng phương pháp tổng kết thực tiễn. Đối với đội ngũ
cán bộ giảng dạy, cán bộ nghiên cứu và học viên chuyên ngành xây dựng Đảng,
phương pháp tổng kết thực tiễn là con đường hiệu quả để học tập, tìm hiểu thực
tiễn, tích luỹ kiến thức, rèn luyện kỹ năng nghiên cứu khoa học, nâng cao chất
lượng giảng dạy, nghiên cứu, học tập. Bởi vì, đội ngũ học tập, nghiên cứu xây
dựng Đảng ngày càng trẻ, được đào tạo cơ bản, đúng chuyên ngành, có kỹ năng
nghiên cứu khoa học, phần đông năng động, hăng hái, có trách nhiệm, song lại
có xu hướng ít liên hệ với thực tiễn, thiếu kỹ năng, kinh nghiệm thực tiễn xây
dựng Đảng; một bộ phận chưa được đào tạo chuyên ngành. Vì vậy, người
nghiên cứu xây dựng Đảng phải hết sức coi trọng và thành thạo phương pháp
tổng kết thực tiễn về xây dựng Đảng.
Trong Quân đội, môn khoa học xây dựng Đảng đã gắn liền với môn học
Công tác đảng, công tác chính trị (CTĐ, CTCT), nhằm tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng với Quân đội. Chính vì vậy mà phương pháp nghiên cứu khoa học xây
dựng Đảng và phương pháp nghiên cứu môn học CTĐ, CTCT đã gắn liền với
quá trình ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam và trong suốt tiến trình lãnh đạo
cách mạng của Đảng nói chung và với Quân đội nói riêng. Vậy hơn lúc nào hết
yêu cầu khoa học xây dựng Đảng nói chung và môn học CTĐ, CTCT nói riêng
cần đi nghiên cứu một cách khoa học cơ bản, có hệ thống góp phần tăng cường sự
lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng cộng sản Việt nam đối với
Quân đội nhân dân Việt nam, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện cơ chế hoạt động
lãnh đạo của Đảng đối với quân đội hiện nay; đồng thời xây dựng Đảng bộ
Quân đội toàn diện trên tất cả các mặt, cả chính trị, tư tưởng và tổ chức,
như vậy mới bảo đảm thực hiện thắng lợi hiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong thời



16

kì mới và đảm bảo cho Quân đội thực sự là lực lượng chính trị tin cậy của Đảng
và nhân dân.
Vận dụng phương pháp tổng kết thực tiễn về xây dựng Đảng trong Đảng
bộ Quân đội hiện nay, trước mắt cần tiếp tục tập trung triển khai thực hiện thắng
lợi các nghị quyết của Đảng. Trọng tâm là Nghị quyết Trung ương 8 (khóa IX)
về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”, Nghị quyết 51 của Bộ
Chính trị về “Tiếp tục hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội,
thực hiện chế độ một người chỉ huy gắn với chế độ chính ủy, chính trị viên trong
Quân đội nhân dân Việt nam” và Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI): Một số
vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay. Đồng thời thường xuyên làm tốt
việc tổng kết, rút kinh nghiệm quá trình triển khai tổ chức thực hiện nghị quyết,
kịp thời đề xuất và kiến nghị Ban chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí
thư bổ sung chủ trương biện pháp lãnh đạo trong thời gian tiếp theo.
Ở các tổ chức cơ sở đảng, cấp trên trực tiếp cơ sở và các cấp ủy trực thuộc
Quân ủy Trung ương cần tiếp tục tổ chức tốt các hội nghị tổng kết thực tiễn
công tác xây dựng đảng ở cấp mình. Nhất là làm tốt việc sơ kết, tổng kết hoạt
động lãnh đạo và công tác xây dựng đảng giữa nhiệm kỳ, theo nhiệm kỳ và theo
từng mặt công tác, theo các chuyên đề. Trên cơ sở đó đánh giá làm rõ ưu, khuyết
điểm, xác định rõ nguyên nhân, trách nhiệm và rút ra bài học kinh nghiệm, đồng
thời đề xuất chủ trương, biện pháp lãnh đạo nhằm xây dựng tổ chức đảng trong
sạch, vững mạnh và bảo đảm giữ vũng vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về
mọi mặt đối với mọi hoạt động của cơ quan, đơn vị mình, thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ được giao.
Ở mỗi cấp cần kiên quyết tổ chức và thực hiện tốt bốn nhóm giải
pháp hội nghị Trung ương 4 (Khóa XI) đã xác định; khắc phục triệt để
tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống trong đội ngũ
cán bộ, đảng viên và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong
nội bộ; đẩy mạnh đấu tranh chống quan điểm, tư tưởng thù địch cơ hôi xét lại, chủ

nghĩa cá nhân và ngăn chặn mọi hiện tượng tham ô, thoái hoá biến chất
trong nội bộ Đảng.


17

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. ĐCSVN, Văn kiện Hội nghị Trung ương 5 (Khóa X), về công tác tư
tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới. (Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia
Hà nội, 2007).
2. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh - Bộ môn khoa học
luận, Đề cương bài giảng môn Phương pháp luận nghiên cứu khoa học.
3. Phạm Viết Vượng, Phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục (Nhà
xuất bản giáo dục, 1997).
4. Phương kỳ Sơn, Phương pháp nghiên cứu khoa học (Nhà xuất bản
Chính trị Quốc gia Hà nội, 2002).
5. Tổng Cục Chính trị - QĐNDVN, Giáo trình Phương pháp luận
nghiên cứu khoa học, 2008.
6. Tạp chí xây dựng Đảng, số 6/2013.
7. Văn Tạo, Phương pháp lịch sử và phương pháp lôgíc (Trung tâm Khoa
học Xã hội và Nhân văn Quốc gia- Viện Sử học, 1995).
8. Vũ Cao Đàm, Phương pháp luận nghiên cứu khoa học (Nhà xuất bản
khoa học và kỹ thuật, 2003).



×