Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Tư tưởng của hồ chí minh về đảng và xây dựng đảng cộng sản việt nam; ý nghĩa của tư tưởng đối với cách mạng việt nam trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (229 KB, 22 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng
ta, Anh hùng giải phóng dân tộc, danh Nhân văn hóa thế giới, người chiến sĩ lỗi
lạc của phòng trào giải phóng dân tộc thuộc địa và bị áp bức trên toàn thế giới.
Người lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân ta tiến hành cuộc cách mạng tháng 8/1945
thắng lợi, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa; dẫn dắt dân tộc Việt Nam
đi qua Hai cuộc kháng chiến trường kỳ đến đại thắng Mùa Xuân 1975 thống nhất
đất nước. Người ra đi, để lại cho Đảng ta, dân tộc ta một tài sản to lớn- đó là hệ
thống tư tưởng của Người; Là ngọn đuốc soi đường, chỉ lối cho cách mạng Việt
Nam đi hết thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể ở Việt Nam; kế thừa và
phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá
nhân loại; là ngọn cờ dẫn đường cho mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong
suốt hơn 80 năm quan và tiếp tục soi sáng con đường chúng ta tiến lên xây dựng
một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và từng bước đi lên
XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, những quan điểm, tư tưởng của Chủ
tịch Hồ Chí Minh về Đảng và xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam ngày càng trở
nên quan trọng và cần thiết để cho Đảng ta và các thế hệ lãnh đạo của Đảng vận
dụng vào xây dựng và hoạch định cương lĩnh, đường lối chính trị của Đảng.
Vì vậy, Học viên chọn đề tài: “Tư tưởng của Hồ Chí Minh về Đảng và xây
dựng Đảng cộng sản Việt Nam; ý nghĩa của tư tưởng đối với cách mạng Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay”. Làm đề tài tiểu luận môn Tư tưởng hồ Chí Minh
1


v quan im ca ng Cng sn Vit Nam v Xõy Dng ng v Chớnh quyn
nh nc.


2. Mc tiờu v nhim v nghiờn cu
Mc tiờu nghiờn cu l lm rừ nhng quan im, t tng ca H Chớ Minh
v ng v xõy dng ng Cng sn Vit Nam v vn dng ch ra ý ngha ca
nhng t tng lý lun ú i vi cỏch mng Vit Nam trong giai on hin nay.
t c nhng mc tiờu ú tiu lun cn phi thc hiờn cỏc nhim v sau:
Th nht: Phõn tớch nhng quan im t tng ca H Chớ Minh v ng
Cng sn Vit Nam.
Th hai: Phõn tớch, lm rừ ni dung t tng v xõy dng ng cng sn
Vit Nam.
Th ba: Lm rừ ý ngha lý lun v thc tin ca t tng H Chớ minh i
vi cỏch mng Vit Nam trong giai on hin nay.
3. Phng phỏp nghiờn cu ti tiu lun
Phng phỏp lun: hc viờn s dng phng phỏp lun duy vt lch s v duy
vt bin chng ca ch ngha Mỏc - Lờnin.
Ngoi ra hc viờn s dng hng phỏp phõn tớch tng hp, logic-lch s; trờn
c s phng phỏp lc thut ti liu, trao i tho lun nhúm, c nhanh.
4. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận v danh mc ti liu tham kho. Tiu lun đợc
chia ra làm Ba chơng, 8 tit:
Chơng 1: T tng H Chớ Minh v ng cng sn Vit Nam
Chơng 2: T tởng H Chớ Minh v xõy dng ng cng sn Vit Nam;
Chơng 3: ý nghĩa của t tởng H Chớ Minh i vi cỏch mng Vit Nam trong
giai on hin nay.

2


NỘI DUNG
Chương 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và
phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá
nhân loại. Đó là tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng
con người; về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại; về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết toàn
dân tộc; về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước thật sự của dân, do
dân, vì dân; về nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; về
phát triển kinh tế và văn hoá, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân; về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; về chăm
lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau; Trong đó, tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng
và xây dựng Đảng cộng sản Việt Nam trong sạch, vững mạnh; xây dựng đội ngũ cán
bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân
dân là tư tưởng chủ đạo, xuyên suốt quá trình hình thành và phát triển trong mọi giai
đoạn của cách mạng Việt Nam.
1.1. Tính tất yếu và vị trí, vai trò của Đảng cộng sản
Kế thừa và phát huy quan điểm của Chủ nghĩa Mác- Lênin; Chủ tịch Hồ Chí
Minh nhấn mạnh: cách mạng muốn thành công thì phải do nhân dân đoàn kết, đem
sức ta mà giải phóng cho ta. Nhưng nhân dân muốn làm cách mạng thành công thì
phải có Đảng dẫn đường. Như vậy Đảng đó phải như thế nào. Để khẳng định vai
trò quan trọng của Đảng, Người nói: Đảng có vững cách mệnh mới thành công,
cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Ở đây Người nhấn mạnh vai trò
3


của Đảng, Đảng mạnh thì mới lãnh đạo cách mạng thành công. Thực tế lịch sử
Việt Nam đã chứng minh điều đó, trước khi Đảng ra đời nhiều phong trào yêu
nước đều bị thất bại và từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (03/2/1930); chỉ
mới 15 tuổi Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành thành công cuộc cách mạng

tháng 8/1945 và công bố với toàn thế giới khai sinh Nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa (02/9/1945).
Hồ Chí Minh nêu rõ tính tất yếu và vai trò của Đảng Cộng sản; Người đặt
câu hỏi: “Cách mệnh trước hết phải có gì?” và Người trả lời: “Trước hết phải có
đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với
các dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi” (6, Tr 267-268). Vận dụng
những quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin và tổng kết thực tiễn cách mạng Việt
Nam, Người nói: Chủ nghĩa Mác- Lênin kết hợp với phong trào công nhân và
phong trào yêu nước đã dẫn tới việc thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương vào
đầu năm 1930.
Khi bàn về công tác xây dựng Đảng, Hồ Chí Minh cho rằng: “Đảng muốn
vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải
theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí
khôn, tàu không có bàn chỉ nam”. “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều,
nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa
Lênin” (6, Tr 268). Theo Người Đảng phải lấy chủ nghĩa Mác- Lênin làm nền tảng
tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Tuy nhiên, Người cũng khẳng
định rằng: muốn giải phóng dân tộc thì phải làm cách mạng, nhưng muốn cách
mạng thắng lợi thì phải có Đảng dẫn đường- Đảng ở đây chính là đảng cách mạng,
Đảng theo đường lối của chủ nghĩa Mác- Lênin. Qua những luận giải của Người đã
khẳng định vai trò đặc biệt quan trọng và ý nghĩa quyết định của Đảng cách mạng
đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc.

4


Khi nói về Đảng; Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ “Đảng ta hy sinh tranh đấu,
đoàn kết, lãnh đạo nhân dân, tranh lại thống nhất và độc lập. Công việc đã có kết
quả vẽ vang” (7, Tr 470) Người còn nhấn mạnh trong phần tư cách của đảng chân
chính cách mạng: “Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Nó phải

làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung
sướng” (7, Tr 687).
1.2. Về bản chất giai cấp của Đảng
Khi bàn về bản chất giai cấp của một chính Đảng, chúng ta thấy rằng bất kỳ
một đảng chính trị nào cũng là sản phẩm của đấu tranh giai cấp và mang bản chất
của một giai cấp nhất định. Bản chất giai cấp của Đảng là nguyên lý cơ bản nhất
trong học thuyết Mác- Lênin về Đảng Cộng sản, được thể hiện khá rõ nét trong tư
tưởng Hồ Chí Minh về Đảng; Người thường có nhiều cách gọi về Đảng Cộng sản
Việt Nam; có lúc Người gọi là “Đảng cách mạng”, “Đảng cách mạng chân chính’,
“Đảng của vô sản giai cấp” v.v…nhưng thực chất là một, đó là Đảng kiểu mới của
giai cấp vô sản, mang trong lòng mình bản chất cách mạng và khoa học trung
thành với chủ nghĩa Mác - Lênin.
Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt
Nam lại gắn bó chặt chẽ giữa lợi ích giai cấp với lợi ích của nhân dân lao động
Việt Nam và toàn dân tộc Việt Nam. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Nhiệm vụ của Đảng là
một long, một dạ phụng sự tổ quốc và nhân dân. Ngoài lợi ích của Tổ quốc, của
nhân dân, Đảng không có lợi ích gì khác” (8, tr 335).
Như vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ bản chất của Đảng, Đảng mang
bản chất giai cấp công nhân cho nên luôn phấn đấu hy sinh vì sự nghiệp cách mạng
của giai cấp, của nhân dân lao động, của cả dân tộc. Bản chất giai cấp công nhân
của Đảng được thể hiện trên tất cả các mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức- cả trong
đường lối chính trị, nền tảng tư tưởng, nguyên tắc tổ chức và mọi hoạt động của
Đảng. Dù ở giai đoạn phát triển hay hoàn cảnh lịch sử nào, bản chất giai cấp công
5


nhân vẫn là nguồn gốc quyết định sự tồn tại và phương hướng phát triển của Đảng.
Qua hơn 80 năm lãnh đạo các mạng Việt Nam, trải qua muôn vàn khó khăn,
vai trò và sứ mệnh lịch sử vĩ đại ấy của Đảng Cộng sản Việt Nam không ngừng
được khẳng định. Giữ vững bản chất của Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong

giai đoạn hiện nay đang được toàn Đảng, toàn dân ta ra sức thực hiện. Là nhiệm vụ
khó khăn, phức tạp nhưng đó là nguyên tắc bất di, bất dịch để giữ vững bản chất
của Đảng, là giữ vững nguyên tắc xây dựng Đảng kiểu mới của chủ nghĩa MácLênin; bên cạnh đó còn thể hiện trình độ, bản lĩnh của Đảng ta trong giai đoạn cách
mạng mới hiện nay.
1.3. Về nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng
1.3.1. Nguyên tắc tập trung dân chủ
Theo Hồ Chí Minh, nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong
tổ chức và sinh hoạt Đảng. Người chỉ rõ: “Từ tiểu tổ đến Đại hội đều theo cách dân
chủ tập trung”. Để đảm bảo cho nguyên tắc tập trung dân chủ được giữ vững trong
mọi tình huống. Người chỉ rõ: Đảng Cộng sản là tổ chức cao nhất của giai cấp
công nhân nên càng cần tuân thủ theo nguyên tắc tập trung dân chủ, coi đó là
nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng. Giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ bảo
đảm cho Đảng là một khối thống nhất về ý chí và hành động, giữ nghiêm kỷ luật.
Người luôn đòi hỏi trong Đảng, đội quân tiên phong của giai cấp, “Tư tưởng và
hành động phải tuyệt đối nhất trí” và cho rằng: sở dĩ Đảng ta tuy đông người,
nhưng khi hoạt động chỉ như một người, không có tình trạng “Trống đánh xuôi,
kèn thổi ngược” là nhờ có kỷ luật nghiêm túc và tự giác.
Ngoài ra Hồ Chí Minh còn đòi hỏi mỗi đảng viên, tổ chức đảng “Phải kiên
quyết thực hành kỷ luật, tức là cá nhân phải tuyệt đối phục tùng tổ chức, số ít phải
phục tùng số nhiều, cấp dưới phải phục tùng cấp trên, địa phương phải phục tùng
Trung ương”. Người nói, tập trung hoàn toàn xa lạ với độc đoán, chuyên quyền.
Dân chủ trong Đảng khác hẳn với tự do vô kỷ luật, vô chính phủ. Người khẳng
6


định: Đảng là dân chủ; Tuy nhiên, Người cũng chỉ rõ thực tế cho thấy, một mặt dân
chủ trong Đảng chưa được thực hiện rộng rãi; mặt khác vẫn còn những cán bộ làm
việc theo lối thủ công nghiệp.
1.3.2. Nguyên tắc tự phê bình và phê bình
Hồ Chí Minh chỉ ra: Đảng muốn thành công phải biết tự phê bình để tìm

nguyên nhân thất bại mà sửa chữa để lần sau không mắc phải sai lầm đó. Người ví
phê bình sửa chữa như rèn dao phải biết chỗ cùn mà mài thì mới có dao tốt. Người
định nghĩa rõ về tự phê bình và phê bình: hai lĩnh vực tự phê bình và phê bình phải
đi đôi với nhau theo đó khi thực hiện tự phê bình và phê bình thì tự phê bình mình
trước sau đó phê bình đồng chí mình. Phê bình là nêu ưu điểm và vạch khuyết
điểm của đồng chí mình. “Tự phê bình là nêu ưu điểm và vạch khuyết điểm của
mình. Tự phê bình và phê bình phải đi đôi với nhau. Mục đích là cho mọi người
học lẫn ưu điểm của nhau và giúp nhau chữa những khuyết điểm”; (5, tr 267).
Về cách phê bình, Người chỉ rõ: phê bình mình cũng như phê bình người
phải ráo riết, triệt để, thật thà, không nể nang, không thêm bớt. Phải vạch rõ cả ưu
điểm và khuyết điểm. Đồng thời, chớ dùng những lời mỉa mai, chua cay, đâm thọc.
Phê bình việc làm, chứ không phải phê bình người. Những người bị phê bình thì
phải vui lòng nhận xét để sửa đổi, không nên vì bị phê bình mà nản chí, hoặc oán
ghét”. Theo người; công tác tự phê bình và phê bình phải được thực hiện thường
xuyên nhất là trong Đảng, phải kịp thời thấy khuyết điểm của mình, của đồng chí
mình để sửa chữa và kiên quyết sửa chữa thì Đảng mới phát triển và công việc mới
thành công. Người yêu cầu “Mỗi cán bộ, mỗi đảng viên, mỗi ngày phải tự kiểm
điểm, tự phê bình, tự sửa chữa như mỗi ngày phải rửa mặt” (7, Tr 477).
Đối với Đảng, Người khẳng định: “Nói về Đảng, một Đảng mà giấu giếm
khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm
của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh
sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như
7


thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính” (7, Tr 499).
Tự phê bình hiện nay phải tập trung chủ yếu vào tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ và đề cao tính tiên phong gương
mẫu của mỗi cán bộ, đảng viên. Muốn vậy, phải mở rộng dân chủ trong nội bộ
Đảng, trong tất các các tổ chức quần chúng của Đảng và nhân dân lao động. Đó là

biện pháp quan trọng để khắc phục tệ đặc quyền, đặc lợi, tính bảo thủ trì trệ, tệ
tham nhũng, quan liêu, góp phần thực hiện cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn
Đảng.
1.3.3. Nguyên tắc đoàn kết, thống nhất
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, thống nhất dân tộc nói chung và đoàn
kết trong Đảng nói riêng. Có thể khái quát một số luận điểm sau:
- Các mạng là sự nghiệp chúng của quần chúng nhân dân, không phải là việc
của một người, hai người.
- Muốn làm cách mạng thì phải đoàn kết lực lượng dân tộc chống lại chính
sách “chia để trị” và các thủ đoạn nô dịch, lừa bịp, đàn áp của đế quốc Pháp.
- Công, nông là gốc, là chủ của cách mạng, là nòng nốt của khối đoàn kết
dân tộc, học trò, nhà buôn và các tầng lớp khác là bầu bạn của cách mạng, cần phải
tập hợp, đoàn kết. Muốn tập hợp đoàn kết dân chúng, những người cách mạng phải
tổ chức các hội quần chúng thích hợp, như: công hội, nông hội, phụ nữ, thanh niên.
- Đảng Cộng sản có vai trò quyết định trong việc tổ chức nhân dân trong
nước, liên lạc với các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản các nước.
- Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới vận động
theo quỹ đạo của cách mạng vô sản, có quan hệ mật thiết với cách mạng Pháp và
phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa khác.
Hồ Chí Minh không trực tiếp nói về đoàn kết thống nhất mà Người nêu lên ý
nghĩa của việc đoàn kết thống nhất đó là phải đồng tâm hiệp lực thì việc khó mấy
8


làm cũng xong. Khi đề cập đến vai trò của Đảng trong đoàn kết, Người còn chỉ rõ:
muốn lôi cuốn tập hợp đông đảo quần chúng cần lao vào trận tuyến cách mạng, lật
đổ chế độ cũ, xây dựng xã hội mới thì Đảng Cộng sản trước hết, phải là một tổ
chức đoàn kết, thống nhất. Nghĩa là từ rất sớm trong tư duy lý luận của Hồ Chí
Minh, đoàn kết, thống nhất đã là một thuộc tính cơ bản của Đảng Cộng sản.
1.3.4. Nguyên tắc giữ mối liên hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân

Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Đảng phải liên lạc mật thiết với dân
chúng, hiểu biết dân chúng”. Người đã nêu lên ba cơ sở chính đòi hỏi Đảng phải
xây dựng mối gắn bó keo sơn với dân:
Thứ nhất, muốn cách mạng thành công trước hết cần có Đảng, nhưng nhân
dân luôn là một lực lượng quyết định. Từ quá trình hoạt động phong phú, sáng tạo
của mình, Hồ Chí Minh nhận xét: Có lực lượng dân chúng, việc to tát mấy, khó
khăn mấy cũng làm được. Không có, thì việc gì cũng không xong”. Người kết
luận: “Nếu không có dân giúp sức, thì Đảng không làm được việc gì”.
Thứ hai, Đảng cần có mối liên hệ mật thiết với dân. Hồ Chí Minh đánh giá
rất cao kinh nghiệm, trí tuệ của nhân dân. Người viết “Dân chúng biết nhiều vấn đề
một cách đơn giản mau chóng đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to
lớn nghĩ mãi không ra”. Chính vì vậy Người yêu cầu cán bộ, đảng viên phải học
dân chúng, phải hỏi dân chúng”.
Thứ ba, Hồ Chí Minh nhấn mạnh luận điểm: “Từ trong quần chúng ra. Về
sâu trong quần chúng”. Điều này cho thấy, Người rất coi trọng trong công tác dân
vận.
Nhận thức và giải quyết tốt những vấn đề nêu trên sẽ mang lại kết quả tốt
đẹp: Đảng được dân tin, dân phục, dân yêu. Mối quan hệ giữa Đảng và dân sẽ mãi
bền chặt, trở thành động lực đưa sự nghiệp đổi mới đến thành công.

9


Chương 2: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
XÂY DỰNG ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng là sự vận dụng sáng tạo tư tưởng
của C.Mác và Ph.Ăngghen về chính đảng của giai cấp vô sản và được V.I.Lênin
phát triển lên thành học thuyết về chính Đảng vô sản kiểu mới; từ truyền thống văn
hiến và đặc biệt là truyền thống đoàn kết của dân tộc Việt Nam; từ tinh hoa văn
hoá nhân loại và thực tiễn phong trào cộng sản và công nhân trên thế giới.

Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, chỉnh đốn Đảng là công việc thường xuyên.
Điều đó xuất phát từ vị thế, vai trò của Đảng, bởi “Đảng ta là một Đảng cầm
quyền”. Nghĩa là Đảng trực tiếp lãnh đạo chính quyền. Lãnh đạo Nhà nước để thực
hiện mục tiêu độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã hội; Đảng cầm quyền, nhưng dân
làm chủ. Vì vậy, chỉnh đốn Đảng một mặt khẳng định sức mạnh quyền lực to lớn
của Đảng trong cải tạo cái cũ, xây dựng cái mới đối với các lĩnh vực đời sống xã
hội; mặt khác, đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi các biểu hiện thoái hoá, biến chất của
một bộ phận cán bộ, đảng viên lợi dụng quyền lực vi phạm quyền làm chủ của
nhân dân, đi ngược lại lợi ích, nguyện vọng của nhân dân, dẫn tới lạm quyền, lộng
quyền, đặc quyền, đặc lợi. Chỉnh đốn Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh không
ngoài mục đích nào khác là nhằm làm cho Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh về
chính trị, tư tưởng, tổ chức. Chỉnh đốn Đảng nhằm làm cho Đảng luôn trong sạch,
vững mạnh cùng với đội ngũ cán bộ, đảng viên luôn vững vàng về phẩm chất chính
trị, mẫu mực về lối sống: cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, luôn xứng đáng
“vừa là người lãnh đạo, vừa là đầy tớ thật trung thành của nhân dân”
Hồ Chí Minh cho rằng, Đảng ta “vừa là đạo đức, vừa là văn minh” là người
khởi xướng và lãnh đạo mọi sự đổi thay của đất nước qua các giai đoạn lịch sử của
cách mạng. Muốn vậy, trước hết Đảng phải tự đổi mới, tự chỉnh đốn.
Tự đổi mới, tự chỉnh đốn là khẳng định sự vận động nội tại của Đảng cầm
quyền trong quá trình lãnh đạo cách mạng; là sự nhận diện đúng quy luật vận động,
10


phát triển của Đảng, đồng thời dự báo những “kẻ thù” nội sinh và ngoại sinh trong
sự vận động, phát triển ấy. Với ý nghĩa ấy, tự đổi mới, tự chỉnh đốn Đảng trở thành
vấn đề tiên quyết để Đảng vượt qua mọi thử thách. Chỉ có tự đổi mới, tự chỉnh đốn
Đảng mới chiến thắng được các loại “kẻ thù”, mới giữ trọn niềm tin tuyệt đối của
nhân dân, mới loại bỏ được các nguy cơ hủy hoại sự nghiệp của Đảng.
2.1. Xây dựng Đảng về chính trị
Từ những năm đầu của thế kỷ XX, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Muốn

làm cách mạng giành chính quyền, cần có nhiều nhân tố, song nhân tố quan trọng,
quyết định nhất là phải có Đảng. Khi đã có Đảng, theo Người để hoàn thành sứ
mệnh lịch sử của mình, Đảng phải coi trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
Đó là việc trước tiên, việc chính, việc cần kíp, việc phải làm ngay. Theo Chủ tịch
Hồ Chí Minh, mỗi cán bộ, đảng viên sống trong xã hội đều chịu sự tác động của
những cái hay, cái dở, cái tốt, cái xấu, để loại bỏ cái xấu, cái dở phải bằng việc rèn
luyện thường xuyên, trong đó biện pháp quan trọng là thông qua xây dựng, chỉnh
đốn Đảng. Ngoài việc chỉ rõ những ưu điểm, Người còn chỉ ra những khuyết điểm,
yếu kém của đội ngũ cán bộ, đảng viên, của tổ chức đảng cần phải khắc phục, loại
bỏ. Việc chỉnh đốn Đảng là để cán bộ, đảng viên khi gặp khó khăn thì củng cố
quan điểm, lập trường, bình tĩnh sáng suốt, không bi quan; khi thuận lợi thì tiếp tục
xây dựng quan điểm, lập trường, không chủ quan, tự mãn, lạc quan tếu...Theo Hồ
Chí Minh, xây dựng là để chỉnh đốn, chỉnh đốn là nhằm mục tiêu xây dựng. Xây
dựng, chỉnh đốn Đảng có mối quan hệ mật thiết với nhau, là việc làm thường
xuyên, cần thiết và rất quan trọng để khắc phục những thiếu sót, khuyết điểm, làm
cho Đảng mạnh lên.
Nội dung xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong tư tưởng Hồ Chí Minh được đề
cập rất phong phú, đa dạng. Chỉnh đốn Đảng, xây dựng Đảng phải làm toàn diện cả
chính trị, tư tưởng và tổ chức. Phải làm cho Đảng mạnh lên toàn diện, đồng thời
chỉnh đốn, xây dựng Đảng được tiến hành ở tất cả các cấp, trong đó đặc biệt coi
11


trng lm tt chi b ng vỡ chi b l nn múng ca ng. Sau cỏch mng thỏng
8/1945 thnh cụng, ng ó thc hin chc nng lónh o chớnh quyn.
phng thc lónh o ca ng phự hp vi nhim v cỏch mng: va xõy dng
chớnh quyn, phỏt trin kinh t, va khỏng chin, va kin quc, H Chớ Minh ó
vit tỏc phm "Sa i li lm vic, trong ú, Ngi ó nờu bn phn v t cỏch
ng viờn. T tng t li ớch ca ng, ca dõn tc lờn trờn ht v ra sc phn
u tu dng rốn luyn, hc tp cho i ng cỏn b, ng viờn l nhng t tng

quan trng m Ch tch H Chớ Minh t ra. Nhng t tng v ng v xõy dng
ng ca Ngi l kim ch nam cho hnh ng, cú ý ngha to ln, quan trng cho
mi cỏn b, ng viờn, cng nh ton ng trong sut quỏ trỡnh lónh o s nghip
cỏch mng ca ng. Nhng ni dung ú vn cũn nguyờn giỏ tr v tớnh thi s
núng bng trong cụng cuc xõy dng, chnh n ng ta hin nay.
2.2. Xõy dng ng v t tng
H Chớ Minh núi rừ: "Cỏn b v ng viờn ta, vỡ bn vic hnh chớnh hoc
quõn s m xao nhóng vic hc tp. ú l mt khuyt im rt to. Khỏc no ngi
thy thuc i cha cho ngi khỏc, m bnh nng trong mỡnh thỡ quờn cha.
T nay, chỳng ta cn phi thit thc hc tp, sa cha cỏc khuyt im. Vỡ
cú ty sch khuyt im, cụng vic mi cú th tin b (7, Tr 469).
H Chớ Minh ch ra nguyờn nhõn v cỏch chng cỏc cn bnh ca cỏn b, ng
viờn trong ng, ú l: bnh ch quan l do kộm lý lun, hoc khinh lý lun, hoc
lý lun suụng. Khi ó mc bnh kộm lý lun thỡ bnh coi khinh lý lun cng
thng xy ra. Nhng cỏn b mc bnh ny thng l nhng ngi ch bit da
vo kinh nghim ca mỡnh coi khinh lý lun. c bit, Ngi nhn mnh n bnh
lý lun suụng, Ngi yờu cu: Cán bộ của Đảng phải hiểu biết lý luận cách
mạng, và lý luận cùng thực hành phải luôn luôn đi đôi với nhau (7, Tr
687). õy cng l cỏch thc cha bnh kộm lý lun, khinh lý lun v lý lun
suụng. Bnh hp hũi phỏ hoi s on kt thng nht trong ng, phỏ hoi s on
12


kết toàn dân. Bệnh này sinh ra nhiều bệnh khác: địa phương chủ nghĩa, chủ nghĩa
cá nhân, tham danh vọng, địa vị, dìm người giỏi, bệnh hủ hóa v.v…Theo Hồ Chí
Minh, bệnh hẹp hòi rất tai hại nguy hiểm mà nhiều cán bộ, đảng viên mắc phải. Nó
ngăn trở sự thống nhất, đoàn kết trong Đảng, phá hoại sự đoàn kết toàn dân. Vì
vậy, phải luôn đặt lợi ích của toàn cuộc, của toàn Đảng, của tập thể lên trên lợi ích
của cá nhân thì bệnh hẹp hòi sẽ được sửa chữa nhanh chóng.
Tuy nhiên để sửa chữa, bài trừ được các bệnh này không phải một sớm, một

chiều; đây thật sự là cuộc đấu tranh tư tưởng không kém phần gay go, quyết liệt,
dai dẳng, lâu dài chống những biểu hiện tiêu cực nảy sinh trong đội ngũ cán bộ
đảng viên, làm cho Đảng trong sạch, vững mạnh chèo lái con thuyền cách mạng
đến thành công.
2.3. Xây dựng Đảng về tổ chức
Khi tuyên truyền chủ nghĩa Mác- Lênin vào Việt Nam, Người đã nhấn mạnh
vai trò quan trọng của tổ chức đối với cách mạng nước ta: Cách mệnh thì phải có tổ
chức rất vững bền mới thành công. Và Người đưa ra một loạt các tổ chức, nói rõ
nhiệm vụ của từng tổ chức, cách thức tổ chức và hoạt động của các tổ chức như:
Phụ nữ quốc tế, Công nhân quốc tế, Cộng sản thanh niên quốc tế, cách tổ chức
công hội, tổ chức dân cày…Đây cũng là những cơ sở cho việc thành lập Đảng và
các tổ chức chính trị xã hội sau này và đã góp phần tích cực vào sự thắng lợi của
cách mạng Việt Nam.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về tư cách của đảng cách mạng chân chính được thể
hiện trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, được thâu tóm thành những điều như
sau: Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Nó phải làm tròn nhiệm
vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng. Cán bộ
của Đảng phải hiểu biết lý luận cách mạng và lý luận cùng thực hành phải luôn
luôn đi đôi với nhau. Khi đặt ra khẩu hiệu và chỉ thị, luôn luôn phải dựa vào điều
kiện thiết thực và kinh nghiệm cách mạng ở trong nước và ở địa phương. Phải luôn
13


luôn do nơi quần chúng mà kiểm soát những khẩu hiệu và chỉ thị đó có đúng hay
không. Phải luôn luôn xem xét lại tất cả các công tác của Đảng. Mọi công tác của
Đảng luôn luôn phải đứng về phía quần chúng, phải đem tinh thần yêu nước và
cần, kiệm, liêm, chính mà dạy bảo cán bộ, đảng viên và nhân dân. Mỗi công việc
của Đảng phải giữ nguyên tắc và phải liên hợp chặt chẽ với dân chúng. Nếu không
vậy, thì không biết nắm vững các cách thức tranh đấu và các cách thức tổ chức,
không biết liên hợp lợi ích ngày thường và lợi ích lâu dài của dân chúng. Đảng

không che dấu những khuyết điểm của mình, không sợ phê bình. Đảng phải nhận
khuyết điểm của mình và tự sửa chữa, để tiến bộ và để dạy bảo cán bộ, đảng viên.
Đảng phải lựa chọn những người rất trung thành và rất hăng hái, đoàn kết họ thành
nhóm trung kiên lãnh đạo. Đảng phải luôn luôn tẩy bỏ những phần tử hủ hoá ra
ngoài. Đảng phải giữ kỷ luật rất nghiêm từ trên xuống. Kỷ luật này là tư tưởng phải
nhất trí, hành động phải nhất trí. Kỷ luật này là do lòng tự giác của đảng viên về
nhiệm vụ của họ đói với Đảng. Đảng phải luôn xét lại những nghị quyết và những
chỉ thị của mình đã thi hành thế nào. Nếu không vậy thì những chỉ thị và nghị
quyết đó sẽ hóa ra lời nói suông mà còn hại đến lòng tin cậy của nhân dân đối với
Đảng.
Trong nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh có một bộ phận rất quan trọng là tư
tưởng về đạo đức cách mạng. Ngay từ năm 1927 khi còn đang chuẩn bị thành lập
Đảng, trong cuốn “Đường cách mệnh”, sau khi dẫn lời Lênin về vai trò của lý luận
cách mạng tiên phong đối với Đảng tiên phong. Người mở đầu tác phẩm với một
mục lớn: “Tư cách một người cách mệnh”. Trong đó người xác định những yêu
cầu về đạo đức mà người cách mệnh phải có như “giữ chủ nghĩa cho vững…hy
sinh ít lòng tham muốn về vật chất…vị công vô tư. Không hiếu danh, không kiêu
ngạo. Nói thì phải làm…quyết đoán, dũng cảm. Phục tùng đoàn thể.
Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải thường tu dưỡng rèn
luyện phẩm chất đạo đức người chiến sĩ cách mạng. Người nhấn mạnh: “Người
cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh
14


đạo được nhân dân. Vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho loài người là
một công việc to tát, mà tự mình không có đạo đức, không có căn bản, tự mình đã
hủ hoá, xấu xa thì còn làm nổi việc gì?”.
Đối với một đảng cầm quyền thì việc chăm lo đào tạo bồi dưỡng cán bộ là
việc rất quan trọng, đây là “công việc gốc của Đảng” bởi vì cán bộ là cái gốc của
mọi công việc. “Cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ

giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân
chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính sách cho đúng” (7,
Tr 507) Từ đó, Người khẳng định: cán bộ là cái gốc của mọi công việc, hay: công
việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém. Do đó, Đảng phải coi
trọng công tác cán bộ, phải nuôi dạy cán bộ, đặc biệt phải trọng cán bộ, trọng nhân
tài: “Đảng phải nuôi dạy cán bộ, như người làm vườn vun trồng những cây cối
quý báu. Phải trọng nhân tài, trọng cán bộ, trọng mỗi một người có ích cho công
việc chung của chúng ta” (7, Tr 511-512).
Trong đánh giá cán bộ, Người yêu cầu để đánh giá đúng cán bộ trước hết
phải biết được cái đúng cái sai của mình “muốn biết đúng sự phải trái ở người ta,
thì trước phải biết đúng sự phải trái của mình. Nếu không biết sự phải trái ở mình,
thì chắc không thể nhận rõ người cán bộ tốt hay xấu”. Người chỉ ra 4 chứng bệnh
khi đánh giá cá bộ: “Tự cao tự đại, ưa người ta nịnh mình, do lòng yêu, ghét của
mình mà đối với người, đem một cái khuôn khổ nhất định, chật hẹp mà lắp vào tất
cả mọi người khác nhau”. Khi xem xét cán bộ phải xem xét một cách toàn diện, xét
cả bên ngoài lẫn tính chất, cả quá trình và công việc của cán bộ để tránh phiến diện
sai lầm trong khi xem xét cán bộ.
Người nhắc nhở, phải mạnh dạn cất nhắc cán bộ, phải vì công việc và tài
năng cán bộ không được vì người, vì cá nhân mà bố trí cán bộ, nếu không vì công
việc mà bố trí cán bộ thì công việc sẽ không trôi chảy, nội bộ Đảng mất đoàn kết.
Sau khi bố trí cán bộ không được bỏ mặc cán bộ mà phải tạo điều kiện giúp đỡ để
15


to iu kin cho cỏn b rốn luyn v hon thnh nhim v.
Ngoi ra, khi núi v cỏch lónh o ca ng, Bỏc H cũn cp n mt s
hỡnh thc v bin phỏp c th nhng vn cũn ỳng mói cho n nay ú l phng
phỏp kim tra. Lónh o phi kim tra, khụng kim tra coi nh khụng lónh o;
phng phỏp xõy dng in hỡnh, nhõn in hỡnh v phng phỏp tp trung dõn
ch. Ngi cũn cp n tỏc dng ca cụng tỏc kim tra: Kim soỏt khộo, bao

nhiờu khuyt im lũi ra ht, hn na kim tra khộo v sau khuyt im nht nh
bt i (7, Tr 525). Kim tra phi c thc hin thng xuyờn v phi lm cú h
thng v ngi lm cụng tỏc kim tra phi chn ngi cú uy tớn. Theo H Chớ
Minh: Kiểm soát có hai cách: một cách là từ trên xuống. Tức là ngời lãnh

đạo kiểm soát kết quả những công việc của cán bộ mình.
Một cách nữa là từ dới lên. Tức là quần chúng và cán bộ kiểm soát sự sai
lầm của ngời lãnh đạo và bày tỏ cái cách sửa chữa sự sai lầm đó. Cách này
là cách tốt nhất để kiểm soát các nhân viên (7, Tr 526).

16


Chương 3: Ý NGHĨA CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH ĐỐI VỚI
CÁCH MẠNG VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
3.1. Ý nghĩa về mặt lý luận:
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng và xây dựng Đảng cộng sản Việt Nam là
một kho tàng lý luận còn mãi giá trị đối với Đảng ta hiện nay. Đó không chỉ là
những quan điểm chính trị đầu tiên của cách mạng Việt Nam, mà cùng với hệ
thống tư tưởng của Người, nó đã đặt cơ sở cho việc ra đời Đảng cộng sản Việt
Nam; hình thành đường lối cứu nước, giải phóng dân tộc của nước ta theo con
đường cách mạng vô sản. Nó đánh dấu sự chấm dứt cuộc khủng hoảng về đường
lối cứu nước đã diễn ra từ cuối thế kỷ XIX cho đến những năm đầu thế kỷ XX.
Tư tưởng của Người đã đề cập tỷ mỷ đến hầu hết các mặt công tác xây dựng
Đảng, chứ không chỉ riêng “lối làm việc” (tức là phương thức làm việc của Đảng).
Và, vượt lên trên tất cả những vấn đề về lối làm việc hay phương thức lãnh đạo của
Đảng, những quan điểm của Hồ Chí Minh có ý nghĩa như là lý luận về chỉnh đốn
Đảng ta. Đảng ta là một thực thể của xã hội, “Đảng ta không phải trên trời sa
xuống. Nó ở trong xã hội mà ra”. Do đó, Đảng phải thường xuyên được chỉnh đốn.
Đây cũng là một quy luật tồn tại và phát triển của Đảng ta.

Có thể nói rằng, tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng và xây dựng Đảng Cộng
sản Việt Nam là sự vận dụng sáng tạo và phát triển quan điểm của V.I.Lênin về
xây dựng Đảng vô sản kiểu mới của giai cấp công nhân ở một nước vốn là thuộc
địa, nửa phong kiến đi lên CNXH, không qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền hiện nay; những đanh vọng, tiền bạc đã
làm tha hóa không ít cán bộ, đảng viên, trong đó có cả những đảng viên giữ chức
vụ cao, do yếu kém trong rèn luyện phẩm chất đạo đức đã bị danh vọng và vật
chất” làm tha hóa, biến chất, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp mà bản thân họ đã
theo đuổi cả cuộc đời người!
17


3.2. Ý nghĩa về mặt thực tiễn.
Bên cạnh ý nghĩa về mặt lý luận, tư tưởng Hồ Chí Minh còn mang giá trị
thực tiễn sâu sắc. Những tư tưởng của Người không chỉ đem đến cho những chiến
sĩ cách mạng Việt Nam trong những năm 20- 30 của thế kỷ XX những vấn đề cốt
lõi của học thuyết Mác- Lênin, ánh sáng tư tưởng của thời đại mà hơn 80 năm sau,
dù thế giới đã có nhiều biến đổi, nhưng nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng
và xây dựng Đảng vẫn còn nguyên tính thời sự đối với chúng ta về những vấn đề
của dân tộc, của thời đại. Người đã mở ra cho dân tộc ta con đường cách mạng
đúng đắn để đấu tranh giải phóng mình khỏi ách nô lệ thực dân, đấu tranh giành
độc lập dân tộc, tiến tới xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng một nước Việt Nam
hoà bình, độc lập, phồn vinh, thịnh vượng. Chính vì thế, tư tưởng của Người vẫn
còn và mãi mãi còn cần thiết cho một đảng cách mạng chân chính, cho những
người cộng sản Việt Nam trong mọi giai đoạn cách mạng.
Cũng như đối với bất kỳ một tư tưởng, một học thuyết nào, những thế hệ
tiếp theo, muốn theo, muốn kế thừa thì điều tất yếu là phải phát triển. Đây là đòi
hỏi tất yếu của cuộc sống. Muốn vậy, Đảng phải nghiên cứu sâu những điều kiện
thực tế hiện nay và sắp tới, vận dụng những quan điểm, tư tưởng của chủ nghĩa
Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để áp dụng vào hoàn cảnh cụ thể ở Việt Nam.

Thời kỳ của toàn cầu hóa với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu, rộng;
đặt ra như một yêu cầu và thách đố đối với nhiều quốc gia- dân tộc; là thời đại
bùng nổ cuộc cách mạng khoa học và công nghệ với sự phát triển rất nhanh chóng
của nền kinh tế tri thức. Đó là thời kỳ mà nước ta đang đứng trước thời cơ, vận hội
để phát triển, đồng thời cũng gặp những nguy cơ, thách thức lớn. Đó là thời kỳ đất
nước ta dần hoàn chỉnh nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; xây
dựng đất nước với mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh”, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa “của dân, do dân và vì
dân”, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam- một chính đảng cách mạng
chân chính duy nhất lãnh đạo toàn xã hội và đóng vai trò là Đảng cầm quyền.
18


Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong điều kiện như vậy. Việc đổi mới
và chỉnh đốn Đảng một cách thường xuyên là quy luật tồn tại và phát triển của
Đảng. Làm theo quy luật, Đảng sẽ giành thắng lợi. Làm sai, Đảng sẽ bị quy luật
trừng trị.
Từ thực tiễn hơn 25 năm đổi mới đất nước, tại Đại hội XI (01/2011) Đảng đã
rút ra một số kinh nghiệm, trong công tác xây dựng Đảng: “...trong bất kỳ điều
kiện và tình huống nào, phải kiên trì thực hiện đường lối và mục tiêu đổi mới, kiên
định và vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội” (11, tr 180). Đổi
mới không phải từ bỏ mục tiêu chủ nghĩa xã hội mà làm cho chủ nghĩa xã hội được
nhận thức đúng đắn hơn và được xây dựng có hiệu quả hơn. Đổi mới không phải là
xa rời mà là nhận thức đúng, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm nền tảng tư tưởng của Đảng và kim chỉ nam cho
hành động cách mạng”.
Trong thời kỳ hiện nay, đất nước có những chuyển biến tích cực trên nhiều
mặt, tình hình thế giới cũng có những diễn biến phức tạp, do đó nắm vững lý luận
và phương pháp cách mạng của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh

nhằm nâng cao năng lực trí tuệ giúp cho Đảng ta luôn đứng vững trên lập trường
của giai cấp công nhân đấu tranh chống những biểu hiện của chủ nghĩa cải lương,
cơ hội, giúp cho Đảng ta khắc phục được những khuynh hướng “tả” và “hữu”
khuynh trong khi xây dựng đường lối, chủ trương, chính sách cũng như tổ chức
thực hiện. Nâng cao năng lực trí tuệ về nhiều mặt, nâng cao trình độ lý luận của
Đảng còn là phương thức có hiệu quả nhất để khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí;
nâng cao năng lực trí tuệ và lý luận để đủ khả năng nắm vững quy luật phát triển
của cách mạng, tính toán cẩn thận những điều kiện cụ thể để tránh đem chủ quan
của mình thay cho điều kiện thực tế.

19


KẾT LUẬN

Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng và xây dựng Đảng Cộng sản việt Nam chứa
đựng những chân lý bền vững, đã được thực tiễn cách mạng Việt Nam trong mỗi
giai đoạn kiểm nghiệm và xác nhận. Tư tưởng của Người không chỉ có ý nghĩa
trong đấu tranh giải phóng dân tộc, trong công cuộc đổi mới mà còn có giá trị bền
vững, lâu dài đối với sự phát triển của đất nước trong tương lai.
Trong giai đoạn hiện nay; Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và
lãnh đạo, xuất phát từ bản lĩnh và trí tuệ của Đảng ta, của dân tộc ta cũng như sự
gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân. Đánh giá kết quả 25 năm đổi mới, Đại
hội XI của Đảng khẳng định: "Chúng ta đã thực hiện thành công chặng đường đầu
của công cuộc đổi mới, đưa đất nước đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, đời
sống nhân dân có nhiều thay đổi tích cực, sức mạnh quốc gia về mọi mặt được
tăng cường, độc lập, tự chủ và chế độ xã hội chủ nghĩa được giữ vững" (11, tr 9).
Trong khi khẳng định những thành tựu to lớn đã đạt được, chúng ta cũng
thẳng thắn thừa nhận rằng trong công tác lãnh đạo của mình, Đảng ta còn nhiều
yếu kém và khuyết điểm. Công tác xây dựng Đảng chưa đáp ứng yêu cầu nâng cao

năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Để làm tốt nhiệm vụ lãnh đạo nhân
dân ta xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, tiếp tục phát huy sức mạnh toàn dân
tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng
kém phát triển như Đại hội XI của Đảng đã chỉ rõ "Giữ vững vàn chất và tăng
cường vai trò lãnh đạo của Đảng, xây dựng Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh
cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của Đảng là nhiệm vụ then chốt có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và sự nghiệp
cách mạng của nhân dân ta hiện nay" (11, tr 56).
Cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là đợt
sinh hoạt chính trị rộng lớn trong Đảng, hệ thống chính trị và toàn xã hội, được tiến
20


hành trong thời gian dài, có nội dung phong phú, cụ thể và thiết thực. Đây là một
trong những biện pháp cơ bản để thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XI của
Đảng; là một trong những động lực chính trị quan trọng góp phần tăng cường sức
mạnh của Đảng, của dân tộc trước cục diện phát triển mới của đất nước. Thắng lợi
của cuộc vận động tuỳ thuộc trước hết vào nhận thức, tinh thần trách nhiệm, quyết
tâm hành động và sự chỉ đạo chặt chẽ, thường xuyên của các cấp uỷ đảng; sự phấn
đấu tự giác của từng cán bộ, đảng viên và sự ủng hộ của toàn dân.
Với niềm tự hào và niềm tin sâu sắc vào Đảng quang vinh và Chủ tịch Hồ
Chí Minh vĩ đại, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta kiên định mục tiêu độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội, phát huy mạnh mẽ truyền thống vẻ vang của dân tộc, của
Đảng, vững bước tiến lên trong thời kỳ đổi mới, đoàn kết, hội nhập và phát triển
bền vững.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
21



1. PGS.TS - Nguyễn Đức Ái: Học thuyết Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
về Xây Dựng Đảng.
2. Trần Thị Kim Cúc - Tìm hiểu di sản lý luận của các nhà kinh diển chủ nghĩa
Mác – Lênin, [2010], Nxb CTQG, Hà Nội,
3. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, [2011], Nxb CTQG-ST, Hà nội.
4. Giới thiệu tác phẩm của C.Mác, Ăngghen, Lênin, Hồ Chí Minh về Xây
Dựng Đảng và Chính quyền nhà nước, [2001], Nxb. CTQG, Hà Nội.
5. Hồ Chí Minh toàn tập [1995], Tập 5, Nxb, CTQG, Hà Nội
6. Hồ Chí Minh toàn tập (xuất bản lần thứ hai) [2000], Tập 2, Nxb, CTQG, Hà
Nội.
7. Hồ Chí Minh toàn tập (xuất bản lần thứ hai) [2000], Tập 5, Nxb, CTQG, Hà
Nội.
8. Hồ Chí Minh toàn tập [2002], Tập 7, Nxb, CTQG, Hà Nội.
9. Giáo trình xây dựng Đảng (Hệ cử nhân chính trị) [2004], Nxb LLCT, Hà
Nội.

10.

M¹ng ViÖt Nam NET.

11.Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, [2006], Nxb CTQG, Hà nội.
12.Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, [2011], Nxb CTQG, Hà nội.
13. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam, [2008], Nxb. CTQG,
Hà Nội,.
14.Tạp chí xây dựng Đảng số 9 [2003].
15.Tạp chí Cộng sản, [2002], số 35, số 2 và 3 [2006].
16.Tạp chí Cộng sản, [2007], số 780 .
17.Tạp chí thông tin công tác tư tưởng, lý luận, [2007], số 9.

22




×