Tiểu luận : Sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin của Nguyễn Ái Quốc
về con đường cách mạng giải phóng dân tộc.
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1
Cách mạng giải phóng dân tộc- một số vấn đề lý luận cơ
1.1
1.2.
bản
Cách mạng giải phóng dân tộc- một số khái niệm cơ bản
Quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin về cách
2.
mạng giải phóng dân tộc
Sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa MácLênin của Nguyễn Ái Quốc về con đường cách mạng
2.1
giải phóng dân tộc
Quá trình lựa chọn đúng đắn con đường giải phóng dân
tộc của Nguyễn Ái Quốc.
2.2
Sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào xác định
con đường cách mạng giải phóng dân tộc của Nguyễn
Ái Quốc
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
MỞ ĐẦU
Chủ nghĩa Mác - Lênin là một học thuyết khoa học đóng gó nhiều giá trị to
lớn đối với sự phát triển của tư tưởng nhân loại, góp phần làm phong phú thêm
dòng chảy của các trào lưu tư tưởng cũng như có sức ảnh hưởng mạnh mẽ tới
những hoạt động thực tiễn của các phong trào cách mạng tiến bộ trên thế giới.
Hệ thống lí luận của chủ nghĩa Mác - Lênin đã đánh dấu một bước phát triển
mới trong nhận thức của tư duy nhân loại trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã
hội như kinh tế, chính trị, văn hoá, triết học,
V .V ..
Đặc biệt, với tính cách là một
học thuyết cách mạng, chủ nghĩa Mác - Lênin đã soi đường cho phong trào cách
mạng giải phóng thuộc địa cũng như trở thành công cụ lý luận sắc bén cho các
phong trào cách mạng tiến bộ trên thế giới thế kỷ XIX-XX và mãi về sau. Tìm
kiếm con đường phát triển cho đất nước phù hợp với truyền thống, nguyện vọng
dân tộc và xu thế thời đại là một vấn đề hệ trọng, khó khăn, phức tạp nhất. Sứ
mệnh ấy luôn luôn thuộc về những vĩ nhân, những Đảng chính trị biết kết hợp
chặt chẽ truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tinh hoa văn hoá nhân loại. Với tư
cách là người truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc
đã vận dụng sáng tạo những tinh hoa lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin vào con
đường giải phóng dân tộc. Những giá trị lý luận và thực tiễn về con đường đấu
tranh giải phóng dân tộc và xây dựng CNXH ở Việt Nam do Nguyễn Ái Quốc
vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam cho đến nay
vẫn còn nguyên giá trị.
1. Cách mạng giải phóng dân tộc- một số vấn đề lý luận cơ bản
1.1Cách mạng giải phóng dân tộc- một số khái niệm cơ bản
* Cách mạng
Khái niệm cách mạng xuất hiện đầu tiên ở Trung Quốc đã hơn ba thiên niên
kỷ. Thời Tam đại: Hạ, Thượng, Chu - các vua (quân vương) được coi là do Trời
- trao cho cái mệnh hoặc mạng nhân danh Trời làm con Trời (Thiên tử) mà cai
trị đất nước và toàn thiên hạ. Cai trị mà có đức, có tài hợp với lòng tin yêu của
dân thì được Trời trao cho tiếp tục thừa hành mệnh lệnh ấy đến cuối đời sẽ
truyền ngôi cho người hiền tài hoặc con cháu nối ngôi Thiên tử. Trái lại, cai trị
mà tỏ ra bạo ngược, gian dâm, tham nhũng và bị dân căm ghét, oán thù thì Trời
cắt bỏ cái mệnh, để chuyển cho người khác có đức, có tài đánh đổ bạo chúa hôn
quân tiếp tục thay mệnh trời làm công việc trị quốc bình thiên hạ. Sự cắt bỏ, sự
thay đổi đó được coi là cách mạng. Ngày nay, khái niệm cách mạng là một yếu
tố quan trọng của quan điểm biện chứng và phát triển. Nói cách khác, có thể
hiểu rằng, cách mạng là sự thay đổi căn bản, sự nhảy vọt về chất trong quá
trình phát triển của tự nhiên, xã hội và nhận thức. Khái niệm cách mạng được
sử dụng trong lĩnh vực xã hội, đặc trưng cho sự biến đổi sâu sắc, triệt để, không
cải lương, nửa vời, làm thay đổi tận gốc rễ chế độ xã hội, đưa giai cấp tiên tiến
lên cầm quyền.
* Cách mạng giải phóng dân tộc
Khái niệm cách mạng giải phóng dân tộc xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX và
trở thành thuật ngữ chính trị then chốt, phổ biến trong thế kỷ XX. Qua đó có thể
hiểu cách mạng giải phóng dân tộc là cuộc cách mạng nhằm thủ tiêu sự thống
trị của nước ngoài, giành độc lập, thực hiện quyền dân tộc tự quyết và xây dựng
nhà nước dân tộc.
Trước khi chủ nghĩa tư bản ra đời, phong trào giải phóng dân tộc là
phong trào chống sự thống trị của nước ngoài. Trong các thế kỷ từ XVI đến
XIX, sự ra đời của chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa thực dân gắn liền với việc thi
hành chính sách bành trướng áp bức, bóc lột các dân tộc thuộc địa. Điều đó thúc
đẩy sự thức tỉnh ý thức dân tộc. Mâu thuẫn giữa chủ nghĩa thực dân với các dân
tộc bị thống trị ngày thêm gay gắt, do vậy, phong trào giải phóng dân tộc có tính
quần chúng rộng lớn. Nhiều dân tộc ở châu Mỹ giành được độc lập. Từ cuối thế
kỷ XIX đên đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa
đế quốc và tiến hành các cuộc xâm lược với quy mô chưa từng có. Hệ thống
thuộc địa của chủ nghĩa thực dân hết sức rộng lớn cũng chính vì vậy, phong trào
giải phóng dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc phát triển mạnh mẽ ở các
nước châu Á, châu Phi và Mỹ Latinh. Chiến tranh thế giới thứ nhất và thắng lợi
của Cách mạng Tháng Mười Nga 1917 là những nhân tố thúc đẩy cách mạng
giải phóng dân tộc tiếp tục phát triển. Tuy vậy, phải đến sau Chiến tranh thế giới
thứ hai, do sự suy yếu của chủ nghĩa đế quốc, do tác động mạnh từ sự ủng hộ,
giúp đỡ của hệ thống xã hội chủ nghĩa, cách mạng giải phóng dân tộc mới phát
triển mạnh mẽ ở các châu lục. Hàng trăm nước vốn là thuộc địa của chủ nghĩa
thực dân đã được giải phóng và trở thành các nước độc lập.
Tính chất của cách mạng giải phóng dân tộc được hình thành do mâu
thuẫn chủ yếu giữa chủ nghĩa thực dân với các dân tộc bị áp bức. Tiến trình cụ
thể của cách mạng giải phóng dân tộc cũng như các hình thức, tốc độ, mức độ
sâu sắc của cách mạng giải phóng dân tộc được quy định bởi tổng thể các yếu tố
rất đa dạng như điều kiện lịch sử cụ thể, mức độ chín muồi của những điều kiện
chủ quan, khách quan trong nước và quôc tế.
* Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân là một loại hình của cuộc đấu tranh
dân tộc và giai cấp diễn ra ở các nước phụ thuộc, thuộc địa, nửa thuộc địa.
Nhiệm vụ của cuộc cách mạng này là đánh đổ sự thống trị của chủ nghĩa thực
dân giành độc lập cho dân tộc, xoá bở tàn tích của chê độ phong kiến và tiền
phong kiến dem lại ruộng đất cho nông dân thực hiện quyền tự do, dân chủ cho
nhân dân và xây dựng chế độ cộng hoà dân chủ, mở đường cho xã hội phát
triển. Lực lượng tham gia cuộc cách mạng này là nhân dân được tập hợp trong
Mặt trận dân tộc thống nhất.Trong quá trình cách mạng, tùy theo tương quan lực
lượng của các giai cấp và đảng phái chính trị ở mỗi nước quy định mà lãnh đạo
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân có thể là giai cấp tư sản hoặc giai cấp vô
sản. Điều này quyết định mức độ triệt để của mỗi cuộc cách mạng và xu hướng
phát triển tiếp theo khi cuộc cách mạng đã giành được chính quyền. Các cuộc
cách mạng dân tộc dân chủ do giai cấp tư sản lãnh đạo thắng lợi sẽ mở đường
đưa đất nước theo con đường tư bản chủ nghĩa. Đó là cuộc cách mạng thuộc
phạm trù cách mạng dân tộc dân chủ tư sản kiểu cũ. Cuộc cách mạng dân tộc
dân chủ do giai cấp công nhân lãnh đạo nhằm thực hiện triệt để các nhiệm vụ
dân tộc và dân chủ, dựa vào các lực lượng cách mạng của Mặt trận dân tộc
thông nhất rộng rãi, lấy liên minh công nhân, nông dân làm nền tảng, làm gốc
xây dựng và phát triển chế độ dân chủ nhân dân mở đường đưa đất nước tiến lên
chủ nghĩa xã hội. Từ đây xuất hiện phạm trù cách mạng dân chủ tư sản kiểu
mới. Do hoàn cảnh lịch sử, đặc điểm giai cấp xã hội ở mỗi nước có những điểm
khác nhau nên cuộc cách mạng dân tộc dân chủ chống đế quốc và phong kiến ở
mỗi nước có các đặc điểm riêng. Tuy vậy, trong tiến trình cách mạng các nước
đều tập trung lực lượng để giải quyết nhiệm vụ dân tộc, một nhiệm vụ quyết
định phần lớn yếu tố, đặc điểm cuộc cách mạng ở các nước phụ thuộc, thuộc
địa, nửa thuộc địa. Điều đó không chỉ tác động đến công nhân, nông dân, tiểu
tư sản mà còn tác động mạnh mẽ đến cả giai cấp tư sản và địa chủ trong cuộc
đấu tranh vì độc lập tự do.
2. Quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin về cách mạng giải
phóng dân tộc
* Quan điểm của Mác- Ăngghen về cách mạng giải phóng dân tộc ở
phương Đông
Sau những năm 50 của thế kỷ XX, khi phong trào giải phóng dân tộc châu
Âu tạm lắng thì phương Đông lại bùng lên cuộc đấu tranh chống sự xâm lược
của chủ nghĩa thực dân phương Tây. Trong điều kiện mới, suy nghĩ của Mác và
Ăngghen vượt khỏi phạm vi châu Âu. Khi nghiên cứu xã hội phương Đông, hai
ông rất coi trọng việc so sánh nó với xã hội phương Tây. Trong bài Sự thống trị
của Anh ở Ấn Độ, năm 1853, Mác viết: Từ xa xưa ở châu Á thường chỉ có ba
ngành quản lý Bộ Tài chính hay bộ cưỡng bức nhân dân chính nước mình. Bộ
Chiến tranh hay là bộ cướp bóc nhân dân các nước khác và cuối cùng là Bộ
Công trình công cộng. Hệ thống tưới nước bằng kênh đào nhân tạo và các công
trình thuỷ lợi trở thành cơ sở của nông nghiệp phương Đông. Theo Mác, các
nhà nước ở châu Á có chức năng kinh tế bắt buộc “ là chức năng tổ chức các
công trình công cộng”. Tuy nhiên, vấn đề các ông quan tâm nhiều nhất là
nghiên cứu cuộc đấu tranh giải phóng của các dân tộc phương Đông, chống chủ
nghĩa đế quốc, thực dân. Mác và Ăngghen dành sự quan tâm nhiều nhất đến
cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc của Trung Quốc và Ấn Độ, những nước lớn
và đông dân nhất thế giới. Hai ông có khá nhiều công trình nghiên cứu về Trung
Quốc và Ấn Độ. Qua những công trình của mình, hai ông đều có bình luận và
phân tích khoa học về chính trị, về đạo lý, về lý luận và đã cung cấp vũ khí tinh
thần cho các dân tộc bị áp bức tiếp tục đấu tranh. Đặc biệt Mác và Ăngghen đã
đưa ra dự báo về con đường phát triển của các dân tộc phương Đông. Trước hết,
hai ông lên án mạnh mẽ hành động xâm lược thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc.
Ăngghen cho rằng hành động xâm lược của Anh đối với Ấn Độ, năm 1858,
nhân danh văn minh và lòng nhân đạo thực chất là một cuộc tàn sát, cướp bóc
dã man để lại nỗi đau muôn đời cho quân đội Anh. Một mặt, Mác và Ăngghen
lên án, phê phán mạnh mẽ hành động của kẻ xâm lược, mặt khác, hai ông ca
ngợi, ủng hộ phong trào đấu tranh giải phóng do các dân tộc thuộc địa tiến hành
bằng mọi hình thức, mọi biện pháp. Trong cuộc đấu tranh chống xâm lược Anh
đối với Trung Quốc, người dân bản xứ, ngoài các cuộc khởi nghĩa còn áp dụng
những biện pháp đầu độc như bỏ thuốc độc vào bánh bao cho quân Anh ăn, giết
các thuỷ thủ và hành khách người Âu trên các tàu thuyền. Trong khi bọn xâm
lược coi đó là những phương pháp hèn hạ, dã man thì Mác và Ăngghen lại ủng
hộ những việc làm đó. Từ sự xâm lược của kẻ thù và sự chống trả quyết liệt của
các dân tộc phương Đông, các ông đã đưa ra những dự đoán bước đầu về sự thất
bại không tránh khỏi của chủ nghĩa thực dân phương Tây. Vào năm 1858,
Ăngghen đã phân tích như sau: Một là, kỷ luật của đội quân xâm lược rất lỏng
lẻo. Sự buông thả và thói ngang ngược đang đục ruỗng tinh thần binh lính,
không mệnh lệnh nào, không uy lực nào có thể làm cho họ trở lại tình trạng nền
nếp, kỷ cương. Hai là, một cuộc chiến tranh du kích của những người khởi
nghĩa là mối đe dọa nghiêm trọng đối với quân xâm lược. Ăngghen đánh giá rất
cao sự sáng tạo này của nhân dân Ấn Độ. Theo ông, sức mạnh của nhân dân
khởi nghĩa không phải ở cuộc đánh lớn mà ở chỗ tiến hành chiến tranh du kích.
Ba là, những nơi quân xâm lược chiếm được chỉ là các thành phố trống rỗng.
Trong khi kẻ thù đến một xứ sở xa lạ, khí hậu khắc nghiệt thì các chiến sĩ du
kích thuộc địa vừa thông thạo địa hình, vừa quen với khí hậu nên khi giao chiến
họ ứng phó dễ dàng. Do đó, chiến tranh du kích là con đường để các dân tộc
thuộc địa giành thắng lợi trong sự nghiệp giải phóng dân tộc. Nó hoàn toàn phù
hợp với hoàn cảnh địch mạnh ta yếu của cách mạng giải phóng dân tộc. Khi
nghiên cứu phong trào giải phóng dân tộc phương Đông, Mác và Ăngghen dành
nhiều trang viết tâm huyết để trình bày về vai trò của cách mạng giải phóng dân
tộc và tác động qua lại giữa cách mạng giải phóng dân tộc ở phương Đông với
cách mạng thế giới nói chung, cách mạng chính quốc nói riêng.
* Quan điểm của Lênin về cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước
phương Đông
Sự quan tâm của Lênin đến cách mạng giải phóng dân tộc được thể hiện
từ rất sớm. Từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, vấn đề giải phóng dân tộc đã
chiếm vị trí quan trọng trong hoạt động của Lênin. Qua những tác phẩm, bài
nói, bài viết được Lênin trình bày trong hơn 20 năm, chúng ta thấy nổi lên bốn
quan điểm chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, xu hướng phát triển của phong trào dân tộc trong chủ nghĩa tư
bản Theo Lênin, phong trào dân tộc là người bạn đường của cách mạng dân chủ
tư sản, phong trào dân tộc gắn chặt với thời đại chủ nghĩa tư bản chiến thắng
triệt để chủ nghĩa phong kiến. Nghiên cứu vấn đề dân tộc từ góc độ lịch sử và
kinh tế, Lênin chỉ rõ trong quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản có hai xu
hướng lịch sử về vấn đề dân tộc: Xu hướng thứ nhất là: sự thức tỉnh của đời
sống dân tộc và của các phong trào dân tộc, cuộc đấu tranh chống mọi ách áp
bức dân tộc, việc thiết lập các quốc gia dân tộc. Xu hướng thứ hai là: việc phát
triển và tăng cường đủ mọi thứ quan hệ giữa các dân tộc, việc xoá bỏ những
hàng rào ngăn cách các dân tộc và việc thiết lập sự thống nhất quốc tế của tư
bản, của đời sống kinh tế nói chung, của chính trị, của khoa học... cả hai xu
hướng đó là quy luật phổ biến của chủ nghĩa tư bản, về vai trò của mỗi xu
hướng trong quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản, theo Lênin, xu hướng thứ
nhất chiếm ưu thế trong lúc chủ nghĩa tư bản mới bắt đầu phát triển, xu hướng
thứ hai là đặc trưng của chủ nghĩa tư bản đã già cỗi và sắp chuyển lên xã hội
mới, xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, tôn trọng quyền dân tộc tự quyết
Một trong những cống hiến quan trọng của Lênin vào kho tàng chủ nghĩa
Mác là ông đã luận giải toàn diện vấn đề quyền dân tộc tự quyết phù hợp với
thời đại đế quốc chủ nghĩa và cách mạng giải phóng dân tộc gắn với điều kiện
đó. Lênin cho rằng dân tộc tự quyết là “quyền tự quyết về chính trị, là quyền độc
lập quốc gia, là sự thành lập quốc gia dân tộc”. Theo ông, muốn thực sự thừa
nhận rằng mỗi dân tộc có quyền tự quyết thì những người dân chủ xã hội trong
các dân tộc đi áp bức phải nêu lên và ủng hộ bằng hành động việc các dân tộc bị
áp bức có quyền tự do phân lập. Lênin giải thích sự cướp đoạt và áp bức của các
cường quốc tư bản đế quốc đối với nhân dân các nước thuộc địa làm cho quần
chúng nhân dân những nước này chẳng những không tin mà còn vô cùng căm
tức dân tộc đi áp bức, kể cả giai cấp vô sản ở những nước ấy. Vì lẽ trên, Lênin
đòi hỏi các đảng cộng sản và giai cấp công nhân chính quốc phải không do dự
thừa nhận quyền dân tộc tự quyết, quyền tự do phân lập, thành lập các quốc gia
dân tộc của nhân dân các dân tộc thuộc địa, bị dân tộc mình xâm lược. Chỉ có
như vậy, mới xoá bỏ được sự ngờ vực, không tin cậy vào dân tộc đi áp bức từ
các dân tộc thuộc địa, mới tăng cường được tình đoàn kết trên cơ sở thật sự bình
đẳng, tin cậy lẫn nhau cùng đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc.
Thứ ba, đoàn kết, liên minh chiến đấu thực hiện khẩu hiệu “Vô sản tất cả
các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại”
Lực lượng vật chất chỉ có thể đánh bại bởi lực lượng vật chất, giai cấp tư
sản, chủ nghĩa đế quốc thực dân liên minh chặt chẽ với nhau, trở thành lực
lượng khổng lồ để bóc lột giai cấp công nhân, cướp bóc thuộc địa, nô dịch
người lao động. Bởi vậy, những người bị bóc lột phải liên minh lại để chống
những kẻ bóc lột mình. Trong việc tập hợp lực lượng để chống giai cấp tư sản,
chủ nghĩa đế quốc thực dân, Lênin đặc biệt quan tâm tới việc thiết lập quan hệ,
hình thành liên minh chiến đấu chính quốc - thuộc địa. Tư tưởng chiến lược này
được hình thành ở Lênin từ rất sớm. Sau Cách mạng Tháng Mười Nga 1917,
nhất là kể từ khi thành lập Quốc tế Cộng sản năm 1919, vấn đề đoàn kết chống
kẻ thù chung được Lênin đặc biệt quan tâm. Vấn đề đoàn kết với các dân tộc
thuộc địa trở thành một trong những điều kiện bắt buộc đối với bất cứ một đảng
nào muốn gia nhập Quốc tế Cộng sản. Trong những điều kiện mới của cách
mạng thế giới nói chung, cách mạng giải phóng dân tộc nói riêng, Lênin đã phát
triển sáng tạo chiến lược tập hợp lực lượng cách mạng của Mác và Ăngghen.
Kết thúc Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, Mác và Ăngghen kêu gọi “Vô sản tất
cả các nước đoàn kết lại”. Phù hợp với điều kiện mới, Lênin đã đưa thêm thành
tố “các dân tộc bị áp bức” vào khẩu hiệu trên. Đây là sự vận dụng và phát triển
sáng tạo chủ nghĩa Mác của Lênin.
Thứ tư, kiên quyết ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc của nhân dân các
nước phương Đông
Để có một thái độ cách mạng và khoa học trong vấn đề thuộc địa, Lênin
yêu cầu trước hết phải phân biệt dân tộc bị áp bức và dân tộc đi áp bức. Theo
Lênin khi xử lý vấn đề dân tộc, giai cấp vô sản cách mạng phải gắn với thời đại
đế quốc chủ nghĩa, thời đại các dân tộc thế giới chia thành hai loại: Dân tộc bị
áp bức và dân tộc đi áp bức. Không chỉ dừng lại ở sự ủng hộ cuộc đấu tranh của
các nước thuộc địa và nửa thuộc địa chống chủ nghĩa thực dân, đế quốc, Lênin
còn chỉ ra con đường tiến lên của các nước đó sau khi đã giành được độc lập
dân tộc. Trong sự nghiệp của mình, Mác và Ăngghen nghiên cứu nước Nga là
để tìm ra con đường phát triển của một loại nước không phải Tây Âu, không
phải tư bản chủ nghĩa. Đó là “con đường phát triển rút ngắn một cách đáng kể”
của nước Nga với những điều kiện khách quan và chủ quan nhất định. Kết luận
quan trọng được Mác và Ăngghen rút ra là “điều đó không chỉ đúng với nước
Nga, mà còn đối với tất cả các nước đang ở trong giai đoạn phát triển tiền tư
bản chủ nghĩa”. Lênin đã biến lý luận cách mạng không ngừng của Mác và
Ăngghen nói chung, con đường phát triển rút ngắn của nước Nga nói riêng
thành hiện thực. Ông đã góp phần to lớn vào việc tạo ra những con đường rất lạ
lùng. Nước Nga lạc hậu trở thành nước đi tiên phong trong việc mở đầu thời đại
mới, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Từ thực tế nước
Nga, Lênin tiếp tục suy nghĩ vận dụng “con đường rất lạ lùng ấy” vào các nước
phương Đông, các nước thuộc địa, nửa thuộc địa. Suy nghĩ của Lênin về con
đường tiến lên theo hướng xã hội chủ nghĩa của các nước thuộc địa, nửa thuộc
địa được hình thành từ rất sớm. Năm 1913, Lênin đã nói tới một phong trào dân
chủ mạnh mẽ “hướng về cuộc sống mới, hướng về ánh sáng, hướng về tự do”
của hàng trăm triệu người đang phát triển mạnh mẽ ở châu Á. Sau Cách mạng
Tháng Mười 1917, nghĩa là khi đã có tấm gương nước Nga, với sự ủng hộ hết
lòng của chính quyền Xô viết đối với các nước phương Đông thì tư tưởng của
Lênin về các nước lạc hậu khi giành được độc lập dân tộc có thể bỏ qua chế độ
tư bản chủ nghĩa tiến lên chủ nghĩa xã hội càng rõ ràng hơn. Phong trào giải
phóng dân tộc diễn ra ở châu Âu từ giữa thế kỷ XIX. Cuối thế kỷ XIX, đầu thế
kỷ XX khi chủ nghĩa tư bản chuyển từ tự do cạnh tranh sang giai đoạn đế quốc
chủ nghĩa thì cách mạng giải phóng dân tộc phát triển mạnh mẽ ở các nước Á,
Phi và Mỹ Latinh. Đối với Mác, Ăngghen, Lênin vấn đề cách mạng giải phóng
dân tộc chiếm một phần rất quan trọng trong cuộc đời và sự nghiệp của các ông.
Nghiên cứu của các ông về chủ đề này có lịch sử hàng chục năm. Khi bàn về
cách mạng giải phóng dân tộc, Mác và Ăngghen trước hết nói tới cách mạng
giải phóng dân tộc ở Châu Âu, trong đó tập trung vào Ba Lan, Hungari, Airơlen.
Đối với các nước Châu Á, hai ông viết nhiều về Trung Quốc và Ấn Độ. Mác và
Ăngghen coi nước Nga là một cửa sổ nhìn sang phương Đông. Qua nghiên cứu
nước Nga, các ông đề xuất con đưòng phát triển rút ngắn. Con đường đó có thể
vận dụng cho cả các nước phương Đông. Lênin là người kế thừa và phát triển
sáng tạo quan điểm của Mác, Ăngghen trong điều kiện chủ nghĩa đế quốc. Quan
điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về cách mạng giải phóng dân tộc khá cơ bản,
toàn diện và có hệ thống. Các ông cho rằng một dân tộc đi áp bức dân tộc khác
thì bản thân dân tộc đó cũng không có tự do. Các ông phản đối hành động xâm
lược được ngụy trang dưới các chiêu bài “khai hoá văn minh”, “bảo vệ Tổ
quốc” hoặc truyền đạo. Theo các ông, cần có sự phân biệt giữa dân tộc đi áp
bức và dân tộc bị áp bức và phải ủng hộ cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp
bức. Trong hoạt động lý luận và thực tiễn chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định
cách mạng chính quốc và cách mạng thuộc địa có mối quan hệ mật thiết với
nhau, trong đó thắng lợi của cách mạng chính quốc có ý nghĩa quyết định đối
với thắng lợi ở các nước thuộc địa và phụ thuộc. Trong quá trình nghiên cứu
cách mạng giải phóng dân tộc Mác, Ăngghen, Lênin đều đưa ra những dự báo
khoa học, có ý nghĩa định hướng cho cuộc đấu tranh của các dân tộc thuộc địa
và nửa thuộc địa. Đối với Mác đó là ba khả năng khác nhau về sự phát triển của
các nước phương Đông, đang ở vào giai đoạn tiền tư bản. Đối với Ăngghen, đó
là dự báo về khả năng thất bại không tránh khỏi của kẻ xâm lược. Đối với
Lênin, đó là ba loại hình khác nhau về quyền dân tộc tự quyết. Quan điểm của
chủ nghĩa Mác - Lênin về cách mạng giải phóng dân tộc là di sản cực kỳ quan
trọng.
2. Sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin của
Nguyễn Ái Quốc về con đường cách mạng giải phóng dân tộc
2.1 Quá trình lựa chọn đúng đắn con đường giải phóng dân tộc của
Nguyễn Ái Quốc.
Nguyễn Ái Quốc sớm được giáo dục lòng yêu nước, có ý thức và hành
động cứu nước, nhưng chưa biết con đường đấu tranh nào phải đi để giành thắng
lợi. Từ rất sớm Nguyễn Tất Thành rất tôn trọng, yêu quý những bậc tiền bối, yêu
nước, xem đó là những tấm gương cần học tập, song đó là sự tiếp thu có phê
phán, chỉ rõ những điều không phù hợp với cuộc đấu tranh giành độc lập và
không đi theo con đường cứu nước cũ. Con đường cứu nước kiểu cũ không thể
đưa đến thành công, song con đường cứu nước nào đúng cũng chưa được
Nguyễn Ái Quốc nhận biết. Đây là lẽ tự nhiên, thể hiện tính biện chứng trong
việc nhận thức của con người. Không phải là thiên tài, vĩ nhân thì ngay từ đầu
đã thấy được chân lý mà không có sự kế thừa, trải nghiệm trong thực tiễn. Thiên
tài, vĩ nhân cũng phải từ thực tiễn đi tới nhận thức ngày một sâu sắc hơn, phát
hiện được bản chất của sự việc, hiện tượng. Nguyễn Ái Quốc hiểu được thực tế
của đất nước, thấy được con đường cứu nước cũ đã thất bại, song chưa hiểu về
nước Pháp, về nhân dân, về nền văn minh Pháp. Vì vậy, cần quyết định và lựa
chọn một trong các phương án: “Đi ra nước ngoài để tìm đường cứu nước hay ỏ
lại trong nước, đấu tranh theo con đường cũ?”. Nếu đi ra nước ngoài thì “sang
Nhật hay sang Pháp”. Một quyết định trong lúc cần quyết định của Nguyễn Ái
Quốc ảnh hưởng không nhỏ đến việc đấu tranh cứu nước chống Pháp, không
phải chỉ đối với bản thân Người mà cả dân tộc. Nguyễn Tất Thành từ chối con
đường Đông Du không phải vì Người hiểu được bản chất của Nhật đang trên
con đường chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, cũng không phải khước từ
lòng ưu ái, niềm tin của cụ Phan Bội Châu gửi gắm vào cậu con trai của người
bạn đồng hương Nguyễn Sinh Sắc mà là từ chối một con đưòng cứu nước, vì
cảm thấy rằng không thể đưa đến thành công. Theo nhà nghiên cứu Nguyễn
Khánh Toàn, Người quyết định sang Pháp bởi vì điều mà nguyễn Ái Quốc sớm
nhận thức được và nó dẫn Người đi đúng hướng là: Nguồn gốc những đau khổ
và áp bức dân tộc là ở ngay tại “chính quốc”, ở nước đế quốc thống trị dân tộc
mình. Quyết định này mở ra bước ngoặt lớn trong cuộc đời cách mạng của Hồ
Chí Minh và dân tộc Việt Nam.
Năm 1911, Nguyễn Tất Thành rời Tổ quốc sang phương Tây tìm đường
cứu nước. Đây là một sự kiện mới chưa hề có trong lịch sử nước ta, vì các nhà
yêu nước trước đây thường theo con đường “truyền thống” là đi sang phương
Đông, vả lại, việc "xuất dương" của cha anh lớp trước chỉ để "cầu viện", chuẩn
bị lực lượng vũ trang kéo về nước, hoặc đào tạo cán bộ để chỉ đạo, phát động
phong trào đấu tranh trong nước. Trong chuyến đi sang các nước láng giềng
(Trung Quốc, Nhật Bản), những nhà yêu nước lớp trước chưa có ai đặt vấn để,
càng không ai chủ trương sang phương Tâv để tìm con đường cứu nước mới
như Nguyễn Tất Thành, dự định và quyết tâm thực hiện. Khi trả lời nhà văn Mỹ
Anna Louis Strong, Hồ Chí Minh đã nói rõ động cơ khiến Người rời Tổ quốc
sang Pháp và các nước phương Tây: Nhân dân Việt Nam trong đó có ông thân
sinh ra tôi, lúc này thường tự hỏi nhau ai là người giúp mình thoát khỏi ách
thống trị của Pháp. Người này nghĩ là Nhật, người khác lại nghĩ là Anh, có
người lại cho là Mỹ. Tôi thấy phải đi ra nước ngoài xem sao, tôi sẽ trở về giúp
đồng bào tôi. Quyết định sang Pháp là một quyết định có ý nghĩa lịch sử thể
hiện rõ nhất, lần đầu tiên tư duy độc lập sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc. Việc
Nguyễn Tất Thành quyết định sang Pháp và những nhận định ban đầu vể thực tế
của nước Pháp thể hiện rõ ý thức, động cơ của Người đi tìm đường cứu nước vì độc lập dân tộc - là đúng.
Tiếp đó, cuộc hành trình của Nguyễn Tất Thành qua nhiều nước tư bản, đế
quốc, ở nhiều châu lục càng làm sáng tỏ tính chất đúng đắn của mục đích đi tìm
đường cứu nước.
Người đã xúc động trước cảnh khổ cực, bị áp bức của nhân dân những
nước đi qua; nó giống như đời sống của đồng bào mình ở quê hương. Người
nhận thấy ở đâu nhân dân cũng có mong muốn chung là thoát khỏi ách thống
trị, áp bức. Từ lòng yêu thương đồng bào, Nguyễn Ái Quốc mở rộng đến sự
đồng cảm với những người cùng cảnh ngộ trên khắp thế giới. Ở Người đã nảy
sinh ý thức về sự cần thiết phải đoàn kết những người bị áp bức để đấu tranh
chống kẻ thù chung, cùng nhau thực hiện một nguyện vọng chung - độc lập- tự
do. Có thể xem đây là một biểu hiện đầu tiên của ý thức về sự đoàn kết quốc tế
giữa những người dân thuộc địa nhằm đấu tranh thoát khỏi sự thống trị của
thực dân đế quốc, giữa nhân dân thuộc địa và người lao động ở chính quốc.
Sang Pháp, nhưng Nguyễn Tất Thành không dừng chân ở đất Pháp, dù việc tìm
hiểu về đất nước và con người Pháp đã bước đầu đem lại cho Người những
“khám phá” lý thú. Người muốn tiếp tục đến nhiều nơi khác để bổ sung cho
những kiến thức ban đầu về các nước thuộc địa và phụ thuộc mà mình đã thu
nhận được trên đưòng từ Sài Gòn sang Pháp: ghé cảng Xingapo ngày 8-6-1911;
Côlômbô của Xây Lan (nay là Xri Lanca) vào ngày 14-6-1911, Xait của Ai Cập
ngày 30-6-1911. Ở những thuộc địa của thực dân Anh, lần đầu tiên Nguyễn Tất
Thành được chứng kiến cảnh khốn cùng của những người dân thuộc địa, chẳng
khác gì đồng bào mình đang sống dưới ách thống trị của thực dân Pháp.
Cuộc hành trình tiếp theo của Nguyễn Tất Thành, sau khi rời nước Pháp, là
đến nhiều nước khác trên thế giới và vẫn dựa vào bàn tay lao động và sự thông
minh của mình để sinh sống. Chuyến đi này nhằm hoàn thiện sự hiểu biết về
các nước thuộc địa, tư bản đế quốc khác. Qua đó, Người sẽ so sánh, chọn lựa
những gì bổ ích cho con đường cứu nước đúng nhất. Thực tiễn của các nước
mà Nguyễn Tất Thành ghé qua hay ở lại một thời gian đã làm nảy sinh ở Người
sự thông cảm với cuộc sống khốn cùng của nhân dân lao động. Đồng thời ở
Người đã nảy sinh ý thức về sự đoàn kết của các dân tộc thuộc địa. Ý thức này
lớn dần thành quan niệm vững chắc về sự đoàn kết các dân tộc bị áp bức, trở
thành tư tưởng chủ đạo trong Bản án chế độ thực dân Pháp và nhiều bài viết
khác. Tư tưởng đoàn kết các dân tộc thuộc địa được hiện thực hóa trong các tổ
chức “Hội Liên hiệp thuộc địa”, “Hội Liên hiệp các dần tộc bị áp bức”.
Đây là những tổ chức quốc tế đầu tiên của nhân dân thuộc địa mà Nguyễn Ái
Quốc đã tham gia thành lập. Nếu Mác và Ăngghen là người sáng lập các tổ
chức quốc tế của giai cấp công nhân (Quốc tế I, Quốc tế II), Lênin là người
sáng lập Quốc tế III, Quốc tế Cộng sản, tổ chức quốc tế của giai cấp công nhân
và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới thì Nguyễn Ái Quốc có thể coi là
người sáng lập ra những tổ chức quốc tế của các dân tộc thuộc địa.
Trong những năm sống ở Anh, Mỹ, Nguyễn Tất Thành không chỉ tìm hiểu
về xã hội, các nước tư bản đế quốc, thấy rõ sự giả dốỉ, lừa bịp của giai cấp thống
trị mà còn tham gia đấu tranh với nhân dân lao động. Năm 1917, Nguyễn Tất
Thành từ Anh trở lại Pháp, khi cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất bước vào giai
đoạn kết thúc. Vì sao Nguyễn Tất Thành trở lại Pháp? Có thể Người tiếp tục
thực hiện mục đích đề ra lúc từ giã Tổ quốc là “ ra nước ngoài xem nước Pháp
và các nước khác”. Tìm hiểu kỹ nước Pháp lúc bấy giờ không chỉ vì đó là nước
trực tiếp đô hộ nhân dân ta, mà còn để hiểu biết về một trung tâm chính trị sôi
động nhất thế giới, về đất nước có truyền thống cách mạng và về Pari - một
trung tâm văn hóa, chính trị của châu Âu và thế giới. Nhiều nhà cách mạng vô
sản đã từng sống ỏ Pari như Mác và Ăngghen. Lúc bấy giờ Pari còn là “trung
tâm liên minh thế giới của bọn đế quốc”, “thành trì của bọn phản động thế giới”.
Nước Pháp còn là nơi tập trung nhiều cá nhân và tổ chức phản cách mạng, thuộc
các đảng phái xã hội sôvanh chủ nghĩa, công đoàn vô chính phủ... Điều cơ bản
hơn là Pari giữ vị trí một trung tâm cách mạng của phong trào công nhân Pháp
và thế giới. Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, phong trào công nhân Pháp gặp
nhiều khó khăn, có phần giảm sút, song cuộc đấu tranh cách mạng vẫn được duy
trì. Hơn nữa, trên đất Pháp, số lượng người Việt Nam đang sống khá đông;
80.000 binh lính người Việt Nam bị bắt đưa vào quân đội Pháp để đánh nhau
với Đức, một số người đang lao động trong các xí nghiệp quốc phòng Pháp.
Phần đông binh lính người Việt Nam này đều là nạn nhân của chế độ thực dân;
họ sớm tổ chức ngay trên đất Pháp những hội để giúp đỡ nhau. Năm 1912, ở
Pari đã thành lập “Hội đồng bào thân ái”- một hình thức tổ chức ái hữu của
Việt kiều ở Pháp. Hội này chưa có chương trình hoạt động, không có lãnh đạo,
mà mới là nơi để kiều bào liên lạc, đặt mối quan hệ vói nhau. Chẳng bao lâu sau
Hội này tan vỡ. Yêu cầu tổ chức tập hợp Việt kiều ỏ Pháp là công việc cấp thiết
không chỉ giúp đỡ nhau trong đời sống mà còn hướng mọi người hoạt động cứu
nước. Vào khoảng năm 1917, cùng thời gian Nguyễn Tất Thành đến Pari, “Hội
những người Việt Nam yêu nước” ra đời. Người cũng tham gia Hội và nhanh
chóng trở thành linh hồn của phong trào Việt kiểu yêu nước ở Pháp. Trong báo
cáo tổng hợp gửi Bộ Thuộc địa về phong trào đấu tranh đòi độc lập cho Đông
Dương ỏ Pari, ngày 30-1 -1920, cơ quan tình báo đặc biệt của Pháp đã khẳng
định “ từ cuộc điều tra được tiến hành về hoạt động tuyên truyền trong các giới
người An Nam ở Pari và việc ủng hộ những yêu sách của người ở Đông Dương,
thì thấy linh hồn của phong trào không phải là ai khác mà là người An Nam
Nguyễn Ái Quốc, tự xưng là Tổng thư ký của “Hội những người cách mạng
Việt Nam”. Với lòng yêu nước nồng nhiệt, Nguyễn Tất Thành ngay từ đầu đã
tập hợp được đông đảo Việt kiều, đặc biệt những người tham gia “Hội những
người Việt Nam yêu nước”. Lúc bấy giờ các nhà cách mạng của Việt Nam như:
Phan Châu Trinh và Phan Văn Trường không tán thành hoạt động của nhóm
Việt Nam yêu nước, cho “nhóm thanh niên là trẻ con”. Vào khoảng đầu năm
1919, Nguyễn Ái Quốc gia nhập Đảng Xã hội. Giải thích về quyết định này,
Người chỉ rõ rằng vì đây là tổ chức duy nhất ở Pháp bênh vực sự nghiệp cách
mạng của Việt Nam, là tổ chức duy nhất theo đuổi lý tưởng cao quý của Đại
cách mạng Pháp: “Tự do, Bình đẳng, Bác ái”. Ở đây có thể hiểu rằng khi gia
nhập Đảng Xã hội Pháp, Nguyễn Ái Quốc trước hết và chủ yếu là vì lòng yêu
nước, sự mong muốn đoàn kết với lực lượng quốc tế để giải phóng dân tộc
mình. Người đã tìm thấy những quan điểm tiến bộ, tích cực của Đảng Xã hội
Pháp lúc bấy giờ, nhất là với vấn đề thuộc địa. Tuy nhiên, Người cũng nhận
thấy những hạn chế của Đảng này, như cho rằng, giai cấp vô sản chỉ có thể ngăn
chặn chủ nghĩa thực dân khi nào nắm được chính quyền, theo quan điểm của
Đảng Xã hội Pháp thì bản thân nhân dân các nước thuộc địa, phụ thuộc không
thể tự giải phóng, mà phải được sự giúp đỡ của vô sản chính quốc, khi họ đã
nắm được chính quyền. Quan điểm này được xem là việc lập lại ý kiến của Mác
khi cho rằng, nhân dân Ailen chỉ giành được độc lập sau khi giai cấp vô sản Anh
nắm được chính quyền. Ý kiến này được Mác nhận định không đúng và ông đã
loại bỏ ngay. Việc gia nhập Đảng Xã hội Pháp tạo điều kiện thuận tiện để
Nguyễn Ái Quốc gần gũi và hoạt động với các nhà chính trị nổi tiếng của Pháp
(Mácxen Casanh, Pôn Vay ăng Cutuyariê, Giăng Lôngghê...). Từ việc gia nhập
Đảng Xã hội, bước đầu hiểu biết về đảng này, Nguyễn Ái Quốc có một cơ sở để
rồi quyết định đứng về phía Quốc tế Cộng sản, rời bỏ những người cơ hội chủ
nghĩa. Năm 1919, nổi lên một hoạt động rất quan trọng của Nguyễn Ái Quốc, đó
là việc Người gửi đến Hội nghị Vécxây bản Yêu sách của nhân dân An Nam,
gồm 8 điểm: đòi ân xá chính trị phạm người bản xứ; cải cách nền pháp lý ở
Đông Dương; tự do báo chí và tự do ngôn luận; tự do lập hội và hội họp; tự do
cư trú ở nước ngoài và tự do xuất dương; tự do học tập, thành lập các trường kỹ
thuật và chuyên nghiệp; thay chế độ ra các sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật;
đoàn đại biểu thường trực của người bản xứ do người bản xứ bầu ra ở Nghị viện
Pháp để giúp Nghị viện biết được những nguyện. Qua bản yêu sách, Nguyễn Ái
Quốc nêu và nhấn mạnh các quyền tự do, dân chủ của nhân dân Việt Nam. Bản
yêu sách đó được gửi đến đoàn đại biểu các nước Đồng minh dự Hội nghị
Vécxây và tất cả các nghị viên của Quốc hội Pháp. Nguyễn Ái Quốc cũng in
thành truyền đơn phát trong cuộc mít tinh có đông người Pháp tham dự. Bản
Yêu sách của nhân dân An Nam được dịch ra chữ Hán, chuyển thành bài diễn ca
tiếng Việt, phổ biến rộng rãi ở Pháp và gửi về nước, và nó không chỉ đến tay
nhân dân Việt Nam mà còn đến tay nhiều nhà yêu nước của nước ngoài.
Khi Nguyễn Tất Thành trở lại Pháp, một sự kiện lớn có tính chất thời đại đã
ảnh hưởng quyết định đến sự nghiệp đấu tranh cách mạng của Người - Cách
mạng Tháng Mười Nga năm 1917 thành công, mở ra một kỷ nguyên mói trong
xã hội loài người. Với sự nhạy cảm về chính trị, do sự rèn luyện trong cuộc
sống lao động và hoạt động trong nhiều năm trước đó, nên mặc dù chưa hiểu
biết hết ý nghĩa cực kỳ to lớn của Cách mạng Tháng Mười, nhưng Nguyễn Ái
Quốc nhận thấy đây là một biến cố to lớn, “có một sức lôi cuốn kỳ diệu vô
cùng”- Nhận thức “cảm tính tự nhiên” ban đầu ấy đã gây một ấn tượng mạnh
mẽ, mà mãi 40 năm sau, tháng 11-1957, Ngươi vẫn còn giữ cảm giác ”... tựa
như người đi đường đang khát mà có nước uống, đang đói mà có cơm ăn”. Việc
Nguyễn Ái Quốc nhanh chóng tiếp nhận ảnh hưỏng của Cách mạng Tháng
Mười thể hiện sự thống nhất giữa tác động của điều kiện khách quan là thời đại
mới từ sau cách mạng Tháng Mười Nga đã tạo điều kiện cho phong trào giải
phóng dân tộc thắng lợi, theo con đưòng đấu tranh hợp quy luật của giai cấp vô
sản. Điều kiện chủ quan là phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân Việt
Nam đang đòi hỏi con đường cứu nước mới được khơi dậy bởi quyết tâm đấu
tranh của Nguyễn Ái Quốc. Tuy nhiên, trong những điều kiện khách quan và
chủ quan như vậy mà thiếu sự nhận thức đúng của cá nhân thì Nguyễn Ái Quốc
cũng không thể tiếp nhận ánh sáng của Cách mạng Tháng Mười để nhận thức
đúng và quyết tâm đi theo con đường của cuộc cách mạng vô sản này.
Sự nhận thức về Cách mạng Tháng Mười, về thời đại mới không phải là sự
áp đặt từ một thế lực bên ngoài, như nhiều người nước ngoài có ý xuyên tạc.
Hơn nữa, sự nhận thức này cũng không đơn giản vì lúc bấy giò số người hiểu
được Cách mạng Tháng Mười không nhiều mà sự hiểu biết này cũng ở mức độ
khác nhau. Điều này còn phụ thuộc vào hoạt động thực tiễn, thái độ của những
con người cụ thể đối với Cách mạng Tháng Mười Nga. Theo thống kê của các
nhà sử học Xôviết, đã có 4 triệu người tham gia, chứng kiến diễn biến, biết tin
về Cách mạng Tháng Mười Nga. Trong số người tham gia chứng kiến Cách
mạng Tháng Mười Nga, số người dân ở các nước thuộc địa và phụ thuộc chiếm
tỷ lệ khá cao. Họ rất hoan hỷ chào mừng Cách mạng Tháng Mười Nga. Một số
nhà yêu nước, cách mạng của nhiều nước phương Đông cũng bày tỏ tình cảm
thiết tha với Cách mạng Tháng Mười, như Tôn Trung Sơn(Trung Quốc)
Caxútđi (Nhật Bản), Phan Bội Châu (Việt Nam)... Song số người quyết tâm đi
theo con đường Cách mạng Tháng Mười như Nguyễn Ái Quốc không nhiều, vì
họ chưa nhận thức được rằng cuộc cách mạng vô sản này sẽ ảnh hưởng như thế
nào đến cuộc đấu tranh giành độc lập của nước mình. Với sự nhạy bén về chính
trị lại có thực tế về các nước thuộc địa, phụ thuộc, tư bản đế quốc nên Nguyễn
Ái Quốc từ “nhận thức cảm tính” đến tìm hiểu sâu hơn về Cách mạng Tháng
Mười Nga, thông qua nghiên cứu sách báo tài liệu vê cuộc cách mạng này, về
cương lĩnh của Đảng Cộng sản Nga (b), Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản. Hơn
nữa, Nguyễn Ái Quốc đã hoạt động tích cực trong phong trào công nhân Pháp,
tham gia cuộc đấu tranh ủng hộ nhân dân nước Nga Xôviết. Cuối năm 1918, khi
chính phủ tư sản Pháp liên kết với đế quốc Anh trực tiếp vũ trang can thiệp vào
nước cộng hòa Xôviết trẻ tuổi, Nguyễn Ái Quốc đã cùng công nhân Pháp biểu
tình, rải truyền đơn của Đảng Xã hội Pháp, kêu gọi nhân dân lao động đấu tranh
chặn bàn tay xâm lược của chúng.
Vào những tháng cuối năm 1919, Ủy ban Quốc tế thứ III của Đảng Xã hội
Pháp được thành lập. Mục đích của Ủy ban là vận động Đảng gia nhập Quốc
tế III và bảo vệ cách mạng Nga đang bị quân đội 14 nước đế quốc vũ trang can
thiệp. Nguyễn Ái Quốc dự tất cả các buổi họp của ủy ban, quyên góp tiền ủng
hộ nhân dân Nga vượt qua nạn đói - hậu quả sự bao vây của các nước đế quốc
- phân phát truyền đơn ủng họ và bảo vệ Cách mạng Tháng Mười, kêu gọi
nhân dân lao động Pháp lên án sự can thiệp vũ trang vào nước Nga Xôviết.
Những hoạt động như vậy của Nguyễn Ái Quốc không hề xa rời mục tiêu đấu
tranh giải phóng dân tộc mà Người theo đuổi. Điều quan trọng là Người đã
nhận thấy cuộc mạng Tháng Mười Nga có thể đem lại những bài học thiết
thực bổ ích cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của mình. Những hoạt động
thực tiễn làm cho sự hiểu biết của Nguyễn Ái Quốc về chính trị, xã hội được
nâng cao và tăng cường đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng các dân tộc theo
con đường cách mạng vô sản. Nếu trước khi trở lại Pháp, Nguyễn Ái Quốc
mới tập trung vào công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc mình, thì từ năm
1919 trở đi, Người đã nhận thức sâu hơn về sự cần thiết kết hợp với cuộc đấu
tranh của nhân dân các nước khác.
Cuộc hành trình qua các châu lục và những năm trở lại sống trên đất Pháp
đã nâng cao sự hiểu biết thực tiễn và lý luận của Nguyễn Ái Quốc, đã làm cho
Người từ một nhà yêu nước trở thành một người lao động, một người công nhân
thực sự, dù không sống, lao động trong môi trường công nhân, song có “đầy đủ
phẩm chất đạo đức, tâm lý vô sản”. Quá trình này có những chuyển biến quan
trọng. Những khái niệm trước đó đối với Người có vẻ xa lạ, khó hiểu, như “chủ
nghĩa Bônsêvích”, “cách mạng vô sản”, “chủ nghĩa tư bản”, “chế độ thuộc
địa”... nay dần dần có ý nghĩa cụ thể hơn, có nội dung sâu sắc hơn.
Kết quả của hoạt động thực tiễn và việc tiếp nhận lý luận ban đầu càng làm
sáng tỏ hơn con đường cứu nước mà Người đang đi tìm và nâng cao hơn nhận
thức về chủ nghĩa xã hội. Điều này dẫn tới một quyết định quan trọng tiếp sau
quyết định sang phương Tây tìm đường cứu nước. Đó là quyết định đứng về
phía Quốc tế Cộng sản chứ không ở lại Quốc tế II - một vấn đề đang sôi động
trong Đảng Xã hội Pháp! Quyết định này có tác động mạnh mẽ của việc
Nguyễn Ái Quốc đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc
vă vấn đề thuộc địa của Lênin. Sau này, Nguyễn Ái Quốc nhớ lại “Trong luận
cương ấy, có những chữ chính trị khó hiểu. Nhưng cứ đọc đi đọc lại nhiều lần,
cuối cùng tôi cũng hiểu được phần chính. Luận cương của Lênin làm cho tôi rất
cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc
lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần
chúng đông đảo: Hỡi đồng bào bị đọa đầy đau khổ! Đây là cái cần thiết cho
chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!”. Từ đó tôi hoàn toàn tin theo
Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba. Vì sao Luận cương tác động mạnh mẽ đến
Nguyễn Ái Quốc như vậy? Bởi vì, nó nêu và giải đáp những vấn đề lớn của thời
đại sau Cách mạng Tháng Mười, trong đó có vấn đề giải phóng các dân tộc
thuộc địa mà Nguyễn Ái Quốc đặc biệt quan tâm. Những vấn đề này rất cấp
thiết không chỉ vì sự đoàn kết chung của nhân dân các thuộc địa, giai cấp công
nhân thế giới, sự đoàn kết giữa nhân dân thuộc địa và chính quốc mà còn vạch
ra chiến lược cho cuộc đấu tranh giành quyền tự quyết dân tộc, đăc biệt việc
phát huy sức mạnh của công nhân liên minh với nông dân trong cuộc đấu chống
địa chủ phong kiến, thực hiện cách mạng ruộng đất. Luận cương còn khẳng định
Quốc tế Cộng sản là bộ tham mưu chung, nước Nga Xôviết là ngọn cờ đầu, là
thành trì của căn cứ cách mạng thế giới.
Bước đầu nhận thức và tán thành các quan điểm cơ bản như trên, Nguyễn
Ái Quốc quyết định đứng về phía Quốc tế cộng sản, đưa phong trào giải phóng
dân tộc của nước mình theo con đường cách mạng vô sản và mong muốn sang
nước Nga Xôviết để học tập và nâng cao trình độ lý luận và thực tiễn. Rõ ràng,
Luận cương của Lênin về các vấn đề dân tộc và thuộc địa đã làm cho Nguyễn
Ái Quốc hiểu được con đường giải phóng dân tộc mà Người đang đi tìm qua
cuộc hành trình quanh thế giới. Vì sao Nguyễn Ái Quốc tiếp nhận nhanh, sâu
sắc các quan điểm cơ bản của Luận cương để có sự chuyển biến về tư tưởng
như vậy? Sự chuyển biến này có phải là sự chuyển biến từ tình cảm, ý thức, thái
độ đến tư tưởng? Những câu hỏi như vậy được làm sáng tỏ để bác bỏ các luận
điểm xuyên tạc cho rằng, Nguyễn Ái Quốc đã áp đặt chủ nghĩa cộng sản cho
nhân dân Việt Nam. Khi giải thích sự chuyển biến đến quyết định chọn con
đường cứu nước đúng, cần phải đặt cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân
dân Việt Nam vào phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân thế giới. Đây
là mối liên hệ biện chứng mà Nguyễn Ái Quốc sớm nhận thấy.
Sau khi tiếp nhận tư tưởng của Lênin, Nguyễn Ái Quốc tích cực hoạt động
để đóng góp vào việc Đảng Xã hội Pháp gia nhập Quốc tế Cộng sản, Người viết
thư bằng tiếng Pháp gửi cho Quốc tế Cộng sản nói vể ảnh hưởng to lớn của
Luận cương của Lênin về các vấn đề dân tộc và thuộc địa đối với sự hình thành
thế giới quan của mình và về quyết tâm đi theo Quốc tế thứ III. Người tham gia
các cuộc mít tinh, hội nghị có liên quan đến việc Đảng Xã hội Pháp gia nhập
Quốc tế Cộng sản, đến dự kỷ niệm 3 năm Cách mạng Tháng Mười (19171920). Người đã cùng các đồng chí phản đối nhà cầm quyền Mỹ vu không, kết
án tử hình hai công nhân Mỹ, Sáccô và Vandétti, đòi trả tự do cho họ. Người có
mặt trong cuộc mít tinh lớn, do Đảng Xã hội Pháp tổ chức tại Rạp xiếc Mùa
Đông ở Pari, để nghe Mácxen Casanh và L.O.Phrôtxa đại biểu của Đảng ở Nga
về báo cáo những vấn đề liên quan đến Quốc tế Cộng sản.
Nguyễn Ái Quốc còn tìm hiểu thư của Quốc tế Cộng sản “Gửi tất cả đảng
viên Đảng Xã hội Pháp và những người vô sản giác ngộ ở Pháp ”, đề ngày
26 -7 -1920, thư nêu rõ giai cấp tư sản thế giới đóng vai trò là “tên sen đầm quốc
tế phản động”. Điều này đòi hỏi giai cấp công nhân Pháp phải đấu tranh mạnh
mẽ, song tình hình nội bộ của Đảng Xã hội Pháp lại thiếu nhất trí, thiếu đoàn kết
chống chủ nghĩa đế quốc. Những hoạt động sôi nổi của Nguyễn Ái Quốc chứng
tỏ Người đã ý thức và quyết tâm gia nhập phong trào công nhân các nước tư bản
(Pháp, Mỹ), liên kết phong trào cách mạng thế giới với cuộc đấu tranh cho việc
Đảng Xã hội Pháp gia nhập Quốc tế Cộng sản. Những hoạt động này thể hiện sự
trưởng thành của Người về nhận thức chính trị, sự chuyển biến về tư tưởng,
nhưng không xa rời mục tiêu độc lập cho dân tộc Việt Nam.
Đánh dấu bước chuyển biến quan trọng trong tư tương của Nguyễn Ái Quốc
về mối quan hệ giữa cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc với phong trào cộng sản
quốc tế là quan điểm của Người được trình bày trong Đại hội lần thứ XVIII của
Đảng Xã hội Pháp, khai mạc ngày 25 -12 -1920 tại thành phố Tua. Nguyễn Ái
Quốc là người dân thuộc địa duy nhất trong đoàn đại biểu các đảng bộ thuộc địa
gồm 8 người (7 đại khác của các thuộc địa đều là người Pháp). Nguyễn Ái
Quốc đã bỏ phiếu tán thành Đảng Xã hội Pháp gia nhập Quốc tế Cộng sản. Trả
lời câu hỏi của người bạn Pháp, Rôdơ, Thư ký đại hội: "Thế thì tại sao đồng chí
lại bỏ phiếu cho Đệ tam Quốc tế”, Nguyễn Ái Quốc trả lời rằng, Đệ tam Quốc tế
rất chú ý đến vấn đề giải phóng dân tộc thuộc địa, điều đó giúp cho các dân tộc
bị áp bức giành lại tự do và độc lập. Rõ ràng, quyết định của Nguyễn Ái Quốc
nêu trên có quan hệ đến việc nhận thức mục tiêu cứu nước của Người trên một
cơ sở lý luận mới, thể hiện tri thức uyên bác và kin nghiệm thực tiễn được tích
lũy trong 10 năm qua, khi đi tìm con đường cứu nước cho dân tộc. Việc quyết
định gia nhập Quốc tế Cộng sản là một quá trình đấu tranh trong Đảng Xã hội
Pháp và trở nên gay gắt trong Đại hội này. Nguyễn Ái Quốc đã thẳng thắn đấu
tranh chống chủ nghĩa cơ hội, phê phán chủ nghĩa nghị trường về các vấn đề
thuộc địa và bảo vệ nguyên tắc: giai cấp công nhân chính quốc phải ủng hộ
phong trào giải phóng dân tộc ở các thuộc địa. Trong những ngày dự Đại hội
Tua, Nguyễn Ái Quốc đã gặp gỡ Clara Detkin, nữ chiến sĩ cách mạng nổi tiếng
của Đức, uỷ viên Ban Thường vụ Quốc tế Cộng sản, được cử dự Đại hội Đảng
Xã hội Pháp. Những lời phát biểu sôi nổi của bà ở hội trường, ý kiến trong các
cuộc gặp gỡ làm cho Nguyễn Ái Quốc sáng tỏ thêm về vấn đề chủ nghĩa
"Uynxơn", chủ nghĩa cơ hội và chiến lược cách mạng vô sản. Sau khi đã bỏ
phiếu quyết định Đảng Xã hội Pháp gia nhập Quốc tế thứ III, Phân bộ Pháp của
Quốc tế Cộng sản được thành lập mà Nguyễn Ái Quốc là thành viên. Như vậy,
Người đã trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên, một trong những người
sáng lập Đảng Cộng sản Pháp.
Năm 1911, Nguyễn Tất Thành ra đi với lòng nồng nàn yêu nước, năm 1920
bắt gặp chủ nghĩa Mác - Lênin, trở thành người cộng sản, chiến sĩ quốc tế xuất
sắc, Người đã tìm thấy con đưòng cứu nước, giải phóng dân tộc duy nhất đúng
cho dân tộc Viêt Nam. Lần đầu tiên Nguyễn Ái Quốc trình bày con đưòng giải
phóng dân tộc Việt Nam trong tác phẩm Đường Cách mệnh. Nguyễn Ái Quốc
chỉ rõ cách mạng Pháp cũng giống như cách mạng Mỹ là cách mạng tư sản, cách
mạng không đến nơi. Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mạng Nga là đã thành
công và thành công đến nơi. Cách mạng Việt Nam muốn thành công chớ nên
theo cách mạng Pháp, cách mạng Mỹ mà phải theo Cách mạng Tháng Mười.
Người khẳng định: “Giai cấp công nhân Việt Nam đã đem ánh sáng Cách mạng
Tháng Mười soi tỏ cho con đưòng cách mạng Việt Nam”.
2.2 Sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào xác định con đường
cách mạng giải phóng dân tộc của Nguyễn Ái Quốc
Trước hết, Chủ tịch Nguyễn Ái Quốc đã vận dụng một cách sáng tạo lý luận
về cách mạng vô sản của chủ nghĩa Mác-Lênin vào cuộc cách mạng giải phóng
dân tộc ở Việt Nam.
C.Mác nghiên cứu CNTB trong điều kiện tự do cạnh tranh cho rằng: Cách
mạng vô sản sẽ nổ ra và giành thắng lợi ở những nước tư bản phát triển. Kế thừa
và phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác trong thời đại CNTB chuyển sang giai
đoạn đế quốc chủ nghĩa, V.I.Lênin khẳng định: Cách mạng vô sản có thể nổ ra
và thắng lợi ở một số nước, thậm chí là một nước riêng lẻ của chủ nghĩa đế quốc
(một mắt xích trong sợi dây chuyền). Thời V.I.Lênin, cách mạng giải phóng dân
tộc đã trở thành một bộ phận của cách mạng vô sản và ông cho rằng cuộc đấu
tranh của giai cấp vô sản ở chính quốc cần phải liên minh với cuộc đấu tranh của
các dân tộc bị áp bức ở các thuộc địa. Trên góc độ của người thuộc địa, dân tộc
bị áp bức, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Muốn cứu nước và giải phóng dân
tộc không còn con đường nào khác con đường cách mạng vô sản. Tuy nhiên,
cuộc cách mạng vô sản ở đây không phải chỉ là cuộc đấu tranh giai cấp mà là
cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân một
phạm trù của cách mạng vô sản. Bởi vì mâu thuẫn chủ yếu của Việt Nam lúc bấy
giờ là mâu thuẩn giữa dân tộc Việt Nam với chủ nghĩa thực dân Pháp. Điều này
hoàn toàn phù hợp với tình hình thực tiễn của cách mạng Việt Nam. Đây chính là
sự vận dụng một cách tài tình, sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh
cách mạng Việt Nam.
Hai là, Nguyễn Ái Quốc đã vận dụng một cách sáng tạo lý luận về cách mạng
không ngừng của chủ nghĩa Mác-Lênin trong việc đề ra đường lối của cách
mạng Việt Nam.
Ngay trong Cương lĩnh 1930 do Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo đã khẳng
định: Làm tư sản dân quyền, cách mạng và thổ địa cách mạng rồi đi tới xã hội
cộng sản. Điều đó có nghĩa là sau khi làm xong tư sản dân quyền cách mạng
đánh đổ thực dân Pháp xâm lược đem lại độc lập dân tộc. Làm thổ địa cách
mạng là đánh đổ bọn phong kiến, địa chủ đem lại ruộng đất cho dân cày (sau này
cả hai cuộc cách mạng cùng tiến hành song song ấy chúng ta gọi đó là cuộc cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân) là đi lên CNXH tức là đi vào giai đoạn đầu của
hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Đây là điều hoàn toàn phù hợp với
yêu cầu của cách mạng Việt Nam mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng một
cách sáng tạo lý luận về cách mạng không ngừng của chủ nghĩa Mác-Lênin trong
việc đề ra đường lối của cách mạng Việt Nam.
Ba là, Vận dụng một cách sáng tạo tư tưởng liên minh công - nông của chủ
nghĩa Mác-Lênin vào thực tiễn tình hình của cách mạng Việt Nam. Sau khi Công
xã Pari thất bại mà nguyên nhân chính là chưa thực hiện tốt liên minh công nông, C.Mác từng khẳng định: Cách mạng vô sản là bài đồng ca của hai giai
cấp công nhân và nông dân. Nếu không có bài đồng ca này thì bài đơn ca ở các
quốc gia nông dân sẽ là bài ai điếu. Do vậy, trong các cuộc đấu tranh này, giai
cấp công nhân luôn đơn độc và các cuộc cách mạng vô sản này đã trở thành "bài
ca ai điếu". Điều đó đã lý giải một cách khoa học về vị trí và tầm quan trọng của
vấn đề liên minh công - nông trong cuộc cách mạng vô sản. Ngay cả trong
chuyên chính vô sản, V.I.Lênin khẳng định: "Chuyên chính vô sản là một hình