Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

TIỂU LUẬN TÍNH đặc THÙ của QUY LUẬT HÌNH THÀNH ĐẢNG CỘNG sản VIỆT NAM ý NGHĨA đối với CÔNG tác xây DỰNG ĐẢNG HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.87 KB, 23 trang )

Tính đặc thù quy luật hình thành đảng cộng sản việt nam, ý
nghĩa đối với công tác xây dựng đảng hiện nay
---  --Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử cách
mạng Việt Nam; chấm dứt thời kỳ khủng hoảng, bế tắc về đường lối cứu nước
suốt hơn hai phần ba thế kỷ, kể từ khi đế quốc Pháp xâm lược nước ta. Đảng
Cộng sản Việt Nam ra đời với đường lối đúng đắn là điều kiện cơ bản, có ý
nghĩa quyết định đối với tồn bộ tiến trình phát triển của cách mạng Việt Nam
từ đó đến nay và mãi mãi về sau, đảm bảo cho những thắng lợi oanh liệt và
những bước nhảy vọt lớn trong lịch sử phát triển của dân tộc ta. Đảng Cộng
sản Việt Nam ra đời khẳng định rõ vai trị to lớn của giai cấp cơng nhân đối
với cách mạng Việt Nam; mở ra một thời đại mới trong lịch sử dân tộc Việt
Nam, đó là thời đại mà giai cấp công nhân Việt Nam đứng lên vũ đài chính
trị; là giai cấp trung tâm, đồn kết, kết hợp các trào lưu cách mạng, là giai cấp
quyết định nội dung và phương hướng phát triển của xã hội Việt Nam. Đồng
thời đây cũng là thời đại nhân dân Việt Nam làm ra lịch sử một cách tự giác
và có tổ chức; là thời đại nhân dân Việt Nam tham gia vào sự nghiệp giải
phóng lồi người khỏi mọi chế độ áp bức và bóc lột. Đảng Cộng sản Việt
Nam ra đời còn là trung tâm kết hợp các nhân tố giai cấp, dân tộc quốc tế, tạo
thành sức mạnh tổng hợp của cách mạng để giành thắng lợi, đưa cách mạng
Việt Nam trở thành một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời còn là sản phẩm của sự kết hợp giữa
điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan, về vai trị và cơng lao to lớn của
lãnh tụ Nguyễn ái Quốc trong việc chuẩn bị tích cực về chính trị, tư tưởng
và tổ chức, để Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Đồng thời đây cũng là quá
trình lãnh tụ Nguyễn ái Quốc đã vận dụng sáng tạo quan điểm, lý luận của
học thuyết Mác- Lênin về xây dựng đảng vào một nước thuộc địa nửa phong


kiến; một mặt tuân thủ theo quy luật phổ biến về sự ra đời của Đảng Cộng
sản trên thế giới nói chung, nhưng mặt khác có bước phát triển mới về mặt lý
luận về sự ra đời của Đảng cộng sản ở nước thuộc địa nửa phong kiến và điều


đó cũng nói lên tính đặc thù trong quy luật hình thành Đảng Cộng sản Việt
Nam mà hiếm có quốc gia nào trên thế giới có được tính đặc thù đó. Sự ra
đời của Đảng Cộng sản Việt Nam nó khơng những tuân thủ đúng theo quy
luật phổ biến mà qua đó cịn có ý nghĩa to lớn là làm phong phú kho tàng lý
luận Mác – Lênin về xây dựng Đảng, ở nước thuộc địa nửa phong kiến. Tuy
nhiên bên cạnh những mặt tích cực đó cũng đã và đang đặt ra những yêu cầu
mới trong công tác xây dựng Đảng ở nước ta qua các giai đoạn lịch sử cách
mạng Đặc biệt trong sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại
hố đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay.
1. Quy luật ra đời của chớnh Đảng vụ sản và tớnh đặc thự trong
quy luật hỡnh thành Đảng Cộng sản Việt Nam
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa
Mác- Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Sự
ra đời của Cộng sản Việt Nam vừa tuân thủ quy luật phổ biến đối với các
Đảng Cộng sản và công nhân, vừa phản ánh tính đặc thù của xã hội Việt
Nam, một xã hội thuộc địa nửa phong kiến.
Quy luật chung về sự ra đời của Đảng cộng sản là sự kết hợp giữa chủ nghĩa
xã hội khoa học với phong trào cơng nhân. Quy luật đó được C.Mác Ph.Ăngghen đặt nền móng đã được V.I.Lênin kế thừa và phát triển sáng tạo
trên cơ sở thực tiễn cách mạng Nga: “ Đảng dân chủ – xã hội là sự kết hợp
phong trào công nhân với chủ nghĩa xã hội” 1. Đảng Bơn- sê- vích Nga ra đời
phản ánh quy luật chung về sự hình thành Đảng cộng sản ở một nước tư bản
đã phát triển đến một trình độ nhất định. Chủ nghĩa Mác- Lênin kết hợp với
phong trào công nhân là đòi hỏi tất yếu khách quan của lịch sử. Chủ nghĩa
Mác- Lênin nếu không kết hợp với phong trào đấu tranh của giai cấp cơng
1

Lênin, Tồn tập, tập 4, bản tiếng Việt. Nxb Tiến bộ, Matxcơ va, 1978, tr470.

2



nhân thì chỉ là ước vọng tốt lành, chưa thể có tác dụng đối với đời sống thực
tế, cũng như không thể trở thành sức mạnh vật chất để cải tạo thế giới hiện
thực, và đúng như V.I.Lênin đã chỉ ra rằng: các học thuyết của những người xã
hội chủ nghĩa khơng kết hợp với các cuộc đấu tranh thì chỉ là những không
tưởng, những ước vọng tốt lành không có tác dụng gì đối với đời sống thực tế
cả.
Chủ nghĩa Mác- Lênin chỉ có thâm nhập vào phong trào công nhân
mới tạo ra được lực lượng xã hội để thực hiện những nguyên lý, lý luận cách
mạng khoa học trong cuộc sống và qua đó tiếp tục phát triển sáng tạo không
ngừng, trong thực tiễn của xã hội. Ngược lại, phong trào cơng nhân nếu
khơng có lý luận tiền phong soi đường thì cũng chỉ dừng lại ở chủ nghĩa công
liên, chỉ là giai đoạn đấu tranh tự phát, mù qng khơng có hiệu quả, đấu
tranh vì lợi ích kinh tế, vụn vặt, cục bộ thường ngày của giai cấp vô sản
chống lại giai cấp tư sản mà thôi. Những cuộc đấu tranh đó khơng có ý nghĩa
làm xoay chuyển địa vị kinh tế- chính trị của giai cấp vơ sản; giai cấp vơ sản
khơng có đủ sức mạnh để hồn thành sứ mệnh lịch sử của mình trong cuộc
đấu tranh chống giai cấp tư sản. Chỉ có sự kết hợp giữa chủ nghĩa MácLênin với phong trào công nhân thì mới tạo ra cơ sở vững chắc cho giai cấp
công nhân xây dựng một bộ tham mưu chiến đấu trong sự nghiệp đấu tranh
giải phóng giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động. Với một Đảng cộng sản
vững mạnh về lý luận khoa học, mạnh về cơ sở quần chúng, và về lực lượng
chiến đấu cách mạng. Hơn thế chính sự kết hợp đó đã khơng những hình thành
lên chính Đảng tiền phong của giai cấp cơng nhân mà cịn đưa cuộc đấu tranh
của giai cấp cơng nhân lên tầm cao mới; làm biến đổi về chất của cuộc đấu
tranh giữa giai cấp công nhân với giai cấp tư sản; từ cuộc đấu tranh tự phát trở
thành đấu tranh tự giác trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp
và nhân loại.
Trong khi nêu ra quy luật phổ biến của phong trào cộng sản và công
nhân quốc tế, V.I.Lênin đặc biệt chú ý đến điều kiện lịch sử cụ thể của mỗi
3



nước trong xu thế vận động chung của thời đại, Người chỉ rõ: “….trong mỗi
nước, sự kết hợp ấy lại là một sản phẩm của lịch sử, lại được thực hiện bằng
những con đường đặc biệt, tuỳ theo điều kiện không gian và thời gian” 2. Như
vậy trong quy luật chung hình thành Đảng, V.I.Lênin đã chỉ rõ: về con đường
cách thức và những điều kiện không gian, thời gian để hình thành đảng cộng
sản của mỗi nước là khác nhau, tuỳ theo điều kiện cụ thể của mỗi nước. Đảng
Cộng sản Việt Nam ra đời là một quá trình vận động hợp quy luật ở một nước
thuộc địa nửa phong kiến và điều đó đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh khái
qt quy luật hình thành Đảng Cộng sản Đông Dương là: “ Chủ nghĩa MácLênin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã dẫn tới
việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam vào đầu năm 1930” 3; nhân kỷ niệm
30 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3/ 2/1930 – 3/ 2/1960 ).
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam vừa tuân thủ quy luật phổ biến
về sự ra đời của Đảng cộng sản và công nhân quốc tế, vừa phản ánh tính đặc
thù quy luật hình thành Đảng Cộng sản Việt Nam ở một nước thuộc địa nửa
phong kiến. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm lịch sử đặc thù ở
một nước thuộc địa nửa phong kiến, là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa
Mác- Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam,
trong những năm đầu thế kỷ XX. Bởi lẽ lúc này phương thức thống trị của
chủ nghĩa tư bản- thực dân Pháp đã bao trùm lên đất nước ta và đã làm sản
sinh ra giai cấp công nhân Việt Nam. Giai cấp công nhân Việt Nam lúc này
vừa là nơ lệ của chủ nghĩa tư bản nước ngồi, vừa là nô lệ của ách thống trị
áp bức chủ nghĩa đế quốc thực dân và bè lũ phong kiến tay sai. Do đó khi mà
lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin thâm nhập vào phong trào cơng nhân nó đã
làm chuyển biến mạnh mẽ phong trào, làm thay đổi về chất của phong trào;
từ cuộc đấu tranh khơng có phương hướng, mục tiêu rõ ràng, mang tính bột
phát, nay được lý luận tiền phong dẫn đường; nó đã nhanh chóng tiếp thu như
2


Lênin, Tồn tập, tập 4, bản tiếng Việt. Nxb Tiến bộ, Matxcơ va, 1978, tr471
Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, H.2002, tr.8.

3.
3

4


lẽ tự nhiên, tất yếu của lịch sử; từ cuộc đấu tranh tự phát biến thành tự giác,
đấu tranh có mục đích, có mục tiêu của giai cấp cơng nhân với giai cấp tư sản
nhằm bảo vệ quyền lợi cũng như lợi ích chính đáng của giai cấp cơng nhân
và nhân dân lao động trong xã hội.
Tuy vậy, ở Việt Nam q trình đó mang tính đặc thù lịch sử là: Chủ
nghĩa Mác- Lênin không chỉ thâm nhập vào một bộ phận công nhân và không
phải chỉ chiếm ưu thế so với ảnh hưởng các tư tưởng khác đối với giai cấp
công nhân, mà là hệ tư tưởng duy nhất lãnh đạo tồn bộ phong trào cơng
nhân. Tính đặc thù này cịn bắt nguồn từ hồn cảnh lịch sử ra đời của giai cấp
công nhân Việt Nam. Tuy giai cấp công nhân Việt Nam ra đời muộn hơn so
với giai cấp công nhân quốc tế, nhưng giai cấp công nhân Việt Nam khơng
những chỉ mang trong mình đầy đủ những bản chất cách mạng triệt để của
giai cấp công nhân quốc tế: là giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiên
tiến, có hệ tư tưởng độc lập, có ý thức tổ chức kỷ luật cao, có tinh thần cách
mạng triệt để, có tính quốc tế rộng lớn, mà cịn có những đặc điểm riêng biệt
của giai cấp cơng nhân Việt Nam. Tính chất, đặc điểm riêng có của giai cấp
công nhân Việt Nam không những giữ vững được bản chất giai cấp cơng
nhân quốc tế mà cịn làm tăng tính cách của giai cấp cơng nhân Việt Nam,
tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lênin cũng như kết
hợp chặt chẽ với phong trào yêu nước Việt Nam, để Đảng Cộng sản Việt
Nam ra đời như một tất yếu lịch sử, đúng với quy luật chung nhưng là vừa

thể hiện tính đặc thù trong một nước thuộc địa nửa phong kiến.
Thực tiễn cho thấy đặc điểm riêng của giai cấp công nhân Việt Nam là
ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc, không chịu ảnh hưởng của giai cấp tư sản
dân tộc; giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trong một nước thuộc địa nửa
phong kiến bị ba tầng áp bức bóc lột đó là: giai cấp tư sản dân tộc, giai cấp
địa chủ phong kiến và bọn đế quốc thực dân. Khi mới ra đời giai cấp công
nhân Việt Nam đã tham ra ngay vào cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và
giải phóng giai cấp và có ngay nhu cầu cấp bách phải có lý luận tiền phong
5


dẫn đường cho cuộc đấu tranh đó. Bản thân giai cấp cơng nhân Việt Nam
khơng có bộ phận cơng nhân quý tộc để cho bọn thống trị giành cho đặc
quyền, đặc lợi; không bị ảnh hưởng và chia rẽ của quốc tế II. Chủ nghĩa cơ
hội dưới màu sắc không có điều kiện xâm nhập vào phong trào cơng nhân
Việt Nam; giai cấp công nhân Việt Nam sớm, ra đời chưa được bao lâu đã
được giác ngộ, vũ trang lý luận Mác- Lênin để tự tổ chức ra đội tiền phong
của mình lãnh đạo cách mạng Việt Nam; thơng qua vai trị to lớn của lãnh tụ
Nguyễn Quốc truyền bá chủ nghĩa Mác- Lênin . Như vậy sự kết hợp giữa
phong trào công nhân với chủ nghĩa Mác- Lênin là tất yếu khách quan là nhu
cầu bức thiết tự nhiên của lịch sử cách mạng Việt Nam, tạo cơ sở tiền đề cần
thiết, quan trọng để Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời.
Thực tiễn còn cho ta thấy phong trào công nhân Việt Nam ra đời và
phát triển trong lịng một dân tộc anh hùng vốn có truyền thống đấu tranh bất
khuất, kiên cường chống chọi với thiên nhiên khắc nghiệt và chống giặc
ngoại xâm trong suốt chiều dài lịch sử. Một dân tộc có phong trào yêu nước
phát triển mạnh mẽ, rộng khắp; trong điều kiện phong trào cơng nhân quốc tế
có những bước phát triển thuận lợi. Do đó đã tạo những mặt thuận lợi để
phong trào công nhân sớm kết hợp với chủ nghĩa Mác – Lênin, cũng như
sớm có sự kết hợp giữa quốc gia dân tộc với quốc tế; để giai cấp công nhân

Việt Nam nhanh chóng hồ mình vào quỹ đạo chung của cách mạng vô sản
thế giới. Phong trào công nhân Việt Nam thực sự khát khao có được lý luận
tiền phong dẫn đường. Trong khi phong trào công nhân được lãnh tụ Nguyễn
Aí Quốc quan tâm giáo dục và rèn luyện bằng việc tích cực truyền bá chủ
nghĩa Mác- Lênin vào phong trào cơng nhân Việt Nam với những hình thức,
phương pháp hết sức khoa học và sáng tạo. Và chính sự truyền bá chủ nghĩa
Mác – Lênin

vào phong trào công nhân một cách khoa học của lãnh tụ

Nguyễn Aí Quốc đó phong trào cơng nhân đã nhanh chóng tiếp thu và phát
triển mạnh mẽ đối với cách mạng Việt Nam và điều kiện cần thiết, không thể
thiếu được dẫn tới sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam
6


Thực tiễn ở nước ta, chủ nghĩa Mác- Lênin không chỉ thâm nhập vào
phong trào cơng nhân mà cịn thâm nhập vào cả phong trào u nước, và
chính điều đó nó quy định đến tính đặc thù trong quy luật ra đời của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Thực tế cho thấy ngay trong bản thân phong trào công
nhân mục tiêu đấu tranh cho lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc cũng gắn bó
chặt chẽ với nhau. Do những điều kiện lịch sử cụ thể, phong trào cách mạng
Việt Nam sớm bắt gặp xu thế khách quan của độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội. Chủ nghĩa yêu nước chân chính tất yếu dẫn đến kết hợp với chủ
nghĩa xã hội. Mục đích trước mắt cũng như lâu dài của phong trào yêu nước
chân chính là giải quyết triệt để vấn đề dân tộc và dân chủ và vấn đề này chỉ
được giải quyết triệt để trên quan điểm, lập trường cách mạng của giai cấp
công nhân; cách mạng dân tộc và cách mạng dân chủ phải được đặt trong
phạm trù của cách mạng vô sản. Do đó phong trào yêu nước Việt Nam tất yếu
phải kết hợp với chủ nghĩa Mác- Lênin.

Mặt khác bản thân phong trào yêu nước ở Việt Nam có nhiều điều kiện
thuận lợi để vươn lên tiếp thu lý luận tiền phong thời đại mới, để cùng thực
hiện mục tiêu chung đấu tranh chống đế quốc và phong kiến tay sai giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp; giành độc lập dân tộc và ruộng đất cho
dân cày. Phong trào yêu nước Việt Nam nó xuất phát từ hồn cảnh lịch sử ra
đời từ một nước thuộc địa nửa phong kiến, kinh tế lạc hậu, giai cấp nông công
nhân nhỏ bé, giai cấp nông dân chiếm trên 90%. Phong trào yêu nước Việt
Nam chưa bao giờ chịu sự lãnh đạo của giai cấp tư sản dân tộc. Trải qua thực
tiễn hơn 6 thập kỷ đấu tranh của phong trào Cần Vương và phong trào dân
chủ tư sản nhiều gian khổ hy sinh nhưng liên tiếp kết cục thất bại đẫm máu
không mang lại độc lập dân tộc, dân chủ; điều đó đã đưa dân tộc Việt Nam đi
đến khẳng định chân lý: Muốn cứu nước giải phóng dân tộc khơng có con
đường nào khác con đường cách mạng vô sản. Người yêu nước đầu tiên khám
phá ra chân lý đanh thép ấy là đồng chí Nguyễn Aí Quốc. Mặt khác chủ
nghĩa xã hội hiện thực đã ra đời ở nước Nga, học thuyết Mác- Lênin cách
7


mạng và khoa học đã soi sáng cho hiện thực đó nên chủ nghĩa Mác- Lênin có
sức hấp dẫn mạnh mẽ đối với phong trào yêu nước Việt Nam trở thành nhu
cầu khát khao của phong trào yêu nước Việt Nam. Hơn nữa trong xã hội Việt
Nam phong trào công nhân Việt Nam đang trở thành lực lượng cách mạng
nòng cốt của phong trào dân tộc. Phong trào yêu nước đã nhanh chóng trở
thành phong trào mạnh mẽ đi theo con đường cách mạng vô sản, giương cao
cho ngọn cờ đấu tranh cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, nhằm thực
hiện mục tiêu chung vấn đề dân tộc và và vấn đề dân chủ; và điều đó quy
định tính đặc thù quy luật hình thành Đảng Cộng sản Việt Nam.
Sự kết hợp chủ nghĩa Mác- Lênin với phong trào công nhân và phong
trào yêu nước dần dần trở thành hiện thực khi đồng chí Nguyễn Aí Quốc và
những học trò đầu tiên của Người truyền bá lý luận cách mạng khoa học vào

Việt Nam. Ngược lại; sự kết hợp này chỉ trở thành hiện thực khi mà ở Việt
Nam phong trào yêu nước và phong trào công nhân xuất hiện và từng bước
phát triển và ngày càng có nhu cầu nóng bỏng hướng tới tiếp thu chủ nghĩa
Mác- Lênin; nó trở thành mối quan hệ khăng khít với nhau và là cơ sở vật
chất để chủ nghĩa Mác- Lênin thâm nhập vào. Sự kết hợp chủ nghĩa MácLênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước diễn ra theo một quá
trình kết hợp rất tự nhiên rất gắn bó. Cả hai phong trào vốn có mối liên hệ tự
nhiên gắn bó với nhau trong quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc, bởi cùng
chung kẻ thù là bọn đế quốc, tư sản mại bản và phong kiến tay sai chúng cấu
kết chặt chẽ với nhau; mà trong đó đế quốc và phong kiến vừa là kẻ thù của
dân tộc, vừa là kẻ thù của giai cấp cơng nhân. Do đó cần phải tập trung đánh
đổ và phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam đều có chung
mục tiêu trước mắt là độc lập cho dân tộc, dân chủ cho nhân dân; độc lập dân
tộc và dân chủ là mục tiêu trực tiếp của phong trào yêu nước, song nó lại là
điều kiện tiên quyết để tiến lên chủ nghĩa xã hội, xoá bỏ mọi sự bất bình đẳng
trong xã hội. Chính vì vậy cả hai phong trào đều khao khát với độc lập tự do
và phải tìm đến chủ nghĩa Mác- Lênin như một tất yếu lịch sử. Phong trào
8


công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam là cơ sở vật chất xã hội để
truyền bá lý luận cách mạng khoa học của chủ nghĩa Mác- Lênin vào cho sự
ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.; tạo lên tính phổ biến và đặc thù trong
quy luật hình thành Đảng ở nước ta.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp
giữa chủ nghĩa Mác- Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu
nướcViệt Nam. Sự kết hợp đó là kết quả tất yếu của sự vận động phát triển
của lịch sử cách mạng Việt Nam, đây cũng chính là quá trình vận động hợp
quy luật ở một nước thuộc địa nửa phong kiến, trong đó đồng chí Nguyễn
Quốc là người có vai trị to lớn tác động vào q trình vận động đó cũng như
trong việc tích cực chuẩn bị mọi mặt về chính trị, tư tưởng và tổ chức tạo tiền

đề thúc đẩy sự vận động chín muồi của lịch sử để Đảng Cộng sản Việt Nam
ra đời. Đặc biệt từ việc nắm bắt quy luật chung hình thành Đảng Cộng sản mà
chủ nghĩa Mác- Lênin chỉ ra, lãnh tụ Nguyễn Aí Quốc đã vận dụng linh hoạt
và sáng tạo trong điều kiện hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam để rồi Đảng Cộng
sản Việt Nam ra đời khơng những tn theo quy luật phổ biến mà cịn mang
tính đặc thù của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời
đã phát huy tốt vai trị sứ mệnh lịch sử của mình trong cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng nhân loại. Đặc biệt lãnh đạo
cách mạng Việt Nam liên tiếp giành thắng lợi viết nên những trang sử hào
hùng vẻ vang của Đảng hơn 70 năm qua cũng như trong tình hình thực tiễn
hiện nay Đảng ta ln phát huy tốt vai trị to lớn đó tiếp tục đưa sự nghiệp
cách mạng nước ta đi đến thắng lợi hồn tồn.
2.í nghĩa đối với cụng tỏc xõy dựng Đảng trong sự nghiệp đổi mới ở
nước ta hiện nay
Sự kết hợp chủ nghĩa Mác- Lênin với phong trào công nhân và phong
trào yêu nước dẫn tới sự ra đời của Đảng Cộng sản của nước ta, đây là bước
ngoặt có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với phong trào cách mạng Việt Nam.
Sự kết hợp đó cịn tác động thường xuyên đến quá trình xây dựng và củng cố
9


Đảng ta. Đảng ta thường xuyên kết hợp được cuộc đấu tranh dân tộc và đấu
tranh giai cấp dưới ngọn cờ của chủ nghĩa Mác- Lênin đã tạo nên sức mạnh to
lớn của cách mạng nước ta trong các giai đoạn lịch sử cách mạng.
Trong suốt quá trình tồn tại và phát triển của Đảng, Đảng Cộng sản
Việt Nam luôn luôn vững vàng kiên định thực hiện được khối đại đoàn kết
toàn dân tộc trên lập trường quan điểm của giai cấp cơng nhân, giải quyết hài
hồ các lợi ích giai cấp và dân tộc, tránh được nguy cơ cô lập, biệt phái và sai
lầm thoả hiệp vô nguyên tắc. Đảng sớm trở thành đại biểu, đại diện cho quyền
lợi của giai cấp và của toàn thể quốc gia dân tộc Việt Nam, nhưng vẫn mang

trong mình đầy đủ bản chất cách mạng triệt để của giai cấp công nhân Việt
Nam và giai cấp công nhân quốc tế.
Tuy vậy trong quá trình hình thành và phát triển của Đảng cũng đã và
đang bộc lộ những hạn chế, tồn tại cần phải khắc phục trong Đảng. Trước hết
trong trình độ nhận thức lý luận Mác- Lênin của Đảng còn hạn chế, Đảng
không tránh khỏi lúc này hay lúc khác mắc khuyết điểm tả khuynh hay hữu
khuynh, ảnh hưởng của chủ nghĩa giáo điều, chủ nghĩa kinh nghiệm. Mặc
khác thành phần giai cấp cơng nhân trong Đảng ít, ngược lại thành phần phi
vô sản chiếm số đông, thành phần xuất thân vào Đảng phần đơng là giai cấp
nơng dân; trình độ hạn chế, tư tưởng, tâm lý tập quán còn bám dễ ăn sâu trong
số ít trong đảng viên. Đội ngũ đảng viên giác ngộ lập trường giai cấp công
nhân bị hạn chế và dễ mắc phải những sai lầm trái với phẩm chất, đạo đức
mới, ảnh hưởng không nhỏ trong xây dựng củng cố Đảng trong từng giai đoạn
cách mạng.
Để Đảng ta luôn đáp ứng yêu cầu với sự phát triển của tình hình cách
mạng trong điều kiện mới; vấn đề cốt tử để xây dựng củng cố Đảng vững
mạnh là Đảng phải luôn luôn giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp cơng
nhân và tính tiền phong của Đảng đây cũng chính là vấn đề có tính ngun tắc
trong công tác xây dựng Đảng. Mặt khác trên cơ sở quán triệt những nguyên
lý về Đảng kiểu mới của V.I.Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đảng.
10


Đảng phải thường xuyên chăm lo xây dựng, củng cố Đảng vững mạnh mọi
mặt: về chính trị, tư tưởng và tổ chức, và ba mặt này phải thống nhất chặt chẽ
với nhau trong tổ chức thực hiện.
Về chính trị, phải thường xuyên chăm lo xây dựng phát triển hoàn thiện
đường lối, nâng cao sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo thực tiễn của Đảng.
Đường lối chính trị là sinh mệnh chính trị của Đảng, phải biểu hiện tập trung
thống nhất về mặt ý chí và hành động, lập trường quan điểm của giai cấp công

nhân. Muốn vậy phải vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh vào điều kiện thực tiễn cụ thể của cách mạng Việt Nam để đề ra
đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn, chống mọi biểu hiện của chủ
nghĩa giáo điều, chủ nghĩa cơ hội.
Về mặt tư tưởng, phải thường xuyên coi trọng công tác giáo dục chủ
nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Phải lấy lý luận chủ nghĩa MácLênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho
mọi hoạt động của Đảng. Thường xuyên giáo dục chủ nghĩa yêu nước chân
chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân. Đây là cơ sở
tư tưởng lý luận đảm bảo cho Đảng luôn luôn giữ vững bản chất giai cấp cơng
nhân và tính tiền phong của Đảng, là vũ khí tư tưởng sắc bén chống lại những
quan điểm cơ hội mọi màu sắc làm suy yếu biến chất của Đảng.
Xây dựng Đảng vững mạnh về tổ chức, là phải luôn xây dựng, củng cố
Đảng theo nguyên lý xây dựng đảng kiểu mới của V.I.Lênin, đặc biệt là thực
hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ trong lãnh đạo và sinh hoạt đảng. Tăng
cường giáo dục nâng cao bản chất giai cấp công nhân của Đảng, nắm vững
các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt đảng. Trong công tác phát triển đảng phải
luôn nắm vững phương hướng giai cấp và tiêu chuẩn kết nạp đảng viên, tăng
cường thành phần giai cấp công nhân trong Đảng, đồng thời chú ý quan tâm
đến những ngưòi ưu tú trong giai cấp nơng dân, tầng lớp trí thức và các thành
phần lao động khác. Những biểu hiện thành phần chủ nghĩa hoặc xa rời tiêu
chuẩn về phát triển Đảng đều dẫn đến làm suy yếu tổ chức Đảng.
11


Nghiên cứu, quán triệt và nắm vững tính chất đặc thù của quá trình
hình thành Đảng Cộng sản Việt Nam là cơ sở để Đảng xác định những nội
dung, yêu cầu, biện pháp trong công tác xây dựng Đảng cho phù hợp với từng
giai đoạn lịch sử cách mạng. Để xứng đáng với vai trò tiền phong của lực
lượng lãnh đạo cách mạng; qua các kỳ Đại hội Đảng, Đảng ta luôn đề ra các
giải pháp cụ thể, thiết thực trong cơng tác xây dựng Đảng. Đặc biệt trong đó

xác định rõ những mặt công tác chủ yếu, quan trọng cần tập trung lãnh đạo,
chỉ đạo cho phù hợp đối với từng nhiệm kỳ cũng như trong từng giai đoạn cụ
thể của cách mạng.
Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Đảng ta đề ra nhiều nội
dung quan trọng trong cơng tác xây dựng Đảng, nhưng trong đó Đảng ta một
lần nữa nhấn mạnh đến nguyên tắc tập chung dân chủ là xuất phát từ kinh
nghiệm lịch sử, và từ thực tiễn củng cố xây dựng Đảng. Nguyên tắc tập trung
dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng là cơ sở để phân biệt chính
Đảng của giai cấp công nhân với các đảng phái khác. Xa rời hoặc từ bỏ
nguyên tắc tập trung dân chủ không tránh khỏi biến Đảng thành một thứ câu
lạc bộ mở đường cho chủ nghĩa cơ hội, bè phái, vô chính phủ phát triển dẫn
đến làm tan dã Đảng. Chính vì vậy, trong sự nghiệp đổi mới để đưa đất nước ra
khỏi khủng hoảng kinh tế- xã hội, phát triển đất nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII và Hội nghị Ban Chấp hành
Trung ương 3 ( khoá VII) của Đảng đã chỉ rõ: phải đổi mới tổ chức và phương
thức hoạt động của Đảng, nâng cao chất lượng đảng viên… đặc biệt tránh các
nguy cơ sai lầm về đường lối và vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ.
Mặt khác trên cơ sở tổng kết những thành tựu và khuyết điểm công tác
xây dựng Đảng trong công cuộc đổi mới cũng như trong thực hiện đường lối
Đại hội VII. Để thực hiện thắng lợi những mục tiêu và nhiệm vụ mà Đại hội
VIII đề ra trong công tác xây dựng Đảng, Đảng ta xác định rõ: phải tiếp tục
tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao hơn nữa sức chiến đấu và năng lực lãnh
đạo của Đảng, khắc phục cho được những khuyết điểm và yếu kém. Trong đó
12


phải thường xuyên nắm vững và tập trung làm tốt những vấn đề cơ bản như :
Phải giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng; coi đây
là điểm xuyên suốt có ý nghĩa quan trọng hàng đầu với công tác xây dựng
Đảng. Để giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng.

Đảng ta xác định những vấn đề cơ bản là, phải kiên định mục tiêu độc lập và
chủ nghĩa xã hội trong quá trình đổi mới. Kiên định chủ nghĩa Mác- Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của
Đảng và của cách mạng nước ta. Gĩư vững nguyên tắc tập trung dân chủ trong
tổ chức và sinh hoạt Đảng. Thường xuyên giáo dục, bồi dưỡng lập trường,
quan điểm, ý thức tổ chức của giai cấp công nhân; xây dựng đội ngũ cán bộ
và đảng viên theo quan điểm của giai cấp công nhân. Củng cố mối quan hệ
mật thiết với nhân dân, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân. Kết hợp chủ
nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp cơng
nhân. Đó là những vấn đề cơ bản để giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp
công nhân Việt Nam mà Đại hội VIII của Đảng xác định. Đặc biệt hơn thấy
rõ vai trị của giai cấp cơng nhân Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh cơng
nghiệp hố, hiện đại hố hiện nay. Nghị quyết Trung ương 6 khoá X của
Đảng đã xác định rõ những quan điểm chỉ đạo phát triển giai cấp công nhân
Việt Nam trên những vấn đề cơ bản sau: phải kiên định quan điểm giai cấp
công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng
Cộng sản Việt Nam. Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh phải gắn kết hữu
cơ với xây dựng, phát huy sức mạnh của liên minh giai cấp công nhân với giai
cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng, của tất cả các
giai cấp, các tầng lớp xã hội; đồng thời tăng cường quan hệ đoàn kết, hợp tác
quốc tế với giai cấp cơng nhân trên tồn trên tồn thế giới. Chiến lựoc xây
dựng giai cấp công nhân lớn mạnh phải gắn kết chặt chẽ với chiến lược phát
triển kinh tế- xã hội, cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước, hội nhập kinh tế
quốc tế. Đào tạo bồi dưỡng, nâng cao trình độ mọi mặt cho cơng nhân, khơng
ngừng tri thức hố giai cấp cơng nhân là nhiệm vụ chiến lược. Xây dựng giai
13


cấp công nhân lớn mạnh là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của tồn xã
hội và nỗ lực vươn lên của bản thân của mỗi công nhân, sự tham gia đóng góp

tích cực của người sử dụng lao động; trong đó sự lãnh đạo của Đảng và quản
lý của Nhà nước có vai trị quyết định, cơng đồn có vai trị trực tiếp. Như vậy
thấy rõ vai trị to lớn của giai cấp công nhân Việt Nam, một trong những nhân
tố trong quy luật hình thành Đảng. Đại hội VIII của Đảng đã tập trung coi
trọng việc giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân Việt Nam và
được Nghị quyết Trung ương 6 khoá X xác định rõ quan điểm chỉ đạo phát
triển giai cấp cấp cơng nhân Việt Nam cho phù hợp trong tình hình hiện nay.
Mặt khác bên cạnh Đại hội VIII của Đảng xác định nội dung tăng cường bản
chất giai cấp công nhân trong công tác xây dựng Đảng; Đại hội cịn xác định,
phải nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất và năng lực cán bộ, đảng viên.
Thường xuyên củng cố Đảng về tổ chức, thực hiện nghiêm nguyên tắc tập
trung dân chủ. Chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ . Nâng cao sức chiến đấu
của tổ chức cơ sở Đảng. Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của đảng.
Đổi mới công tác kiểm tra và kỷ luật của Đảng. Đó là tồn bộ những mặt
cơng tác cơ bản quan trọng tập trung thực hiện xây dựng Đảng mà Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ VIII xác định để đảm bảo cho Đảng ta luôn đáp ứng
với yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới.
Bước sang giai đoạn mới tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới, đẩy
mạnh sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước. Để thực hiện thắng
lợi đường lối Đại hội IX của Đảng; trên cơ sở bám sát tính đặc thù quy luật
hình thành Đảng; Đảng ta cũng đã xác định rõ những mặt công tác quan trọng
trong công tác xây dựng Đảng như: Thường xuyên tăng cường giáo dục tư
tưởng chính trị, rèn luyện đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân. Tiếp
tục đổi mới công tác cán bộ. Xây dựng, củng cố các tổ chức cơ sở đảng. Kiện
toàn tổ chức, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Đó là tồn bộ những
mặt cơng tác chủ yếu tập trung trong công tác xây dựng Đảng để nhằm thực

14



hiện thắng lợi đường lối Đại hội IX của Đảng; cũng như đáp ứng yêu cầu lãnh
đạo của Đảng trong tình hình mới.
Trong giai đoạn cách mạng hiện nay khi nước ta bước vào hội nhập
kinh tế quốc tế ngày càng đi vào chiều sâu; trên cơ sở bám sát vào tính đặc
thù trong quy luật hình thành Đảng để không ngừng giữ vững và tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng Việt Nam trong giai đoạn cách mạng
mới cũng như để thực hiện thắng lợi đường lối Đại hội X của Đảng; Đảng ta
luôn xác định rõ: phải thường xuyên chăm lo xây dựng và chỉnh đốn Đảng
vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức; trong đó tập trung vào các
mặt cơng tác chủ yếu là: nâng cao năng lực độc lập, tự chủ, sáng tạo trong
việc hoạch định đường lối cách mạng.
Hoạch định đường lối và chủ trương đúng đắn, đáp ứng đòi hỏi của đất
nước và thời đại là vấn đề quyết định nhất để làm cho Đảng vững mạnh về
chính trị. Đại hội X của Đảng khẳng định: “Nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm
quyền, hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách. Tổ chức thực hiện sáng
tạo, có hiệu quả đường lối”1. Để có đường lối chính trị đúng, Đảng phải phấn
đấu khơng ngừng nâng cao trình độ hiểu biết về học thuyết Mác - Lênin và trình
độ vận dụng sáng tạo học thuyết ấy vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Kinh
nghiệm cho thấy: học tập để hiểu biết được thực chất cách mạng và khoa học của
học thuyết đã là khó, nhưng vận dụng học thuyết phù hợp thực tế xã hội Việt Nam
cịn khó hơn nhiều. Muốn hoạch định đường lối đúng phải xuất phát từ thực tiễn
xã hội Việt Nam, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin để nắm
bắt và giải quyết đúng đắn những vấn đề do cuộc sống đặt ra.
Thực tiễn cho thấy thắng lợi của cách mạng nước ta trong công cuộc cứu
nước, giữ nước và xây dựng đất nước chính là Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã khơng dừng lại ở những ngun lý chung mà luôn luôn bám sát thực tiễn đất
nước, kịp thời phát hiện những vấn đề mới, tìm tịi, nghiên cứu, phát hiện, dự
đốn, phân tích và tìm cách giải quyết những vấn đề cụ thể của mỗi thời kỳ, mỗi
1


ĐCSVN, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H. 2006, tr. 279.

15


địa phương. Đây chính là bài học về tính độc lập, tự chủ, sáng tạo trong việc
hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng. Tính độc lập tự chủ về chính trị địi
hỏi trước tiên phải nắm vững quy luật phổ biến của học thuyết Mác - Lênin. Xa
rời hoặc phủ định những quy luật đó là đưa cách mạng đi chệch hướng. Như V.I.
Lênin đã chỉ rõ: linh hồn sống của chủ nghĩa Mác là phân tích cụ thể mỗi tình
hình cụ thể; vì vậy thực hiện quy luật phổ biến lại phải phù hợp với đặc điểm
nước mình. Đây chính là tư tưởng Hồ Chí Minh - một kho tàng lý luận về vận
dụng và phát triển sáng tạo học thuyết Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể cách
mạng nước ta. Hai mặt đó là thống nhất không thể tách rời. Thắng lợi của cách
mạng là sự kết hợp nhuần nhuyễn cả hai mặt, thất bại và sai lầm là do tách rời hai
mặt đó. V.I.Lênin đã để lại những lời dạy hết sức quý báu về sự kết hợp hai
mặt này. Theo V.I. Lênin, để kết hợp nhần nhuyễn hai mặt đó, cần đấu tranh
trên hai mặt trận: Chống lại chủ nghĩa cơ hội và chủ nghĩa cộng sản “tả”
khuynh. Trường hợp thứ nhất là nói về chủ nghĩa xét lại, trường hợp thứ hai
là nói về bệnh ấu trĩ “tả” khuynh. Sự cần thiết của cuộc đấu tranh này xuất
phát từ chỗ nhận thức rõ mục đích chung của phong trào cộng sản quốc tế là
chiến thắng giai cấp tư sản, “song mỗi nước lại hồn thành q trình phát
triển ấy theo cách thức riêng của mình” 1 sao cho thích hợp với “những đặc
điểm dân tộc và đặc điểm của Nhà nước - dân tộc”2.
Kinh nghiệm của Đảng ta trong việc kết hợp lý luận với thực tiễn, chống
hai khuynh hướng hữu và “tả” để thực hiện mục tiêu cách mạng cho thích hợp
là tổng kết thực tiễn, tự phê bình và phê bình nghiêm túc, sâu sắc, từ thực tiễn
rút ra kinh nghiệm, từ kinh nghiệm nâng lên lý luận. Lời dậy của Chủ tịch Hồ
Chí Minh “thực hành sinh ra hiểu biết, hiểu biết tiến lên lý luận, lý luận lãnh
đạo thực hành” có ý nghĩa quan trọng. Ý nghĩa của tổng kết thực tiễn không

chỉ ở chỗ nâng cao năng lực hoạch định đường lối, mà còn là biện pháp rất cơ
bản để nâng cao tính độc lập tự chủ, sáng tạo, tự lập, tự cường của Đảng, quán
triệt và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đào
1, 2

V.I. Lênin Tồn tập, tập 41, Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1977, tr. 95, 96

16


tạo, bồi dưỡng cán bộ thiết thực nhất. Qua tổng kết thực tiễn mà khẳng định
ưu điểm, phát hiện sai lầm, bổ sung, hoàn chỉnh đường lối. Đảng ta trưởng
thành và đáp ứng đòi hỏi của cách mạng bằng con đường đó. Khơng ngừng
nâng cao trình độ và năng lực tổ chức thực hiện lên ngang tầm đòi hỏi của
đường lối, có đường lối đúng là vấn đề có ý nghĩa quyết định hàng đầu.
Nhưng Đảng phải xây dựng, rèn luyện khơng ngừng nâng cao trình độ và
năng lực tổ chức thực hiện lên ngang tầm đòi hỏi của đường lối thì mới có thể
biến đường lối thành hiện thực. Tổ chức thực hiện bao gồm công tác xây
dựng Đảng về tư tưởng và xây dựng Đảng về tổ chức. Tổ chức thực hiện để
quán triệt đường lối và qua kiểm nghiệm đường lối trong thực tiễn để cụ thể
hoá, bổ sung và khơng ngừng hồn thiện đường lối.
Cơng tác tư tưởng biến đường lối thành hiện thực, nội dung cơ bản của
công tác tư tưởng là không ngừng nâng cao trình độ hiểu biết về chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, trau dồi phẩm
chất cách mạng cho cán bộ, đảng viên, nâng cao niềm tin và ý chí cách mạng của
cán bộ, đảng viên và nhân dân, đặc biệt là trong giáo dục đạo đức cách mạng cho
thế hệ trẻ, đấu tranh không khoan nhượng với những luận điểm sai trái, xuyên
tạc chủ nghĩa Mác - Lênin và đường lối chính sách của Đảng, tăng cường đồn
kết nhất trí trong Đảng và trong xã hội.
Trong mọi điều kiện hoạt động - đặc biệt khi điều kiện Đảng cầm
quyền . Đảng không lúc nào được buông lỏng việc giáo dục, nâng cao đạo

đức, phẩm chất cách mạng trong Đảng. Quá trình bồi dưỡng phẩm chất cho
cán bộ, đảng viên là q trình vừa “xây” vừa “chống”, lấy “xây” làm chính.
Có “xây” được tốt thì “chống” mới có kết quả, nhưng “xây” mà khơng
“chống” thì khơng củng cố được thành quả của “xây”.
Kinh tế thị trường ngày càng phát triển, quan hệ hợp tác với nước ngoài
ngày càng mở rộng đi vào chiều sâu, khi các thế lực thù địch cùng với bọn cơ
hội, phản động, phối hợp chống phá cách mạng nước ta, thực hiện âm mưu
chiến lược “Diễn biến hồ bình” ngày càng tinh vi, sảo quyệt hơn thì việc
17


giáo dục, rèn luyện về đạo đức, phẩm chất cách mạng và quản lý đối với đội
ngũ cán bộ, đảng viên, có ý nghĩa sống cịn đối với chế độ mới, trong cuộc
đấu tranh tư tưởng lý luận, đấu tranh chính trị hiện nay yếu tố quyết định tồn
tại chế độ. Đảng phải gắn liền với giáo dục thường xuyên để nâng cao truyền
thống đạo đức tốt đẹp của Đảng và phải kiên quyết chống sự sa sút, thoái hoá
về phẩm chất chính trị, về đạo đức lối sống của một số cán bộ, đảng viên trước hết trong bộ phận có chức, có quyền - chạy theo lối sống đồng tiền,
tham nhũng, bn lậu, làm ăn bất chính, danh vị, chia rẽ bè phái, hách dịch
cửa quyền, vi phạm quyền dân chủ của nhân dân. Việc giáo dục quản lý trong
Đảng phải phối hợp chặt chẽ với việc tăng cường pháp luật Nhà nước và sự
quản lý của Nhà nước; có như vậy mới đem lại chất lượng, hiệu quả quản lý,
giáo dục đội ngũ đảng viên của Đảng hiện nay.
Đặc biệt trong tình hình hiện nay, cơng tác tư tưởng ngày càng có vai
trị quan trọng trong việc giữ vững trận địa tư tưởng xã hội chủ nghĩa, trong
việc quyết định đến sự tồn vong của chế độ. Do đó cơng tác tư tưởng, lý luận
phải cung cấp những luận cứ khoa học, tiếp tục làm sáng tỏ nhiều vấn đề về
lý luận, và thực tiễn về mô hình, bước đi và giải pháp xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở nước ta, những vướng mắc trong thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội và
nhận thức về định hướng xã hội chủ nghĩa, về kinh tế thị trường, về xây dựng
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, về Nhà nước pháp quyền, về đối ngoại, quốc

phòng, an ninh, về xây dựng Đảng trong điều kiện mới. Công tác tư tưởng - lý
luận địi hỏi khơng ngừng đổi mới cả về nội dung và hình thức, phát huy được
tính chủ động, chất lượng và thuyết phục cao. Các cấp uỷ Đảng cần lãnh đạo,
chỉ đạo chặt chẽ việc phối hợp các binh chủng trên mặt trận tư tưởng, nhằm
tạo ra sức mạnh tổng hợp trên mặt trận tư tưởng lý luận của Đảng trong tình
hình hiện nay.
Chất lượng của hệ thống tổ chức và đội ngũ đảng viên - nhân tố quan
trọng bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng. Sức mạnh của Đảng cuối cùng phải
được bảo đảm bằng hệ thống tổ chức và đội ngũ đảng viên vững mạnh. Thực tiễn
lịch sử đã chứng minh, tổ chức đảng mạnh thì đảng viên mới phát huy được phẩm
18


chất, tài năng của mình. Tổ chức đảng mạnh là do có nhiều đảng viên tốt. Chỉnh
đốn đội ngũ đảng viên phải đi đơi với kiện tồn tổ chức và trong điều kiện Đảng
cầm quyền, kiện toàn tổ chức đảng phải đi đơi với kiện tồn tổ chức Nhà nước và
cả hệ thống chính trị. Đảng viên là chiến sĩ tiên phong cách mạng của giai cấp
công nhân. Tiêu chuẩn đảng viên được xây dựng căn cứ vào bản chất giai cấp
công nhân của Đảng, gắn với những yêu cầu nhiệm vụ chính trị cụ thể từng giai
đoạn, từng thời kỳ, xứng đáng là “người lãnh đạo, là người đầy tớ trung thành của
nhân dân”. Trên cơ sở tiêu chuẩn đảng viên phải tiến hành ba mặt công tác quan
hệ khăng khít với nhau: kết nạp đảng viên mới, nâng cao chất lượng đảng viên và
đưa những người không đủ tư cách ra khỏi Đảng.
Trong thời kỳ cầm quyền, Đảng phải có đủ số lượng đảng viên cần thiết,
những đặc biệt lấy chất lượng làm chính, củng cố đi đơi với phát triển. Đại hội X
của Đảng đã khẳng định: “Nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên gắn với
việc nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở Đảng. Đẩy mạnh và bảo đảm chất
lượng công tác phát triển Đảng. Chú trọng trẻ hố và nâng cao trình độ đảng
viên; lấy đạo đức làm gốc, đồng thời bồi dưỡng về kiến thức, trí tuệ, năng lực
để làm trịn nhiệm vụ người lãnh đạo, người tiên phong trong lĩnh vực công

tác được giao”1
Đồn kết nhất trí và gắn bó với nhân dân - Đó là nguồn gốc sức mạnh vơ
địch của Đảng. Thắng lợi của cách mạng Việt Nam bắt nguồn từ truyền thống
đoàn kết của Đảng và truyền thống đoàn kết dân tộc. Có đồn kết được tồn
Đảng mới đồn kết được toàn dân. Trong Di chúc Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
căn dặn: các đồng chí ta từ Trung ương đến các chi bộ, cần phải giữ gìn sự
đồn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình. Đồn kết
thống nhất trong Đảng trước hết dựa trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và đường lối đúng của Đảng.
Thực tiễn cách mạng luôn luôn đặt ra những vấn đề mới, cho nên trong
Đảng dễ nảy sinh những ý kiến khác nhau. Đó là hiện tượng bình thường,
khơng nên coi đó là mất đồn kết. Trong mọi q trình cách mạng, Đảng giải
1

ĐCSVN, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H. 2006, tr. 133.

19


quyết những sự khác nhau bằng con đường nâng cao nhận thức, dân chủ thảo luận
trong tổ chức trên tinh thần xây dựng và chế độ tự phê bình và phê bình nghiêm
túc. Tư tưởng Hồ Chí Minh coi tự phê bình làm gốc, trước hết là từ cơ quan lãnh
đạo và người đứng đầu. Tự phê bình và phê bình trong Đảng phải có lý, phân biệt
rõ đúng, sai, phải, trái, đồng thời phải có tình đồng chí thương yêu nhau. Đoàn kết
trong Đảng phải dựa trên nguyên tắc tập trung dân chủ, tập trung trên nền tảng
dân chủ, dân chủ dưới sự lãnh đạo tập trung. Chế độ tập trung dân chủ đòi hỏi
lãnh đạo tập thể phải đi đôi với trách nhiệm cá nhân, chống chuyên quyền độc
đốn, dân chủ hình thức. Đồng thời chống ỷ lại, dựa dẫm vào tập thể thiếu trách
nhiệm cá nhân. Vai trị hạt nhân đồn kết của cơ quan lãnh đạo, của người đứng đầu
luôn luôn là yếu tố quan trọng của sự đồn kết nhất trí trong Đảng. Trong điều kiện

Đảng cầm quyền, chủ nghĩa cá nhân là một nguyên nhân quan trọng gây ra mất đồn
kết. Vì vậy thường xuyên coi trọng việc nâng cao đạo đức cách mạng, phê phán và
khắc phục chủ nghĩa cá nhân có tác dụng tích cực bảo đảm đồn kết thống nhất trong
Đảng.
Thực tiễn quá trình lãnh đạo của Đảng và nhất là khi đã trở thành Đảng cầm
quyền là thường xuyên làm cho Đảng, làm cho hệ thống chính trị thấu suốt quan
điểm cách mạng luôn luôn là sự nghiệp của dân, do dân và vì dân. Trong điều
kiện Đảng cầm quyền - khi dân đã thực sự trở thành người làm chủ xã hội Những thành tựu to lớn của cách mạng nước ta chính là kết quả của ý thức
làm chủ và năng lực làm chủ của toàn thể nhân dân, dưới sự lãnh đạo của
Đảng. Muốn huy động toàn dân xây dựng đất nước, Đảng phải có chiến lược
và các chính sách đáp ứng lợi ích vật chất và tinh thần, của các tầng lớp nhân
dân một cách cụ thể thiết thực. Đó là chiến lược truyền thống; thống nhất lợi
ích dân tộc và lợi ích các giai cấp trên cơ sở mục tiêu chung. Mục tiêu chung
ấy đã được xác định bằng khẩu hiệu: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội cơng
bằng, dân chủ, văn minh” đó là “điểm đồng” của tồn thể dân tộc.
Cơng tác dân vận là trách nhiệm của tồn bộ hệ thống chính trị. Đảng
cần tiếp tục đổi mới sự lãnh đạo đối với công tác dân vận theo tư tưởng Hồ
20


Chí Minh. Hệ thống tổ chức của Đảng phải là hạt nhân, đi đầu trong phong
trào dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đảng cần
tiếp tục đa dạng hố các hình thức tổ chức tập hợp nhân dân, đáp ứng được
nhu cầu, lợi ích của các tầng lớp của nhân dân trong q trình cơng nghiệp
hoá, hiện đại hoá. Đảng phải tiếp tục phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ
thống chính trị để động viên, tổ chức lực lượng của cả dân tộc trên nền tảng
liên minh cơng - nơng – trí vững chắc đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Để nâng cao chất lượng và hiệu quả lãnh đạo, Đảng không ngừng đổi
mới phương thức lãnh đạo của Đảng, đặc biệt trong điều kiện Đảng cầm
quyền. Là Đảng cầm quyền, Đảng ta có trách nhiệm lãnh đạo tất cả các lĩnh

vực của đời sống xã hội. Trong tình hình mới cần có phương thức lãnh đạo để
nâng cao chất lượng và hiệu quả lãnh đạo của Đảng, phát huy mạnh mẽ vai
trò và hiệu lực của Nhà nước và các đoàn thể nhân dân, xây dựng một hệ
thống chính trị hoạt động năng động có hiệu lực và hiệu quả. Hai khuynh
hướng cần khắc phục là bao biện, làm thay công việc của Nhà nước, các đồn
thể và khuynh hướng bng lỏng, coi nhẹ bỏ mất vai trò lãnh đạo của Đảng.
Tiếp tục đổi mới công tác cán bộ, Đảng thực hiện được vai trò lãnh đạo
trước hết là nhờ đội ngũ cán bộ, “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “công
việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém” 1. Lịch sử của Đảng
ta từ khi thành lập đến nay chỉ rõ: Sự đúng đắn, sáng tạo về đường lối cũng
như chất lượng, hiệu quả tổ chức thực hiện đường lối, cuối cùng tuỳ thuộc
vào chất lượng đội ngũ cán bộ - trước hết là cán bộ lãnh đạo chủ chốt. Lựa
chọn bố trí đúng người đứng đầu có đủ bản lĩnh, phẩm chất, tài năng, đã qua
thử thách là khâu quyết định trong công tác cán bộ.
Hồn cảnh lịch sử mới địi hỏi cơng tác cán bộ của Đảng phải gắn chặt
với việc xây dựng, củng cố tổ chức của hệ thống chính trị, mà trọng tâm là
xây dựng cho được Nhà nước của nhân dân do nhân dân và vì nhân dân. Đảng
thực hiện nguyên tắc từ tổ chức, từ công việc mà bố trí, sắp xếp cán bộ, chứ
1

Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 5, Nxb CTQG, H. 2000, tr. 273.

21


khơng phải vì cán bộ mà đặt ra tổ chức. Đội ngũ cán bộ trưởng thành là do
Đảng ta thường xuyên thông qua các phong trào quần chúng để phát hiện, đào
tạo, bồi dưỡng, rèn luyện, thử thách đội ngũ cán bộ. Tiêu chuẩn cán bộ là cơ
sở cho mọi khâu đánh giá, lựa chọn, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng.
Tiêu chuẩn cơ bản của đội ngũ cán bộ trong giai đoạn cách mạng hiện

nay được Đại hội X của Đảng xác định là: Có phẩm chất chính trị tốt, tuyệt
đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, hết lòng phấn đấu vì lợi ích của nhân
dân, của dân tộc; có bản lĩnh chính trị vững vàng, khơng dao động trước
những khó khăn, thách thức; có năng lực hồn thành nhiệm vụ được giao; có
nhân cách và lối sống mẫu mực, trong sáng; có ý thức tổ chức kỷ luật cao, tơn
trọng tập thể, gắn bó với nhân dân. Nhận xét, đánh giá cán bộ phải luôn luôn lấy
kết quả hồn thành nhiệm vụ làm căn cứ chủ yếu. Chính sách cán bộ đúng sẽ tác
động tích cực đến việc hoàn thành và phát huy mọi tiềm năng của đội ngũ cán bộ.
Để đẩy mạnh sự phát triển đất nước trong thời đại ngày nay, Đảng và Nhà
nước ta càng phải coi trọng việc tập hợp, trọng dụng nhân tài. Chất lượng công tác
cán bộ tuỳ thuộc rất nhiều vào chất lượng quản lý cán bộ. Vì vậy, Đảng phải
khơng ngừng đổi mới, hồn thiện cơng tác quản lý cán bộ và kết hợp chặt chẽ
công tác quản lý của Đảng với công tác quản lý của Nhà nước và cả hệ thống
chính trị về cơng tác cán bộ. Đó là những nội dung, yêu cầu đối với công tác xây
dựng đảng trong tình hình hiện nay để Đảng ta luôn đáp ứng với yêu cầu giai đoạn
cách mạng mới; phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ văn minh.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
………………………………………..

1. Đảng Cộng sản Việt Nam Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
VII của Đảng, Nxb ST.H.1991.
22


2. Đảng Cộng sản Việt Nam Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII của Đảng, Nxb CTQG.H.1996.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
IX của Đảng, Nxb CTQG.H.2001.

4. Đảng Cộng sản Việt Nam Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ X của Đảng, Nxb CTQG.H.2006.
5. Giỏo trỡnh Đảng Cộng sản Việt Nam, tập 1, Nxb QĐND.H.2007.
6. V.I. Lênin, Toàn tập, tập 4, bản tiếng Việt. Nxb Tiến bộ, Matxcơ va, 1978.
7. V.I. Lênin, Toàn tập, tập 41, Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1977.
8. Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 5, Nxb CTQG, H. 2000.
9. Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, H.2002.

23



×