Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

tiểu luận sự phù hợp của quy luật sản xuất với trình độ của lực lượng sản xuất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (409.21 KB, 24 trang )

A. lời nói đầu
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và
trình độ phát triển của lực lợng sản xuất là qui luật hết sức
phổ biến trong công cuộc xây dựng đất nớc của mỗi quốc
gia. Sự mâu thuẫn hay phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực
lợng sản xuất đều có ảnh hởng rất lớn tơí nền kinh tế. Sự
tổng hoà mối quan hệ giữa lực lợng sản xuất và quan hệ sản
xuất tạo nên một nền kinh tế có lực lợng sản xuất phát triển
kéo theo một quan hệ sản xuất phát triển.
Nói cách khác Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với
tính chất và trình độ của lực lợng sản xuất là một điều kiện
tất yếu để phát triển một nền kinh tế.
Do vậy, nghiên cứu về quy luật này sẽ giúp cho mỗi
sinh viên chúng ta, đặc biệt là sinh viên khối kinh tế, có
thêm những hiểu biết ban đầu và sâu sắc hơn về sự phát
triển của nớc ta cũng nh trên thế giới; hiểu đợc quy luật vận
động của nền kinh tế từ đó có thể góp một phần nhỏ bé của
mình vào sự nghiệp xây dựng nớc nhà sau này.
Do thời gian còn hạn hẹp và sự hiểu biết các vấn đề
cha sâu sắc, chắc chắn bài viết còn có rất nhiều thiếu sót.
Bởi vậy em mong đợc sự chỉ bảo, phê phán của thầy để có
thể sửa chữa, khắc phục những mặt kiến thức còn yếu của
mình và để bài viết có thể hoàn thiện hơn.
1
B. nội dung
I. đặt vấn đề
Với tính cách là phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch
sử phơng thức sản xuất biểu thị cách thức con ngời thực
hiện quá trình sản xuất vật chất ở những giai đoạn lịch sử
nhất định của xã hội loài ngời. Dới sự vận động của lịch sử
loài ngời, cũng nh sự vận động của mỗi xã hội cụ thể, sự


thay đổi về phơng thức sản xuất bao giờ cũng là sự thay đổi
có tính chất cách mạng. Trong sự thay đổi đó, các quá trình
kinh tế, xã hội đợc chuyển sang một chất mới. Phơng thức
sản xuất là cái mà nhờ nó ngời ta có thể phân biệt đợc sự
khác nhau của những thời đại kinh tế khác nhau. Mà phơng
thức sản xuất chính là sự thống nhất giữa lực lợng sản xuất
ở một trình độ nhất định và quan hệ sản xuất tơng ứng. đo
2
cũng chính là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính
chất và trình độ phát triển của lực lợng sản xuất.
Do vậy, quy luật trên trớc hết là quy luật kinh tế nhng
hơn thế nữa nó con là quy luật cơ bản nhất của toàn bộ đời
sống xã hội của lịch sử nhân loại bởi vì nó là quy luật của
bản thân phơng thức sản xuất. Sự tác động của quy luật này
dẫn tới sự thay đổi của phơng thức sản xuất và kéo theo sự
thay đôỉ cua toàn bộ đời sống xã hội.
Với những lý do trên, quy luật quan hệ sản xuất phù
hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lợng sản
xuất có ý nghĩa hết sức to lớn. Tuy nhiên, việc nắm bắt đợc
quy luật này không phải là đơn giản, nhận biết đợc một
quan hệ sản xuất có phù hợp với tính chất và trình độ phát
triển của lực lợng sản xuất hay không hoàn toàn phải phụ
thuộc vào thực tiễn của sản xuất và kinh nghiệm bản thân.
Với những chính sách, đờng lối và chủ trơng đúng đắn,
nắm bắt tốt quy luật của đảng và nhà nớc, nền kinh tế, đặc
biệt là kinh nhiều thành phần đã phát triển mạnh mẽ, đa n-
ớc ta từ một nớc nông nghiệp lạc hậu phát triển thành nớc
sản xuất nông nghiệp tiên tiến; góp phần đẩy nhanh nền
kinh tế nớc nhà đi sang một hớng khác, sánh vai cùng các
nớc trong khu vực và trên thế giới.

II- giải quyết vấn đề
3
Khái niệm về lực lợng sản xuất quan hệ sản
xuất và quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với
tính chất và trình độ phát triển của lực lợng sản
xuất
A/ Khái niệm về lực lợng sản xuất và quan hệ sản
xuất:
1/ Lực l ợng sản xuất:
Để tiến hành sản xuất thì con ngời phải dùng các yếu
tố vật chất và kỹ thuật nhất định. Tổng thể các nhân tố đó là
lực lợng sản xuất. Lực lợng sản xuất biểu hiện mối quan hệ
giữa con ngời với tự nhiên. Nghĩa là trong quá trình thực
hiện sản xuất xã hội con ngời trinh phục tự nhiên bằng các
sức mạnh hiện thực của mình suức mạnh đó đợc chủ nghĩa
duy vật lịch sử khái quát trong khái niệm lực lợng sản xuất.
Trình độ lực lợng sản xuất biểu hiện trình độ chinh phục tự
nhiên của con ngời. Lực lợng sản xuất nói lên năng lực
thực tế của con ngời trong quá trình sản xuất tạo nên của
cải cho xã hội đảm bảo sự phát triển của con ngời.
Lực lợng sản xuất bao gồm ngời lao động và kỹ năng
lao động và t liệu sản xuất. Trong quá trình sản xuất công
cụ lao động tác động vào đối tợng lao động để tạo ra của
4
cải vật chất thì t liệu lao động đợc hoàn thiện nhằm đạt đợc
năng suất lao động cao. Còn trong t liệu lao động tức là tất
cả các yếu tố vật chất mà con ngời sử dụng để tác động vào
đối tợng lao động thì công cụ lao động là yếu tố quan trọng
nhất linh hoạt nhất. Bởi vậy khi công cụ lao động đã đạt
đến trình độ tin học hoá đợc tự động hoá thì vai trò của nó

lại càng quan trọng. Trong mọi thời đại công cụ sản xuất
luôn là yếu tố đông nhất của lực lợng sản xuất. Chính sự
chuyển đổi cải tiến và hoàn thiện không ngừng của nó đã
gây lên những biến đổi sâu sắc trong toàn bộ t liệu sản xuất.
Trình độ phát triển công cụ lao động là thớc đo trình độ
chinh phục tự nhiên của con ngời. Tuy nhiên LêNin viết:
Lực lợng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công
nhân, ngời lao động có thể cói yếu tố quan trọng nhất
trong lực lợng sản xuất chính là con ngời. Trong thời đại
ngày nay khoa học đã phát triển tới mức trở thành nguyên
nhân trực tiếp của nhiều biến đổi to lớn trong sản xuất và
đời sống nó đã trở thành lực lợng sản xuất trực tiếp. Nó vừa
là ngành sản xuất riêng vừa thâm nhập vào các yếu tố cấu
thành lực lợng sản xuất đem lại thay đổi về chất cho lực l-
ợng sản xuất.
5
Khoa học và công nghệ hiện đại chính là đặc điểm
thời đại của sản xuất nó hoàn toàn có thể coi là đặc trng cho
lực lợng sản xuất hiện đại.
2/ Khái niệm về quan hệ sản xuất:
Để tiến hành quá trình sản xuất nhất định con ngời
phải có mối quan hệ với nhau. Tổng thể những mối quan hệ
này gọi là quan hệ sản xuất. Nói cách khác quan hệ sản
xuất là quan hệ giữa ngời với ngời trong sản xuất.
Trong sự sản xuất ra đời sống xã hội của mình con ng-
ời dù muốn hay không cũng buộc phải duy trì những quan
hệ nhất định với nhau để trao đổi hoạt động sản xuất cũng
nh kết quả lao động những quan hệ sản xuất này mang tính
tất yếu. Nh vậy quan hệ sản xuất do con ngời tạo ra song nó
đợc hình thành một cách khách quan không phụ thuộc vào

ý muốn của bất kỳ ai. Việc phải thiết lập các mối quan hệ
trong sản xuất tự nó đã là vấn đề có tính quy luật tất yếu,
khách quan của sự vận động xã hội.
Với tính chất là những quan hệ kinh tế khách quan
không phụ thuộc vào ý muốn của con ngời, quan hệ sản
xuất là những quan hệ mang tính vật chất của đời sống xã
hội. Quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của lực lợng sản
xuất và là cơ sở của đời sống xã hội.
Quan hệ sản xuất gồm 3 mặt:
6
- Quan hệ sở hữu về t liêu sản xuất tức là quan hệ giữa
ngời với t liệu sản xuất. Tính chất của quan hệ sản xuất trớc
hết đợc quy định bởi quan hệ sở hữu đối với t liệu sản xuất
Biểu hiện thành chế độ sở hữu. trong hệ thống các quan
hệ sản xuất thì quan hệ sở hữu về t liệu sản xuất có vai trò
quyết định đối với các quan hệ xã hội khác.
Trong các hình thái kinh tế xã hội mà loài ngời đã
từng trải qua, lịch sử đã đợc chứng kiến sự tồn tại của 2 loại
hình sở hữu cơ bản đối với t liệu sản xuất: sở hữu t nhân và
sở hữu công cộng. Sở hữu công cộng là loại hình mà trong
đó t liệu sản xuất thuộc về mọi thành viên của cộng đồng.
Do t liệu sản xuất là tài sản chung của cả cộng đồng nên
các quan hệ xã hội trong sản xuất và trong đời sống xã hội
nói chung trở thành quan hệ hợp tác giúp đỡ nhau. Ngợc lại
trong các chế độ t hữu do t liệu sản xuất chỉ nằm trong tay
một số ngời nên của cải xã hội không thuộc về số đông mà
thuộc về một số ít ngời các quan hệ xã hội do vậy bất bình
đẳng.
- Quan hệ tổ chức và quản lý kinh doanh sản xuất: Tức
là quan hệ giuã ngời với ngời trong sản xuất và trong trao

đổi vật chất của cải. Trong hệ thống các quan hệ sản xuất
các quan hệ về mặt tổ chức quản lý sản xuất là các quan hệ
có khả năng quyết định một cách quy mô tốc độ hiệu quả
7
và xu hớng mỗi nền sản xuất cụ thể đi ngợc lại các quan hệ
quản lý và tổ chức có thể làm biến dạng quan hệ sở hữu ảnh
hởng tiêu cực đến kinh tế xã hội.
Quan hệ phân phối sản xuất sản phẩm tức là quan hệ
chặt trẽ với nhau cùng mục tiêu chung là sử dụng hợp lý và
có hiệu qủa t liệu sản xuất để làm cho chúng không ngừng
đợc tăng trởng, thúc đẩy tái sản xuất mở rộng nâng cao
phúc lợi cho ngời lao động. Bên cạnh các quan hệ về mặt tổ
chức quản lý,trong hệ thống quan hệ sản xuất, các quan hệ
về mặt phân phối sản phẩm lao động cũng là những nhân tố
có ý nghĩa hết sức to lớn đối với sự vận động của toàn bộ
nền kinh tế. Quan hệ phân phối có thể thúc đẩy tốc độ và
nhịp điệu của sản xuất nhng ngợc lại nó có khả năng kìm
hãm sản xuất kìm hãn sự phát triển của xã hội
Nêu xét riêng trong phạm vi một quan hệ sản xuất
nhất định thì tính chất sở hữu quyết định tính chất của quản
lý và phân phối. Mặt khác trong mỗi hình thái kinh tế xã
hội nhất định quan hệ sản xuất thống trị bao giờ cũng giữ
vai trò chi phối các quan hệ sản xuất khác, ít nhiều cải biến
chúng để chẳng những chung không đối lập mà phục vụ
đắc lực cho sự tồn tại và phát triển của kinh tế xã hội mới.
8
B/ Quy luật về quan hệ sản xuất phù hợp với tính
chất và trình độ phát triển của lực lợng sản
xuất:
1/ Tính chất và trình độ của lực l ợng sản xuất:

a/ Tính chất:
Tính chất của lực lợng sản xuất là tính chất của tu liệu
sản xuất và lao động. Khi nền sản xuất đợc thực hiện với
những công cụ ở trình độ phổ thông, lực lợng sản xuất chủ
yếu mang tính chất cá nhân. Khi trình độ sản xuất đạt tới
trình độ cơ khí hoá, lực lợng sản xuất đòi hỏi phải đợc vận
động cho sự hợp tác xã hội rộng rãi trên cơ sở chuyên môn
hoá. Tính chất tự cấp tự túc cô lập của nền sản xuất nhỏ lúc
đó phải đợc thay thế bởi tính chất xã hội hoá.
b/ Trình độ của lực l ợng sản xuất:
Lực lợng sản xuất là yếu tố có tác dụng quyết định đối
với sự phát triển của phơng thức sản xuất: Trình độ của lực
lợng sản xuất trong từng giai đoạn của lịch sử loài ngời thể
hiện trình độ chinh phục tự nhiên của loài ngời trong giai
đoạn đó. Khái niệm trình độ của lực lợng sản xuất nói lên
khả năng của con ngời thông qua việc sử dụng công cụ lao
động thực hiện quá trình cải biến tự nhiên nhằm đảm bảo
cho sự sinh tồn và phát triển của mình. Trình độ lực lợng
sản xuất thể hiện ở: Trình độ công cụ lao động, trình độ
9
quản lý xã hội trình độ ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản
xuất, kinh nghiệm và kỹ năng của con ngời và trình độ phân
công lao động.
Trên thực tế tính chất và trình độ của lực lợng sản xuất
không tách biệt nhau
B/ Quy luật về quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất
và trình độ phát triển của lực lợng sản xuất:
Quan hệ sản xuất và lực lợng sản xuất là hai mặt của
phơng thức sản xuất, sự tác động lẫn nhau giữa lực lợng sản
xuất và quan hệ sản xuất biểu hiên mối quan hệ mang tính

chất biện chứng. Chính sự thống nhất và tác động giữa quan
hệ sản xuất và lực lợng sản xuất đã hình thành nên quy luật
về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trìng
độ phát triển của lực lợng sản xuất.
Lực lợng sản xuất là nhân tố thờng xuyên biến đổi và
phát triển. Ngợc lại quan hệ sản xuất thờng có tính ổn định
trong một thời gian dài.
Sự biến đội của lực lợng sản xuất có nhiều nguyên
nhân:
- Bản thân ngời lao động thì những kỹ năng và kinh
nghiệm không ngừng tích luỹ và tăng lên.
- Bản thân tri thức khoa học trí thức công nghệ trở
thành lực lợng sản xuất trực tiếp.
10
- Sự ổn định của quan hệ sản xuất là nhu cầu khách
quan để có thể sản xuất đợc.
Chính vì vậy mà sự phát triển của lực lợng sản xuất
đến một giới hạn nhất định sẽ đặt ra nhu cầu xoá bỏ quan
hệ sản xuất cũ và hiện có. Việc xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ
thay nó bằng một quan hệ sản xuất mới cũng có nghĩa là
diệt vong cả một phơng thức sản xuất lỗi thời và sự ra đời
của một phơng thức sản xuất mới. Sự xoá bỏ các hình thức
quan hệ sản xuất hiện có không phải là tự thân mà phải
thông qua một phơng thức chính trị và pháp quyền mà ph-
ơng thức pháp quyền là trực tiếp. Những quan hệ sản xuất
cũ và hiện có từ chỗ là hình thức kinh tế cần thiết để đảm
bảo duy trì khai thác, phát triển của lực lợng sản xuất giờ
đây trở thành những hình thức kìm hãm sự phát triển đó nh
CácMác đã nhận định Từ một giai đoạn phát triển nào đó
của chúng các lực lợng sản xuất vật chất của xã hội mâu

thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện có trong đó từ trớc
đến nay các lực lợng sản xuất vẫn tiếp tục phát triển. Từ
chỗ là những hình thức phát triển của lực lợng sản xuất
những quan hệ ấy trở thàng những xiềng xích của các lực l-
ợng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc Cách mạng
xã hộiĐó cũng chính là nội dung quy luật về sự phù hợp
11
của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển nhất định của
lực lợng sản xuất.
Thực tiễn cho thấy rằng lực lợng sản xuất chỉ có thể
phát triển khi có một quan hệ sản xuất hợp lý đồng bộ phù
hợp với nó. quan hệ sản xuất lạc hậu hơn hoặc tiên tiến hơn
một cách giả tạo cũng sẽ kìm hãm sự phát triển của lực l-
ợng sản xuất. Khi mâu thuẫn giữa lực lợng sản xuất và quan
hệ sản xuất đã bộc lộ gay gắt đòi hỏi phải giải quyết nhng
còn lực lợng sản xuất ngời không phát hiện đợc cũng nh
mâu thuẫn đợc phát hiện mà không giải quyết đợc hoặc giải
quyết một cách sai lầm thì tác dụng kìm hãm của quan hệ
sản xuất sẽ trở thành nhân tố phá hoại đối với lực lợng sản
xuất.
Tuy nhiên bên cạnh đó, chúng ta không nên tuyệt đối
hoá vai trò của lực lợng sản xuất mà bỏ qua sự tác động trở
lại của quan hệ sản xuất đối với nó khi giữa chúng có sự
phù hợp. Đôi khi sự phát triển chệch hớng của quy luật
quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát
triển của lực lợng sản xuất là do yếu tố chủ quan, chứ
không phải do tính chất đặc thù của quy luật đó.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử đã chứng minh vai trò quyết
định của lực lợng sản xuất đối với quan hệ sản xuất song nó
cũng chỉ rõ rằng quan hệ sản xuất bao giờ cũng thể hiện

12
tính độc lập tơng đối với lực lợng sản xuất. Quan hệ sản
xuất tác động trở lại lực lợng sản xuất , nó là yếu tố quyết
định là tiền đề cho lực lợng sản xuất phát triển khi nó phù
hợp với trình độ phát triển của lực lợng sản xuất. Nó làm
nhiệm vụ chỉ ra mục tiêu bớc đi và tạo quy mô thích hợp
cho lực lợng sản xuất hoạt động, cũng nh đảm bảo lợi ích
chính đáng cho ngời lao động phát huy tính tích cực sáng
tạo cho con ngời là nhân tố quan trọng và quyết định trong
lực lợng sản xuất.
Sở dĩ quan hệ sản xuất có thể tác động mạnh mẽ trở lại
đối với lực lợng sản xuất vì nó quyết định mục đích sản
xuất, quy định hệ thống quản lý sản xuất và quản lý xã hội
quy định phân phối và phần của cải ít hay nhiều mà ngời
lao động đợc hởng. Do đó nó tạo ra những điều kiện hoặc
kích thích hoặc hạn chế sự phát triển của công cụ sản xuất
áp dụng thành tựu khoa học và sản xuất hợp tác phân công
lao động.
C/ Sự vận dụng quy luật vào sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam:
Sự nghiệp đã đổi mới của Việt Nam đợc bắt đầu ngay
từ giữa những năm 80 và đợc triển khai mạnh mẽ trên tất cả
các lĩnh vực từ đó đến nay. Quá trình đổi mới đã đa lại
nhiều thành tựu to lớn, nhng đồng thời cũng đặt ra nhiều lý
13
luận quan trọng mà việc áp dụng quy luật quan hệ sản xuất
phụ thuộc vào tính chất và trình độ phát triển của lực lợng
sản xuất vào việc giải quyết chúng một cách đúng đắn sẽ là
cơ sở hết sức cần thiết cho việc tiếp tục hoạch định và đẩy
nhanh sự nghiệp đổi mới, cũng nh sự nghiệp xây dựng chủ

nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Việt Nam đã xây dựng chủ nghĩa xã hội đợc hơn 30
năm ở miền Bắc và hơn 10 năm trên phạm vi toàn quốc nếu
tính đến thời điểm bắt đầu đổi mới. Ngôi nhà xã hội chủ
nghĩa mà chúng ta muốn xây dựng có thể có nhiều đặc trng,
nhng có hai đặc trng chất lợng quan trọng nhất mà dứt
khoát chúng ta phải đặt đến, đó là vừa giàu có hơn, vừa
công bằng hơn so với trong chủ nghĩa t bản. Tuy nhiên
trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội thì nền kinh tế sản
xuất của nớc ta lại chậm phát triển, đời sống nhân dân còn
gặp nhiều khó khăn. Sự khó khăn này có thể có nhiều
nguyên nhân, nhng có lẽ một trong những nguyên nhân
quan trọng nhất là: không nắm vững quy luật quan hệ sản
xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực l-
ợng sản xuất.
Nghị quyết Đại hội VIII đã chỉ rõ những yếu kém,
khuyết điểm:
14
Nền kinh tế phát triển cha vững chắc, hiệu quả và sức
mạnh tranh chấp. Nhịp độ tăng trởng tổng sản phẩm trong
nớc (GDP) nhịp độ tăng giá trị sản xuất nông nghiệp, dịch
vụ, kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu không đạt chỉ tiêu
đề ra. Nhìn chung, năng xuất lao động thấp, chất lợng sản
phẩm cha tốt, giá thành cao. Nhiều sản phẩm nông nghiệp,
công nghiệp, thủ công nghiệp thiếu thị trờng tiêu thụ trong
cả nớc và nớc ngoài. Hệ thống tài chính-ngân hàng còn yếi
kém và thiếu lành mạnh. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm.
Cơ cấu đầu t cha hợp lý, đầu t còn phân tán, lãng phí và thất
thoát nhiều. Nhịp độ thu hút đầu t trực tiếp của nớc ngoài
giảm, công tác quản lý, điều hành công tác này còn nhiều

vớng mắc và thiếu sót. Quan hệ một số mặt cha phù hợp.
Kinh tế nhà nớc cha đợc củng cố tơng xứng với vai trò chỉ
đạo, cha có chuyển biến đáng kể trong việc sắp xếp, đổi
mới và phát triển doanh nghiệp nhà nớc.
Một số vấn đề văn hoá-xã hội bức xúc và gay gắt
chậm đợc giải quyết. Tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và nông
thôn còn ở mức cao. Các hoạt động khoa học và công nghệ
cha đợc đáp ứng tốt yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Cơ chế chính sách không đồng bộ và cha tạo động lực
mạnh để phát triển. Một số cơ chế, chính sách còn thiếu,
15
cha nhất quán, cha sát với cuộc sống, thiếu tính khả thi.
Nhiều cấp, ngành cha thay thế, sửa đổi những quy định về
quản lý nhà nớc không còn phù hợp, cha bổ sung những cơ
chế, chính sách mới có tác dụng giải phóng mạnh mẽ lực l-
ợng sản xuất. Trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội
từ một xã hội tiền t bản chủ nghĩa, nhà nớc ta đã không
thấy rõ bớc đi có tính quy luật trên con đờng tiến lên chủ
nghĩa xã hội nên đã tiến hành ngay cuộc cải tạo xã hội chủ
nghĩa đối với nền kinh tế quốc dân và xét về thực chất là
theo đờng lốiđẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa, đa quan hệ
sản xuất đi trớc mở đờng cho lực lợng sản xuất phát triển.
điều đó có nghĩa là đa quan hệ sản xuất đi trớc để tạo địa
bàn rộng rãi, thúc đẩy lực lợng sản xuất phát triển. Điều đó
là hoàn toàn mâu thuẫn với quy luật quan hệ sản xuất phù
hợp với trình độ phát triển của lực lợng sản xuất. để khắc
phục những mâu thuẫn có thể phát sinh đòi hỏi phải thiết
lập quan hệ sản xuất mới với những hình thức và bớc đi phù
hợp và trình độ phát triển của lực lợng sản xuất.Những

chính sách mới của đảng và nhà nớc đã thúc đẩy nền kinh
tế nớc ta phát triển một cách mạnh mẽ.Sự thúc đẩy nền kinh
tế nhiều thành phần theo định hớng xã hội chủ nghĩa đã đa
nền kinh tế nớc ta sang một bớc đi mới. Mọi ngời đợc tự do
kinh doanh buôn bán, các doanh nghiệp kinh doanh hợp tác
16
và cạnh tranh với nhau một cách bình đẳng trớc pháp luật
Tất cả đều nhằm vào mục tiêu duy nhất là thúc đẩy nền
kinh tế nớc nhà.
Để làm rõ hơn về nền kinh tế nớc ta trong thời kỳ quá
độ, chúng ta sẽ đi phân tích nền sản xuất nông nghiệp trong
thời gian này. tại đại hội lần thứ VI, Đảng ta đã nhận
định:" Lực l ợng sản xuất bị kìm hãm không chỉ trong tr-
ờng hợp quan hệ sản xuất lạc hậu, mà cả khi quan hệ sản
xuất phát triển không đồng bộ, có những yếu tố đi quá xa
so với trình độ của lực lợng sản xuất ( Đảng cộng sản Việt
Nam. Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI. Nxb
sự thật, HN, 1987, tr.57)Trong quá trình tiến lên chủ nghĩa
xã hội phải kể đến yếu tố chủ quan của việc đảng lãnh đạo,
Nhà nớc phát động tính tích cực xã hội của quần chúng
bằng những lợi ích vật chất và tinh thần yêu nớc vốn có của
họ. Tuy nhiên, theo nhận định trên của đảng, ta thấy rằng,
không thể cho rằng những yếu tố tiên tiến của quan hệ sản
xuất mãi là tiền đề sự thúc đẩy phù hợp giữa lực lợng sản
xuất và quan hệ sản xuất. Chúng chỉ tác động tích cực trong
một thời gian ngắn và cuối cùng, vẫn phải tuân thủ quy luật
quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát
triển của lực lợng sản xuất.
17
Thực trạng nền sản xuất nông nghiệp của nớc ta trong

thời gian chuẩn bị vào những năm đầu bớc vào quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn đã
làm rõ nhận định trên của đảng. Tại thời điểm đó nền sản
xuất nông nghiệp không ổn định, nhiều nơi, nhiều vùng
nông thôn bị đói kém. Khi đó có ngời cho rằng, nguyên
nhân sản xuất chậm phát triển là do giữa lực lợng sản xuất
và quan hệ sản xuất có mâu thuẫn. Mâu thuẫn đó thể hiện
giữa một bên là yêu cầu phát triển hơn nữa của lực lợng sản
xuất theo hớng tất yếu chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất
lớn với một bên là chế độ sở hữu phân tán. Theo một số nhà
nhận định, đây là mâu thuẫn vốn có và mâu thuẫn là phổ
biến trong các nền sản xuất. Khi nền sản xuất xã hội phát
triển đến trình độ cao thì tự bản thân chế độ t hữu nhỏ
không thể nào tồn tại nh cũ, nó buộc phải thay đổi. Nhìn lại
quá trình chỉ đạo sản xuất nông nghiệp ở nớc ta trớc đây
Đảng ta đã rút ra đợc sự cần thiết của quy luật quan hệ sản
xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực l-
ợng sản xuất.
Tại Đại hội IX Đảng ta nhận định: "Cần phải nhân
rộng mô hình hợp tác, liên kết Công nghiệp và nông
nghiệp, doanh nghiệp nhà nớc và kinh tế hộ nông thôn, phát
triển các loại hình trang trại quy mô phù hợp trên từng địa
18
bàn" (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu
toàn quốc lần thứ IX, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội 2001,
tr. 32). Trong sản xuất nông nghiệp, sự đa dạng của các
thành phần kinh tế đã tạo ra cơ chế quản lý với nhiều hình
thức sản xuất nông nghiệp mới phù hợp với những quan
điểm đổi mới không ngừng của Đảng và nhờ đó, tạo ra sự
biến đổi mới trong các Hợp tác xã nông nghiệp trên cả ba

mặt của quan hệ sản xuất. Điều đó càng khẳng định ý nghĩa
to lớn của quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất
và trình độ phát triển của lực lợng sản xuất.
Nhng dựa vào tiêu chuẩn nào để khẳng định rằng quan
hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lợng sản
xuất. Trớc hết sự phù hợp đó thể hiện ở chỗ, hiệu quả sản
xuất ngày càng cao (năm sau cao hơn năm trớc), mặc dù
đất bị thiên tai nhiều bề và ít nhiều chịu ảnh hởng của tình
trạng suy thoái kinh tế trong khu vực và trên thế giới. Điều
quan trọng nữa, khi nói quan hệ sản xuất phù hợp với lực l-
ợng sản xuất không thể không nhìn vào đời sống của nông
dân, thực tế cho thế qua 15 năm thực hiện đờng lối đổi mới
do Đảng đề ra, đời sống của nông dân từng bớc đợc nâng
cao, điều kiện nhà ở và học tập của con em nông dân cũng
khá hơn trớc.
19
Nh vậy thực trạng nền kinh tế có phát triển không?
Lực lợng sản xuất có phát triển không đó chính là tiêu thức
để đánh giá sự phù hợp của quan hệ sản xuất vào tính chất
và trình độ của lực lợng sản xuất. Một quy luật có ý nghĩa
hết sức quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế của mỗi
quốc gia.
III/ Kết luận và giải pháp
1/ Kết luận:
Quy luật của quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và
trình độ phát triển của lực lợng sản xuất là quy luật hết sức
phổ biến. Tuy nhiên không phải bất cứ lúc nào cũng có sự
phù hợp đó. Do vậy, phải nắm bắt tốt quy chúng ta có thể
áp dụng vào từng trờng hợp cụ thể. Quy luật quan hệ sản
xuất phù hợp với trình độ lực lợng sản xuất còn là quy luật

phổ biến trong toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại. Sự thay
thế phát triển đi lên của lịch sử loài ngời từ chế độ công xã
nguyên thuỷ qua chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong
kiến, chế độ t bản chủ nghĩa và đến xã hội cộng sản tơng lai
là do sự tác động của hệ thống các quy luật xã hội, trong đó
quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển
của lực lợng sản xuất là quy luật cơ bản nhất. Lực lợng sản
xuất là nhân tố thờng xuyên biến đổi, ngợc lại quan hệ sản
20
xuất lại thờng có tính ổn định song sự ổn định đó chỉ là tạm
thời và cũng cần có sự thay đổi cho phù hợp. Nếu quan hệ
sản xuất không có những sự thay đổi cho phù hợp thì nó sẽ
kìm hãm sự phát triển của sản xuất.
Nh vậy, trong việc xác lập hoàn thiện, thay đổi quan
hệ sản xuất cần phải căn cứ vào thực trạng của các lực lợng
sản xuất hiện có về mặt tính chất và trình độ của chúng
(đây là cơ sở lý luận trực tiếp của việc xác định cơ cấu kinh
tế nhiều thành phần ở nớc ta hiện nay của quá trình cải cách
của các doanh nghiệp nhà nớc hiện nay).
2/ Giải pháp:
Cải tạo xã hội chủ nghĩa phải luôn luôn thấu suốt đặc
điểm của quá trình tiến từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã
hội chủ nghĩa là quan hệ sản xuất và lực lợng sản xuất luôn
luôn gắn bó với nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển. Phải
coi trọng những hình thức kinh tế trung gian, quá độ từ thấp
lên cao, từ quy mô nhỏ lên quy mô lớn. Trên mỗi bớc đi
phải đẩy mạnh xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, tạo ra lực
lợng sản xuất mới trên cơ sở đó tiếp tục đa quan hệ sản xuất
lên hình thức, quy mô thích hợp để cho lực lợng sản xuất
phát triển.

Tại Đại hội IX Đảng ta khẳng định: " Cần phải" nhân
rộng mô hình hợp tác, liên kết công nghiệp và nông nghiệp,
21
doanh nghiệp nhà nớc và kinh tế hộ nông thôn, phát triển
các loại hình trang trại với quy mô phù hợp trên từng địa
bàn những hình thức kinh tế hộ nông dân ngày càng đợc
mở rộng, các hình thái kinh tế hợp tác ở nông thôn, kinh tế
trang trại, mở mang nhanh công nghiệp chế biến nông sản
theo nhiều trình độ quy mô công nghệ.
Với kiến thức của một sinh viên em chỉ phần nào đề
cập đợc một số khía cạnh của vấn đề. Em mong có sự góp ý
của thầy cô nhằm giúp em hiểu rõ hơn về vấn đề này. Cuối
cùng em xin cam kết tất cả những gì em viết trên đây là
những hiểu biết của em. Những phần tham khảo đều đợc
chú thích ở dới. Em xin cảm ơn thầy Trần Ngọc Linh đã
giúp em hoàn thành tiểu luận này.
22
23
Danh mục các tài liệu tham khảo
- Giáo trình triết học Mác-LêNin (Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia).
- Tạp trí triết học (2002).
- Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần VI.
- Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần VIII.
- Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần IX.

24

×