1
BÀI HỌC KINH NGHIỆM PHÁT HUY NỘI LỰC, TRANH THỦ
NGOẠI LỰC CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cách mạng Việt Nam đã giành được nhiều
thắng lợi vĩ đại, vượt qua mọi khó khăn thử thách để tiến lên, đó là kết quả
của sự nắm vững và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh về mối quan hệ giữa dân tộc- thời đại, quốc gia-quốc tế, giữa bên
trong- bên ngoài, về phát huy nội lực, đồng thời tranh thủ ngoại lực, kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để phát triển đất nước. Những thành
công của cách mạng Việt Nam trong quá trình cách mạng đã để lại cho chúng
ta bài học kinh nghiệm quý báu: “phát huy cao độ nội lực, đồng thời ra sức
tranh thủ ngoại lực, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại” của
cách mạng Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Nội lực không chỉ là vốn, tài sản và cơ sở vật chất kỹ thuật đã tạo lập
được, mà còn bao gồm lợi thế về địa lí, kinh tế, chính trị, nguồn tài nguyên và
quan trọng hơn hết là nguồn lực con người với sức lao động, trí tuệ, tài năng
sáng tạo, ý chí phấn đấu và tinh thần lao động, gắn với truyền thống yêu
nước, cách mạng và truyền thống văn hoá của nhân dân. Nhấn mạnh yếu tố
nội lực, không hề có nghĩa là coi nhẹ tranh thủ các nguồn lực bên ngoài mà
chính là tạo điều kiện để thu hút và sử dụng có hiệu quả hơn các nguồn lực
bên ngoài. Đây là mối quan hệ biện chứng giữa yêu tố bên trong và yếu tố bên
ngoài, giữa trong nước và quốc tế, giữa dân tộc và thời đại. Trong đó, yếu tố
bên trong, nội lực bao giờ cũng giữ vai trò quyết định đến yếu tố bên ngoài và
ngược lại, yếu tố bên ngoài có vị trí quan trọng thúc đẩy trong nước phát
triển. Vì thế, ngày nay trong sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hoá đất nước, việc phát huy tối đa nguồn nội lực bao giờ cũng có vai
trò và ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển.
2
Chúng ta biết rằng, thế giới là một thể thống nhất biện chứng, đa
dạng và phức tạp. sự phát triển của mỗi quốc gia dân tộc là kết quả của sự
kết hợp giữa các yếu tố: dân tộc- thời đại, quốc gia- quốc tế, truyền thốnghiện đại. Giải quyết mối quan hệ này là giải quyết mối quan hệ giữa cái
riêng và cái chung, giữa yếu tố bên trong và yếu tố bên ngoài. Các nhà sáng
lập chủ nghĩa Mác- Lênin sớm nhận thức vấn đề này, các Ông cho rằng sức
mạnh của dân tộc phải kết hợp với sức mạnh của thời đại, độc lập tự chủ
gắn với mở rộng quan hệ quốc tế: “Cách mạng Vô sản ở chính quốc và
Cách mạng Vô sản ở các nước thuộc địa đoàn kết lại với nhau” và để giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng nhân loại khỏi ách áp bức
bóc lột của CNTB, trước hết giai cấp Vô sản ở mỗi nước phải tự giải
phóng mình và tự mình trở thành dân tộc. Như vậy, yếu tố bên trong (nội
lực) và yếu tố bên ngoài (ngoại lực) có mối quan hệ biện chứng với nhau,
trong đó yếu tố bên trong giữ vai trò quyết định, yếu tố bên ngoài có tác
dụng rất lớn nhằm thúc đẩy bên trong phát triển. Cùng với luồng tư tưởng
đó, Hồ Chí Minh ngay từ khi ra đi tìm đường cứu nước, Người đã nhận
thức được sức mạnh của dân tộc chỉ được phát huy cao độ khi kết hợp
chặt chẽ với quốc tế. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải
thực hiện được sự liên minh chiến đấu giữa vô sản ở thuộc địa với vô sản
ở chính quốc nhịp nhàng như hai cánh của một con chim. Tư tưởng này
khác với các nhà yêu nước đương thời chủ trương đóng cửa khép kín,
hoặc bài ngoại một cách mù quáng, chưa gắn phong trào cách mạng Việt
Nam với cách mạng thế giới. Việc quyết định sang phương Tây tìm đường
cứu nước của Người là xuất phát từ quan điểm: xem sự phát triển của
Châu Âu, của Pháp như thế nào, từ đó áp dụng vào thực tiễn nước ta, giúp
đỡ đồng bào khỏi kiếp lầm than, nô lệ. Từ việc khảo sát thực tiễn thế giới,
ngay từ năm 1924, Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Nguyên nhân đầu tiên
đã gây ra sự suy yếu của các dân tộc phương Đông, đó là sự đơn độc.
3
Không giống như các dân tộc phương Tây, các dân tộc phương Đông
không có những quan hệ và tiếp xúc giữa các lục địa với nhau. Họ hoàn
toàn không biết những việc xẩy ra ở các nước láng giềng gần gũi nhất của
họ, do đó họ thiếu tin cậy lẫn nhau, sự phối hợp hành động và sự cổ vũ
lẫn nhau” 1. Khi nói về vai trò quyết định của nội lực, Người nói: “Một
dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì
không xứng đáng được độc lập” 2 Tư tưởng này có thể nhận thức được
rằng: sự cần thiết phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại,
phát huy nội lực và tranh thủ ngoại lực để phát triển đất nước. Đây chính
là cơ sở để Đảng ta quán triệt và vận dụng hết sức thành công qua các giai
đoạn của cách mạng.
Với ý thức phát huy mạnh mẽ nguồn nội lực, tranh thủ tối đa ngoại lực
cho cách mạng, trong đó nội lực là quyết định. Đầu năm 1930, Đảng Cộng
sản Việt Nam ra đời và tuyên bố lãnh đạo nhân dân đập tan ách thống trị thực
dân, phong kiến, giành độc lập tự do cho Tổ quốc và ruộng đất cho nông dân,
tiến lên CNXH. Đó là Đảng ta phát huy tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự
cường, sáng tạo, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa giai cấp, dân tộc, giữa
độc lập dân tộc với CNXH. Thực hiện mục đích đó, cao trào cách mạng đầu
tiên trong cả nước (1930-1931) đã được phát động. Công nhân, nông dân
trong cả nước theo tiếng gọi của Đảng với nghị lực phi thường đã lập nên Xôviết Nghệ Tĩnh. Do so sánh lực lượng bất lợi về phía cách mạng nên phong
trào tạm lắng xuống và chịu nhiều tổn thất. Mặc dầu vậy, cao trào đã thiết lập
được trên thực tế khối liên minh công nông vững chắc và chuẩn bị cho cao
trào tiếp theo. Những năm 1936 - 1939, nắm bắt được thuận lợi của tình hình
quốc tế, đặc biệt là nội tình Pháp, mặt trận Bình Dân thắng cử, lập chính phủ
mới đấu tranh chống phát xít, chống chiến tranh, đòi tự do dân chủ, Đảng đã
kịp thời phát động cao trào đấu tranh chống phản động thuộc địa và tay sai,
1
2
Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 3, Nxb CTQG, H. 1995, tr1-2.
Sđ d, tập 6, tr 522.
4
đòi dân sinh, dân chủ, chống phát xít, chống chiến tranh, bảo vệ hoà bình thế
giới. Cao trào đã được cả nước hưởng ứng sôi nổi, nhiều tổ chức công khai
được thành lập, mặt trận Dân chủ Đông Dương đã tập hợp các giai cấp, đảng
phái, mọi tầng lớp nhân dân tham gia. Cuộc chiến tranh thế giới thứ II nổ ra,
Đảng đã kịp thời họp Hội nghị Trung ương lần thứ 6 (9-1939), tiếp theo là
Hội nghị Trung ương 7 (1940) và Hội nghị Trung ương 8 (1941). Đảng đã
nhận định tình thế cách mạng xuất hiện và chủ trương chuyển hướng chỉ đạo
chiến lược, tập trung vào nhiệm vụ giải phóng dân tộc, giành độc lập dân tộc,
tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất, con đường giành thắng lợi từ khởi
nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa. Sau hơn 5 năm (1939-1945), mặc
dù phải chịu nhiều tổn thất hy sinh bởi sự đàn áp giả man của Pháp- Nhật, lực
lượng cách mạng đã không ngừng lớn mạnh. Mặt trận Việt Minh đã phát triển
rộng khắp trên cả nước. Lực lượng vũ trang tập trung được thành lập và các
đội du kích phát triển khắp mọi nơi. Các cuộc biểu tình, bãi công đòi tăng
lương, cứu đói, giảm thuế nổ ra liên tiếp. Hội nghị Thường vụ Trung ương
khai mạc ngày 9-3-1945 cũng là ngày Nhật đảo chính Pháp ở Đông Dương.
Sự trùng hợp này càng làm sáng tỏ nhận định trước đây của Đảng: “Nhật,
Pháp cùng thống trị Đông Dương như cái nhọt bọc lâu ngày nhất định sẽ phải
vỡ mủ”. Mặc dầu tổng khởi nghĩa trong cả nước chưa chín muồi nhưng căn
cứ vào thực lực đã chuẩn bị, Hội nghị quyết định khởi nghĩa từng phần ở
những nơi có điều kiện. Hưởng ứng quyết định này, không khí cách mạng
sục sôi trong cả nước. Vào đầu tháng Tám năm 1945, chính quyền cơ sở ở
nhiều nơi được thành lập, cũng là lúc chủ nghĩa phát xít bại trận, Phát xít
Nhật đầu hàng quân đồng minh. Sự kiện nổi bật này của thế giới đã được
Đảng ta theo dõi và nắm bắt kịp thời. Hội nghị toàn quốc của Đảng từ ngày
13 đến ngày 15 tháng Tám năm 1945 đã quyết định tổng khởi nghĩa giành
chính quyền từ tay phát xít Nhật. Cuộc tổng khởi nghĩa đã thành công
5
nhanh chóng và được đánh dấu sự kết thúc vào ngày tuyên bố độc lập 2-91945.
Như vậy, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công là kết quả của
sự nổ lực rất cao nội lực nhân dân Việt Nam trong suốt 15 năm liên tục,
qua ba cao trào cách mạng, là thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh về tự
lực, tự cường: “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta” 3. Việc Nhật đầu hàng
đồng minh là điều kiện khách quan rất quan trọng làm cho tổng khởi nghĩa
diễn ra nhanh chóng, ít đổ máu. Nhưng cần nhận thấy rằng nếu không chủ
động xây dựng lực lượng cách mạng đủ mạnh thì thời cơ đến cũng không
thể hành động đựơc. Đây là sự thể hiện tính chủ động chớp thời cơ của
Đảng ta. Sự kiện phát xít Nhật đầu hàng cùng đến với các nước trong khu
vực, nhưng cùng thời điểm đó không phải nước nào cũng chớp được thời
cơ. Điều đó càng chứng minh Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành
công là kết quả của sự chuẩn bị công phu, lâu dài, của một kế hoạch cách
mạng khoa học, của những dự kiến cách mạng đúng đắn của Đảng và
nhân dân ta, là điển hình của việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại, phát huy nội lực với tranh thủ ngoại lực giành chính quyền từ tay
phát xít Nhật chứ không như một số người lầm tưởng cho đó là sự “ăn
may”, là kết quả của tình trạng không có chính quyền đứng đầu (“khoảng
trống quyền lực”) sau khi quân Nhật đầu hàng, hòng phủ nhận tinh thần
độc lập tự chủ, sáng tạo, phát huy yếu tố nội lực của Đảng ta.
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, chính quyền dân chủ nhân dân
mới được thành lập, mở ra trong lịch sử Việt Nam một bước ngoặt lớn,
song cách mạng nước ta lại phải đương đầu với bao khó khăn, thử thách hết
sức nghiêm trọng đe doạ sự tồn tại của mình, tình hình đất nước như “ngàn
cân treo trên sợi tóc”. Đó là: Nền kinh tế vốn đã nghèo nàn, lạc hậu lại bị
Pháp - Nhật tranh nhau vơ vét, bị chiến tranh, thiên tai tàn phá nặng nề làm
cho xơ xác, kiệt quệ. Về mặt xã hội, hậu quả của chế độ thực dân hết sức nặng
3
Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 3, Nxb CTQG, H.2002, tr 554.
6
nề: nạn cờ bạc, hút sách, trộm cắp tràn lan, trình độ văn hoá thấp kém, 90%
dân số mù chữ. Nhưng khó khăn hơn cả vẫn là nạn ngoại xâm và nội phản: 20
vạn quân Tưởng tràn qua biên giới, đàng sau quân Tưởng là đế quốc Mỹ đang
âm mưu gạt Pháp ra khỏi Đông Dương. Ở phía Nam, quân Anh, dưới danh
nghĩa đồng minh kéo vào tiếp tay cho Pháp quay lại xâm chiếm Đông Dương.
Phối hợp với hành động này là hàng vạn tàn quân Nhật. Ngày 23-9-1945,
được quân Anh và quân Nhật làm bình phong, thực dân Pháp nổ súng xâm
lược Sài Gòn, mở đầu cuộc xâm lược Việt Nam và Đông Dương lần thứ hai.
Ở trong nước, dựa vào thế lực của đế quốc, nhiều đảng phái phản động như
Việt quốc, Việt cách ra sức chống phá chính quyền cách mạng. Tình hình thế
giới và khu vực chuyển biến phức tạp, thế giới bước vào thời kỳ “chiến tranh
lạnh”, mà tập trung mâu thuẩn là Xô- Trung. Các thế lực đế quốc có mưu đồ
chính trị riêng, muốn tiêu diệt các lực lượng tiến bộ trên thế giới. Do đó nước
ta chưa thể nhận viện trợ, giúp đỡ của Liên Xô và các nước, các lực lượng dân
chủ trên thế giới. Tình hình đó đòi hỏi Đảng và chính quyền cách mạng phải
phát huy tối đa nguồn nội lực để giữ vững chính quyền cách mạng, chuẩn bị
lực lượng mọi mặt để đối phó với chiến tranh xâm lược.
Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ,
trước kẻ thù có tiềm lực kinh tế, quân sự mạnh hơn ta gấp bội, nhưng bằng ý
chí tự lực tự cường, phát huy nội lực, Đảng ta vẫn chấp nhận cuộc đụng đầu
lịch sử, đánh địch và thắng địch bằng sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc và
được sự giúp đỡ to lớn, có hiệu quả của các nước XHCN anh em và của bầu
bạn quốc tế đã làm nên những chiến thắng vang dội chấn động địa cầu, thống
nhất đất nước, đưa cả nước đi lên CNXH. Chiến thắng đó là do Đảng ta giải
quyết tốt mối quan hệ giữa nêu cao tinh thần tự lực cánh sinh, dựa vào sức
mình là chính với mở rộng quan hệ quốc tế, tranh thủ sự giúp đỡ của quốc tế,
coi đó là một trong những nhân tố cơ bản bảo đảm cho thắng lợi của cách
mạng Việt Nam. Nếu không có sự giúp đỡ to lớn, có hiệu quả của bạn bè
7
quốc tế thì cuộc chiến tranh đó của nhân dân ta gặp rất nhiều khó khăn. Mặc
dù vậy, chúng ta hiểu rõ nội lực bao giờ cũng quyết định nhất. Chúng ta thấy
rằng trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, giai đoạn đầu khi chưa
khai thông biên giới, chủ yếu là dùng sức mạnh nội lực. Trong kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước khi xẩy ra bất đồng giữa các nước anh em, một số nước
có toan tính đen tối đối với cách mạng Việt Nam, gây cản trở làm cho
cách mạng nước ta gặp nhiều khó khăn, phức tạp. Nhưng với bản lĩnh
độc lập tự chủ, sáng tạo, Đảng ta đã sáng suốt ứng phó nhạy bén, khắc
phục mọi chướng ngại để giành thắng lợi cho cách mạng Việt Nam,
Đảng ta vẫn quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ, kiềm chế và thắng địch
trên chiến trường chính ở miền Nam, không để chiến tranh lan rộng ảnh
hưởng hoà bình thế giới, góp phần củng cố sự đoàn kết trong phong trào
cộng sản quốc tế. Trong quá trình cách mạng kết hợp sức mạnh dân tộc
với sức mạnh thời đại là nguyên tắc và trở thành bài học kinh nghiệm
cho mọi thành công, nếu không phát huy nội lực, coi đó là yếu tố quyết
định thì chúng ta không đi đến thắng lợi hoàn toàn.
Với quan điểm phát huy cao độ nguồn nội lực, đồng thời tranh thủ
ngoại lực, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong hơn 20
năm đổi mới đất nước (từ năm 1986 đến nay) chúng ta đã thu được nhiều
thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử quan trọng. Đó là, đất nước đã ra
khỏi khủng hoảng kinh tế- xã hội, co sự thay đổi cơ bản và toàn diện.
Kinh tế tăng trưởng khá nhanh, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoa,
phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN được đẩy mạnh. Đời
sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn
kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Chính trị- xã hội ổn định,
quốc phòng, an ninh được giữ vững. Vị thế nước ta trên trường quốc tế
được nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều,
tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên. Mở rộng quan hệ đối
8
ngoại, hợp tác kinh tế quốc tế với các nước và vùng lãnh thổ, phá đựơc
thế bao vây, cô lập, cấm vận của các thế lực thù địch, mở rộng được thị
trường, gia tăng được đối tác, tranh thủ được ngoại lực tạo thành sức
mạnh để phát triển đất nước, làm thất bại các ý đồ chống phá của các thế
lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam. đến nay, chúng ta đã thiết lập
ngoại giao với hơn 167 nước (kể cả 5 nước thường trực Hội đồng bảo an
Liên Hợp Quốc), quan hệ kinh tế thương mại với hơn 140 nước, thu hút
đầu tư trực tiếp của hơn 70 nước và vùng lãnh thổ. Những thành tựu đó
chứng tỏ quan điểm, đường lối của Đảng là đúng đắn, sáng tạo, phù hợp
với thực tiễn Việt Nam. Trong đó, phát huy cao độ nội lực, đồng thời
tranh thủ ngoại lực, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại đã
trở thành nguyên tắc và là bài học kinh nghiệm cho cách mạng Việt
Nam.
Ngày nay, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN,
kinh nghiệm phát huy nội lực, đồng thời tranh thủ ngoại lực, kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại vẫn có giá trị to lớn. Tuy nhiên,
ngày nay đã có những thay đổi lớn, có nhiều thuận lợi nhưng cũng còn
nhiều khó khăn thách thức mới cho các quốc gia, nhất là các nước đang
phát triển như ở nước ta. Đòi hỏi bức bách của toàn dân tộc lúc này là
“phải tranh thủ cơ hội, vượt qua thách thức, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ,
toàn diện và đồng bộ, phát triển nhanh và bền vững hơn” 4.
Trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về mối
quan hệ giữa sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, giữa yếu tố bên trong
và yếu tố bên ngoài, giữa phát huy nội lực và tranh thủ ngoại lực trong sự
nghiệp cách mạng. Từ thực tiễn thành công trong những giai đoạn cách mạng
vừa qua, cho ta bài học kinh nghiệm quý báu để Đảng ta tiếp tục phát huy
trong giai đoạn mới: Giai đoạn đổi mới, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của
4
ĐCSVN, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H. 2006, tr 75.
9
Đảng (4-2006) đã rút ra những bài học kinh nghiệm lớn và cũng là tư
tưởng chỉ đạo về phát triển kinh tế xã hội 5 năm tới. Nghị quyết nêu rõ: “
Phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ ngoại lực, kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới. Phát huy nội lực, xem
đó là nhân tố quyết định đối với sự phát triển; đồng thời coi trọng huy
động các nguồn ngoại lực, thông qua hội nhập và hợp tác quốc tế, tranh
thủ các nguồn lực bên ngoài để phát huy nội lực mạnh hơn, nhằm tạo ra
sức mạnh tổng hợp để phát triển đất nước nhanh và bền vững, trên cơ sở
giữ vững độc lập dân tộc và định hướng XHCN” 5.
Xây dựng và củng cố nội lực vững chắc, xem đó là nhân tố quyết định
có nghĩa là tạo ra cơ sở hạ tầng thuận lợi cho việc kinh doanh, phát triển sản
xuất, tạo ra môi trường lành mạnh cho đầu tư phát triển, thu hút vốn nước
ngoài và người nước ngoài đầu tư vào ngày càng nhiều. Có phát huy được nội
lực mới thu hút và sử dụng có hiệu quả ngoại lực. Các nước chỉ có thể đầu tư
và quan hệ với nước ta khi họ thấy nội lực của ta vững chắc. Nội lực là cơ sở
để đẩy mạnh hợp tác với bên ngoài, giúp cho Đảng, Nhà nước chủ động trong
mọi tình huống, nhất là những lúc thế giới, khu vực có những biến động,
khủng hoảng. Ngày nay cũng cần hiểu nội lực một cách toàn diện bao gồm
trước hết là yếu tố con người với phẩm chất, năng lực và các yêu cầu khác,
sau đó là đất đai, tài nguyên, cơ sở vật chất kỹ thuật và cả những kinh nghiệm
đã được tích luỹ. Do đó phải có chính sách phù hợp để huy động và sử dụng
có hiệu quả các nguồn lực, phát huy tối đa khả năng về vật chất, trí tuệ và tinh
thần của mọi người dân, của các thành phần kinh tế, đặc biệt là kinh tế tư
nhân- một nguồn lực giàu tiềm năng của dân tộc ta, để góp phần quan trọng
giải quyết việc làm, đẩy nhanh và nâng cao hiệu quả phát triển kinh tế xã hội.
Trong điều kiện xây dựng đất nước từ một nền kinh tế mà sản xuất nhỏ là phổ
biến, thì khuyến khích kinh tế tư nhân là một hướng quan trọng để giải phóng
các tiềm năng kinh tế trong xã hội phát triển sản xuất, giải quyết việc làm và
5
ĐCVN, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H. 2006, tr 71.
10
đáp ứng nhu cầu đa dạng của nhân dân. Phát huy nội lực cần quán triệt sâu
sắc quan điểm cần kiệm để tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Hiện nay
tình trạng tiêu dùng quá mức, lảng phí, thất thoát, tham nhũng đang là nguy
cơ không nhỏ làm vô hiệu hoá quan điểm cần kiệm. Phát huy nội lực đòi hỏi
phải nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế. Điều này đòi hỏi phải nâng cao
năng suất, chất lượng hiệu quả sản xuất, giảm giá thành các hàng hoá, khuyến
khích đổi mới công nghệ, phương pháp quản lý. Phát triển nhanh phải đi đôi
với nâng cao tính bền vững, hai mặt tác động lẫn nhau, được thể hiện cả tầm
vĩ mô và vi mô, cả ngắn hạn và dài hạn. Trong khi khai thác các yếu tố theo
chiều rộng, phải đặc biệt coi trọng phát triển theo chiều sâu, phát triển kinh tế
tri thức. Phát huy nội lực phải ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất đi đôi với
việc xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với định hướng XHCN; gắn tăng
trưởng kinh tế với phát triển văn hoá, phát triển toàn diện con người, thực
hiện dân chủ, tiến bộ và công bằng xã hội, tạo nhiều việc làm cải thiện đời
sống, khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xoá đói, giảm nghèo. Từng
bước thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng. Phải chú trọng bảo vệ và
cải thiện môi trường ngay trong từng bước phát triển. Phát triển kinh tế phải
đi đôi với ổn định chính trị xã hội, coi đây là tiền đề, điều kiện để phát triển
nhanh và bền vững. Giai đoạn mới phát triển của đất nước đòi hỏi công cuộc
đổi mới phải đi vào chiều sâu và toàn diện hơn, phải hình thành nhanh và
đồng bộ các yếu tố của kinh tế thị trường và hệ thống thể chế kinh tế thị
trường định hướng XHCN, thực hiện đầy đủ các nguyên tắc của thị trường.
Đồng thời phải chăm lo tốt hơn phúc lợi xã hội, giải quyết việc làm, xoá đói,
giảm nghèo, phát triển giáo dục, văn hoá, chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân.
Phát huy nội lực còn phải đề cao ý chí tự lực tự cường của toàn dân tộc, vai
trò trách nhiệm của Nhà nước và sự đóng góp của toàn xã hội để thực hiện tốt
phát triển kinh tế xã hội gắn với phát triển văn hoá, xã hội, thực hiện tốt hai
nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN.
11
Lịch sử cách mạng nước ta chứng minh rằng nội lực luôn luôn là yếu tố
quyết định nhưng tận dụng ngoại lực là rất quan trọng. Phát huy nội lực không có
nghĩa là bài ngoại, trái lại càng làm cho việc hợp tác quốc tế được mở rộng và có
hiệu quả. Trong tình hình hiện nay nếu “đóng cửa” là rơi vào trì trệ, tụt hậu nhanh
và xa hơn với các nước. Do đó phát huy nội lực đồng thời phải tranh thủ ngoại lực
để xây dựng phát triển đất nước là yêu cầu khách quan trong các giai đoạn của
cách mạng, đặc biệt là trong giai đoạn cách mạng hiện nay.
Ngoại lực có vai trò quan trọng đối với sự phát triển. Kết hợp tốt nội lực
với ngoại lực sẽ tạo thành sức mạnh tổng hợp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Ngoại lực bao gồm cả vốn, công nghệ, kỹ năng quản lý và thị trường bổ sung
cho nội lực, tạo thêm điều kiện để huy động và sử dụng nội lực có hiệu quả
cao hơn. Trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, ngoại lực
càng trở nên quan trọng. Một nước đang phát triển ở trình độ thấp như ở nước
ta, muốn vươn lên theo kịp các nước không thể coi nhẹ việc thu hút và sử
dụng tốt nhất ngoại lực. Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế để thu hút
vốn, công nghệ cho phát triển đất nước, phải có chiến lược, sách lược phù
hợp, đồng bộ; có lộ trình, bước đi tích cực, vững chắc, không do dự, chần
chừ, nhưng cũng không được nóng vội, giản đơn. Tranh thủ nguồn lực bên
ngoài phải tích cực mở rộng thị trường bên ngoài để đẩy mạnh xuất khẩu,
đồng thời phải mở cửa thị trường trong nước, kể cả thị trường dịch vụ để thu
hút mạnh vốn đầu tư, công nghệ và kỹ năng quản lý tiên tiến, nâng cao hiệu
quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế. Trong quá trình mở cửa, hội nhập với nền
kinh tế thế giới, phải biết phát huy lợi thế so sánh, tạo môi trường cạnh tranh
để phát triển. Đồng thời, để phát triển bền vững, bảo đảm sự ổn định, tăng khả
năng độc lập tự chủ của đất nước, nhất thiết phải tăng cường tiềm lực và bảo
đảm an ninh kinh tế, đi đôi với củng cố quốc phòng, an ninh.
Phát huy nội lực, tranh thủ ngoại lực, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh của thời đại là một bài học thành công đã được Đảng ta và chủ tịch Hồ
12
Chí Minh vận dụng trong tiến trình cách mạng Việt Nam. Với đường lối đúng
đắn đó, Đảng đã phát huy được sức mạnh to lớn của toàn dân tộc Việt Nam và
đã tranh thủ được sự ủng hộ, giúp đỡ to lớn của nhân dân thế giới đã làm nên
những chiến thắng vang dội từ đấu tranh giành chính quyền, bảo vệ chính
quyền, trong kháng chiến chống Pháp- Mỹ, trong sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc XHCN. Đặc biệt là trong sự nghiệp đổi mới đất nước, đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh.
Ngày nay, phát huy nội lực, đồng thời tranh thủ ngoại lực, kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là vấn đề có tính nguyên tắc không những
đối với cách mạng Việt Nam mà cả thế giới. Hiện nay đang đặt ra những khó
khăn, thách thức mới đòi hỏi phải đứng vững trên lập trường của giai cấp
công nhân, phân tích khách quan, khoa học tình hình thế giới và trong
nước để giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa nội lực với ngoại lực, giữa
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Luôn kiên định với mục tiêu, con
đường đã lựa chọn, không bi quan, chán nản, giao động trước những thách
thức và sự chống phá của kẻ thù. Nhạy bén nắm bắt tình hình thế giới,
trong nước để kịp thời điều chỉnh chủ trương, chính sách cho phù hợp với
thực tiễn. Nắm vững hai mặt vừa hợp tác vừa đấu tranh trong quan hệ hợp
tác quốc tế. Nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường, đồng thời
tranh thủ mọi khả năng đoàn kết hợp tác quốc tế. Thực tiễn cách mạng
Việt Nam và cách mạng thế giới đã chứng minh rằng: thời kỳ nào chúng
ta giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa nêu cao tinh thần độc lập tự chủ,
tự lực, tự cường với tranh thủ đoàn kết quốc tế thì cách mạng thành công;
và ngược lại, thời kỳ nào không giải quyết đúng đắn mối quan hệ này là
thất bại. Do vậy trong tình hình hiện nay mặc dù Việt Nam đã gia nhập các tổ
chức thương mại thế giới, mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế nhưng vẫn phải
nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, coi yếu tố nội lực vẫn là quyết định. Giữ
13
vững nguyên tắc độc lập tự chủ, tự lực tự cường trong quá trình hội nhập, tuỳ
từng đối tượng, điều kiện, hoàn cảnh cụ thể mà có chủ trương, chính sách cụ
thể trong quan hệ, chống tư tưởng giáo điều, rập khuôn máy móc kinh nghiệm
nước ngoài hoặc dựa dẫm, ỷ lại, lệ thuộc vào bên ngoài. Kết hợp chủ nghĩa
yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, giữ vững
định hướng XHCN trong quan hệ, hợp tác quốc tế, kết hợp nguồn lực trong
nước và nguồn lực ngoài nước, yếu tố truyền thống và yếu tố hiện đại, lợi ích
dân tộc và lợi ích quốc tế để phát triển.