Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

TIỂU LUẬN LỊCH sử ĐẢNG sự THỐNG NHẤT GIỮA CƯƠNG LĨNH đầu TIÊN và CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ THÁNG 10 năm 1930 của ĐẢNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.09 KB, 21 trang )

MỞ ĐẦU
Mỗi một chính đảng hoặc tổ chức chính trị, để có chính danh, định hướng
hành động cho các thành viên của mình và tập hợp tổ chức quần chúng, thường
cần phải có cương lĩnh hoặc những văn bản có tính cương lĩnh (như tuyên
ngôn, tuyên bố, lời kêu gọi...), trong đó trình bày những quan điểm cơ bản về
mục đích, đường lối, nhiệm vụ, cách thức hoạt động cho một giai đoạn lịch sử
nhất định. Cương lĩnh chính trị là cơ sở để vạch ra các mục tiêu, nhiệm vụ, xác
định chủ trương, biện pháp tập hợp lực lượng và tổ chức đấu tranh thực hiện
các mục tiêu và nhiệm vụ chính trị cụ thể thích ứng với điều kiện và tình thế
chính trị của mỗi giai đoạn đấu tranh chính trị([1]). Đảng Cộng sản Việt Nam từ
ngày thành lập đến nay đã có bốn cương lĩnh chính trị (kể cả Cương lĩnh bổ
sung, phát triển năm 2011), một cương lĩnh ruộng đất và một số văn kiện khác
có tính cương lĩnh về văn hóa, về quân sự...Các cương lĩnh đều có mối liên hệ
và kế thừa phát triển tích cực. Để làm rõ hơn về mối liên hệ thống nhất giữa
cương lĩnh chính trị đầu tiên và luận cương tháng 10 năm 1930 tôi chọn nội
dung “Sự thống nhất giữa Cương lĩnh đầu tiên của Đảng và Luận cương
Chính trị tháng 10/1930” làm chủ đề tiểu luận.
1. Những vấn đề cơ bản của nội dung cương lĩnh đầu tiên và luận
cương tháng 10 năm 1930
1.1. Nội dung cương lĩnh đầu tiên.
Chánh cương vắn tắt của Đảng do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo và
được Hội nghị thành lập Đảng (tháng 2-1930) thảo luận, thông qua. Tuy rất
"vắn tắt", ngắn gọn, chỉ có 282 chữ, nhưng Chánh cương đã xác định rõ ràng
nhiều vấn đề cơ bản về chiến lược và sách lược của cách mạng Việt Nam.
Sau khi phân tích tình hình xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX
dưới ách thống trị của thực dân Pháp và triều đình phong kiến nhà
Nguyễn, Chánh cương vạch ra đường lối của cách mạng Việt Nam là "làm tư
1


sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản".


Nghĩa là làm cách mạng dân tộc dân chủ tiến lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa
cộng sản.
Chánh cương chỉ rõ, về chính trị: Đánh đổ ách thống trị của thực dân Pháp
và chế độ phong kiến, làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập, dựng ra
chính phủ công nông binh, tổ chức ra quân đội công nông.
Về kinh tế: Thủ tiêu hết các thứ quốc trái; tịch thu hết các sản nghiệp lớn
(như công nghiệp, vận tải, ngân hàng...) của tư bản Pháp để giao cho chính phủ
công nông binh quản lý; tịch thu ruộng đất của tư bản Pháp và đại địa chủ để
làm của công chia cho dân cày nghèo, bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo; mở
mang phát triển công nghiệp và nông nghiệp; thi hành luật ngày làm 8 giờ.
Về xã hội: Dân chúng được tự do tổ chức, nam nữ bình quyền, thực hiện
phổ thông giáo dục theo công nông hóa.
Cùng với Chánh cương vắn tắt, đồng chí Nguyễn Ái Quốc còn soạn thảo
và được Hội nghị thành lập Đảng thông qua Sách lược vắn tắt, Chương trình
vắn tắt, Điều lệ vắn tắt và Lời kêu gọi nhân dịp thành lập Đảng. Trong đó chỉ
rõ: Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng của giai cấp vô sản; Đảng được tổ chức
ra để dìu dắt giai cấp vô sản lãnh đạo quần chúng lao khổ đấu tranh giải phóng
cho toàn thể anh chị em bị áp bức, bóc lột, tiêu trừ tư bản đế quốc, làm cho
thực hiện xã hội cộng sản. Ai tin theo chủ nghĩa cộng sản, chương trình của
Đảng, hăng hái tranh đấu và dám hy sinh phục tùng mệnh lệnh Đảng và đóng
kinh phí, chịu phấn đấu trong một tổ chức Đảng thì được vào Đảng. Đảng viên
có trách nhiệm tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản và cổ động quần chúng theo
Đảng; tham gia mọi sự tranh đấu về chính trị và kinh tế của công nông; thực
hành cho được chính sách và nghị quyết của Đảng... Tất cả những tài liệu này
đã trở thành những văn kiện quan trọng có tính kinh điển của Đảng ta, xác lập
đường lối chiến lược, sách lược cơ bản của cách mạng Việt Nam và tôn chỉ,
mục đích, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam.
2



1.2. Luận cương chánh trị của Đảng Cộng sản Đông Dương.
- Luận cương chánh trị của Đảng Cộng sản Đông Dương (còn được gọi là
Luận cương cách mạng tư sản dân quyền) do đồng chí Trần Phú khởi thảo và
được Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương (tháng 10-1930) thảo luận, thông
qua. Luận cương được soạn thảo trong hoàn cảnh hết sức khó khăn do bị địch
khủng bố, truy lùng gắt gao và thiếu mọi phương tiện. Luận cương dài 16 trang.
Luận cương đã phân tích tình hình thế giới và cách mạng Đông Dương từ
sau chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 - 1918) đến năm 1930. Luận cương
nhận định: Ở Đông Dương, do tính chất chính trị và kinh tế chi phối, sự mâu
thuẫn giai cấp ngày càng kịch liệt, một bên là thợ thuyền, dân cày và các tầng
lớp lao khổ với một bên là địa chủ, phong kiến, đế quốc, tư bản chủ nghĩa. Để
giải quyết các mâu thuẫn đó, Đông Dương chỉ có con đường làm cách mạng
giải phóng dân tộc; cách mạng Đông Dương là một cuộc cách mạng tư sản dân
quyền có tính chất phản đế và điền địa. Cách mạng tư sản dân quyền là thời kỳ
dự bị để tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa không qua giai đoạn phát triển tư
bản chủ nghĩa.
Mục tiêu của cách mạng tư sản dân quyền ở Đông Dương là đánh đổ đế
quốc và phong kiến, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập. Cơ sở bảo đảm
cho cách mạng thắng lợi là dựng lên chính phủ công nông. Giai cấp công nhân
và giai cấp nông dân là hai động lực chính của cách mạng, trong đó giai cấp
công nhân vừa là một động lực chính, vừa là giai cấp lãnh đạo.
Nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng tư sản dân quyền ở nước ta là đánh đổ
đế quốc chủ nghĩa Pháp, phong kiến và địa chủ, lập ra chính phủ công nông,
tịch thu ruộng đất của địa chủ nước ngoài, bản xứ và giáo hội trao cho nông
dân; quyền sở hữu ruộng đất là chính phủ công nông; sung công tất cả các sản
nghiệp lớn của tư bản nước ngoài; bãi bỏ các sưu thuế hiện thời, lập ra thuế lũy
tiến, ngày làm công 8 giờ, cải thiện sinh hoạt cho thợ thuyền và những người lao
động; xứ Đông Dương hoàn toàn độc lập, thừa nhận dân tộc tự quyết; lập quân
3



đội công nông; thực hiện nam nữ bình quyền; ủng hộ Liên Xô, liên kết với giai
cấp công nhân thế giới và phong trào cách mạng thuộc địa, bán thuộc địa.
Phương pháp đấu tranh của quần chúng là bãi công, bãi công thị oai, bãi
công võ trang, tổng bãi công bạo động; kết hợp đòi quyền lợi hằng ngày như
tăng tiền lương, bớt giờ làm, giảm thuế, chống thuế,... với mục đích lớn của
Đảng là đánh đổ đế quốc, địa chủ phong kiến, giành độc lập, lập chính phủ
công nông. Vấn đề võ trang bạo động phải được tính toán, cân nhắc kỹ, không
được manh động hoặc võ trang bạo động non. Trong cuộc đấu tranh sinh tử
này, cần có mối liên hệ chặt chẽ với cách mạng thế giới.
Về vai trò lãnh đạo của Đảng, Luận cương chỉ rõ: Điều kiện cốt yếu cho
sự thắng lợi của cuộc cách mạng ở Đông Dương là cần phải có một đảng cộng
sản có đường lối chính trị đúng, có kỷ luật tập trung, mật thiết liên lạc với quần
chúng và từng trải tranh đấu mà trưởng thành. Đảng là đội tiên phong của vô
sản giai cấp lấy chủ nghĩa Các Mác và V.I. Lê-nin làm gốc, đại biểu cho quyền
lợi chính và lâu dài cho cả giai cấp vô sản, lãnh đạo tranh đấu để đạt mục đích
cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản.
Như vậy, toàn bộ nội dung Luận cương chánh trị của Đảng Cộng sản
Đông Dương là trình bày những tư tưởng cơ bản về mục tiêu, nhiệm vụ và
phương pháp đấu tranh cách mạng của Đảng Cộng sản Đông Dương, tiếp tục
khẳng định và bổ sung một số vấn đề cốt lõi về con đường cách mạng của Việt
Nam mà Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã nêu. Thông qua những nội dung cơ
bản của Cương lĩnh và Luận cương chúng ta đã phầng nào thấy được sự tương
đồng giữa hai nội dung này. Để hiểu sâu hơn về sự tương đồng này cần phải
nghiên cứu phân tích làm rõ từng khía cạnh, nội dung của Cương lĩnh và Luận
cương của Đảng ta năm 1930
2. Sự thống nhất của Cương lĩnh chính trị đầu tiên với Luận cương
chính trị tháng 10 năm 1930

4



Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời là một tất yếu của lịch sử, là một bước
ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam. Để xác lập đường lối, chiến lược, sách
lược cơ bản của cách mạng Việt Nam và tôn chỉ mục đích, nguyên tắc tổ chức
và hoạt động của Đảng cộng sản Việt Nam, cương lĩnh chính trị đã được vạch
ra. Tại hội nghị thành lập Đảng từ ngày 3/2/1930 đến ngày 7/2/1930 ở Hương
Cảng - Trung Quốc, các đại biểu đã nhất trí thông qua Chính cương vắn tắt,
Sách lược văn tắt và Chương trình tóm tắt do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo. Các
văn kiện đó hợp thành Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng ta Cương lĩnh
Hồ Chí Minh. Tiếp theo đó, vào tháng 10.1930 cũng tại Hương Cảng - Trung
Quốc Ban chấp hành Trung ương họp Hội nghị lần thứ nhất đã thông qua Luận
cương chính trị do đồng chí Trần Phú soạn thảo.
Cương lĩnh chính trị và luận cương chính trị là những văn kiện thể hiện
đường lối cách mạng của Đảng ta. Giữa hai văn kiện này có sự thống nhất
tương đồng và là một hệ thống quan điểm đường lối lãnh đạo cách mạng của
Đảng ta. Các cương lĩnh chính trị của Đảng có mối liên hệ kế thừa và phát triển
theo hướng càng ngày càng hoàn chỉnh và đầy đủ hơn. Tuy nhiên, trên thực tế
có một số ý kiến cho rằng giữa Cương lĩnh chính trị đầu tiên (Chánh cương
vắn tắt) và Luận cương chánh trị của Đảng năm 1930 có mâu thuẫn với nhau,
cái sau phê phán cái trước và thụt lùi so với cái trước. Đây là những quan điểm
nhìn nhận một cách phiến diện, đánh giá thiếu khách quan và thiếu chính xác.
Để góp phần làm rõ vấn đề này, tôi trình bày mối liên hệ giữa hai văn kiện ấy
qua các phương diện có tính chất chung và cơ bản nhất đó là: Nhiệm vụ chiến
lược; Mục đích và đường lối chiến lược; Lực lượng cách mạng chủ yếu; Giai
cấp lãnh đạo; Phương pháp cách mạng; Quan hệ đồng minh quốc tế.

1.1. Về nhiệm vụ chiến lược

5



Cả hai cương lĩnh đều xác định nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt
Nam trong giai đoạn đầu, giai đoạn cách mạng tư sản dân quyền là đánh đổ đế
quốc và phong kiến, làm cho nước Việt Nam được độc lập, nhân dân được tự
do, đưa ruộng đất cho dân cày nghèo…
- Cương lĩnh chính trị đầu tiên:
+ Về phương diện xã hội: Dân chúng được tự do tổ chức; Nam nữ bình
quyền; Phổ thông giáo dục theo công nông hóa.
+ Về phương diện chính trị: Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn
phong kiến; Làm cho nước Nam hoàn toàn độc lập; Dựng ra Chính phủ công
nông binh; Tổ chức ra quân đội công nông.
+ Về phương diện kinh tế: Thủ tiêu hết các thứ quốc trái; Thâu hết sản
nghiệp lớn (như công nghiệp, vận tải, ngân hàng,v.n) của tư bản đế quốc chủ
nghĩa Pháp để giao cho Chính phủ công nông binh quản lý; “Thâu hết ruộng đất
của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo…”[3, tr.93-94].
- Luận cương chánh trị ghi: “Nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng tư sản
dân quyền là: Đánh đổ đề quốc chủ nghĩa Pháp, phong kiến và địa chủ; Lập
chánh phủ công nông; Xứ Đông Dương hoàn toàn độc lập; “Lập quân đội công
nông”[3, tr.2-3].
Nghĩa là cả hai cương lĩnh đều xác định cách mạng Việt Nam trong giai
đoạn đầu là tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng. Tư sản dân quyền cách
mạng là cách mạng về phương diện chính trị, thổ địa cách mạng là cách mạng
về phương diện kinh tế. Hai nhiệm vụ chiến lược ấy quan hệ mật thiết với
nhau hợp thành cách mạng tư sản kiểu mới. Không có cương lĩnh nào nói
chống đế quốc là hàng đầu hay chống phong kiến là hàng đầu như một số công
trình khẳng định. Cũng không có cương lĩnh nào nói vấn đề ruộng đất là là thứ
hai, là để phục vụ nhiệm vụ dân tộc. Tuy nhiên, theo cách nói đánh đổ “Đế
quốc chủ nghĩa Pháp và bọn vua quan, phong kiến địa chủ” thì cần hiểu là cả
hai cương lĩnh đều coi mục tiêu, nhiệm vụ chống đế quốc là hàng đầu.


6


Luận cương chánh trị ghi: “Sự cốt yếu của tư sản dân quyền cách
mạng thì một mặt là phải tranh đấu để đánh đổ các di tích phong kiến, đánh đổ
các cách bóc lột theo lối tiền tư bổn và để thực hành thổ địa cách mạng cho
triệt để, một mặt nữa là tranh đấu để đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, làm cho
Đông Dương hoàn toàn độc lập. Hai mặt tranh đấu có liên lạc mật thiết với
nhau, vì có đánh đổ đế quốc chủ nghĩa mới phá được giai cấp địa chủ và làm
cách mạng thổ địa được thắng lợi; mà có phá tan chế độ phong kiến thì mới
đánh đổ được đế quốc chủ nghĩa”[3,tr.95]. Có ý kiến cho rằng quan niệm này
là sai vì đặt hai nhiệm vụ ngang nhau, thậm chí còn cho đó là đưa nhiệm vụ
chống phong kiến lên trên nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Thức chất, đây là nói
về mối quan hệ biện chứng giữa hai nhiệm vụ chiến lược của một cuộc cách
mạng có mục tiêu “kép” chứ không hẵn là nguyên tắc coi hai nhiệm vụ phải
tiến hành song song trong mọi giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ hay đưa
nhiệm vụ dân chủ lên hàng đầu.
Nói cách khác, “Vấn đề thổ địa là cái cốt của cách mạng tư sản dân
quyền” là nói về “phương diện kinh tế” của cách mạng tư sản dân quyền, do
đó không phải là đưa nhiệm vụ phản đế lên hàng đầu. Luận cương chánh trị
coi vấn đề ruộng đất là “cái cốt” chứ không coi là nhiệm vụ “hàng đầu” của
cách mạng tư sản dân quyền nên về điểm này không thể phê phán là sai về chỉ
đạo chiến lược hay đường lối chiến lược.
Ngay sau Hội nghị Trung ương tháng 10-1930, trong Thư gửi Đảng
Cộng sản Đông Dương, ngày 13-11-1930, Ban Phương Đông thuộc Bộ Viễn
Đông của Quốc tế Cộng sản, có ghi: “Cách mạng Đông Dương trong giai đoạn
hiện nay là một cuộc cách mạng dân chủ tư sản, chống đế quốc. Những nhiệm
vụ trước mắt là: giải phóng khỏi ách thống trị và áp bức của đế quốc và giành
độc lập hoàn toàn. Đồng thời tiến hành cuộc cách mạng điền địa triệt để,

không thỏa hiệp và xóa bỏ mọi quan hệ và di tích phong kiến và nửa phong
kiến. Đông lực của cách mạng Đông Dương là: giai cấp vô sản và giai cấp
7


nông dân… Đồng minh trực tiếp của bọn đế quốc là: địa chủ, phong kiến, kỳ
hào và giai cấp tư sản dân tộc”[3 tr.274-275]. Nếu nói Luận cương chánh trị là
“tả” trong vấn đề xác định lực lượng cách mạng và kẻ thù cách mạng thì Thư
này của Ban Phương Đông ra đời muộn hơn cũng mắc hạn chế tương tự.
Điều đáng lưu ý là trong giai đoạn này có một văn kiện đề cập đến cả
hai cương lĩnh. Đó là Chỉ thị của Trung ương Thường vụ về vấn đề thành lập
Hội “Phản đế đồng minh” ngày 18-11-1930. Chỉ thị có đoạn: “Chánh cương
sách lược của cuộc cách mạng tư sản dân quyền ở Đông Dương đã phân tích:
Giai cấp công nhân không đồng minh được với giai cấp nông dân là lực lượng
tất yếu của cách mạng thì không đánh đổ được đế quốc Pháp và tụi phong kiến
phản cách mạng trong nước; trái lại đông minh với nông dân mà không có
khẩu hiệu chia đất cho dân cày, thì dân cày sẽ không hưởng ứng. Như vậy
cũng không làm được cuộc cách mạng tư sản dân quyền thành công.
Trên đó là hai động lực chính căn bản cho sự bố trí hàng ngũ cách
mạng; còn mặt khác nữa là giai cấp vô sản lãnh đạo cuộc cách mạng tư sản
dân quyền ở Đông Dương mà không tổ chức được toàn dân lại thành một lực
lượng thật đông, thật kín thì cuộc cách mạng cũng khó thành công (rộng là
toàn dân cùng đứng trong một mặt trận chống đế quốc và tụi phong kiến làm
tay sai phản động hèn hạ; kín là đặt để công nông trong bức tường thành dân
tộc phản đế bao la).
Từ trước các đồng chí chưa rõ vấn đề ấy, mà nay cũng vẫn mập mờ, nên
dù tổ chức cách mạng vẫn đơn thuần công nông và là một màu sắc nhất định
như: Công hội đỏ, Nông hội đỏ, Thanh niên đỏ, Sinh hội đỏ, và Cứu tế đỏ; do
đó thiếu mặt tổ chức thật quảng đại quần chúng, hấp thụ các tầng lớp trí thức
dân tộc, tư sản dân tộc…

Đó chính là hiểu chậm chạp và chưa thật triệt để Luận cương cách mạng
tư sản dân quyền… Do đó chúng ta đã tách rời dân tộc cách mạng với giai cấp

8


cách mạng làm hai đường mà chưa nhận định đúng là dân tộc cách mạng vẫn
là một nhiệm vụ trong giai cấp cách mạng. Sự chuyển biến lối này hay lối khác
đó là hoàn cảnh từng nơi từng lúc, chứ không phải hai đường sai trái nhau.
Hơn nữa trong Chính cương sách lược đã đề ra phản đế và điền địa là
song song, thì tổ chức Phản đế đồng minh là đúng và cần, nên nhắc lại để các
cấp đảng ủy và các đồng chí nhận thức rõ ràng trên hai mặt lý thuyết và thực
hành”[3,tr.227-228].
Theo tôi nhận xét của chỉ thị này là hoàn toàn khách quan, rất đáng lưu
ý khi nghiên cứu về quan hệ giữa nhiệm vụ dân tộc và dân chủ trong hai cương
lĩnh năm 1930 của Đảng.
1.2. Về mục đích và đường lối chiến lược
Hiểu theo nghĩa đơn giản, cương lĩnh là văn bản xác định mục đích
chiến lược và con đường đi tới mục đích ấy (cương là dây, lĩnh là
đỉnh). Cương lĩnh chính trị đầu tiên và Luận cương chánh trị đều có mục đích
như nhau, đều chủ trương đưa cách mạng phát triển trải qua hai giai đoạn: cách
mạng tư sản kiểu mới và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cả 2 văn kiện đều xác
định được tích chất của cách mạng Việt Nam là Cách mạng tư sản dân quyền và
thổ địa cách mạng, bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa để đi tới xã hội cộng sản,
đây là 2 nhiệm vụ cách mạng nối tiếp nhau không có bức tường ngăn cách.
Phương hướng chiến lược đã phản ánh xu thế của thời đại và nguyện vọng đông
đảo của nhân dân Việt Nam. Cách mạng tư sản kiểu mới hay cách mạng tư sản

dân quyền có mục đích là đánh đổ đế quốc, phong kiến, giành độc lập dân tộc
và dựng nên chính quyền dân chủ, đưa ruộng đất cho dân cày. Cách mạng xã

hội chủ nghĩa là cuộc cách mạng kế tiếp cách mạng tư sản dân quyền, có mục
đích là xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản để giải phóng xã hội,
giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
Cương lĩnh chính trị đầu tiên ghi: Đảng “chủ trương làm tư sản dân quyền
cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. “Đánh đổ đế quốc
9


chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến. Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập.
Dựng ra chính phủ công nông binh... Thâu hết sản nghiệp lớn… của tư bản đế
quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho Chính phủ công nông binh quản lý. Thâu hết
ruộng đất của đề quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo” [2,tr.23]. Luận cương chánh trị ghi: “Trong lúc đầu, cuộc cách mạng Đông Dương sẽ
là một cuộc cách mạng tư sản dân quyền… Tư sản dân quyền cách mạng là
thời kỳ dự bị để làm xã hội cách mạng. Tư sản dân quyền cách mạng được
thắng lợi, chánh phủ công nông đã dựng lên rồi, thì công nghiệp được phát
triển, các tổ chức vô sản được thêm mạnh… xứ Đông Dương sẽ nhờ vô sản
giai cấp chuyên chánh các nước giúp sức cho mà phát triển, bỏ qua thời kỳ tư
bổn mà tranh đấu thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa”[3].
Nghĩa là tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là cốt lõi
của cả hai cương lĩnh chứ không chỉ ở riêng của một cương lĩnh nào.
Tuy nhiên, cả hai cương lĩnh và cả trong Lời kêu gọi nhân dịp thành lập
Đảng của Nguyễn Ai Quốc đều cho rằng chính thể cách mạng của giai đoạn
đầu là Chính phủ công nông binh. Đó là chủ trương không phù hợp với thực
tiễn Việt Nam. Có ý kiến cho rằng mô hình nhà nước công nông binh, chính
quyền Xô viết ở Nghệ Tĩnh, các công hội đỏ, nông hội đỏ, tự vệ đỏ và khẩu
hiệu “trí phú địa hào, đào tận gốc trốc tận rễ” là sản phẩm của Luận cương
chánh trị.Y kiến ấy là không đúng, không khách quan. Vì Luận cương chánh
trị đến tháng cuối tháng 10-1930 mới được thông qua, trong khi đó, cao trào
cách mạng 1930-1931 và Xô viết Nghệ Tĩnh đến tháng 10-1930 đã tới đỉnh
cao và chuyển sang sang thoái trào. Chủ trương thành lập chính phủ công nông

binh nếu là giáo điều, “tả” khuynh thì đó điều đã ghi ở Chánh cương vắn tắt và
trong Lời kêu gọi nhân dịp thành lập Đảng của Nguyễn Ái Quốc.
1.3. Về lực lượng cách mạng

10


Cả hai cương lĩnh đều coi liên minh công nông là lực lượng chính và hết
sức quan tâm đến lợi ích của công nông, đều có chỗ nhận thức chưa đầy đủ về
vai trò và tính tích cực cách mạng của các giai cấp địa chủ, tư sản, tiểu tư sản ở
một nước thuộc địa.
Cương lĩnh chính trị đầu tiên ghi: “Đảng phải thu phục cho được đại bộ
phận dân cày và phải dựa vào hạng dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng đánh
trúc bọn đại địa chủ và phong kiến… Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí
thức, trung nông, Thanh Niên, Tân Việt,v.v. để kéo họ đi vào phe vô sản giai
cấp”[3]. “Đảng tập hợp đa số quần chúng nông dân, chuẩn bị cách mạng thổ địa và
lật đổ bọn địa chủ và phong kiến… Đảng giải phóng công nhân và nông dân thoát
khỏi ách tư bản”[3].
Luận cương chánh trị ghi: Vô sản giai cấp là “một động lực chánh
và rất mạnh của cách mạng ở Đông Dương”, dân cày là “một động lực
mạnh cho cách mạng tư sản dân quyền”. “Đồng minh của giai cấp vô sản
là bọn trung và bần nông”[3].
Những quan điểm đó cơ bản là đúng đắn, vì cách mạng là sự nghiệp
của quần chúng nhân dân mà công nông là lực lượng đông đảo nhất, cách
mạng nhất, không có liên minh công nông sẽ không có cách mạng Việt
Nam. Mặt khác, đã là Đảng Cộng sản thì đương nhiên phải quan tâm đến lợi
ích của quần chúng lao động, đông đảo nhất, căn bản nhất là công nông.
Không quan tâm đến lợi ích của nhân dân, trong đó cơ bản, đông đảo nhất là
công nông thì đó không phải là Đảng Cộng sản. Điều này thuộc về nguyên
tắc bản chất giai cấp của Đảng Cộng sản và quan niệm đó không trái với

quan điểm coi trọng lợi ích toàn dân tộc. Đây là điểm riêng có của Đảng
Cộng sản, một đảng chính trị, có tính giai cấp rõ ràng mà càng quan tâm đến
lợi ích giai cấp mình thì càng quan tâm đến lợi ích của mọi giai tầng xã hội
khác, muốn giải phóng giai cấp mình thì phải ra sức giải phóng tất cả các

11


giai tầng xã hội, phải giải phóng dân tộc. Hiện nay, Đảng ta vẫn kiên định
quan điểm này nên luôn chủ trương độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội.
Tuy nhiên, việc tập hợp lực lượng cách mạng quá coi trọng liên minh
công nông, nhấn mạnh vai trò và quyền lợi của giai cấp công nhân, giai cấp
nông dân vào thời điểm đất nước còn bị đế quốc đô hộ là chưa phù hợp, thể
hiện tư tưởng giáo điều, “tả” khuynh, nóng vội. Cả hai cương lĩnh đều mắc
hạn chế này.
Cương lĩnh chính trị đầu tiên cho rằng: “Đảng phải thu phục cho
được đại bộ phận dân cày và phải dựa vào hạng dân cày nghèo làm thổ địa
cách mạng đánh trúc bọn bọn đại địa chủ và phong kiến”. “Còn đối với
bọn phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản
cách mạng thỉ phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ trung lập. Bộ phận nào
đã ra mặt phản cách mạng (Đảng Lập hiến, v.v...) thì phải đánh đổ”.
“Trong khi liên lạc với các giai cấp, phải rất cẩn thận, không khi nào
nhượng một chút lợi ích gì của công nông mà đi vào đường thỏa
hiệp...”[3]. “Không bao giờ Đảng lại hy sinh quyền lợi của giai cấp công
nhân và nông dân cho một giai cấp nào khác”[3]. Đoạn trích đó thể hiện
Chánh cương vắn tắt có quan điểm giai cấp rất “rạch ròi”, có sự phân
biệt và “dè dặt” trong tập hợp lực lượng cách mạng.
Luận cương chánh trị ghi: “bọn tư bổn thương mại… đứng về một phe
với đế quốc chủ nghĩa và địa chủ mà chống cách mạng. Bọn tư bổn công

nghệ…vì sức lực yếu kém, có dính dáng với địa chủ, sợ phong trào vô sản
“cho nên chúng nó không thể đứng về quốc gia cách mạng mà chỉ đứng về mặt
quốc gia cải lương”. “Bọn thủ công nghiệp thì thái độ của chúng nó đối với
cách mạng rất do dự”. Bọn tiểu thương thì không tán thành cách mạng, bọn trí
thức, tiểu tư sản, học sanh,v.v “hăng hái cách mạng nhưng chỉ lúc đầu”[3].

12


Những điều đó chứng tỏ Luận cương chánh trị chưa thực sự coi trọng
vai trò và khả năng cách mạng của tầng lớp trí thức, tiểu tư sản và tư sản dân
tộc, trung và tiểu địa chủ ở một nước thuộc địa. Chưa thực sự coi trọng, song
không hẳn là “tả” khuynh. Vì nếu “tả” khuynh như một số người hiểu thì làm sao
Trung ương Đảng lại có sự phê phán Xứ ủy Trung kỳ là: “Xứ ủy Trung Kỳ, nhất
là đồng chí Bí thư, ra chỉ thị thanh Đảng viết rõ từng chữ: thanh trừ trí phú địa
hào, đào tận gốc trốc tận rễ, như vậy thì gốc đâu mà đào, xem rễ ở đâu mà trốc,
quả là một ý nghĩ mơ hồ, một chỉ thị võ đoán và là một lối hành động quàng xiên
chi tướng”.
1.4. Về giai cấp lãnh đạo cách mạng
Hai cương lĩnh đều khẳng định lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân
thông qua chính đảng là Đảng Cộng sản Việt Nam (Chánh cương vắn tắt),
hoặc Đảng Cộng sản Đông Dương (Luận cương chánh trị) . “Đảng là đội tiên
phong của vô sản giai cấp phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải
làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng”. Như Hồ Chí Minh đã từng nói:
“Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin
với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam”. Sự giống nhau trên
là do cả hai văn kiện đều thấm nhuần chủ nghĩa Mác-Lênin và cách mạng vô sản
chiụ ảnh hưởng của cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại năm 1917.

Cương lĩnh chính trị đầu tiên ghi: “Đảng là đội tiên phong của vô sản

giai cấp phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai
cấp mình lãnh đạo được dân chúng” (trong Sách lược văn tắt). “Đảng là đội
tiên phong của đạo quân vô sản gồm một số lớn của giai cấp công nhân và làm
cho họ đủ năng lực lãnh đạo quần chúng”. “Đảng tập hợp đa số quần chúng
nông dân, chuẩn bị cách mạng thổ địa và lật đổ bọn địa chủ và phong kiến”.
“Đảng giải phóng công nhân và nông dân thoát khỏi ách tư bản”. Hoặc “Tôn
chỉ: Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức ra để lãnh đạo quần chúng lao khổ làm
13


giai cấp tranh đấu để tiêu trừ tư bản đế quốc chủ nghĩa, làm cho thực hiện xã
hội cộng sản”(trong Điều lệ vắn tắt).
Luận cương chánh trị ghi: “Trong cuộc cách mạng tư sản dân quyền, vô
sản giai cấp và nông dân là hai động lực chánh, nhưng vô sản có cầm quyền
lãnh đạo thì cách mạng mới thắng lợi được”. “Điều kiện cốt yếu cho sự thắng
lợi của cuộc cách mạng ở Đông Dương là cần phải có một Đảng Cộng sản có
một đường lối chánh trị đúng, có kỷ luật, tập trung, mật thiết liên lạc với quần
chúng, và từng trải đấu tranh mà trưởng thành. Đảng là đội tiền phong của vô
sản giai cấp lấy chủ nghĩa Các Mác và Lênin làm gốc mà đại biểu quyền lợi
chánh và lâu dài, chung cho cả giai cấp vô sản ở Đông Dương và lãnh đạo vô
sản giai cấp Đông Dương ra tranh đấu để đạt được mục đích cuối cùng của vô
sản là chủ nghĩa cộng sản”. “Trong công tác, Đảng phải liên lạc mật thiết với
Đảng Cộng sản Pháp, Tàu và Ấn Độ”. Mặc dù về cơ bản là thống nất nhưng
tôi cho rằng ở vấn đề này- vấn đề Đảng và xây dựng Đảng, Luận cương chánh
trị rõ ràng và đầy đủ hơn so với Chánh cương vắn tắt.
1.5. Về phương pháp cách mạng
Cả hai cương lĩnh đều nói là phải sử dụng bạo lực cách mạng, tức là
phải sử dụng sức mạnh của nhân dân. Cương lĩnh chính trị đầu tiên có sử dụng
từ “đánh đổ” chính quyền đế quốc, phong kiến và “dựng ra” chính phủ công
nông binh. Nghĩa là theo quan điểm cách mạng bạo lực, không phải bằng

phương pháp cải lương, song không rõ là “đánh đổ” như thế nào. Luận cương
chánh trị ghi rõ là phải có cách tranh đấu từ thấp đến cao, từ “phần ít” đến khi
có thời cơ thì thực hiện khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền. Lúc đó “Đảng
phải lập tức lãnh đạo quần chúng để đánh đổ chánh quyền của địch nhân và
giành lấy chánh quyền cho công nông”. “Võ trang bạo động không phải là một
việc thường, chẳng những là theo hình thế trực tiếp cách mạng, mà lại phải
theo khuôn phép nhà binh”.

14


Rõ ràng Luận cương chánh trị đã nhận thức được bạo lực cách mạng là
sức mạnh nhân dân. Xác định sử dụng bạo lực cách mạng là sử dụng sức mạnh
của toàn dân, nhất là công nông, là phương pháp cách mạng đúng đắn. Việc phải
“cẩn thận” khi liên lạc với các giai tầng khác ngoài công nông, trong khi liên lạc
với các giai tầng khác “không được đi vào con đường thỏa hiện mà hy sinh quyền
lợi của công nông”, hay coi tư bản và địa chủ nói chung đều là đứng về phe đế
quốc, không thể hợp tác được là sai lệch của cả hai cương lĩnh. Vì Cương lĩnh
chính trị đầu tiên chỉ có một cụm từ diễn đạt là “đánh đổ”, còn ở Luận cương
chánh trị thì đầy đủ hơn, khẳng định phải sử dụng bạo lực cách mạng, phải tiến
tới khởi nghĩa vũ trang, nêu lên cả vấn đề tập dượt quần chúng, vấn đề nắm bắt
thời cơ khởi nghĩa, tuân thủ các nguyên tắc “nhà binh” khi khởi nghĩa, nên trong
vấn đề phương pháp cách mạng, Luận cương chánh trị rõ ràng, cụ thể hơn Chánh
cương vắn tắt.
1.6. Về vị trí quốc tế
Cả hai cương lĩnh đều nói cách mạng Việt Nam, cách mạng Đông
Dương là một bộ phận của cách mạng thế giới (cách mạng vô sản), nên phải
liên lạc với phong trào vô sản và giải phóng dân tộc các nước.
Cương lĩnh chính trị đầu tiên ghi: “…trong khi tuyên truyền cái khẩu
hiệu nước An Nam độc lập, phải đồng tuyên truyền và thực hành liên lạc với

bị áp bức dân tộc và vô sản giai cấp thế giới, nhất là vô sản Pháp”(trong Sách
lược vắn tắt). “Đảng phổ biến khẩu hiệu “Việt Nam tự do” và đồng thời Đảng
liên kết với những dân tộc bị áp bức và quần chúng vô sản trên thế giới nhất là
với quần chúng vô sản Pháp”(trong Chương trình tóm tắt).
Luận cương chánh trị ghi: “Vô sản Đông Dương phải liên lạc mật thiết
với vô sản thế giới, nhất là vô sản Pháp để làm cho mặt trận vô sản “mẫu
quốc” và thuộc địa cho sức đấu tranh cách mạng được mạnh lên... Trong công
tác, Đảng phải liên lạc mật thiết với Đảng Cộng sản Pháp, Tàu và Ấn Độ”.

15


Quan điểm quốc tế coi cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách
mạng thế giới là mởi mẻ, đúng đắn. Với quan điểm, chủ trương đó, cách mạng
Việt Nam bắt đầu hội nhập với cách mạng thế giới, nên vừa có điều kiện tranh
thủ sự giúp đỡ của cách mạng thế giới vừa có thể đóng góp vào sự nghiệp
chung của nhân dân thế giới. Luận cương chánh trị đã đầy đủ, rộng rãi
hơn Cương lĩnh chính trị đầu tiên về mặt đoàn kết quốc tế và bạn đồng minh
khi nhấn mạnh tới quan hệ không chỉ với vô sản Pháp mà còn cả với quần
chúng cách mạng ở các thuộc địa và bán thuộc địa, nhất là Tàu và Ấn Độ.
Ở đây cần lưu ý là khi coi cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách
mạng thế giới (cách mạng vô sản) thì tính dân tộc của cách mạng Việt Nam, tư
tưởng dân tộc/yêu nước của Hồ Chí Minh và các đồng chí của Người không
phải là dân tộc/yêu nước hiểu theo phạm trù cũ mà là dân tộc/yêu nước theo
lập trường vô sản, là giải phóng dân tộc trong khuôn khổ cách mạng vô sản,
một bộ phận của cách mạng vô sản, thuộc cách mạng vô sản. Đã là cách mạng
vô sản thì đánh đổ đế quốc, phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc và người cày
có ruộng không phải là mục đích cuối cùng, mà chỉ là một bước đi cần thiết
trên lộ trình phải trải qua để đi tới chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Vì
cách mạng vô sản có mục đích cuối cùng là giải phóng giai cấp, giải phóng xã

hội, giải phóng con người nên tính dân tộc/yêu nước của Hồ Chí Minh và
những người cộng sản là khác về chất so với tính dân tộc/yêu nước của các bậc
tiền bối theo lập trường phong kiến hay tư sản... Trong Di chúc, Hồ Chí Minh
vẫn khẳng định Người đi theo “Cụ Các Mác, Cụ Lênin”.
Như vậy, Cương lĩnh chính trị đầu tiên và Luận cương chánh trị của
Đảng năm 1930 là thống nhất với nhau về tất cả các nội dung cơ bản; sự sai
khác nhau chỉ ở đôi chỗ thuộc về diễn đạt và chủ yếu trong vấn đề sắp xếp lực
lượng cách mạng. Lâu nay, có nhiều người đã cho rằng Luận cương chánh
trị (tháng 10-1930) đã phê phán Cương lĩnh chính trị đầu tiên (tháng 2-1930),
có nhiều điểm sai khác, mâu thuẫn và thụt lùi so với Cương lĩnh chính trị là
16


không xác đáng. Họ đã nhầm lẫn sự khác nhau giữa Cương lĩnh chính trị
với Án Nghị quyết của Trung ương đại hội toàn thế tháng 10 năm 1930 (Án
Nghị quyết), Thư của Trung ương gửi các cấp Đảng bộ ngày 9-12-1930 và
Thư của Ban Phương Đông gửi Đảng Cộng sản Đông Dương, ngày 13-111930. Thực ra trong các văn kiện đó chỉ có Án Nghị quyết và Thư của Trung
ương là có sự phê phán và khác nhau với Cương lĩnh chính trị đầu tiên và Thư
của Ban Phương Đông là phê phán Luận cương mà thôi.
Án nghị quyết có đoạn phê phán Hội nghị hợp nhất là: “Sai lầm về việc
tổ chức đảng. Lúc đầu tổ chức đảng, kế hoạch không xác đáng hội nghị hợp
nhất lại không lấy một nền chánh trị Cộng sản, và những kế hoạch làm việc
Cộng sản làm căn bổn mà chọn lấy những phần tử chuyên chánh Cộng sản của
các đoàn thể tự xưng là Cộng sản (“Thanh Niên”, Đông Dương Công sản,
“Cộng sản Liên đoàn”, “An Nam Cộng sản Đảng”, v.v… hội nghị hợp nhất chỉ
lo việc hiệp các đoàn thể ấy lại làm một mà ít chú ý đến việc bài trừ những tư
tưởng và hành động biệt phái của các đảng phái trước kia. Bởi vậy cho nên
đảng tuy đã hiệp nhứt, nhưng tư tưởng, hành động của đảng phái nào cứ giữ
như cũ”. Hoặc “Sai lầm về Điều lệ và tên Đảng. Trong hệ thống tổ chức của
Đảng thì bỏ mất xứ bộ. Sai là vì bắt T.Ư (bảy người) trực tiếp chỉ huy các tỉnh

bộ, làm cho T.Ư đã không chu đáo được đến mỗi việc ở các tỉnh; mà lại không
còn thì giờ mà lo đến việc quan trọng chung cho toàn thể Đảng nữa”.
Thư của Trung ương gửi cho các cấp Đảng bộ ngày 9-12-1930 có đoạn:
“Đảng hiệp nhất kể đã có sanh hoạt gần một năm rồi nhưng vẫn chưa có thể
thống gì, đó là vì:
1, Hội nghị hiệp nhất chủ trương công việc rất sơ sài, mà có nhiều điều
không đúng với chủ trương của quốc tế.
2, Lâm thời Trung ương cử ra sau lúc Hội nghị hiệp nhất đã không
nhóm một lần hội nào mà bàn định kế hoạch làm việc trong toàn thể Đảng”.
“Tại sao chủ trương của Hội nghị hiệp nhất lại có nhiều chỗ không đúng với
17


chủ trương của Quốc tế? Đồng chí đứng ra chiêu tập Hội nghị hiệp nhất năm
trước kia thì được Quốc tế cho về tùy hoàn cảnh mà làm việc chứ chưa có
được kế hoạch rõ ràng gì. Khi đồng chí ấy về đến nơi thì thấy phong trào Cộng
sản tuy mới nổi nhưng đã chia rẽ rồi nên tự ý hành động có nhiều việc sai lầm
không đúng với kế hoạch của Quốc tế vì đó mà có Hội nghị hiệp nhất. Đồng
chí ấy nay đã nhận rõ những điều sai lầm và cũng đã đồng ý với Trung ương
mà sửa đổi những chỗ sai lầm lúc trước”. Trung ương chủ trương:
“Trong nội bộ: Thủ tiêu chánh cương sách lược và Điều lệ cũ của Đảng,
lấy kinh nghiệm trong thời kỳ vừa qua mà thực hành công việc cho đúng như
Án nghị quyết và Thơ chỉ thị của Quốc tế Cộng sản”,...
Thư của Ban Phương Đông gửi Đảng Cộng sản Đông Dương, ngày
13-11-1930 có đoạn: “Trước hết, chúng tôi gợi ý rằng văn kiện dự thảo của
hội nghị gần đây của Ban Chấp hành Trung ương không nên gọi là “Cương
lĩnh của Đảng” mà lúc này sẽ chỉ đơn giản được công bố là dự thảo nghị
quyết của hội nghị này cho các đảng viên thảo luận nhằm chuẩn bị cho hội
nghị Đảng sắp tới. Chúng tôi cho rằng thời gian còn chưa chín muồi để
Đảng Đông Dương thông qua một cương lĩnh toàn quốc của Đảng. Một

cương lĩnh như vậy là một vấn đề rất nghiêm túc và chỉ có thể được xây
dựng sau khi nghiên cứu kỹ lưỡng tình hình Đông Dương và nhiều vấn đề
nghiêm trọng của phong trào cách mạng ở xứ này”. “Văn kiện dự thảo của
các đồng chí mà các đồng chí gọi là “Cương lĩnh của Đảng” còn rất sơ sài
và phải được viết lại rất cẩn thận”...
Những đoạn phê phán đó không hề có trong Luận cương tháng 10-1930.
Vả lại sự phê phán của các văn kiện trên là xuất phát từ ý thức, trách
nhiệm chung, theo nhận thức của Trung ương và Ban Phương Đông lúc bấy
giờ, là sự phê phán Bônsêvíc chứ không phải là mâu thuẫn, đối lập về tư

18


tưởng. Bản thân Nguyễn Ái Quốc là người tham dự, cùng chủ trì hội nghị
Trung ương tháng 10-1930 và cũng đã tán thành với sự phê phán đó.
Sự thật lịch sử là như vậy. Bản lĩnh, trí tuệ và tinh thần cách mạng của
Lãnh tụ Hồ Chí Minh, của Tổng Bí thư Trần Phú, của các bậc tiền bối thời
dựng Đảng là như vậy. Đảng ta, nhân dân ta, dân tộc ta mãi mãi tự hào về
Cương lĩnh chính trị đầu tiên (Chánh cương vắn tắt) và Luận cương chánh
trị, về Chủ tich Hồ Chí Minh người sáng lập Đảng và về đồng chí Trần Phú,
Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng. Với cốt lõi nhất quán là tư tưởng độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, Chánh cương vắn tắt và Luận cương chánh
trị của Đảng năm 1930 có ý nghĩa lý luận và thực tiễn hết sức to lớn.
Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và việc ngay từ khi ra đời, Đảng
đã có Cương lĩnh chính trị xác định đúng đắn con đường cách mạng là giải phóng
dân tộc theo phương hướng cách mạng vô sản, chính là cơ sở để Đảng Cộng sản
Việt Nam vừa ra đời đã nắm được ngọn cờ lãnh đạo phong trào cách mạng Việt
Nam; giải quyết được tình trạng khủng hoảng về đường lối cách mạng, về giai cấp
lãnh đạo cách mạng diễn ra đầu thế kỷ XX, mở ra con đường và phương hướng
phát triển mới cho đất nước Việt Nam. Chính đường lối này là cơ sở đảm bảo cho

sự tập hợp lực lượng và sự đoàn kết, thống nhất của toàn dân tộc cùng chung tư
tưởng và hành động để tiến hành cuộc cách mạng vĩ đại giành những thắng lợi to
lớn sau này. Đây cũng là tiền đề, là điều kiện cơ bản quyết định phương hướng
phát triển, bước đi của cách mạng Việt Nam trong suốt 85 năm qua.
Hồ Chí Minh khẳng định: “Trong bản Cương lĩnh cách mạng tư sản dân
quyền năm 1930, Đảng đã nêu rõ nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong
kiến, thực hiện dân tộc độc lập, người cày có ruộng. Cương lĩnh ấy rất phù
hợp với nguyện vọng thiết tha của đại đa số nhân dân ta là nông dân. Vì vậy,
Đảng đã đoàn kết được những lực lượng cách mạng to lớn chung quanh giai
cấp mình. Còn các đảng phái của các giai cấp khác thì hoặc bị phá sản hoặc

19


bị cô lập. Do đó, quyền lãnh đạo của Đảng ta - đảng của giai cấp công nhânkhông ngừng củng cố và tăng cường”[5, tr.9].
KẾT LUẬN
Luận cương đã thể hiện là một văn kiện tiếp thu được những quan điểm
chủ yếu của Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ tóm tắt, xác định
được nhiệm vụ nòng cốt của cách mạng Việt Nam. Còn Cương lĩnh chính trị
tuy còn sơ lược vắn tắt nhưng nó đã vạch ra phương hương cơ bản của cách
mạng nước ta, phát triển từ cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên cách mạng
xã hội chủ nghĩa. Cương lĩnh thể hiện sự vận dụng đúng đắn sáng tạo, nhạy
bén chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam kết hợp nhuần
nhuyễn chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế vô sản, giữa tư tưởng của chủ
nghĩa cộng sản và thực tiễn cách mạng Việt Nam, nó phù hợp với xu thế phát
triển của thời đại mới, đáp ứng yêu cầu khách quan của lịch sử . Hai cương
lĩnh trên cùng với sự thống nhất về tổ chức có ý nghĩa hết sức to lớn cùng với
sự ra đời của Đảng ta, là sự chuẩn bị tất yếu đầu tiên có tính chất quyết định
cho những bước phát triển nhảy vọt trong tiến trình lịch sử của dân tộc ta.
Chúng là nền tảng cho những văn kiện nhằm xây dựng, phát triển và hoàn

thiện hệ thống lý luận, tư tưởng cho quá trình tồn tại và phát triển của Đảng ta.

20


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PGS.TS. Nguyễn Khánh Bật (Chủ biên) Sự tương đồng và khác biệt
về quan điểm cách mạng Việt Nam giữa Hồ Chí Minh với Quốc tế
Công sản và Đảng Cộng sản Đông Dương, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội,
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Đảng, toàn tập,
tập2, Nxb Chinh trị quốc gia, Hà Nộị.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng, toàn tập, tập 2, Sđd.
Văn kiện Đảng, toàn tập, Tập 3, 1931, Nxb CTQGHN, 1999.
4. Lê Mậu Hãn: Cương lĩnh cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001
5. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2000, tập 10.
6. TS Chu Đức Tính (Giám đốc bảo tàng Hồ Chí Minh). Đồng chí Nguyễn
Ái Quốc có dự Hội nghị Trung ương tháng 10-1930 không?. Báo cáo tại
Hội thảo khoa học “Hồ Chí Minh với con đường giải phóng dân tộc”, tại
Bảo tàng Hồ Chí Minh, Hà Nội, 10-5-2011.

21



×